Học trực tuyến: Xu hướng thế giới đang dần phát triển tại Việt NamLong Trần
Học trực tuyến online (e-learning) được xem như là một cuộc cách mạng lớn trong việc dạy và học hiện nay. Ứng dụng những giải pháp công nghệ thông tin vào truyền tải kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm sẽ giúp cho người dạy thiết kế được bài giảng phong phú, thu hút hơn so với giáo án khô khan trước đây. Bên cạnh đó, người học online có thể chủ động hoàn toàn đối với việc học của mình. Xem thêm tại http://3hoc.vn/vi/blog/item/112-3-ly-do-gioi-van-phong-ua-chuong-khoa-hoc-truc-tuyen.html
Học trực tuyến: Xu hướng thế giới đang dần phát triển tại Việt NamLong Trần
Học trực tuyến online (e-learning) được xem như là một cuộc cách mạng lớn trong việc dạy và học hiện nay. Ứng dụng những giải pháp công nghệ thông tin vào truyền tải kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm sẽ giúp cho người dạy thiết kế được bài giảng phong phú, thu hút hơn so với giáo án khô khan trước đây. Bên cạnh đó, người học online có thể chủ động hoàn toàn đối với việc học của mình. Xem thêm tại http://3hoc.vn/vi/blog/item/112-3-ly-do-gioi-van-phong-ua-chuong-khoa-hoc-truc-tuyen.html
1. Trường Đại Học Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh
Bộ môn:Elearning trong trường phổ thông
GVHD:
Thầy Lê Đức Long
Nhóm SVTH:
Lư Quan Hùng_K37.103.513
Yamin_K37.103.516
Trần Nguyễn Thọ Trường_K37.103.528
2. Phần Nội Dung Tự Nghiên Cứu.
1. Các mô hình triển khai e-Learning – mô hình học kết
hợp có những ưu điểm gì để áp dụng cho ngữ cảnh dạy
và học ở Việt Nam
2. Ngữ cảnh dạy và học ở Việt Nam: những thuận lợi và hạn chế
3. Vấn đề Social Science đối với người Việt Nam khi tham gia
dạy và học trực tuyến
4. Mô hình sư phạm cho dạy học trực tuyến ở nhiều góc nhìn
khác nhau.
I. Các mô hình triển khai e-Learning – mô hình học kết
hợp có những ưu điểm gì để áp dụng cho ngữ cảnh
dạy và học ở Việt Nam.
Các mô hình triển khai e-Learning như:
Các trường đại học, cao đẳng đã tích cức triển khai E-learning: Một số trường đại
học đã tích cực triển khai hệ thống Elearning, xây dựng trung tâm học liệu mở,
thư viện điện tử. Huy động nhiều nguồn lực như kinh phí các dự án, kinh phí ngân
sách, kinh phí các doanh nghiệp hỗ trợ... để đầu tư hạ tầng CNT, tập huấn cho
giảng viên và xây dựng hệ thống tài liệu, bài giảng phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu của học sinh, sinh viện.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các doanh nghiệp triển khai E-Learning
và thi trực tuyến. Thứ nhất, là Cuộc thi "Thiết kế hồ sơ bài giảng điện tử E-learning"
năm học 2009 - 2010 nằm trong khuôn khổ của chương trình hợp tác
giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quỹ Laurence S. Ting. Cuộc thi đã huy động
được số lượng lớn giáo viên tham gia (vòng sơ khảo khoảng 3,200; vòng chung
3. khảo 855 giáo viên). Đã có 154 bài giảng đạt giải, trong đó: Giải nhất (3), giải
nhì (5), giải ba (24), giải KK (48) và quà tăng (74).Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Thái Bình, Kon Tum là những địa phương đạt nhiều giải cao. Năm học 2010-
2011 Bộ GD&ĐT tiếp tục tổ chức cuộc thi nói trên, thể hiện quyết tâm triển khai
E-learning đối với HS phổ thông . Thứ hai, cuộc thi giải toán qua mạng tại
Website Violympic.vn, là chương trình hợp tác giữa Bộ GD&ĐT với Công ty
TNHH nội dung số FPT, cuộc thi đã được tổ chức năm thứ ba, là một sân chơi bổ
ích, hứng thú cho hàng trăm ngàn học sinh (tiểu học, THCS) yêu thích môn toán
trên toàn quốc. Thứ ba, Cuộc thi Olympic tiếng Anh (IOE) là chương trình hợp
tác giữa Tổng Công ty truyền thông Đa phương tiện Việt Nam VTC với Bộ
GD&ĐT. Cuộc thi đã quy tụ được hơn 4000 thí sinh là HS Tiểu học, THCS của
54 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Ưu thế của Blended-learning – mô hình học kết hợp:
o B-learning hướng đến mục tiêu phát huy tốt nhất các thế
mạnh của dạy học truyền thống với dạy học trực tuyến để
thúc đẩy hiệu quả học tập và giảng dạy của cả học sinh và
giáo viên.
o B-learning tạo điều kiện cho học sinh tích cực, chủ động hơn
thông qua việc tương tác: học sinh – học sinh để học hỏi lẫn
nhau, học sinh – giáo viên qua việc hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên cả ở trên lớp và qua mạng; học sinh – tương tác
với các chuyên gia ở bất kỳ một nơi nào trên thế giới.
o Học tập kết hợp giúp cho học sinh có nhiều kinh nghiệm học
tập hơn: Tận dụng công nghệ, B-learning cho phép học
sinh học theo tốc độ của riêng họ, sử dụng các phương thức
học tập ưa thích, và nhận được phản hồi thường xuyên và
kịp thời về hoạt động tham gia.
o B-learning sẽ tăng cường kiểm soát và trách nhiệm của
người học: học sinh và phụ huynh có trách nhiệm hơn trong
việc nhắc nhở học sinh làm bài tập về nhà.
o Đối với giáo viên: B-learning giúp giáo viên điều khiển
được thực tiễn giảng dạy của chính họ đòi hỏi một sự thay
đổi đáng kể trong thực tiễn giảng dạy. giáo viên sẽ tùy chỉnh
những thiết kế giáo án dựa trên nhu cầu của học sinh bao
gồm phong cách, sở thích và khả năng học tập.
Đối với các nhà giáo dục: B-learning sẽ giúp cho họ tự điều chỉnh và quyết
định nội dung các chương trình giảng dạy, sản phẩm của hoạt động học tập
và môi trường học tập tốt nhất phục vụ cho nhu cầu của mỗi học sinh.
4. Kết hợp đan xen giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp E-learning:
Với mỗi cách học, phương pháp dạy học đều có những ưu – nhược điểm
khác nhau. Với những ưu điểm của cách dạy học truyền thống và E-learning,
chúng ta cần kết hợp tốt hai phương pháp này để có được một
hiệu quả đào tạo tốt hơn.
Như vậy, chúng ta phải kết hợp cả hai cách học tập: e-Learning và truyền
thống để đem lại hiệu quả cao nhất cho học viên. Giải pháp kết hợp này được
gọi là BLENDED SOLUTION.
Mô hình kết hợp.
Vai trò người giáo viên: Trong dạy học e-learning cũng như truyền
thống, vai trò của người giáo viên là thiết yếu. Người giáo viên có thể
xuất hiện dưới dạng ảo hay thực tùy nội dung cần giảng dạy..
Trong dạy học tại lớp truyền thống nên kết hợp chiếu các đoạn phim liên
quan đến bài học cho học sinh làm quen dần với công nghệ hiện đại. Lên
kế hoạch học tập cụ thể, giao bài tập cho học sinh, sinh viên để có thể gặp
nhau trao đổi trực tiếp hoặc qua diễn đàn học tập
5. Kiểm tra, đánh giá học sinh có thể dùng hình thức trắc nghiệm tại lớp trên
giấy hoặc làm ngay trên máy tính. Tăng cường học nhóm, thảo luận nhóm,
làm việc theo nhóm và thực hiện các dự án học tập theo nhóm. Kiểm tra,
đánh giá học sinh theo nhóm học tập.
Trong lớp học truyền thống, cần tập cho học sinh, sinh viên dần quen với
việc tìm tài liệu trên mạng, chia sẻ tài liệu bằng cách cho đề tài, giới thiệu
địa chỉ những trang web liên quan, những tài liệu tham khảo. Giáo viên cần
đưa công nghệ thông tin vào trong giảng dạy qua các giáo án điện tử, các
bản tin, bài viết trên mạng và cả trò chơi điện tử cho môn học (nếu có)
Một lớp học truyền thống làm cho mọi người gần gũi, chia sẻ tình cảm tốt
hơn, thân thiện hơn. E-learning (100%) có tính ảo, con người ít biểu lộ
được tình cảm. Tính gắn bó, hoà đồng, thân thiện cũng tạo môi trường học
tập tốt. Do đó, nếu kết hợp thì môi trường đó vẫn tồn tại và phát huy trong
quá trình học tập. Có thể nêu điển hình như lớp sau đại học, vẫn có những
giờ lên lớp truyền thống rất bổ ích, thầy cô giáo gợi mở thêm nhiều vấn đề
mà giáo trình điện tử không thể nói hết.
Công nghệ E-Learning mở ra một khả năng tương tác tối đa giữa người
học và người dạy đồng thời khai thác nguồn thông tin vô tận của nhân loại.
E-Learning hiện nay thực sự là cuộc cách mạng bởi sức mạnh, khả
năng linh hoạt và tính hiệu quả của nó. Vận dụng công nghệ này, giúp
cộng đồng kinh doanh có cơ hội tương tác liên tục với nền khoa học quản
trị hiện đại đang phát triển nhanh chóng. E-Learning tạo ra cơ hội cho mọi
người học tập mọi nơi, mọi lúc, học tập suốt đời.
Đối với sinh viên: E-Learning hỗ trợ học tập một cách linh động và tích
cực. E-.Learning cho phép làm việc và học tập trực tuyến, nghiên cứu và
làm các bài tập, thi trắc nghiệm. E-Learning là một môi trường mới, là cơ
hội cho sinh viên, hỗ trợ các bạn học tập tại trường hoặc ở nhà, hay ở cơ
quan. E-Learning là cách dễ nhất giúp sinh viên tự chủ trong học tập và
thực hiện những cam kết học tập của bản thân với thời gian và nổ lực của
họ. Tìm kiếm thông tin trên hệ thống về môn học của mình, download các
nguồn tài nguyên được cung cấp, sinh viên có thể chia sẽ tài nguyên với
nhau trên mạng, tham gia vào việc thảo luận của lớp, chia sẽ việc học của
mình với bạn bè, trao đổi ý tưởng với bạn cùng lớp. Tạo môi trường học
tập cộng tác giúp cải thiện các khuyết điểm mà các phương pháp truyền
6. thống mang lại như: tạo cho người học khả năng tự tin hơn khi phát biểu
ý kiến của mình (nhược điểm của PPDH theo nhóm nhỏ), ….Khuyết
nhược điểm của E-Learning có thể thấy: không thể đưa vào các môn học
đòi hỏi dạy kỹ năng (dù dùng video cũng có hạn chế), thích hợp với một
số đối tượng tự giác và hăng say học tập, học viên cần có một số kỹ năng
nhất định mới có thể tham gia đầy đủ…
Đối với giáo viên: E-Learning tạo môi trường giảng dạy mới cho giáo
viên, cung cấp công cụ cho giáo viên soạn giảng, tổ chức lớp học, quản lý
sinh viên, hướng dẫn sinh viên tham gia thảo luận nhóm, cung cấp tài liệu
giảng dạy, cung cấp khả năng cập nhật nhanh các kiến thức và kỹ năng
trong giảng dạy…. Nhưng vấn đề kiểm soát lớp học sẽ đặt nặng trên vai
giáo viên, nhiều kỹ năng E-Learning cần tiếp tục được nghiên cứu đầy đủ
hơn.
Đối với Việt Nam hiện nay và trong tương lai gần E-learning sẽ có
nhiều cải thiện hơn về giao diện, chức năng.Khả năng cộng tác cao,
đường truyền có thể cũng được cải thiện tạo điều kiện tốt nhất để phục vụ
cho quá trình dạy – học nhưng khó có thể thay thế hoàn toàn phương
pháp giảng dạy truyền thống.
Với mỗi cách học, phương pháp dạy học đều có những ưu – nhược điểm
khác nhau. Với những ưu điểm của cách dạy học truyền thống và E-learning,
chúng ta cần kết hợp tốt hai phương pháp này để có được một
hiệu quả đào tạo tốt hơn.
Giáo dục ngày càng phát triển với nhiều loại hình đa dạng, nhiều cách học linh
động thuận tiện cho cả người dạy và người học.E-Learning chính là xu hướng
mới nhất. Nắm bắt được điều này, E-Learning LAB ra đời với sứ mệnh kết nối
người dạy và người học với kho tang tri thức rộng lớn.
II. Ngữ cảnh dạy và học ở Việt Nam: những thuận lợi và
hạn chế:
Thuận lợi:
Nền giáo dục Việt Nam đạt được nhiều thành tựu
- Việt Nam được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đánh giá là nước có
những thành tựu đáng kể về giáo dục, đào tạo so với nhiều nước có thu
7. nhập tính theo đầu người tương đương. Việt Nam hoàn toàn có khả năng
hoàn thành mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) về phổ cập giáo
dục tiểu học trước 2015. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo
dục đầy đủ các caaph học ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường
lớp với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày càng tăng. Năm
học 2014-2015, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học trong
hơn 37.000 cơ sở giáo dục-đào tạo.
- Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô
đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo
cần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng
xu hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt kahcs vẫn
giữ nền tảng giáo dục tinh hoa. Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên đã
được chú trọng đặc biệt.
- Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
tiểu học. Từ năm học 2002 – 2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong
độ tuổi 15-24 đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt
mức 7,3 năm. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương,
nhờ đó tỷ lệ người dân thiểu số mù chữ giảm nhanh và mạnh.
- Ngành giáo dục và đào tạo đã đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản mà chiến
lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 trong năm học 2003 – 2004.
Phổ cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các
vùng miền trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh
hơn so với phần lớn các nước có thu nhập thấp khác trên giới trong việc
khắc phục những sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đugnfs độ
tuổi. Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong
thập niên 1990 lên gần 98% trong năm học 2004-2005 (mục tiêu quốc
gia đề ra là đạt 97% vào năm 2005. Trong năm học 2003-2004, hầu hết
các địa phương trong cả nước đã huy động được gần 90% trẻ khuyết tật
độ tuổi lớp 1 đi học hòa nhập theo chương trình và sách giáo khoa mới.
Tất cả những con số nói trên cho thấy Việt Nam đã tạo đươc sự công
bằng trong tiếp cận học tập cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc, ở
các vùng, miền và đặc biệt quan tâm tới những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn.
- Trong những năm gần đây, ở một số trường đã đạt được những tiến bộ
trong việc đổi mới PPDH. Ở những trường đã bồi dưỡng cho đội ngũ
GV về đổi mới PPDH và trang bị PTDH mới thì tình hình sử dụng các
PPDH đã được cải thiện. Mặc dù thuyết trình vẫn còn là PPDH được
sử dụng thường xuyên nhất, nhưng đã có sự kết hợp với các PPDH
khác, tăng cường thí nghiệm, thực hành, làm việc nhóm, sử dụng các
PPDH tích cực.
8. Hạn chế:
Công tác giáo dục và đào tạo trong những năm qua có nhiều tiến
bộ. Tuy nhiên, trước những biến đổi to lớn của nên kinh tế sự nghiệp
giáo dục – đào tạo đang gặp phải những khó khăn rất lớn. Quy mô giáo
dục – đào tạo có chiều hướng bị thu hẹp, chất lượng giáo dục, cơ sở vật
chất của các trường học bị sút kém ở nhiều nơi, biểu hiện qua những
vấn đề sau:
Công tác giáo dục và đào tạo trong những năm qua có nhiều tiến bộ. T
uy
- Vấn đề cơ sở hạ tầng:
+ Cơ sở hạ tâng hiện nay của Việt Nam còn rất yếu kém Trường ốc đã
thiếu nghiêm trọng lại cũ kỹ, mục nát. Hệ thống phòng thí nghiệm hầu
như chưa có cơ sở đào tạo đạt chuẩn quốc tế. Các giáo cụ, tài liệu học
tập khác cũng còn rất hạn chế. Hiện nay cả nước vẫn còn 170.000
phòng học có nhu cầu để xây dựng, sửa chữa đòi hỏi chi phí cao.
+ Phương pháp tư duy học tập của sinh viên còn mang nặng tính đọc
chép, chưa tư duy được mình học theo chuẩn mực nào.
+ Thiếu những khóa học đào tạo kĩ năng mềm học sinh.
+ Sách vở in không đủ kiến thức, tất cả các sách vở in ra hầu hết là
soạn lại, dịch lại của người khác; bài giẩng và bài thi của giáo viên
không có sự gắn kết, đa số học sinh dùng phương pháp học vẹt, học
sinh không có cơ hội làm quen với khảo cứu, tra cứu mà dựa vào giáo
viên và sách vở là chính. Học sinh không có cơ hội với ra kiến thức
bên ngoài mà chỉ có cơ hội đọc và học những sách vở in ra bởi bộ GD,
không được thực hành nên tính sáng tạo không được phát huy triệt để.
+ Học một cách bị dồn nén kiến thức quá nhiều (ví dụ như các học
sinh lớp 12 mà phải học qua hết các phép toán tích phân đạo hàm, các
môn điện, sau đó các em học vô ngành y, các kiến thức đó coi như
thừa thải, vô ích. Ở nước ngoài, các loại môn trên chỉ áp dụng cho học
sinh học ngành kỹ sư mà thôi).
- Hệ thống giáo dục nặng về thi cử và bệnh thành tích: hệ thống giáo
dục nước ta nặng về thi cử với những kỳ thi kéo dài triền miên gây áp
lực cho cả thí sinh lẫn phụ huynh. Mặt trái của thi cử là tâm lý đối phó
thường trực nơi người học và những cuộc chạy đua hành lang nơi phụ
huynh nhằm tìm kiếm cho con em mình những bảng điểm lấp lánh
thành tích ở những ngôi trường tốt. Hiện nay căn bệnh thành tích đang
lan tràn trong giáo dục và trong xã hội.
- Vấn đề cải cách giáo dục: Nhà nước và bộ giáo dục đã dành sự đầu tư
thích đáng cho các dự án cải tạo giáo dục. Nhưng những kết quả đạt
9. được thì hoàn toàn không như mong đợi. Về cơ bản phương pháp đọc
chép vẫn là tình trạng chung của hầy hết các cơ sở giáo dục, từ mầm
non đến sau đại học. Sách giáo khoa, giáo trình sửa chữa, thay đổi quá
nhiều mà vẫn không đáp ứng được yêu cầu học tập, nghiên cứu gây
lên tình trạng loạn sách.
III: Vấn đề Social Science đối với người Việt Nam khi
tham gia dạy và học trực tuyến:
Việc triển khai E-learning tại cho các trường phổ thông Việt Nam gặp
một số khó khăn sau:
- Một là, về xây dựng nguồn tài nguyên bài giảng: Chất lượng nguồn
tài nguyên bài giảng E-learning là nhân tố quyết định đến số lượng
người tham gia học. Để soạn bài giảng E-learning có chất lượng đòi
hỏi tốn nhiều công sức của giáo viên. Hiện tại chế độ hỗ trợ chưa phù
hợp với công sức bỏ ra để soạn bài giảng Elearning, vì vậy chưa
khuyến khích đối với giáo viên. Đời sống của giáo viên gặp nhiều khó
khăn, áp lực thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục… hậu quả là giáo
viên không có thời gian đầu tư cho E-learning. Nhiều giáo viên giỏi về
chuyên môn và khả năng sư phạm, nhưng kỹ năng sử dụng công
nghệ (ghi hình, thu âm, sử dụng phần mềm)còn hạn chế, nên chưa phát
huy được đội ngũ này.
- Hai là, về phía người học: Học tập theo phương pháp E-Learning đòi
hỏi người học phải có tinh thần tự học, do ảnh hưởng cách học thụ
động truyền thống, tâm lý học phải có thầy (không thầy đố mầy làm
nên), Nội dung quá tải tại trường… dẫn đến việc tham gia học E-Learning
chưa trở thành động lực học tập. Nhiều học sinh nghèo, nhất
là ở vùng sâu vùng xa, chưa thể trang bị máy vi tính kết nối Internet,
nhiều thông tin không tốt trên mạng Internet dẫn đến gia đình lo lắng
khi con em vào mạng cũng là những lý do làm hạn chế E-Learning đối
với HS phổ thông Việt Nam.
- Ba là, về cơ sở vật chất: Đòi hỏi phải có hạ tầng CNTT đủ mạnh, có
đường truyền cáp quang, xây dựng Website trường học và Website E-learning
hoàn chỉnh chi phí cao, nếu không tận dụng hết khả năng của
Web sẽ gây lãng phí.
- Bốn là, về nhân lực phục vụ website E-learning: Cần có cán bộ
chuyên trách phục vụ sự hoạt động của hệ thống E-learning. Tuy
nhiên, theo quy định hiện tại chưa có biên chế cho hoạt động này ở
các trường phổ thông.
10. IV: Mô hình sư phạm cho dạy học trực tuyến ở nhiều góc
nhìn khác nhau:
Góc độ nội dung tri thức:
Góc độ phát triển hệ thống: