Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải
1. ®¹i häc th¸i nguyªn
tr-êng ®¹i häc kinh tÕ vµ qu¶n trÞ kinh doanh
-------------------------------------------------
TRƯƠNG TUẤN LINH
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở
HUYỆN MÙ CANG CHẢI- TỈNH YÊN BÁI
LuËn v¨n Th¹c sÜ kinh tÕ
Thái Nguyên, năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-------------------------------------------------
TRƯƠNG TUẤN LINH
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở
HUYỆN MÙ CANG CHẢI- TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Chí Thiện
Thái Nguyên, năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
3. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
TRƯƠNG TUẤN LINH
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở
HUYỆN MÙ CANG CHẢI- TỈNH YÊN BÁI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60- 31- 10
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thái Nguyên, năm 2009
4. Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN CHÍ THIỆN
Phản biện 1: ……………………………………………………….
Phản biện 2: ……………………………………………………….
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn họp tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Vào hồi…….giờ…..ngày……tháng…….năm 2009.
Có thể tìm hiểu Luận văn tại Trung tâm Học liệu- Đại học Thái Nguyên
và Thư viện Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
5. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế được
trong sản xuất nông nghiệp. Thật vậy, ngành nông nghiệp không thể sản xuất
nếu không có đất đai. Đất đai được gọi là tư liệu sản xuất đặc biệt vì nó vừa là
đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất đai là đối tượng lao động vì
nó chịu sự tác động của con người trong quá trình canh tác. Đất đai là tư liệu
lao động vì nó phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người dùng
đất đai để trồng cây và chăn nuôi tạo ra thu nhập. Như vậy sẽ không có sản
xuất nông nghiệp nếu không có đất, và chỉ có thông qua đất, các tư liệu sản
xuất mới tác động đến cây trồng. Sử dụng đất đai đúng hướng còn quyết định
đến hiệu quả của sản xuất.[40]
Theo Dữ liệu năm 2005 của Dự án Dân số thế giới của Liên hợp quốc,
thì hiện nay tổng diện tích đất trên toàn thế giới là 134.682.000km2, với dân
số gần 7 tỷ người và mật độ dân số là 48 người/km2. Diện tích đất đưa vào sản
xuất trồng trọt vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy
vậy trong nhiều thập kỷ qua đất vẫn phải tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gần 7 tỷ người. Và hàng năm một tỷ lệ dân số
lớn khoảng 10% vẫn đang trong tình trạng thiếu ăn hoặc bị nạn đói đe doạ,
nhất là ở các quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á.
Việt Nam với diện tích tự nhiên là 331.689 km2 xếp thứ 55 trong tổng
số hơn 200 nước trên thế giới. Nhưng với dân số lớn khoảng 87 triệu người
(thứ 12) và mật độ dân số đông 254 người/km2 (thứ 46) nên bình quân đất tự
nhiên theo đầu người thấp, chỉ khoảng 0,48ha/người, bằng 1/6 mức bình quân
thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
6. 2
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quá trình đô thị hoá
và công nghiệp hoá đã làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm đi nhanh chóng.
Đặc biệt là những diện tích có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Đất đồi núi (phần lớn là đất dốc) chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên của
Việt Nam. Do thiếu đất sản xuất nên nông dân miền núi vẫn phải canh tác trên
đất có độ dốc cao, dẫn đến việc đất bị xói mòn rất mạnh và năng suất cây
trồng giảm nhanh. Kết quả là đất bị thoái hoá, năng suất cây trồng thấp nên
cuộc sống của nông dân rất thấp và bấp bênh. Hiện tượng du canh du cư còn
phổ biến. Mặc dù còn nhiều trở ngại, vùng đất dốc có rất nhiều tiềm năng
phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại
của loài người, nhất là khi hiệu ứng nhà kính thể hiện rõ ảnh hưởng của nó,
tức là khi mực nước biển dâng cao và có thể nhấn chìm những vùng châu thổ
rộng lớn. Đó là chưa nói đến chức năng điều hoà khí hậu mà các vùng đồi
núi chiếm vị trí quan trọng nhất.
Ở Việt Nam, trong điều kiện đô thị hoá, công nghiệp hoá diễn ra mạnh
mẽ, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm, để đảm bảo được
việc cung cấp lương thực cho khu vực miền núi phía Bắc, đòi hỏi khu vực này
phải phát triển sản xuất lương thực ngày càng cao.
Mù Cang Chải là một huyện miền núi khó khăn, hẻo lánh của tỉnh Yên
Bái, đại bộ phận dân chúng là người Mông. Trong những năm gần đây đời
sống của bà con dần ấm no, đầy đủ đó là một phần nhờ vào hiệu quả của quá
trình canh tác hợp lý trên đất dốc của đồng bào. Ở Việt Nam tuy đã có rất nhiều
nghiên cứu về canh tác trên đất dốc nhưng cũng chưa có một công trình nào
nghiên cứu sâu về canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải. Vì vậy, nghiên
cứu đề tài “ Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải-
tỉnh Yên Bái” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho mục tiêu phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
7. 3
kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp miền núi trung du trên cơ sở phát huy
lợi thế của vùng nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục tiêu chung
Đề tài nhằm chỉ ra mô hình canh tác trên đất dốc tối ưu, góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội cho huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái nói
riêng và các khu vực trong cả nước có cùng điều kiện nói chung.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá được lý luận và thực tiễn về canh tác trên đất dốc.
- Đánh giá được thực trạng và hiệu quả canh tác bền vững trên đất dốc
của người dân huyện Mù Cang Chải.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như
nhân rộng mô hình canh tác hiệu quả trên đất dốc cho huyện Mù Cang Chải.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả canh tác trên đất dốc của các hộ gia đình trên địa bàn huyện
Mù Cang Chải – Yên Bái
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại huyện Mù
Cang Chải tỉnh Yên Bái. Địa điểm nghiên cứu là tại hai xã La Pán Tẩn và xã
Chế Cu Nha, nơi có đặc điểm đại diện và điển hình nhất cho phương thức
canh tác hợp lý trên đất dốc của huyện Mù Cang Chải, cũng như của vùng núi
phía Bắc Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thứ cấp qua 03 năm
2006 – 2008 ; thu thập số liệu sơ cấp năm 2008.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
8. 4
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Phân tích, đánh giá hiện trạng hiệu quả
kinh tế, xã hội, môi trường đồng thời đề tài còn nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các
phương thức canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 03 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải-
tỉnh Yên Bái
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trên đất dốc huyện
Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
9. 5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1.1 Tổng quan về đất dốc và canh tác bền vững trên đất dốc
a) Khái niệm về đất dốc
Đất dốc là tất cả các loại đất có độ dốc từ 1o trở lên. Do đó, đất dốc
thường chịu tác động của các hiện tượng xói mòn rửa trôi, dẫn đến sự thoái
hoá đất, làm đất nghèo kiệt về dinh dưỡng, về cấu trúc, giảm độ pH, tăng hàm
lượng các chất gây độc hại cho đất và làm cho đất bị chết về sinh học. Hầu hết
diện tích đất dốc bị thoái hoá và bị chua, nhiều diện tích bị bỏ hoang hoá vì
mất khả năng sản xuất nông lâm nghiệp. Đây thực sự là điều khó khăn để tạo
ra một nền nông nghiệp bền vững trên đất dốc [17].
b) Canh tác bền vững trên đất dốc
Canh tác bền vững trên đất dốc là phương thức lựa chọn và bố trí các
loại cây trồng sao cho hiệu quả kinh tế thu được từ mô hình là cao nhất và ổn
định qua nhiều năm (www.khuyennongvn.gov.vn).
* Tính bền vững trong quản lý sử dụng đất dốc
Từ lâu những người làm nông nghiệp đã hiểu rằng môi trường sống lâu
dài của con người tuỳ thuộc rất nhiều vào việc giữ gìn, quản lý đất, nước và
dinh dưỡng địa quyển vì nó rất có hạn. Thật vậy, đất bị xói mòn, diện tích
canh tác ngày càng thu hẹp do qúa trình công nghiệp hoá, chất lượng đất (độ
phì nhiêu) giảm dần không chỉ tước mất cơ hội kiếm sống của người nông dân
mà còn đe doạ cuộc sống của toàn xã hội về lương thực và thực phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
10. 6
Tác động phụ thuộc qua lại của môi trường tự nhiên và xã hội chi phối
quản lý sử dụng đất bền vững. Khái niệm tính bền vững của một hệ thống
quản lý sử dụng đất rộng lớn hơn là bền vững về độ phì nhiêu, nó bao gồm 3
phương diện: bền vững về kinh tế, sự chấp nhận của xã hội và bền vững về
môi trường.
Trong lịch sử canh tác đất đã từng có 3 hệ thống được công nhận có sức
sản xuất ổn định tuy mức hiệu quả có khác nhau, đó là:
Hệ luân phiên cây trồng bỏ hóa một vụ
Hệ chăn thả gia súc luân phiên
Hệ canh tác lúa nước.
Các hệ thống này tồn tại khá lâu và được xem như là một mô hình sản
xuất trong điều kiện đòi hỏi mức đầu tư thấp, hưởng lợi thấp và điều kiện tự
nhiên (đất, nước…) còn dồi dào.
Nhưng ngày nay với những biến đổi lớn lao trên toàn cầu, khu vực, mỗi
quốc gia thậm chí từng địa phương thì các hệ canh tác đó không thể tồn tại
bền vững ở khắp nơi như xưa nữa. Ở các vùng núi cao, nếu chỉ xét đơn thuần
về mặt kinh tế trên đơn vị diện tích thì không có hệ thống cây trồng nào sinh
lợi bằng trồng cây thuốc phiện. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế cao không thôi rõ
ràng không thể tồn tại được trước áp lực xã hội đòi hỏi loại khử căn nguyên
làm huỷ hoại sức khỏe con người.
Từ đó ta có thể thấy rằng tính bền vững của sử dụng đất phải được xem
xét đồng bộ các mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
Ở cấp thực địa đồng ruộng thì “một hệ thống canh tác được coi là bền
vững” khi nó không ngừng thoả mãn các nhu cầu của người dân mà không
làm thoái hoá nền dự trữ cơ bản của họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
11. 7
Để đánh giá sử dụng đất dốc, một khung đánh giá quản lý đất dốc bền
vững đã được các nhà khoa học đề xuất từ năm 1991 trong đó 5 thuộc tính
của khái niệm bền vững được xem xét là:
Tính sản xuất hiệu quả
Tính an toàn
Tính bảo vệ
Tính lâu bền
Tính chấp nhận
Rõ ràng quản lý bền vững đất đai phải bao gồm một tổ hợp (vì các giới
hạn của dự trữ nguồn lực, tác động đến môi trường, tính kinh tế đa dạng sinh
học và tính hợp pháp), bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt
động nhằm phù hợp các nguyên lý kinh tế - xã hội với các quan điểm môi
trường để đồng thời duy trì và nâng cao được sản lượng (hiệu quả sản xuất),
giảm được rủi ro (an toàn) bảo vệ được tiềm năng nguồn lực tự nhiên, ngăn
ngừa thoái hóa đất và ô nhiễm môi trường nước. Hiệu quả là lợi ích lâu dài
(lâu bền) được xã hội chấp nhận phù hợp với lợi ích của các bên tham gia
quản lý, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Các thuộc tính của khái niệm bền
vững nêu trên có mối quan hệ với nhau, sử dụng đất được coi là bền vững khi
quá trình sử dụng đó duy trì được sự cân bằng động và sự bảo toàn lâu dài
theo thời gian.
* Những tiêu chí và chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tính bền vững đối với sử dụng
đất dốc ở Việt Nam
- Bền vững về kinh tế : Năng suất trên mức bình quân vùng, năng suất tăng
dần, đạt tiêu chuẩn sản phẩm tiêu thụ tại địa phương và xuất khẩu; giá trị sản
xuất trên chi phí đạt trên 1,5 lần; ít mất trắng do hạn và sâu bệnh, có thị
trường ổn định, dễ bảo quản và vận chuyển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
12. 8
- Chấp nhận xã hội với 6 tiêu chí:
+ Đáp ứng nhu cầu của hộ về lương thực, thực phẩm, về tiền mặt và nhu
cầu khác.
+ Phù hợp với năng lực nông hộ về đất đai, lao động, vốn và kỹ năng sản xuất.
+ Người lao động tự quyết công việc đồng áng, không áp đặt và được hưởng
lợi ích thoả đáng.
+ Giảm nặng nhọc cho phụ nữ, không làm trẻ em mất cơ hội học hành.
+ Phù hợp luật pháp hiện hành ( Luật Đất đai và Luật Bảo vệ rừng, mặt nước).
+ Được cộng đồng nông thôn công nhận phù hợp tập quán, văn hoá dân tộc.
- Bền vững về sinh thái có 4 tiêu chí:
+ Giảm thiểu xói mòn, thoái hoá đất dưới mức cho phép, tăng độ phì nhiêu
cho đất hoặc ít ra cũng duy trì, bảo toàn độ phì nhiêu.
+ Tăng độ che phủ (che phủ trên 35% quanh năm).
+ Bảo vệ nguồn nước: Duy trì và tăng nguồn sinh thuỷ, không gây ô nhiễm
nguồn nước.
+ Nâng cao, đa dạng hoá sinh học của hệ sinh thái, tỷ lệ cây dài ngày cao nhất
có thể được, khai thác tối đa các loài bản địa, bảo toàn và làm phong phú
quỹ gien.
* Những nguyên tắc đánh giá tính bền vững
Bền vững là một khái niệm động, bền vững ở nơi này có thể không bền
vững ở nơi khác, bền vững ở thời điểm này, có thể không bền vững ở thời
điểm khác. Đo lường trực tiếp tính bền vững là một khó khăn nhưng sự đánh
giá đó có thể thực hiện được dựa vào những biểu hiện và chiều hướng của các
quá trình chi phối đến chức năng một hệ canh tác nhất định, ở một địa phương
cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
13. 9
Những nguyên tắc chung là:
+ Tính bền vững được đánh giá cho một kiểu sử dụng đất nhất định,
một mô hình sản xuất nhất định, cho một đơn vị lập địa cụ thể, cho một hoạt
động điều hành, cho một thời hạn xác định.
+ Dựa trên quy trình và dữ liệu khoa học, những chỉ số và tiêu chuẩn phản
ánh nguyên nhân và kết quả, các tiêu chí và chỉ tiêu phải phản ánh hết được các
mặt bền vững và không bền vững của một hệ thống sử dụng đất. Nếu thoả mãn
hết các chỉ tiêu thì tính bền vững của một hệ thống đạt mức tối đa. Song trong
thực tế không có được một hệ thống lý tưởng như vậy, mỗi một hệ thống chỉ đạt
được một số mặt nào đó ở một mức độ nhất định tuỳ theo từng mục tiêu của mỗi
kiểu sử dụng đất, các tiêu chí và chỉ tiêu cũng có ý nghĩa khác nhau, cấp độ quan
trọng khác nhau và nhận được sự đánh giá khác nhau khi xem xét cho từng
trường hợp [24].
c) Kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc
Dựa vào quan niệm lâu đời của nông dân vùng cao và quan điểm đổi
mới trong sử dụng và quản lý đất dốc. Những tiến bộ mới trong canh tác và
bảo vệ đất dốc đã tự khẳng định tính ưu việt của nó và được đông đảo nông
dân các dân tộc vùng cao chấp nhận, nhân rộng với tốc độ nhanh.
Dùng tàn dư thực vật che phủ bề mặt
Từ thực nghiệm quy mô nhỏ, kỹ thuật che phủ đất dốc bằng tàn dư thực
vật đã và đang được phổ biến rộng rãi, được bà con các dân tộc miền núi phía
Bắc áp dụng có hiệu quả.
Tạo lớp che phủ đất bằng lớp thực vật sống.
Kiến thiết tiểu bậc thang kết hợp che phủ đất và làm đất tối thiểu
Kinh nghiệm làm ruộng bậc thang ở miền núi đã có từ lâu, nhưng chỉ
áp dụng được ở nơi có tầng đất dày và độ dốc thấp cộng với đầu tư công lao
động lớn. Đối với những sườn núi có độ dốc cao, tầng đất mỏng thì tạo tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
14. 10
bậc thang kết hợp che phủ đất và chọc lỗ gieo thẳng mà không làm đất là một
kỹ thuật rất có hiệu quả, nâng cao năng suất cây trồng, bảo vệ và tăng độ phì
cho đất. Tiểu bậc thang được kiến tạo bề mặt từ 30-40cm và nên trồng các
loại cây thích hợp để bảo vệ bờ bậc thang, có thể kết hợp trồng cỏ để làm thức
ăn gia súc, trồng cây họ đậu qua đông để bảo vệ và cải tạo đất.
Trồng xen cây họ đậu vào nương sắn
1.1.1.2. Hiệu quả và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
a) Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá tính bền vững quản lý sử
dụng đất. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh về mặt chất
lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi các nguồn lực sản
xuất có hạn, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của xã hội ngày càng gia tăng và
đa dạng thì nâng cao hiệu quả kinh tế là một xu thế khách quan và bức xúc
của sản xuất xã hội.
Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và sự phát
triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, đó là thỏa mãn ngày càng cao (tăng số
lượng và chất lượng) về nhu cầu vật chất xã hội. Đánh giá kết quả sản xuất là
đánh giá về mặt số lượng còn đánh giá hiệu quả của sản xuất là xem xét tới
mặt chất lượng của quá trình sản xuất đó.
Như vậy, hiệu quả là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh mặt chất
lượng của hoạt động kinh tế và là đặc trưng của mọi hình thái kinh tế xã hội. Bởi
thế, để có một quan điểm hoàn chỉnh về hiệu quả kinh tế, chúng tôi xuất phát từ
luận điểm kinh tế học của Các Mác «Quy luật tiết kiệm thời gian trong khi sử
dụng các nguồn lực xã hội »[35] và những luận điểm của lý thuyết hệ thống cho
rằng nền sản xuất xã hội là một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật
chất hình thành giữa con người và con người trong quá trình sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
15. 11
- Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế- xã hội phản ánh mặt chất của
các hoạt động sản xuất kinh doanh và là đặc trưng cho mọi hình thái xã hội.
Bản chất của hiệu quả kinh tế có thể được hiểu như sau :
+ Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan nhưng nó không
phải là mục đích cuối cùng của sản xuất. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII đã chỉ rõ « Nền kinh tế đa thành phần nước ta ( gồm thành phần
kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế hợp tác, thành phần kinh tế cá thể, dân
chủ) hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa ».
+ Hiệu quả kinh tế là quan hệ so sánh, đo lường cụ thể quá trình sử
dụng các yếu tố sản xuất (đất đai, vốn, lao động, khoa học kỹ thuật, tiến bộ
quản lý…) để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn với chất lượng cao
hơn.[36]
+ Hiệu quả kinh tế phải được gắn liền với kết quả của những hoạt động
sản xuất cụ thể trong các doanh nghiệp, nông hộ và nền sản xuất xã hội ở
những điều kiện xác định về thời gian và hoàn cảnh kinh tế xã hội.[36]
+ Hiệu quả kinh tế phải lượng hóa được cụ thể việc sử dụng các yếu tố
đầu vào (chi phí) và các yếu tố đầu ra (kết quả) trong quá trình sản xuất ở
từng đơn vị, ngành, nền sản xuất xã hội trong từng thời kỳ nhất định các
doanh nghiệp với mục đích là tiết kiệm lợi nhuận tối đa trên cơ sở khối lượng
sản phẩm hàng hóa nhiều nhất với các chi phí tài nguyên và lao động thấp
nhất. Do đó hiệu quả kinh tế liên quan trực tiếp đến yếu tố đầu vào và yếu tố
đầu ra của quá trình sản xuất.
Như vậy việc đánh giá hiệu quả phải được xem xét một cách toàn diện,
cả về mặt thời gian và không gian trong mối liên hệ giữa hiệu quả chung của
nền kinh tế quốc dân với hiệu quả của từng bộ phận của các đơn vị, xí nghiệp;
hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và có quan hệ mật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
16. 12
thiết với nhau như một thể thống nhất không tách rời nhau. Đứng trên góc độ
nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả của xã hội phải gắn liền với hiệu quả của
toàn xã hội, trên cả mặt kinh tế và xã hội. Gắn chặt hiệu quả của các đơn vị
kinh tế với hiệu quả toàn xã hội là đặc trưng riêng thể hiện tính ưu việt của
nền kinh tế thị trường dưới CNXH.[25].
b) Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội phản ánh mối quan hệ giữa kết quả hữu ích về mặt xã
hội và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó đánh giá chủ yếu về mặt xã
hội của hoạt động sản xuất. Các loại hiệu quả có liên quan chặt chẽ với hiệu
quả kinh tế và biểu hiện mục tiêu hoạt động của con người.
c) Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là hiệu quả của việc làm thay đổi môi trường do
hoạt động sản xuất gây ra như : xói mòn, ô nhiễm đất, không khí, bệnh
tật…Việc xác định hiệu quả môi trường là tương đối khó.
Trong 03 loại hiệu quả trên thì hiệu quả kinh tế đóng vai trò quyết định
và nó được đánh giá đầy đủ khi kết hợp với hiệu quả xã hội và môi trường.
d) Hiệu quả canh tác trên đất dốc
* Đặc điểm đánh giá hiệu quả sản xuất đất dốc
Để đánh giá hiệu quả kinh tế toàn diện và đầy đủ, ta căn cứ vào mối
quan hệ giữa lượng sản phẩm đầu ra tính bình quân trên mỗi đơn vị diện tích
canh tác hoặc gieo trồng với các mức chi phí đầu vào khác nhau.
Hiệu quả kinh tế của việc canh tác trên đất dốc phụ thuộc vào hiệu quả
của từng loại cây trồng vật nuôi, công thức luân canh hay phương thức sản
xuất trên phần diện tích đó.
Mỗi loại đất có khả năng sản xuất khác nhau, do đó việc đánh giá hiệu
quả sử dụng đất phải được nghiên cứu riêng cho từng loại đất.
* Một số nhân tố chung nhất ảnh hưởng tới hiệu quả canh tác trên đất dốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
17. 13
- Nhóm nhân tố chủ quan của bản thân người sản xuất:
+ Quyết định sử dụng đất để sản xuất cái gì ? (sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ gì ?) số lượng bao nhiêu và khi nào sản xuất ?
+ Quyết định sản xuất như thế nào? Với những tài nguyên sẵn có (đất,
nước) áp dụng hệ thống canh tác nào vừa để đảm bảo được tính bền vững của
đất đai vừa áp dụng được những công nghệ tiên tiến trên cơ sở nguồn lực lao
động và vốn có thể có được ?
+ Quyết định sản xuất cho ai ? Sản phẩm gì để tiêu dùng nội bộ, sản
phẩm gì để bán ra thị trường đều phải tính toán trong một mô hình sử dụng
đất bền vững và có hiệu quả.
+ Tổ chức sản xuất ra sao? Ngành sản xuất phải tính đến khả năng và
nguồn lực của mình để sản xuất sản phẩm hàng hóa mà xã hội cần, quyết định
tự mình (lao động gia đình) đảm nhận, khi cần thuê mướn nhân công, hay là
liên kết theo nhóm, tổ để có quy mô sản xuất thích hợp, có khối lượng hàng
hóa để tiêu thụ ở thị trường có lợi nhất (Tủ sách gia đình, 2004).
+ Tổ chức sản xuất theo công nghệ sản xuất nào? Công nghệ sản xuất
tiên tiến lẽ tất nhiên phải áp dụng đến đâu lại phụ thuộc vào nguồn lực (nội
lực, ngoại lực) và khả năng tiếp nhận công nghệ mới.
- Nhóm nhân tố khách quan
+ Nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên :
> Đặc điểm lý hoá tính của
> Nguồn nước và chế độ nước
> Địa hình và thổ nhưỡng
> Vị trí địa lý
+ Nhân tố thuộc điều kiện kinh tế- xã hội
> Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
18. 14
> Thị trường tiêu thụ sản phẩm
> Các quan hệ về sở hữu và sử dụng đất nông lâm nghiệp.
> Trình độ và tập quán sản xuất của chủ sở hữu đất
> Sự phát triển của các ngành kinh tế khác vì giữa các ngành kinh tế đó
có mối quan hệ hai chiều vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy nhau phát triển.
> Môi trường chính sách khuyến khích nông lâm nghiệp phát triển.
> Phân vùng quy hoạch và bố trí sản xuất nông lâm nghiệp giúp cho
việc khai thác sản xuất một cách triệt để, hiệu quả tài nguyên đất theo hướng
CNH- HĐH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
> Ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông lâm nghiệp.
Tóm lại, quá trình quản lý sử dụng đất bền vững và có hiệu quả chịu sự
tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Vấn đề quan trọng là các
bên liên quan có nhận thức đúng các yếu tố này, lợi dụng mặt tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực làm chủ thời cơ trong quản lý kinh doanh sản xuất để
đạt được hiệu quả kinh tế cao cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
* Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
+ Giá trị gia tăng = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
VA = GO - IC
+ Giá trị sản xuất/ ha canh tác ( gieo trồng) = Năng suất đất đai
+ Giá trị sản xuất/ 1 đơn vị chi phí trung gian
+ Giá trị sản xuất/ 1 ngày lao động
- Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội
+ Số trẻ em đi học, số trẻ em tham gia lao động
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chât
+ Hỗ trợ của chính quyền, chất lượng cuộc sống
+ Chất lượng và mức độ tự chủ về nguồn nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
19. 15
+ Dịch vụ khuyến nông, chăm sóc y tế…
1.1.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1.2.1. Hoạt động của con người đến quá trình hình thành đất đồi núi
Kể từ khi loài người bắt đầu chuyển đổi cuộc sống từ hái lượm sang
trồng trọt và chăn nuôi, những tác động sản xuất nông nghiệp rồi sau đó là
lâm nghiệp đã là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hình thành
và phát triển của các loại đất của mỗi quốc gia. Dưới các hoạt động khai phá,
đất, trồng tỉa, tưới nước, bón phân, thu hoạch bằng các biện pháp thô sơ đến
kỹ thuật máy móc hiện đại, các chất hoá học, nhằm thu được những sản phẩm
nông nghiệp nhiều và tốt nhất cho mình, con người đã tạo ra những loại đất
khác với bản chất thiên nhiên của chúng theo cả hai hướng tích cực và tiêu
cực. Bao quát chung các loại đất của Việt Nam cũng cho thấy hầu hết các
loại đất vùng đồng bằng, vùng duyên hải và vùng đồi núi thấp đã được con
người khai phá sử dụng lâu đời và triệt để. Đặc biệt trong những thập kỷ qua,
con người đã tấn công mạnh mẽ và ồ ạt lên những vùng đồi núi cao và dốc ở
khắp các tỉnh vùng đồi núi nước ta do sức ép tăng dân số và nhu cầu đời sống
ngày một gia tăng.
Những tác động tích cực
- Trải qua hàng nghìn năm sản xuất nông nghiệp, với kinh nghiệm
truyền thống và đặc biệt với những bước tiến của khoa học nông nghiệp hiện
đại của những thập kỷ qua, nhiều loại đất đã được sử dụng hợp lý, được bảo
vệ, cải tạo và bồi dưỡng để duy trì và tăng độ màu mỡ tăng khả năng sản xuất,
trong đó có diện tích đất đáng kể của vùng đồi núi.
- Trên các vùng đồi núi, chính sách định canh định cư, chống phát
nương, đốt rẫy, du canh, kiến thiết ruộng bậc thang, xây dựng đường, băng
đồng mức chống xói mòn trên sườn đồi dốc, trồng cây phân xanh, cây phủ đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
20. 16
giữ ẩm...đã tạo nên những loại hình sử dụng đất bền vững và bảo vệ đất dốc
có hiệu quả. Các loại rừng đầu nguồn được bảo vệ, diện tích rừng trồng đã
phủ xanh một phần diện tích đất trống đồi núi trọc, trả lại môi trường tự nhiên
cho đất rừng, phục hồi chất hữu cơ cho đất. Sự phát triển gần đây của các
trang trại nông lâm kết hợp, vườn quả, đồng cỏ chăn thả trên các diện tích đất
trống đồi núi trọc, đất đã bị thoái hoá nghiêm trọng, bị xói mòn rửa trôi thực
sự khẳng định vai trò và khả năng bảo vệ và cải tạo đất tích cực của con
người. Những hoạt động tích cực trên đã góp phần bảo vệ và tăng cường độ
màu mỡ của đất, tăng khả năng sản xuất của đất và thiết thực bảo vệ môi trường
sinh thái của đất.
Tác động tiêu cực
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, con người cũng đã gây ra biết
bao tác hại cho đất và môi trường sinh thái của đất, đặc biệt nước ta đã trải
qua hàng ngàn năm sản xuất nông nghiệp lạc hậu và chiến tranh tàn phá dữ
dội, ngay cả việc tàn phá rừng của vùng đồi núi.
- Trên đất vùng đồi núi: Tập quán du canh du cư, di cư tự do, phá rừng,
đốt nương bừa bãi đã gây nên mất rừng, xói mòn rửa trôi đất nghiêm trọng.
Nạn ngập lụt, lũ ống, lũ quét về mùa mưa, khô hạn, cháy rừng vào mùa khô
đã trở thành mối hiểm hoạ của nhiều vùng như ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây
Nguyên. Hiện nay, loại đất kết von đá ong hoá, xói mòn trơ sỏi đá xuất hiện
phổ biến ở nhiều vùng đồi núi. Diện tích đất trống đồi núi trọc quá nhiều, diện
tích rừng chỉ còn khoảng 30%, quá thấp so với quy định (của quốc tế là 40%).
- Việc đốt phá rừng đầu nguồn của vùng đồi núi cũng ảnh hưởng đến
chế độ nước của các loại đất vùng đồng bằng, mùa mưa đất bị ngập lụt, úng
nghiêm trọng, mùa khô thì thiếu nước, hạn chế diện tích trồng vụ đông và vụ
xuân, đất bị bạc màu, chai cứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
21. 17
- Do sức ép dân số ngày càng tăng, nhất là ở vùng đồng bằng và duyên
hải, việc mở mang và phát triển đô thị, khu công nghiệp, một diện tích lớn đất
trồng trọt bị chuyển đổi thành đất thổ cư, đất xây dựng làm hình thái đất bị
xáo trộn, tính chất đất bị thay đổi, thoái hoá.
1.1.2.2. Kinh nghiệm canh tác trên đất dốc ở một số quốc gia trên thế giới
* Kinh nghiệm của thế giới
Hiện nay tài nguyên đất trên thế giới có khoảng 13.500 triệu ha, trong
đó hơn 1000 triệu ha (chiếm 14,7%) đất đồi núi có khả năng sản xuất nông
lâm nghiệp. Đó là nguồn tài nguyên lớn mang tính chiến lược quốc gia của
nhiều nước vì giá trị sản phẩm nông lâm nghiệp lớn, đồng thời đó còn là
những vùng đất nuôi sống hàng trăm triệu người và bảo vệ môi trường sinh
thái cho nhân loại.
Đất đồi núi nói chung có độ màu mỡ cao nếu mới được khai phá hoặc
được sử dụng hợp lý. Tuy nhiên, độ màu mỡ của đất đồi núi phụ thuộc nhiều
vào thành phần đá mẹ, độ dốc, thảm thực vật hoặc rừng che phủ hoặc vào dòng
chảy của nước mưa. Đã từ lâu qua quá trình chặt phá rừng, khai thác đất trồng
trọt, người ta đã phát hiện đất đồi núi rất nhanh chóng bị suy thoái do hiện
tượng đất bị xói mòn rửa trôi. Vì vậy từ thế kỷ 18 bắt đầu xúc tiến các công
trình nghiên cứu các biện pháp chống xói mòn bảo vệ đất dốc (Volni,1870; các
giáo sư trường Đại học Pardin Mỹ, từ 1951 đến 1958, các nghiên cứu quốc tế
của nhiều nước 1980, chương trình IBSRAM, CIAT, thập kỷ 90).
Để bảo vệ đất dốc, nhiều nước trên thế giới sử dụng cây cỏ 3 lá vào hệ
thống cây trồng, hoặc đưa cây đậu tương vào trồng xen với ngô, hoặc trồng
theo đường đồng mức.
Từ những năm thập kỷ 80-90, hệ thống nông lâm kết hợp và đa dạng
hoá cây trồng trên đất đồi núi đã được thử nghiệm và lan rộng khắp nơi bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
22. 18
tính ưu việt về sử dụng đất bền vững và hiệu quả của hệ thống này. Năm
1983, ICRAF đã đưa ra định nghĩa khá hoàn hảo về hệ thống nông lâm kết
hợp: ''Đó là hệ thống sử dụng đất bao gồm các cây gỗ lâu năm và các cây
nông nghiệp hàng năm hoặc cây thức ăn gia súc, hoặc cả hai trên cùng một
mảnh đất đồng thời hay luân phiên với mục đích cho sản phẩm tối đa và duy
trì sản xuất lâu bền do bảo vệ và tăng cường được độ màu mỡ đất.
Bên cạnh những nghiên cứu kỹ thuật về sử dụng hiệu quả và bảo vệ
chống suy thoái đất dốc, ngày nay sử dụng đất đồi núi bền vững còn đặc biệt
chú trọng đến khía cạnh phát triển kinh tế và xã hội vùng đồi núi nhằm đảm
bảo một hệ thống sử dụng đất bền vững cho đất dốc nói riêng và đất vùng đồi
núi nói chung. Nhóm công tác về "Khung đánh giá đất dốc bền vững
(Nairobori, 1991) đã nêu lên quan điểm" Quản lý bền vững đất đai bao gồm tổ
hợp các công nghệ, chính sách và các hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý
kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời (a) duy trì hoặc nâng
cao sản lượng (hiệu quả sản xuất), (b) giảm rủi ro sản xuất (an toàn), (c) bảo vệ
tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước (bảo vệ), (d)
có hiệu quả lâu dài (lâu bền) và (e) được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận).
* Kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á
Diện tích đất đồi núi ở khu vực Đông Nam Á được phân bố ở tất cả các
nước trong khu vực, trong đó nhiều nhất là ở Việt Nam (chiếm 75% tổng diện
tích toàn quốc) và ở Lào (chiếm 73% tổng diện tích toàn quốc). Phần lớn diện
tích đất đồi núi được sử dụng cho lâm nghiệp ( bảo tồn rừng tự nhiên hoặc
trồng rừng khai thác, rừng sinh thái) cũng như được khai thác trồng các loại
cây công nghiệp, cây ăn quả dài ngày. Một phần nhỏ diện tích đất đồi núi
dạng thung lũng, dốc thấp, bình nguyên, cao nguyên (địa hình thấp, khá bằng
phẳng hoặc lượn sóng, thuận lợi cho canh tác thì được sử dụng trồng hoa màu
lương thực. Đại bộ phận hệ thống canh tác vùng đồi núi là canh tác nước trời,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
23. 19
trừ diện tích lúa nước hai vụ dạng ruộng bậc thang hoặc diện tích trồng rau
ven bãi bồi các sông suối là sử dụng nước tưới.
Intosh J.L.Mc. (1990) [38] cũng đã chỉ ra những nhân tố kiềm chế sự
phát triển sản xuất hoa màu trên đất dốc. Đất dốc Đông Nam Á khác nhau rất
nhiều về địa hình, độ phì tự nhiên, tính chất lý hoá và sinh học. Sự mất độ phì
nhanh chóng là biểu hiện rõ nhất, thường đất khai hoang đưa vào sản xuất sau
2 – 3 năm thì mất độ phì vốn có và khả năng sản xuất. Nguyên nhân là sau khi
thảm thực vật bị phá bỏ, đất được cày bừa xới xáo, chất hữu cơ bị oxy hoá
nhanh và quá trình rửa trôi xảy ra mạnh. Trên đất dốc, đất có thành phần sét
cao giữ được độ phì tốt hơn đất cát. Do đó trong quá trình canh tác, việc bảo
vệ độ phì và cải thiện độ phì bằng cách dùng phân chuống, phân xanh và đặc
biệt là sử dụng cây họ đậu để cải thiện tính chất đất là yếu tố quan trọng quyết
định đến năng suất cây trồng.
“Sử dụng, quản lý đất dốc Châu Á” là tên gọi một mạng lưới của Tổ
chức quốc tế về nghiên cứu và quản lý đất dốc (IBSRAM) (Sajjapongse
A.,1993) [41]. Tổ chức này đã thực hiện nghiên cứu, quản lý đất dốc để phát
triển nông nghiệp ở 7 nước Châu Á: Indonesia, Malaisia, Philippines, Thái Lan,
Trung Quốc và Việt Nam. Thực trạng chung của các nước này là canh tác trên
đất dốc không hợp lý làm cho đất bị xói mòn rửa trôi dẫn đến thoái hoá.
Kết quả nghiên cứu bước đầu của IBSRAM cho thấy canh tác trên đất
dốc phải có mô hình cây trồng và kỹ thuật phù hợp để vừa thu được năng suất
cao vừa bảo vệ đất dốc, bảo vệ môi trường. Một yếu tố quan trọng mà các
nghiên cứu trong hệ thống này đề cập là các biện pháp kỹ thuật muốn được
nông dân áp dụng phải là biện pháp có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, với
các hộ dân nghèo thì cần phải xem xét mức đầu tư tiền mặt cho phù hợp.
* Kinh nghiệm của Indonesia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
24. 20
Theo nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống canh tác trên đất dốc của
Intosh J.L.Mc. (1990) [38] ở Indonesia và nhiều nơi khác những vùng đất
nông nghiệp rộng lớn chỉ thích hợp cho hoa màu cạn, tài nguyên đất dốc chưa
được sử đúng mức và trong nhiều trường hợp còn bị lãng phí. Ở Indonesia có
khoảng 15 – 20 triệu ha đất dốc địa hình lượn sóng nhẹ có thể trồng hoa màu
nhưng chưa được khai thác sử dụng có hiệu quả.
Samfujika (1996) [32] nghiên cứu biện pháp chống xói mòn ở
Indonesia cho thấy phương pháp làm ruộng bậc thang rất hiệu quả trong việc
hạn chế xói mòn, rửa trôi nhưng rất tốn công. Vì vậy họ đã nghiên cứu các
biện pháp khác. Một trong những biện pháp đó là làm đất tối thiểu, lên luống
và ủ đất. Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có những mặt hạn chế.
Nghiên cứu của Bell L.C. (1986) [34] sử dụng phân xanh, phân chuồng
và các loại phân hữu cơ hoặc chế, phụ phẩm nông nghiệp đã làm tăng lân dễ
tiêu cho cây dễ hấp thụ, đồng thời làm giảm độ độc nhôm và sắt. Trong dung
dịch đất, các axits hữu cơ tạo phức với kim loại Al, Fe. Chúng tồn tại ở dạng
phức hữu cơ – nhôm, hữu cơ - sắt trong dung dịch đất không độc đối với
cây trồng.
1.1.2.3. Tình hình canh tác trên đất dốc ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, diện tích đất đồi núi nước ta chiếm gần 3/4 diện
tích toàn quốc, khoảng 23,9 triệu ha, do vậy, sử dụng đất đồi núi sản xuất
nông lâm nghiệp chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế. Canh tác
trên đất dốc với hình thức canh tác nương rẫy là một hình thức sản xuất nông
nghiệp nguyên thuỷ của vùng nhiệt đới, giữ vị trí quan trọng trong đời sống
vật chất và tâm linh của con người, là biểu hiện của mối quan hệ gắn bó giữa
con người và thiên nhiên. Ở nước ta, phần lớn diện tích đất canh tác nương
rẫy được tiến hành trên đất có độ dốc > 250 với cây trồng chủ yếu là cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
25. 21
lương thực như lúa nương, ngô, sắn. Do đó canh tác nương rẫy vẫn còn là
hình thức canh tác phổ biến và quan trọng của nhiều nhóm dân tộc sinh sống
ở vùng cao, nơi mà cuộc sống ở đó còn nhiều khó khăn, an toàn lương thực
vẫn còn là vấn đề khó giải quyết; sản xuất nông nghiệp ít được đầu tư, chưa
được quan tâm và còn phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên sẵn có.
Tình hình đất canh tác nương rẫy có nhiều biến động theo các thời kỳ
phát triển của đất nước. Giai đoạn 1943 đên 1960 rừng Việt Nam vẫn còn
nhiều (tỷ lệ che phủ đạt 43,8%), rừng chưa được quản lý. Đây là giai đoạn
hưng thịnh nhất của nền nông nghiệp du canh thế kỷ XX. Người dân tự do
phát rừng làm rẫy nên đời sống đồng bào no đủ. Giai đoạn sau 1960, dân số
tăng nhanh nên đời sống của người dân miền núi trở lên khó khăn, thiếu đói
hơn giai đoạn trước. Thiếu lương thực, đồng bào bắt đầu gia tăng việc phát
rừng, đốt nương làm rẫy và nạn phá rừng trở nên trầm trọng. Đến năm 1990
thì diện tích đất trống đồi núi trọc của nước ta lên đến đỉnh điểm là 11,768
triệu ha (35,7% đất tự nhiên), do thiếu đất canh tác nên thời gian bỏ hóa bị rút
ngắn và hiện tượng du canh vẫn tiếp tục xảy ra. Giai đoạn sau 1990, nhờ có sự
đầu tư tái trồng rừng của Chính phủ và việc áp dụng rộng rãi các kỹ thuật tiến
bộ trong thâm canh đất thung lũng và đất ruộng bậc thang nên sức ép khai
thác đất dốc đã giảm, độ che phủ rừng dần được phục hồi. Năm 2003, theo số
liệu của tổng cục thống kê thì diện tích đất có rừng đã đạt 12,05 triệu ha
(36,5% đất tự nhiên). Tuy nhiên, ở nhiều nơi, do không có đất bằng nên nông
dân miền núi vẫn phải dựa vào đất dốc để sản xuất lương thực và vẫn mang
đậm phương thức canh tác nương rẫy truyền thống.
Từ những năm của thập kỷ 80 và 90 đến nay, các chương trình nghiên
cứu và sử dụng đất đồi núi tập trung vào các dự án đánh giá đất và xây dựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
26. 22
các mô hình sản xuất như hệ thống nông lâm kết hợp, hệ thống vườn ao
chuồng rừng (VACR) và trang trại sản xuất rừng đồi, vườn đồi....
Các chương trình phát triển lâm nghiệp xã hội, xoá đói giảm nghèo,
bảo vệ vùng đầu nguồn, xây dựng thôn bản mới, quy hoạch sử dụng đất có
người dân cùng tham gia, xây dựng và cải thiện thị trường nông thôn, ngân
hàng và tín dụng nông thôn... là những hoạt động hữu hiệu và vô cùng quan
trọng góp phần bảo vệ đất và sử dụng đất đồi núi hợp lý nhất.
Canh tác trên đất dốc có nhiều hạn chế, mà hầu hết những hạn chế này
là kết quả của quá trình canh tác bất hợp lý. Bùi Quang Toản (1991) [38] đã
chỉ ra hạn chế lớn là: xói mòn rửa trôi, cỏ dại và khô hạn đất. Thái Phiên,
Nguyễn Tử Siêm (1992) [42] cũng đã chỉ ra 9 hạn chế của vùng đất dốc là:
xói mòn rửa trôi, thiếu nước, khô hạn, địa hình không đồng đều, phụ thuộc
nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội bên ngoài, tập quán canh tác thô sơ, đầu
tư thấp, thiếu vốn để kinh doanh các loại cây có hiệu quả cao nhưng dài ngày,
tiếp cận tiến bộ khoa học khó khăn, có những quan điểm sai lệch về canh tác
trên đất dốc, cơ sở hạ tầng yếu kém.
Như vậy, đất dốc Việt Nam rất đa dạng, giàu tiềm năng, là nơi sinh
sống của nhiều triệu người nhưng vẫn đang chứa đựng những khó khăn và bất
cập; đất đai bị thoái hoá, đời sống nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, kinh tế
chậm phát triển, trình độ dân trí thấp. Muốn giải quyết những vấn đề miền núi
cần phải có những giải pháp đồng bộ và mang tính hệ thống cao; đưa tiến bộ
khoa học áp dụng vào đời sống nhưng vẫn phải ứng dụng kiến thức bản địa.
Hầu hết các nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp trên đất dốc đều
hướng vào đánh giá lợi ích kinh tế của mô hình cây trồng mang lại, kết hợp
với đánh giá lợi ích về môi trường do hệ thống cây trồng đó tác động như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
27. 23
chống xói mòn, bảo vệ và cải thiện độ phì đất; bảo vệ và duy trì nguồn nước;
lợi dụng tối đa điều kiện tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa…
Tóm lại, những nghiên cứu về đất dốc và biện pháp canh tác trên đất
dốc của các tác giả trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng:
- Đất dốc có vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng, là tư liệu
sản xuất chính và là nơi sinh sống ngày càng đông của nhiều triệu người
thuộc nhiều dân tộc không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều vùng trên thế giới.
- Đất dốc là hệ sinh thái rất đa dạng, giàu tiềm năng song vẫn đang chứa
đựng nhiều khó khăn và bất cập: canh tác trên đất dốc bất hợp lý đã làm mất
lớp phủ thực vật dẫn đến hậu quả là đất bị xói mòn rửa trôi do mưa và bốc hơi
vật lý mạnh, đất bị chua, nghèo, kiệt dinh dưỡng dẫn đến thoái hoá rồi hoang
hoá. Nông dân miền núi đang phải đối mặt với sức ép thiếu đất sản xuất, đời
sống dân cư thấp kém và ngày càng gặp nhiều khó khăn, kinh tế nghèo nàn,
dân trí chậm phát triển và hệ sinh thái mỏng manh rất dễ bị tổn thương.
- Muốn giải quyết những vấn đề miền núi thì cần phải có một cái nhìn
khác và đổi mới về quan niệm sử dụng và phương thức quản lý đất dốc: đất
dốc cần được quan tâm chăm sóc nhiều hơn nữa, đặc biệt là chống thoái hoá
đất, tăng độ phì và dung tích hấp thu nước bằng các biện pháp sinh học (nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp bảo tồn) như: sử dụng các loại vật liệu từ xác
hữu cơ che phủ cho đất, không đốt tàn dư cây trồng mà giữ lại toàn bộ làm vật
liệu che phủ, duy trì vật liệu phủ liên tục và gieo trồng không thông qua làm
đất… Nhìn chung các giải pháp duy trì và bảo vệ độ phì của đất phải đa dạng
và mang tính hệ thống, phải kết hợp đồng bộ giữa trồng trọt, chăn nuôi và lâm
nghiệp; đưa tiến bộ khoa học áp dụng vào đời sống nhưng vẫn phải quan tâm
ứng dụng kiến thức bản địa.
- Hầu hết các nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp trên đất dốc đều
hướng vào đánh giá lợi ích kinh tế của mô hình cây trồng mang lại, kết hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
28. 24
với đánh giá lợi ích về môi trường do hệ thống cây trồng đó tác động như:
chống xói mòn, bảo vệ và cải thiện độ phì đất; bảo vệ và duy trì nguồn nước;
lợi dụng tối đa điều kiện tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa…
- Tuy còn nhiều khó khăn trở ngại song miền núi vẫn là nơi có nhiều
tiềm năng để phát triển nhiều mặt, có nhiều lợi thế về tài nguyên mà miền
xuôi không có được như: diện tích đất rộng lớn, giàu tài nguyên, khí hậu mát
và ấm… Vì vậy cần quan tâm nhiều để vừa thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng và an ninh lương thực cho nông dân miền núi,
vừa phải bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên nước và môi trường vì sự tồn tại và
phát triển lâu dài của dân tộc.
1.1.2.4. Mô hình quản lý sử dụng bền vững và có hiệu quả kinh tế trên đất dốc
của Thế giới và Việt Nam
Mô hình sử dụng đất dốc có tính bền vững và tính hiệu quả kinh tế cao là
rất đa dạng và phong phú. Có thể hiểu đây là một hệ thống canh tác nông
nghiệp hiện đại. Sản xuất trong hệ thống này mang tính chất tập trung dây
chuyền của nền sản xuất hàng hoá lớn. Hệ thống này chịu ảnh hưởng của cách
mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng xanh và cách mạng công nghiệp. Các
vườn cây công nghiệp của các lâm trường, các vùng chuyên canh, các xí
nghiệp nông – lâm nghiệp liên doanh điển hình cho hệ thống nông nghiệp hiện
đại. Tuy nhiên hệ thống này đòi hỏi phải có đầu tư cao về vốn và khoa học kỹ
thuật, chịu sự chi phối mạnh mẽ của thị trường và các tổ chức xã hội [35].
Cũng có thể hiểu đây là một hệ thống nông lâm kết hợp ở miền núi, sản
xuất và quản lý theo hướng phát triển bền vững các nguồn tài nguyên. Gần
đây ở các vùng trung du và miền núi Việt Nam và một số nước Đông Nam Á
(Thái Lan, Philippin, Ấn Độ…) đã xuất hiện nhiều loại hình sử dụng đất theo
hướng nông lâm kết hợp như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
29. 25
+ Vườn nhà là những mảnh đất ở quanh nhà, gần nhà được dùng để
trồng cây ăn quả, các loại rau màu, cây thuốc, cây lấy gỗ vừa để cải thiện bữa
ăn, lấy củi đun và gỗ làm nhà.
+ Vườn rừng là những mảnh đất ở chân, sườn hoặc đỉnh đồi có độ dốc
vừa, được trồng cây rừng trên dốc cao, trồng cây ăn quả ở cấp độ thấp hơn
diện tích khoảng 2.000 – 5.000m2 với biện pháp thâm canh theo kiểu làm
vườn. Đây là một mô hình sử dụng đất lâu bền, có thể tạo được sản phẩm
hàng hoá mà vẫn đảm bảo được yêu cầu phòng hộ.
+ Trại rừng là những cánh rừng trồng hoặc khoanh nuôi phục hồi, trồng
bổ sung cây bản địa, cây đặc sản dưới tán hoặc có khi cả cây ăn quả hay cây
công nghiệp dài ngày. Trại rừng được phát triển nhiều ở các vùng phòng hộ
theo phương thức giao khoán rừng cho các hộ gia đình bảo vệ khôi phục và
phát triển bền vững.
+ Bãi chăn thả có kiểm soát là những bãi cỏ tự nhiên được thiết lập trên
đất dốc bằng cách trồng cây xanh, đào hào, có hàng rào bao quanh và chia cắt
thành các ô nhỏ để bảo vệ và luân phiên chăn thả.
Đây là mô hình sử dụng đất dốc rất tốt để phát triển chăn nuôi hộ gia
đình, khắc phục tập quán chăn nuôi thả rong lạc hậu.
Đặc biệt những năm gần đây một số công nghệ sử dụng đất dốc bền
vững của nước ngoài theo hướng nông lâm và lâm – nông kết hợp đã bước
đầu áp dụng thành công ở nước ta [24]. Đó là kỹ thuật canh tác nông nghiệp
đất dốc viết tắt là SALT (Sloping Agricultural Land Technology). Hệ thống
kỹ thuật canh tác này đã được áp dụng thành công ở Philippin từ giữa những
năm 1970 đến nay. Trung tâm đời sống nông thôn Baptist Mindanao Philippin
đã tổng kết hoàn thiện hệ thống này gồm 4 mô hình sau đây:
* Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
30. 26
Trong mô hình này là trồng trọt bằng cây ngắn ngày (cây hàng năm)
xen kẽ với những cây lâu năm sao cho phù hợp với đặc tính và yêu cầu đất đai
của các loài cây đó và đảm bảo có thu hoạch đều đặn.
Các băng được trồng theo đường đồng mức ngang dốc và giữa những
bảng cây trồng chính rộng từ 4 – 6m còn có bảng hẹp trồng cây cố định đạm,
cây phân xanh để giữ đất, chống xói mòn hoặc lấy củi.
Cơ cấu cây trồng trong mô hình này, để đảm bảo ổn định và hiệu quả
nhất là 75% cây nông nghiệp, 25% cây lâm nghiệp. Trong cây nông nghiệp
thì 50% là cây hàng năm, 25% là cây lâu năm.
Với mô hình này trên một ha hàng năm người dân thu hoạch được
lượng sản phẩm hàng hoá gấp rưỡi so với trồng sắn, khả năng chống xói mòn
tăng gấp 4 lần [41].
* Mô hình kỹ thuật nông lâm súc kết hợp đơn giản (SALT2)
Trong mô hình này, một phần đất được dành cho chăn nuôi và kết hợp
với trồng trọt.
Tác dụng mô hình này rất rõ là nhờ sự kết hợp theo phương thức Nông
– Lâm - Súc đã tận dụng được tiềm năng đất đai, năng lượng mặt trời, đồng
cỏ, thức ăn gia súc, tăng thêm nguồn phân chuồng, phân xanh trả lại cho đất.
Theo mô hình này việc sử dụng đất đảm bảo có thu nhập đều đặn vừa
cải thiện được độ phì nhiêu, chống được xói mòn đất.
* Mô hình kỹ thuật canh tác nông lâm kết hợp bền vững (SALT3)
Mô hình này đã kết hợp một cách tổng hợp việc trồng rừng quy mô nhỏ
với sản xuất lương thực, cây ăn quả và cây thực phẩm. Ở đây người nông dân
dùng những phần đất có độ cao thấp ( dưới 200 - 25 0) sườn đồi và chân đồi để
trồng các cây lương thực, thực phẩm, xen với các hàng cây cố định còn phần
đất cao ( sườn trên là đỉnh đồi) để trồng rừng. Cây lâm nghiệp chọn để trồng
theo thời gian thu hoạch được chia ra các loại từ 1 – 5 năm, 6 – 10 năm, 11 –
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
31. 27
15 năm và trên 15 năm để có thể thu được sản phẩm cao nhất và đều đặn. Cơ
cấu đất được sử dụng thích hợp ở đây là dành 40% cho cây nông nghiệp, 60%
cho cây lâm nghiệp. Trong mô hình này các biện pháp nông – lâm - thuỷ lợi
và công trình hạ tầng được áp dụng đồng bộ (thực hiện các biện pháp làm
giảm lượng nước chảy tràn, thực hiện các biện pháp hạn chế tốc độ dòng
chảy, ngăn cản sự cuốn trôi đất, làm đất theo đường đồng mức v.v…) hiệu
quả sử dụng đất được tăng cao hơn cả về mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
Tuy nhiên mô hình này đòi hỏi vốn đầu tư cao hơn cả về vật chất và trình độ
hiểu biết nên điều kiện mở rộng khó khăn hơn, cần có thời gian.
* Mô hình sản xuất nông nghiệp trồng cây ăn quả (cam, chanh, xoài, bưởi, đu
đủ…) hoặc trồng cây công nghiệp dài ngày (chè, café, quế…) với quy mô vừa
và nhỏ (SALT4). Trong mô hình này các loại cây ăn quả nhiệt đới được đặc
biệt chú ý do sản phẩm của nó có thể bán thu tiền mặt để đầu tư trở lại.
Mô hình này có ý nghĩa lớn nên các nước trong khu vực rất quan tâm cả về hỗ
trợ vốn và kỹ thuật, cả về thị trường tiêu thụ và chính sách.
+ Hệ sinh thái VAC
Sơ đồ 1.1: Mô hình VAC
V
Hộ
nông dân
Thức ăn cho cá
A C
Thức ăn chăn nuôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
32. 28
Kết quả đó là tạo ra được nhiều cây trồng, vật nuôi để xuất được nhiều
giải pháp, đưa ra được nhiều mô hình sản xuất có tính cách mạng trong sản
xuất. Tuy nhiên cũng lại thấy rõ ràng rằng trong lĩnh vực thực nghiệm như
nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản… tỷ lệ các công trình được ứng dụng so
với kết quả đạt được là rất thấp, bởi vì môi trường ứng dụng cũng quan trọng
như chính giải pháp kỹ thuật. Do vậy trong mấy thập kỷ lại đây, mô hình tiến
bộ kỹ thuật trên đồng ruộng trở nên phổ biến nhằm đưa tất cả các đối tác vào
các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng để đảm bảo tính hữu hiệu cao của kết
quả. Các nghiên cứu ứng dụng được chuyển từ ô thửa do nghiên cứu vừa quản
lý sang thực địa do nông dân tiến hành với sự hỗ trợ của nghiên cứu viên hay
cán bộ khuyến nông [36], [24], [39].
Như phần trên đã trình bày mô hình quản lý và sử dụng bền vững và có
hiệu quả đất gò đồi ở trung du, miền núi là rất đa dạng, phong phú. Mỗi mô
hình chỉ có thể áp dụng có hiệu quả cho từng loại đất, từng thảm phủ thực vật,
từng điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội cụ thể, phù hợp với mức độ tiếp nhận
và khả năng đầu tư của hộ nông dân và chủ trang trại.
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Một là, tại sao phải nghiên cứu các phương án canh tác trên đất dốc ?
Hai là, hiệu quả canh tác trên đất dốc tại huyện Mù Căng Chải như thế nào ?
Ba là, các giải pháp để nâng cao hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù
Cang Chải – Yên Bái là gì?
1.2.2. Cơ sở phương pháp luận
Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu đề tài là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
33. 29
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
1.2.3.1. Phương pháp thu thập thông tin
a) Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Tài liệu thứ cấp được thu thập từ các thông tin công bố chính thức của
các cơ quan nhà nước, các nghiên cứu của cá nhân, tổ chức về tình hình sản
xuất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân, canh tác trên đất dốc…
b) Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
Những thông tin, tài liệu này được thu thập dựa trên phương pháp đánh
giá nhanh nông thôn ( RRA- Rural Rapid Appraisal ) và sử dụng phiếu điều
tra kinh tế hộ.
* Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA )
Phương pháp này được sử dụng để quan sát thực tế, phỏng vấn chính
thức và bán chính thức cán bộ và nhân dân địa phương về tình hình canh tác
đất dốc, những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những kết quả
thực tại thu được từ canh tác trên đất dốc, cũng như ý kiến của họ để xác định
mô hình canh tác hiệu quả nhất….
* Phương pháp điều tra hộ
Việc thu thập tài liệu mới chủ yếu dựa trên cơ sở điều tra các hộ nông
dân đang canh tác trên đất dốc.
+ Xác định điểm điều tra
Để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, căn cứ vào đặc điểm của địa bàn
nghiên cứu, chúng tôi tiến hành lựa chọn điểm điều tra là hai xã đại diện: La
Pán Tẩn và Chế Cu Nha của huyện Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái.
+ Xác định mẫu điều tra
Căn cứ vào điều kiện thực tế của địa bàn, tôi sẽ tiến hành điều tra ngẫu
nhiên đúng100 hộ, bằng phiếu điều tra xây dựng trước. Để đảm bảo sự phù
hợp và chính xác, trước khi tiến hành điều tra, chúng tôi đã tiến hành điều tra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
34. 30
thử và điều chỉnh mẫu phiếu phù hợp hơn khi tiến hành điều tra đồng bộ. Mỗi
xã chọn 2 thôn, mỗi thôn điều tra 25 hộ, các hộ được chọn theo phương pháp
ngẫu nhiên.
* Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Phương pháp này được sử dụng để tham khảo, tổng hợp, thu thập chọn
lọc các ý kiến của các chuyên gia, các cán bộ nghiên cứu hoặc công tác trong
lĩnh vực nông nghiệp đặc biệt là trong phạm vi canh tác trên đất dốc.
1.2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
+ Đối với số liệu thứ cấp: lập bảng để đánh giá mức độ quan trọng của
thông tin và phạm vi sử dụng thông tin.
+ Đối với số liệu sơ cấp: sử dụng phần mền EXCEL, EVIEW để tổng
hợp và xử lý số liệu nhằm đưa ra các bảng biểu, các chỉ tiêu nghiên cứu phù
hợp với mục tiêu và nội dung đặt ra của đề tài.
1.2.4. Phương pháp phân tích số liệu
1.2.4.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng rất rộng rãi trong công tác nghiên
cứu, thông qua phương pháp này ta có thể rút ra các kết luận về hiệu quả của
việc canh tác trên đất dốc so với những hộ, những vùng cùng điều kiện nhưng
chưa áp dụng phương thức canh tác này. Thông qua phương pháp này chúng
ta sẽ đánh giá được những mặt mạnh, mặt yếu, mặt được và chưa được của
phương thức canh tác trên đất dốc để từ đó có những đánh giá chung nhất,
những kiến nghị và giải pháp hiệu quả nhất nhằm phát triển kinh tế Mù Cang
Chải nói riêng và kinh tế nông thôn nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
35. 31
1.2.4.2. Phương pháp thống kê mô tả
Dựa trên các số liệu thống kê để mô tả sự biến động cũng như xu
hướng phát triển của một hiện tượng kinh tế- xã hội, mô tả chi phí, lợi ích, các
tác nhân trong quá trình canh tác trên đất dốc.
1.2.4.3. Phương pháp hồi quy
Để phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố đến sản xuất nông nghiệp
và thu nhập của hộ, chúng tôi sử dụng phương pháp hồi quy để ước lượng, cụ
thể là sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas (CD).
Hàm CD có dạng:
Y = AX1b1 X2b2….Xnbn eC1D1 eC2D2…eCmDm
Trong đó:
Y: biến phụ thuộc.
___
Xi: là các biến độc lập định lượng ( i 1, n )
___
Dj : là các biến độc lập thuộc tính ( j 1, m )
Chỉ tiêu hiệu suất biên một đơn vị của biến độc lập _
Y
(1) Đối với biến định lượng: Y bi _
X
(2) Đối với biến thuộc tính: Y e Dj
Ý nghĩa: đầu tư thêm 1 đơn vị yếu tố i sẽ mang lại thêm bao nhiêu đơn
vị yếu tố Y
Hàm sản xuất CD được giải bằng phương pháp logarit hoá hai vế và
giải trên phầm mềm EXCEL.
. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả xã hội và môi trường
trong sử dụng đất dốc của các hộ nông dân.
Để phân tích sâu hơn các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả xã hội và môi
trường trong sử dụng đất dốc và làm cơ sở để dự báo sự thay đổi phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
36. 32
thức sản xuất có ảnh hưởng tích cực, tiêu cực như thế nào tới hiệu quả sử
dụng đất dốc, chúng tôi sử dụng các mô hình phân tích sau:
Mô hình hàm Probit
Theo D.Macfaden (1973), [37] đưa ra hàm Probit có dạng:
K
Yi* 0 j X ij ui (a)
j 1
Ở đây Yi* không phải là giá trị quan sát được mà nó là 1 biến không liên
tục và ta gọi là ẩn biến Y và Yi là 1 biến giả được định nghĩa.
Yi = 1 nếu Yi* > 0
Yi = 0 trong trường hợp khác (Yi ≤ 0)
Và chúng ta có
Pi = Prob (Yi = 1)
k k
= Pr ob ui 0 j X ij 1 F 0 j X ij
j 1
j 1
Ở đây F là hàm phân phối tích luỹ của u, u là phần dư – sai số giữa biến
độc lập và phân phối chuẩn với trung bình của u = 0 và phương sai Var(ui) =
2 =1. Mặt khác, nếu phân phối của u là đối xứng, từ 1 – F(-Z) = F(Z) ta có
thể viết:
n
Pi F 0 j X ij
j 1
Đặt
n
Zi 0 j X ij
j 1
ta có:
Zi
F ( Zi )
F ( Zi ) hay Ln Zi
1 Zi
1 F ( Zi )
ở đây hàm mật độ của F(Zi) được xác định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
37. 33
Zi / 1
1 t2
F (Zi )
2
* e 2 * dt
Nếu sai số của ui trong (a) tuân theo quy luật phân phối chuẩn thì (a)
gọi là mô hình Probit.
Để đo lường sự thay đổi của xác suất Pi khi có sự thay đổi của biến giải
thích Xij ta sử dụng đạo hàm riêng như sau:
i
j F (Zi )
X ij
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng biến phụ thuộc là một biến
giả, phản ánh hiệu quả xã hội trong sử dụng đất dốc. Và các biến giải thích
(độc lập) là các nhân tố bên trong hoặc bên ngoài hộ có ảnh hưởng tới việc
nâng cao hiệu quả xã hội (hoặc môi trường) trong sử dụng đất dốc . Y* ở đây
là một mức chung về hiệu quả xã hội và môi trường ở mỗi hộ, nếu vượt qua
mức này thì sản xuất đạt hiệu quả và ngược lại.
1.2.5. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích
1.2.5.1. Nội dung của các nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất tính trên 1 đơn vị diện tích đất:
+ GO/ha + VA/ha
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư:
+ GO/IC + VA/IC
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng sức lao động:
+ GO/lao động + VA/lao động
1.2.5.2. Một số chỉ tiêu về hiệu quả xã hội
- Thu nhập bình quân/ người
- Trình độ dân trí
- Tỷ lệ đất dốc được đưa vào sản xuất…..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
38. 34
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở HUYỆN
MÙ CANG CHẢI - TỈNH YÊN BÁI
2.1. Đặc điểm của huyện Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý:
Huyện Mù Cang Chải là một huyện vùng cao nằm ở phía Tây Bắc của
tỉnh Yên Bái, cách trung tâm tỉnh 185km theo quốc lộ 37 và 32. Huyện có
diện tích là 119.908 km2, nằm dưới chân dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao
1000 m so với mực nước biển.
- Toạ độ địa lý 21039’ – 25050’ vĩ độ Bắc
103056’ – 104028’ kinh độ Đông
- Ranh giới:
+ Phía Đông giáp với huyện Văn Chấn, Văn Yên - tỉnh Yên Bái.
+ Phía Bắc giáp với huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai.
+ Phía Tây giáp huyện Than Uyên - tỉnh Lai Châu.
+ Phía Nam giáp huyện Mường La - tỉnh Sơn La.
Huyện có một thị trấn là thị trấn Mù Cang Chải và 13 xã: Kim Nọi, Hồ
Bốn, Chế Tạo, Khao Mang, Dế Su Phình, Chế Cu Nha, Cao Phạ, Púng Luông,
Nậm Khắt, Mồ Dề, Nậm Có, La Pán Tẩn và Lao Chải.
Huyện Mù Cang Chải nếu so sánh với các huyện miền núi khác trong
tỉnh Yên Bái nói riêng hay các huyện miền núi phía Bắc nói chung thì Mù
Cang Chải là một huyện có vị trí địa lý rất khó khăn cho việc giao lưu hàng
hoá với các huyện trong tỉnh cũng như trong vùng. Việc trao đổi, tiếp thu các
tiến bộ khoa học kỹ thuật từ các viện nghiên cứu khoa học, các cơ quan nông
nghiệp và các huyện ở vùng miền núi phía Bắc là rất hạn chế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
39. 35
2.1.1.2. Điều kiện đất đai, địa hình
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 119.908 ha, diện tích đất nông
nghiệp là 8.920 ha, chiếm 7,44% tổng diện tích tự nhiên.
Huyện có địa hình đồi núi cao xen lẫn các thung lũng xâm thực, có trên
95% diện tích là đồi núi cao, độ dốc lớn và bị chia cắt mạnh do đó gặp rất
nhiều khó khăn về điều kiện giao thông và trở ngại đối với phát triển kinh tế,
nhất là trong sản xuất nông nghiệp.
Độ dốc trung bình 400 – 700, sườn núi bị chia cắt dữ dội.
Do địa hình bị chia cắt mạnh nên đã tạo ra các thung lũng nhỏ như:
Nậm Có, Nậm Khắt, Kim Nọi, Púng Luông là những nơi tập trung đông dân
cư sinh sống và sản xuất nông nghiệp.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 119.908 ha thì trong đó diện tích đất ở độ
cao trên 1.000m chiếm 84% và dưới 1.000m chiếm 16% diện tích đất tự
nhiên. Với vị trí địa lý và địa hình khó khăn chỉ thích hợp với việc phát triển
nghề rừng, chăn nuôi đại gia súc, nhưng rất hạn chế việc phát triển nông
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và giao lưu với bên ngoài.
Huyện Mù Cang Chải được chia ra làm một thị trấn và 3 trung tâm
cụm xã:
- Thị trấn huyện Mù Cang Chải nằm trên quốc lội 32 có tổng diện tích
tự nhiên là 742ha. Trong đó đất đô thị là 200ha, đất nông lâm nghiệp là
542ha.
- Trung tâm cụm xã Khao Mang gồm các xã Khao Mang, Lao Chải, Hồ Bốn.
- Trung tâm cụm xã Puống Luông gồm các xã Puống Luông, La Pán
Tẩn, Zế Xu Phình, Nậm Khắt với diện tích tự nhiên là 247,9km2.
- Trung tâm cụm xã Chế Tạo với diện tích tự nhiên là 236km2.
Đất đai huyện MCC chủ yếu là đất Feralit, màu vàng đỏ, vàng nhạt.
Đây là quá trình tích lũy tuyệt đối hoặc tương đối sắt, nhôm. Tuy nhiên cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
40. 36
có các loại đất đen nhiệt đới, đất mùn do ảnh hưởng của quá trình tham gia
của vi sinh vật, động vật, oxy, không khí và mưa ( Nguồn: Những thông tin
cơ bản về các loại đất chính ở Việt Nam, năm 2001 ). Thực ra các thành phần
thổ nhưỡng ở Mù Cang Chải còn phức tạp hơn nhiều song cơ bản đều thuộc
loại đất khá giàu dinh dưỡng, thuận lợi cho sự sinh trưởng của thực vật nhất là
các loại cây ôn đới hay cận nhiệt đới nhưng do địa hình dốc, chia cắt, có
nhiều đồi cao nên mặc dù có diện tích 119908,75ha nhưng việc sử dụng đất
vào sản xuất lại rất nhỏ mặc dù có sự tăng lên trong từng năm, đến năm 2007
chỉ là 7558,48ha chiếm 6,3%, đất sử dụng vào lâm nghiệp là 81908,06ha
chiếm 25,4%. Ta có bảng:
Bảng 2.1: Tình hình sử dụng đất nông nghiệp qua 3 năm
ĐVT: ha
Thay đổi bình
Bình quân (%)
quân năm ( %)
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Binh quân
07/06 08/07 06 07 08
3 năm
Nông nghiệp 7.586,96 7.558,48 7.549,52 -0,375 -0,119 6,42 6,385 6,377 6,394
Lâm nghiệp 81.491,82 81.908,06 81.992,24 0,511 0,103 68,962 69,187 69,258 69,136
Đất khu dân cư 231,5 235,55 239,67 1,749 1,749 0,196 0,199 0,202 0,199
Chưa sử dụng 28.859,24 28.684,26 28.604,82 -0,606 -0,277 24,422 24,229 24,162 24,271
( Nguồn: Phòng thống kê huyện MCC )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
41. 37
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu của các nhóm đất chính
Huyện Mù Cang Chải nhìn chung diện tích đất lâm nghiệp luôn chiếm
tỷ trọng lớn trong đó chủ yếu là rừng tự nhiên, qua 3 năm diện tích đất lâm
nghiệp bình quân trong tổng quỹ đất của huyện là 69,136%. Năm 2007 diện
tích này là 81.908,06ha tăng so với năm 2006: 0,511%; năm 2008 chiếm tỷ lệ
69,258% tổng quỹ đất tăng so với năm 2007 là 0,103%. Diện tích đất chưa sử
dụng của huyện luôn chiếm trên 24%, mức thay đổi bình quân hàng năm
không đáng kể, năm 2007 diện tích đất chưa sử dụng chỉ giảm được 0,606%
so với năm 2006 và năm 2008 chỉ giảm được 0,277% so với năm 2007 để
chuyển sang mục đích khácTuy nhiên sự thay đổi này chưa đáng kể so với
diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn, điều này chứng tỏ vùng này chưa
được khai thác hết tiềm năng, diện tích đất chưa sử dụng lớn hơn rất nhiều lần
so với đất sản xuất xấp xỉ 4 lần, tiềm năng sản xuất nông nghiệp của huyện là
rất lớn, khai thác tốt và sử dụng hiệu quả phần đất này sẽ mang lại giá trị kinh
tế cao.
Năm 2006 diện tích đất nông nghiệp là 7.586,96ha chiếm 6,42% trong
tổng diện tích đất của huyện. Năm 2007 diện tích này giảm đi 0,375% tương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
42. 38
ứng còn 7.558,48ha và chỉ chiếm 6,385% trong tổng quỹ đất của huyện. Diện
tích này giảm là do một số diện tích đất canh tác nông nghiệp không có hiệu
quả nên người dân bỏ không sử dụng nữa. Như vậy diện tích đất nông nghiệp
qua 3 năm có xu hướng giảm, bình quân qua 3 năm đó diện tích đất này chỉ
còn chiếm 6,394% trong số diện tích quỹ đất tự nhiên mà huyện có.
Trong đất nông nghiệp:
- Đất trồng cây lương thực có diện tích sử dụng cao nhất với diện tích:
4711,19ha năm 2006. chiếm tỷ trọng 62,78 trong tổng quỹ đất nông nghiệp,
diện tích đất cây hàng năm cũng tăng theo diện tích đất nông nghiệp. Năm
2007 diện tích đất cây hàng năm là 4799,05ha, tăng thêm 88,14ha, tốc độ tăng
1,78% và chiếm tỷ trọng 63,25% trong tổng quỹ đất nông nghiệp năm 2007.
Năm 2008 mặc dù quỹ đất nông nghiệp giảm 0,119% nhưng diện tích cây
hàng năm vẫn tăng mạnh với tốc độ 12,73%, mức tăng tương ứng 611,06ha.
Từ năm 2006-2008 tốc độ tăng bình quân về diện tích cây hàng năm là
6,93%. Con số tăng lên về diện tích đất hàng năm là tín hiệu tốt đối với tình
hình sử dụng đất của huyện.
+ Diện tích đất trồng lúa chiếm tỷ trọng cao nhất trong diện tích đất
trồng cây hàng năm chiếm 71,2%. Tốc độ tăng về diện tích trồng lúa năm
2006 so với 2006 là 8,21% , năm 2008 so với 2007 là 2,35%, mức tăng tương
ứng là 276,22ha và 85,47ha. Tốc độ tăng bình quân từ 2006-2008 của diện
tích trồng lúa là 5,28%.
+ Diện tích trồng cây màu và cây công nghiệp hàng năm của năm 2006 là
1.179,89ha chiếm 25,04% tổng quỹ đất cây hàng năm, đến năm 2007 diện tích cây
màu và cây công nghiệp hàng năm giảm mạnh chỉ còn 991,43ha, tốc độ giảm lên tới
13,31%, mức giảm là 188,46ha. Năm 2008 có sự tăng trở lại nhưng vẫn chưa đạt mức
của năm 2006, diện tích lúc này là 1.054,02ha chiếm 19,48% quỹ đất cây hàng năm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
43. 39
Mù Cang Chải nên có chính sách tăng diện tích và sản lượng loại cây này để giúp
người dân xoá đói giảm nghèo.
Đất trồng rau, đậu có diện tích và tỷ trọng nhỏ nhất trong quỹ đất cây hàng
năm. Năm 2006 diện tích chỉ là 176,5ha, chiếm tỷ trọng 3,76%. Năm 2007 diện tích
này không tăng. Năm 2008 tăng lên thành 197.3ha, mức tăng 21,8 ha, tốc độ tăng
11,78%.
Cây lâu năm: diện tích cây lâu năm của huyện năm 2006 là 2.150,14ha
chiếm tỷ trọng 1,49% trong tổng diện tích đất tự nhiên của huyện, diện tích
này năm 2007 là 2.418,41ha chiếm tỷ trọng 2,02% tổng diện tích đất tự nhiên.
Như vậy năm 2007 diện tích cây lâu năm tăng 12,85% tức tăng 267,97ha. Tuy
nhiên đến năm 2008 diện tích cây lâu năm lại giảm về mức xấp xỉ của năm
2006 còn 2.148,37 ha.
Đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi và đất mặt nước đang dùng vào sản
xuất nông nghiệp có diện tích rất nhỏ và không tăng từ 2006-2008.
Năm 2008 bằng các nguồn vốn chương trình 134, vốn bố trí dân cư, Dự
án chia sẻ đã khai hoang được 64,9ha ruộng nước đạt 75,37% kế hoạch.
2.1.1.3. Khí hậu, thủy văn
Khí hậu
Mang đặc trưng á nhiệt, nhiều vùng núi cao có khí hậu ôn đới. Độ ẩm
thấp nhưng do rừng phủ khá dày nên nguồn nước ở đây khá dồi dào.Khí hậu
Mù Cang Chải được chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa hè và mùa đông. Tuy
nhiên khí hậu thiên mát mẻ ngay cả trong mùa hè về đêm vẫn lạnh. Nhiệt độ
trung bình năm là 190C, thậm trí có tuyết rơi cục bộ, sương mù là hiện tượng
phổ biến ở đây trong suốt mùa đông. Mù Cang Chải thường là nơi tan của
các cơn bão nên lượng mưa cũng vừa phải, trung bình 1.400mm/năm. Độ ẩm
ở đây khá cao, trung bình 80%, các khu núi cao thường từ 82- 86 %. Số giờ
nắng trung bình hàng năm là 1800 giờ, tập trung vào mùa hè. Có thể tham
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
44. 40
khảo bảng tổng hợp khí tượng thủy văn ở trạm Mù Cang Chải năm 2000
dưới đây:
Bảng 2.2: Khí tƣợng thủy văn của huyện
Nhiệt độ TB Số giờ nắng Lượng mưa Độ ẩm tương
0
( C) (h) TB ( mm ) đối ( % )
Cả năm 19,3 1.770 1.442 80
Tháng 1 13,6 17,0 14,0 78
Tháng 2 14,6 15,0 56,1 77
Tháng 3 18,1 188 58,0 74
Tháng 4 21,3 164 85,6 75
Tháng 5 22,3 83,0 227,5 80
Tháng 6 22,5 142 325,0 84
Tháng 7 23,5 158 294,4 86
Tháng 8 23,3 131 231,1 84
Tháng 9 21,3 135 71,1 79
Tháng 10 20,4 118 71,8 78
Tháng 11 15,7 119 2,6 78
Tháng 12 14,7 140 5,0 81
( Nguồn: Phòng Thủy lợi huyện Mù Cang Chải )
Thuỷ văn:
Nước mặt: Tuy huyện Mù Cang Chải không có sông lớn, nhưng có hệ
thống khe suối nhiều với tổng chiều dài trên 360km đều bắt nguồn từ dãy núi
Hoàng Liên Sơn. Trong đó đáng kể nhất là suối Nậm Kim dài hơn 75km chải
xuyên suốt chiều dài huyện theo hướng Đông Nam – Tây Bắc và đổ ra sông
Đà. Ngoài ra còn có các con suối khác như suối Mang Khú (xã Chế Tạo) dài
35km, suối Ta Sa (xã Nậm Có) dài 28km, suối Tusan (xã Nậm Có) dài 35km,
suối Lao Chải (xã Lao Chải) dài 27km, suối Nậm Khắt dài 20km, suối Đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
45. 41
Hồ (xã Zế Xu Phình) dài 12km và đạt mật độ trung bình 1km2 diện tích đất tự
nhiên có 0,3km khe suối.
Chất lượng nước mặt nhìn chung tốt cho sản xuất nông lâm nghiệp và
đời sống nhân dân trong huyện. Ngoài ra thì với các khe suối có độ dốc lớn
nên rất có tiềm năng về thuỷ điện nhỏ.
Do thời tiết khô nóng, địa hình có độ dốc lớn và hậu quả của quá trình
phá rừng nên đã làm thay đổi chế độ thuỷ văn của các hệ thống khe suối. Từ
đó đã làm ảnh hưởng đến sự chênh lệch lớn về lượng nước mặt giữa hai mùa.
Vào mùa mưa thì mực nước và lưu lượng nước ở các con suối tăng rất nhanh
thường gây ra lũ quét tàn phá ruộng nương, nhà cửa, đặc biệt là phá huỷ các
công trình thuỷ lợi, thuỷ điện, đường giao thông…
Mùa khô thì nhiều con suối bị cạn kiệt tạo ra tình trạng thiếu nước
nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp và ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt
của nhân dân.
- Nước ngầm: Do đặc điểm thời tiết, khí hậu và cấu tạo địa chất địa
hình đã tạo ra khả năng về nguồn nước ngầm có chất lượng tốt cho sinh hoạt
và sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, huyện có điều kiện khí hậu (nhiệt độ, lượng mưa, tổng tích
ôn…) cho phép phát triển đa dạng các loại cây trồng, từ cây Nhiệt đới đến cây
Á nhiệt đới, từ các loại cây ngắn ngày đến các loại cây dài ngày. Đối với cây
trồng hàng năm có thể thâm canh 2 vụ/năm.
Vụ Xuân: đầu vụ tháng 1 – 2 lượng mưa thấp ( 43,6 – 21,5mm) ảnh
hưởng đến cây trồng. Cho nên đối với huyện Mù Cang Chải chỉ làm được cây
mầu trong vụ này do không đủ nước cung cấp cho cây trồng khác như lúa…
mà cây mầu không yêu cầu về nước nhiều. Nhiệt độ ( 13,4 – 15,60C) cũng là
một trong các yếu tố hạn chế đến thời gian sinh trưởng, nhiệt độ thấp ảnh
hưởng đến khả năng nảy mầm, và sinh trưởng giai đoạn đầu. Vậy cần xác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn