SlideShare a Scribd company logo
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lâm Nhựt Anh
LINH SƠN VÀ QUAN NIỆM VỀ
TIỂU THUYẾT CỦA CAO HÀNH KIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lâm Nhựt Anh
LINH SƠN VÀ QUAN NIỆM VỀ
TIỂU THUYẾT CỦA CAO HÀNH KIỆN
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số : 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin gửi lời cám ơn đến phòng Sau Đại học, quý thầy cô khoa Ngữ
Văn, những người thầy đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời gian qua và cung
cấp cho tôi nhiều kiến thức quý báu giúp tôi có nền tảng kiến thức để thực
hiện luận văn này
Tôi muốn gửi lời cám ơn chân thành đến người thầy hướng dẫn của tôi
Tiến sĩ Đinh Phan Cẩm Vân vì sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của cô trong
suốt quá trình tôi tiến hành nghiên cứu. Chính cô đã hỗ trợ và tư vấn cho tôi
trong tất cả giai đoạn của luận văn. Giúp tôi có được một cách nhìn toàn diện
hơn cho luận văn của mình. Bên cạnh đó tôi xin gửi lời cám ơn của mình đến
PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp, người thầy đã tạo điều kiện cho tôi tiếp xúc với nền văn
học Trung Quốc.
Lời cám ơn cuối cùng tôi xin gửi đến ba mẹ tôi, những người bạn của
tôi, đặc biệt là những người bạn trong lớp Cao học Văn học nước ngoài khoá
21, đã đồng hành cùng tôi trong suốt khoá luận.
Tôi xin gửi đến tất cả lời cám ơn chân thành.
TP. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 9 năm 2012.
Người viết luận văn
Lâm Nhựt Anh
Lớp Cao học Văn học nước ngoài khoá 21
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Và kết
quả trong luận văn này chưa từng được công bố ở các công trình khác.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012
Người viết luận văn
Lâm Nhựt Anh
Lớp Cao học Văn học Nước ngoài Khóa 21
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................7
6. Cấu trúc luận văn.................................................................................................7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG..................................................................9
1.1. Linh Sơn và Tác giả Cao Hành Kiện ................................................................9
1.1.1. Tác giả Cao Hành Kiện ..............................................................................9
1.1.2. Tiểu thuyết Linh Sơn ................................................................................10
1.2. Quan niệm văn chương của Cao Hành Kiện ..................................................13
Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TRONG LINH SƠN.......23
2.1. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn của Cao
Hành Kiện ......................................................................................................23
2.2. Cách xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn......................................................25
2.2.1. Cốt truyện mờ hóa....................................................................................25
2.2.2. Cốt truyện kết cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi....................30
2.2.3. Cốt truyện siêu tiểu thuyết........................................................................36
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG LINH SƠN........39
3.1. Quan niệm về cách xây dựng nhân vật trong Linh Sơn..................................39
3.2. Xây dựng nhân vật phân mảnh trong Linh Sơn ..............................................45
3.2.1. Đại từ “tôi”- cái tôi trong cuộc hành trình vật lý .....................................45
3.2.2. Đại từ “anh”- cái tôi trong cuộc hành trình tâm linh...............................52
3.2.3. Đại từ “nàng” - Cái tôi nữ tính trong một cơ thể nam tính....................60
3.2.4. Đại từ “hắn” - cái tôi xa lạ.......................................................................65
Chương 4: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KHÔNG GIAN TRONG LINH SƠN.....71
4.1. Quan niệm về không gian trong Linh Sơn......................................................71
4.2. Xây dựng không gian lồng ghép trong Linh Sơn............................................73
4.2.1. Không gian thực .......................................................................................73
4.2.2. Không gian phi thực.................................................................................84
KẾT LUẬN..............................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................94
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giải Nobel văn học năm 2000 trao cho nhà văn người Trung Quốc đầu
tiên: Cao Hành Kiện. Là một nhà văn lưu vong, so với một số nhà văn hiện
đại khác của Trung Quốc như Mạc Ngôn, Vương Mông, Thẩm Tùng Văn thì
cái tên Cao Hành Kiện không mấy “mặn mà” với đất nước này. Tác phẩm của
Cao Hành Kiện không dễ đọc, nó pha trộn giữa tinh thần phương Đông và bút
pháp hiện đại phương Tây. Cao Hành Kiện có nhiều đóng góp trong việc xây
dựng một loại hình tiểu thuyết mới. Vì vậy, ông đã đưa ra nhiều quan niệm về
tiểu thuyết mới trong các sáng tác của mình cũng như trong những bài phát
biểu của ông tại giải Nobel và ở các trường Đại Học.
Linh Sơn là quyển tiểu thuyết đoạt giải Nobel của ông và cũng chính là
quyển sách minh chứng cho những quan niệm tiểu thuyết của ông. Vì vậy nó
là một quyển tiểu thuyết thích hợp cho những ai muốn tìm hiểu về quan niệm
tiểu thuyết của Cao Hành Kiện. Tiểu thuyết Linh Sơn không dễ đọc, nó rất
kén độc giả. Linh Sơn đòi hỏi người đọc một khả năng tư duy và một kinh
nghiệm sống phong phú, bởi vì nó là một quyển tiểu thuyết bán tự truyện
được xây dựng từ một chuyến đi thực tế của nhà văn. Bên cạnh đó nó là
quyển tiểu thuyết phản ánh những kinh nghiệm đã trải qua trong cuộc đời tác
giả. Linh Sơn chứa nhiều quan điểm triết học và tôn giáo. Nhiều suy ngẫm về
cuộc đời đã được tác giả bộc lộ trong từng trang của Linh Sơn.
Quan niệm về xây dựng một tiểu thuyết mới được chứng minh trong
Linh Sơn bằng việc đổi mới xây dựng nhân vật, cốt truyện, yếu tố không gian
và thời gian.Vì vậy, đến với đề tài nghiên cứu về những quan niệm tiểu thuyết
trong Linh Sơn là một cách làm sáng tỏ những quan niệm tiểu thuyết của ông
và nhằm minh chứng cho việc xây dựng một quyển tiểu thuyết bằng chính
những quan điểm của tác giả.
2
Từ những lí do trên chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Linh Sơn và quan
niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện”. Ở đề tài này chúng tôi mở rộng
nêu những quan điểm đổi mới về tiểu thuyết do Cao Hành Kiện đề xuất trong
những bài phát biểu của mình. Đồng thời đề tài cũng chỉ ra sự vận dụng
những quan điểm của ông vào trong tiểu thuyết như một sự kết hợp giữa lý
thuyết và thực hành. Qua đó giúp chúng ta hiểu được mục đích mà tác giả
muốn đổi mới trong tiểu thuyết, giúp chúng ta thấy được phong cách Trung
Hoa độc đáo trong tác phẩm cũng như trong con người ông. Đề tài cũng là
một sự minh chứng Cao Hành Kiện xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của
Trung Hoa.
2. Lịch sử vấn đề
Là một tác giả lớn mang tầm cỡ quốc tế, nhiều tác phẩm của Cao đã
được dịch ra nhiều thứ tiếng. Vì vậy, nghiên cứu về tác phẩm của Cao Hành
Kiện là công việc của nhiều nhà phê bình trong nước và thế giới.
Những công trình nghiên cứu về Linh Sơn được chú ý nhiều nhất trên thế
giới là những công trình nghiên cứu về vấn đề văn hoá trong Linh Sơn. Nhiều
học giả cũng như sinh viên quốc tế đã đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa
văn hoá học và văn học trong tiểu thuyết Linh Sơn. Công trình đầu tiên phải
kể đến là công trình của giáo sư Mabel Lee tại trường đại học Sydney, một
dịch giả nổi tiếng đã dịch từ tiếng Trung sang tiếng Anh tác phẩm Linh Sơn.
Công trình với tên gọi “Comparative Literature and Culture” (tạm dịch là “So
sánh văn chương và văn hoá”). Ngoài ra, giáo sư Lee còn nghiên cứu về vai
trò của đại từ trong tác phẩm Linh Sơn “Pronouns as Protagonists: On Gao
Xingjian’s Theories of Narration” (tạm dịch là “Đại từ như vai chính: lý
thuyết về tường thuật của Cao Hành Kiện”). Trong công trình nghiên cứu này,
giáo sư Lee nói đến việc sử dụng đại từ trong Linh Sơn (“Pronouns in Soul
Mountain”), việc sử dụng nhiều kỹ thuật và thí nghiệm về ngôn ngữ trong
3
quyển tiểu thuyết ( “Experimentation with Language and Technique”) và về
một hình thức mới cho tường thuật (“A new Form of Narration”). Nghiên cứu
về những ảnh hưởng của văn hoá trong Linh Sơn còn phải kể đến những công
trình nghiên cứu của Li Xia “Cross-Cultural Intertextuality in Gao Xingjian's
Novel Lingshair: A Chinese Perspective” (tạm dịch là : “Sự giao thoa văn hoá
trong tiểu thuyết Linh Sơn của Cao Hành Kiện: một phối cảnh Trung Quốc”).
Trong công trình nghiên cứu này tác giả cũng đề cập đến lý thuyết về sự
tường thuật trong tiểu thuyết Linh Sơn. Bên cạnh đó, tác giả còn nói đến sự
ảnh hưởng của phương Tây trong Linh Sơn như việc sử dụng thủ pháp dòng ý
thức, so sánh giữa Cao Hành Kiện và Samuel Beckett, giữa tiểu thuyết Linh
Sơn cùng với Ngọn núi thần kỳ của Thomas Mann. Bên cạnh đó còn có những
công trình nghiên cứu như “Gao Xingjian's Novel Lingshan (Soul Mountain):
A Long Journey in Search of a Woman?” ( tạm dịch là: “Tiểu thuyết Linh Sơn
của Cao Hành Kiện: Một chuyến đi dài trong việc tìm kiếm một người phụ
nữ” ) của Marian Galik, “Styles of Truth in Gao Xingjian's Soul Mountain”
(tạm dịch là : “Văn phong của sự thật trong Linh Sơn của Cao Hành Kiện” )
của Timothy Hoye, “Gao Xingjian and “Soul Mountain" : Ambivalent
Storytelling” (tạm dịch là: “Cao Hành Kiện và Linh Sơn : Những mâu thuẫn
trong cách kể” ) của Robert Nagle, “Gao Xingjian and the Asian
Experimentation in Postmodernist Performance" ( tạm dịch là: “Linh Sơn và
cuộc thử nghiệm của khuynh hướng hậu hiện đại ở Châu Á” của Kwok-kan
Tam
Ở Việt Nam, số lượng nghiên cứu về Linh Sơn cũng như về tác giả Cao
Hành Kiện còn khá khiêm tốn so với nước ngoài, ngay cả đến nay. Đã có một
số bài dịch về những bài phát biểu của ông tại các hội thảo khoa học. Các nhà
văn Việt Nam đọc cuốn tiểu thuyết này ít nhiều có phân vân, trăn trở và gợi
mở cả về nội dung và kỹ thuật viết. Sự phân thân của ta, mi, nàng (hay tôi,
4
bạn và nàng) là cái cá nhân cô đơn đi tìm đồng vọng, là cái một mình đối chọi
cái toàn thể, nhiều mình, là cái hôm nay tìm về, tìm lại hôm qua, ngược nguồn
văn hóa, lịch sử để may ra có thể thấy được “bản lai chân diện mục” của
mình. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng đã không tiếc lời để khen Cao Hành Kiện
và Linh Sơn của ông: “Cao Hành Kiện là một nhân tài. Ông là một nghệ sĩ đa
năng...Ngòi bút Cao Hành Kiện thâm thuý và khốc liệt, kiểu viết độc đáo và
hầu như chưa có tiền lệ...Nhiều tình tiết cho thấy tác giả am hiểu khá tường
tận lịch sử, phong tục tập quán, tâm lý của dân tộc Trung Hoa...Một năng lực
sáng tạo không thể phủ nhận, một tài năng và một tri thức không dễ gì có
được” [63]. Công trình nghiên cứu tiếp theo về Linh Sơn ở Việt Nam là
“Những điểm tương đồng giữa Linh Sơn và Hồng Lâu mộng” của tiến sĩ Đinh
Phan Cẩm Vân, trong Kỷ yếu khoa Ngữ Văn 30 năm nghiên cứu và giảng dạy,
sau đó tham gia hội thảo quốc tế về văn học Cận hiện đại Trung Quốc tại Đại
học Bình Đông, Đài Loan. Trong công trình nghiên cứu của mình tiến sĩ Đinh
Phan Cẩm Vân đã chỉ ra điểm giống nhau giữa Linh Sơn và Hồng Lâu Mộng
là: “Cao Hành Kiện cũng như Tào Tuyết Cần đã cùng chung một thao tác là
trình bày đan xen vào nội dung tác phẩm những quan niệm nghệ thuật mới
của mình” [44, tr.223]. Điều đó đã gợi một số điểm quý báu cho luận văn này.
Một bài viết của Trương Thái Du với nhan đề “ Đọc Linh Sơn của Cao Hành
Kiện”, trong Tham luận ở hội thảo “Tác phẩm tiểu thuyết và sân khấu của
Gao Xingjjian, giải Nobel văn học 2000” tại Aix-en-Provence, Pháp, 1/2005,
người viết đã không ngừng ca ngợi tác phẩm Linh Sơn và nghệ thuật viết của
Cao Hành kiện như sau: “Linh Sơn, tác phẩm chính đưa lại giải Nobel văn
học cho Gao Xingjian, có thể gọi là một tiểu thuyết bách khoa. Xuất bản lần
đầu ở Đài Loan năm 1991 nó chỉ bán được khoảng 90 cuốn. Sang năm sau số
bán còn thấp hơn nữa, chừng 60 cuốn. Nhưng rồi cùng với thời gian, Linh
Sơn trở thành cuốn sách bán chạy (bestseller), thành một hiện tượng văn học
5
lớn”, “81 chương đoạn Linh Sơn là 81 bậc cầu thang đưa Gao đến sự giác
ngộ, sự thanh lọc (cathasis). Gao không thành Phật, ông vẫn là con người,
con người không biết thỏa mãn bao giờ. Nhưng ông đã đến được chốn Linh
Sơn của mình, dù ông vẫn chẳng hiểu nó là gì. Cuốn tiểu thuyết của Gao, vì
thế, khó đọc, nhưng cũng hấp dẫn, vì thế” [49]…. Bài viết của Phạm Xuân
Nguyên phỏng vấn Cao Hành Kiện tại nhà riêng của ông khi sang Pháp dự
hội thảo “Tác phẩm tiểu thuyết và sân khấu của Cao Hành Kiện, giải Nobel
Văn học 2000” với tiêu đề: “Cao Hành Kiện: cứu mình bằng văn chương
nghệ thuật”. Trong bài viết này tác giả cũng có đề cập đến một số quan điểm
về văn học mà họ Cao đã trình bày “Văn học chỉ phơi bày thực trạng đời sống
con người, nêu lên những vấn đề nhân bản của nó. Đừng hoang tưởng là có
thể giải quyết được hết mọi vấn đề của con người, của cuộc sống. Tôi viết về
thực tế cuộc sống như nó đang diễn ra, không chỉ ở Trung Quốc, mà còn ở
nhiều nơi khác. Con người với những vấn đề tồn tại cơ bản của nó, bất kỳ ở
đâu, là điều quan tâm chính của tôi. Điều này lớn hơn số phận của một quốc
gia, đất nước. Tôi cũng tin như nhiều người hiện nay rằng các hệ thống đại tự
sự đã thuộc về quá khứ” [61]. Bài viết góp một phần để biết quan điểm về văn
học của Cao Hành Kiện, để từ đó có cái nhìn đúng đắn về những giá trị văn
học mà tác giả thể hiện trong tác phẩm của mình. Và nhiều bài viết khác viết
về Cao Hành Kiện như “Tản mạn quanh Linh Sơn” của Nguyễn Khắc Phê,
“Cao Hành Kiện độc hành trên đường nghệ thuật” của Trường Minh.
Bên cạnh đó còn có một số bài phát biểu của họ Cao tại các hội thảo
như bài diễn từ của Cao Hành Kiện về “Lý do của văn học” đọc tại Hàn Lâm
viện Thụy Điển ngày 10- 12- 2000, bài phát biểu của Cao Hành Kiện tại Đại
học Hồng Kông ngày 31- 1- 2001 với nhan đề “Một hành trình của văn học”,
“Ngòi bút và bạo chúa” trích diễn văn Nobel văn chương của Cao Hành Kiện
do tác giả đọc ngày 10- 12- 2000, “Không có chủ nghĩa” bài phát biểu của
6
Cao Hành Kiện tại Đài Loan…Qua những bài diễn thuyết đó, chúng ta cũng
thấy được phần nào quan niệm về văn học của tác giả.
Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã
đưa ra những lí giải sâu sắc về Linh Sơn. Tuy nhiên chưa có công trình nào
tổng quát những quan niệm tiểu thuyết của Cao Hành Kiện trong Linh Sơn.
Dù vậy, những công trình ấy là những gợi ý và tài liệu tham khảo cần thiết
cho việc nghiên cứu của luận văn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp Loại hình giúp khu biệt loại hình tiểu thuyết với các loại
hình nghệ thuật khác.
Phương pháp Thống kê giúp chúng tôi tìm ra những chi tiết trong Linh
Sơn có liên quan đến đề tài mà chúng tôi khảo sát
Phương pháp So sánh giúp chúng tôi so sánh đối chiếu với những tác
phẩm khác của Cao Hành kiện như tiểu thuyết Kinh thánh của một người,
những truyện ngắn của ông cùng với những vở kịch mà ông đã sáng tác.
Phương pháp Hệ thống giúp chúng tôi sắp xếp lại những dữ liệu, giúp
quá trình thực hiện đề tài tiết kiệm được thời gian và tránh được nhiều sai sót
trong quá trình tiếp cận.
Phương pháp Kí hiệu giúp giải mã những biểu tượng trong tác phẩm.
Phương pháp lịch sử- xã hội để tìm ra mối quan hệ giữa thời đại- nhà
văn- tác phẩm.
Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng phương pháp phê bình Tiểu sử để
giúp chúng tôi tìm hiểu được những ảnh hưởng rõ nét của cuộc đời tác giả lên
trên tác phẩm của ông.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Văn bản chính mà chúng tôi sử dụng chính trong luận văn là tiểu thuyết
Linh Sơn do Ông Văn Tùng dịch. Ngoài ra luận văn còn sử dụng tiểu thuyết
Kinh thánh của một người như một sự hỗ trợ làm rõ thêm về quan niệm tiểu
thuyết của Cao Hành Kiện. Bên cạnh đó còn một số truyện ngắn cùng kịch
của ông .
Đối tượng mà chúng tôi tiến hành khảo sát ở đây là “Quan niệm về tiểu
thuyết của Cao Hành Kiện” qua Linh Sơn. Thông qua các bài viết và các bài
báo cáo của ông và những bài nghiên cứu phê bình của độc giả trong nước và
thế giới, chúng tôi muốn một phần nào đó làm rõ hơn và ứng dụng những
quan niệm ấy vào tiểu thuyết của ông.
5. Đóng góp của luận văn
Nhà văn Cao Hành Kiện là một tên tuổi khá nổi tiếng, được bạn đọc
trong nước và thế giới biết đến. Vì vậy luận văn như là một đóng góp nhỏ bé,
như một viên gạch góp phần xây dựng thêm tên tuổi của nhà văn người Trung
Quốc này.
Đến với luận văn chúng tôi mong mỏi giúp cho người đọc dễ dàng tiếp
cận những tác phẩm của Cao Hành Kiện nếu như hiểu được quan niệm về
nghệ thuật của ông.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài hai phần dẫn nhập và kết luận, phần nội dung luận văn được chia
thành bốn phần
Chương 1 bàn về những vấn đề chung. Chương này gồm hai phần chính.
Phần giới thiệu tác giả Cao Hành Kiện và tiểu thuyết Linh Sơn và phần những
quan niệm văn chương của ông. Chương này mục đích là giới hạn phạm vi
nghiên cứu trong Linh Sơn chỉ dừng lại ở những quan niệm tiểu thuyết được
tác giả nhắc đến trong quyển tiểu thuyết này. Đồng thời qua chương một,
8
chúng tôi muốn cung cấp một số thông tin về cuộc đời tác giả và quyển tiểu
thuyết mà chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu.
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn. Chương
này gồm hai phần: những quan niệm về xây dựng cốt truyện và cách xây dựng
cốt truyện. Chương này nhằm giới hạn những vấn đề lý thuyết về cốt truyện
trong phạm vi tiểu thuyết Linh Sơn. Từ đó nổi bật lên sự vận dụng của những
lý thuyết ấy vào trong tiểu thuyết.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Linh Sơn. Chương này
gồm hai phần chính: những quan niệm về cách xây dựng nhân vật trong Linh
Sơn và phần xây dựng nhân vật phân mảnh trong Linh Sơn. Chương này mục
đích nêu lên được một số vấn đề lý thuyết về quan niệm xây dựng nhân vật
của Cao và đồng thời cũng làm nổi bật lên được sự vận dụng khéo léo của
Cao những quan niệm của mình vào trong tiểu thuyết
Chương 4: Chương này bao gồm có hai phần chính phần lý thuyết và
phần ứng dụng về cách xây dựng không gian trong Linh Sơn. Giúp cho chúng
ta thấy rằng không gian trong Linh Sơn là sự đan xen giữa không gian thực và
không gian tưởng tượng.
9
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Linh Sơn và Tác giả Cao Hành Kiện
1.1.1. Tác giả Cao Hành Kiện
Cao Hành Kiện sinh năm 1940 tại Giang Tây, Trung Quốc. Ông là con
trai cả trong một gia đình có hai anh em. Bố là nhân viên nhà băng, mẹ là
diễn viên nghiệp dư. Mẹ ông đọc rất nhiều văn học phương Tây, từ Balzac,
Zola đến Steinbeck. Chính bà là người khuyến khích con trai đến với sân
khấu. Nhưng khi Cao 20 tuổi, mẹ ông trẫm mình xuống sông tự vẫn khi đang
sống trong một trại lao động. “Dù không hẳn là trí thức, bà vẫn phải đi cải
tạo như bao nhiêu người khác”, nhà văn nói. Nhớ lại thời kỳ mà con người
“không thể tự do bày tỏ những điều người ta nghĩ, ngay cả trong gia đình
mình”, nhà văn cho biết: “Tất cả những gì người ta nói lúc đó đều giả dối.
Mỗi người đều mang một cái mặt nạ. Qua văn chương, bạn sẽ tìm thấy cuộc
sống thực, đằng sau lớp vỏ của hư cấu, sự thật được hé lộ” [ 67].
Cao Hành Kiện sinh năm 1940, thời kỳ mà Trung Quốc đã bị xâm
chiếm của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Ông sinh ra trong hoàn cảnh chiến
tranh, lớn lên trải qua cuộc biến động của Cách mạng văn hóa, cuộc sống
không bình yên đã được nén lại trong những trang viết của ông. Bên cạnh đó,
trong một cuộc kiểm tra sức khỏe định kỳ ông bị chẩn đoán nhầm bệnh ung
thư phổi, căn bệnh mà đã giết chết cha của ông cách đây mười năm. Trong lúc
chờ đợi kết quả kiểm tra một lần nữa, ông đã tự tìm cho mình một thú vui là
tìm kiếm một cái nghĩa địa cũ ở một miền quê xa xôi, nơi mà không khí ít bị ô
nhiễm và trải qua thời gian để đọc sách. Mặc dù là tâm điểm của cuộc tấn
công trên diễn đàn văn học lúc bấy giờ, nhưng Cao Hành Kiện với thái độ
dửng dưng đã đặt cho mình vị trí của kẻ bên ngoài trong cuộc tranh giành ồn
ào trên văn đàn. Tấm chụp X-rays cuối cùng đã xác định rằng, tất cả những
10
phán đoán trước kia đều là sai, ông là một người hoàn toàn khỏe mạnh. Tuy
nhiên trong khoảng thời gian chờ đợi con người đến với cái chết, trong phút
giây sắp chạm trán với tử thần ấy đã cho ông một sự sắp xếp lại những sự việc
đã xảy ra trong cuộc đời. Nên với tác giả họ Cao, sự trì hoãn cái chết là một
sự tái sinh lần nữa, khiến ông quyết tâm viết một quyển tiểu thuyết. Khi
những suy nghĩ, những sợ hãi về cái chết sắp xảy ra đã tiêu tan thì một tin đồn
Cao sẽ đi Thanh Hải để cải tạo. Một vài người bạn của ông cũng đã được gửi
đến đó, nhưng chỉ một trong số mười người đi là có thể trở về. Điều này đã
khiến ông càng muốn rời khỏi Bắc Kinh hơn nữa.
Cao Hành Kiện là một nhà văn, nhà viết kịch và là một họa sĩ có tài.
Mặc dù cuộc đời là một nhà văn lưu vong nhưng ông vẫn cống hiến hết mình
cho sự nghiệp văn học. Dù ở bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào đi nữa, nhà hoạt
động nghệ thuật họ Cao vẫn chọn cho mình lối đi tiên phong, xây dựng những
nẻo đường nghệ thuật mới. Ông đạt được một số thành công trong lĩnh vực
kịch thực nghiệm và xây dựng một hình thức tiểu thuyết mới. Ma Jian (Mã
Kiến), nhà văn người Anh gốc Trung - tác giả cuốn Beijing Coma (Bắc Kinh
liệt vị) nhận định: “Cao Hành Kiện vừa là nhà cách tân ngôn ngữ, vừa là nhà
văn chân chính. Những tác phẩm của ông đã nhấn mạnh lần nữa tầm quan
trọng của cái tôi cá nhân trên cái tập thể. Ông là một trong những nhà văn
đầu tiên thời hậu Mao Trạch Đông biết hấp thu tinh hoa văn học và triết học
phương Tây để trộn lẫn với những giá trị cổ điển của Trung Quốc, tạo ra một
hình thức mới cho kịch và tiểu thuyết” [67].
1.1.2. Tiểu thuyết Linh Sơn
Cao Hành Kiện đạt giải Nobel văn chương năm 2000 với tiểu thuyết
Linh Sơn. Ông là người Trung Quốc đầu tiên đoạt giải NoBel. Trong thông
cáo ngày 12 tháng 10 năm 2000 Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã đánh giá về tác
phẩm Linh Sơn như sau “Giải văn chương Nobel năm 2000 tặng thưởng nhà
11
văn Hoa ngữ Cao Hành Kiện cho một trước tác có tầm cỡ thế giới, mang dấu
ấn đắng cay trong nhận thức và nét tinh tế của ngôn từ, mở ra nhiều nẻo
đường mới cho nghệ thuật tiểu thuyết và sân khấu Trung Quốc” [22, tr.647].
Cuốn sách nhỏ với nhan đề Khám phá kỹ năng viết tiểu thuyết hiện đại viết
năm 1981, đã đề cập đến những hướng tiếp cận khác nhau đối với tiểu thuyết
và những kỹ năng cần thiết để thực hiện. Cuốn sách đã gây tranh cãi về chủ
nghĩa hiện đại đối lập chủ nghĩa hiện thực Trung Quốc vào những năm 1980.
Và Linh sơn là quyển tiểu thuyết mà tác giả đã viết dựa trên những quan điểm
đó. Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết bán tự truyện của Cao Hành Kiện dựa
trên một chuyến đi năm tháng có thật dọc theo con sông Dương Tử, vùng nội
địa của miền Nam Trung Quốc từ tháng bảy đến tháng mười hai năm 1983.
Linh Sơn là quyển tiểu thuyết mà chủ đề và nội dung của nó là vết tích từ hai
cuộc chấn thương trải qua trong cuộc đời Cao Hành Kiện: sự khủng bố trong
thời kỳ Cách mạng văn hóa và việc chẩn đoán nhầm căn bệnh ung thư, những
điều khiến tác giả quyết tâm làm một chuyến đi dài để viết Linh Sơn. Bên
cạnh đó, Linh Sơn còn là một quyển sách xây dựng trên một nền tảng văn hóa
rộng lớn, nền văn hóa phương Nam Trung Quốc, dọc sông Dương Tử, nơi mà
những quy luật nghiêm ngặt của Khổng giáo đã mờ nhạt, thay vào đó là một
nền văn hóa dựa trên tư tưởng của Đạo giáo và Phật giáo như: những tập tục
thờ cúng dân gian thần bí, những lễ hội cùng những trò mê tín, những đền đài
và chùa chiền trong nghi lễ Phật giáo…Linh Sơn xứng đáng là một quyển từ
điển về nền tảng văn hóa của khu vực miền Nam Trung Quốc.
Bên cạnh thành công trong lĩnh vực miêu tả văn hóa, Linh Sơn còn là
cuộc hành trình của một con người đi tìm bản ngã của chính mình, bản ngã
của dân tộc. Linh Sơn xây dựng hình ảnh một con người hoài nghi với tất cả,
một căn bệnh của con người hiện đại, hoài nghi sự tồn tại của chính bản thân,
hoài nghi mối quan hệ giữa con người trong xã hội, giữa con người và môi
12
trường tự nhiên, giữa con người và lịch sử của nhân loại. Linh Sơn là hình ảnh
một con người cô độc, đi tìm lại cái hồn dân tộc, tìm lại bản ngã của chính
bản thân mình trên nền móng văn hóa đồ sộ của dân tộc Trung Hoa. Linh Sơn
mang đậm dấu ấn hậu hiện đại, với kiểu con người phân mảnh, hoài nghi
chính bản thân mình do hậu quả của nền kinh tế thị trường gây nên. Từng
nhân vật, từng chương của Linh Sơn luôn là những câu hỏi “Ta là gì? Ta cần
gì? Ta phải làm gì?”.
Bên cạnh thành công về mặt nội dung, Linh Sơn còn mang những nét
đặc sắc về nghệ thuật trong xây dựng nhân vật, cốt truyện. Linh Sơn từ bỏ
cách xây dựng theo kiểu truyền thống từ cốt truyện, đề tài, nhân vật. Tất cả
mọi thứ trong Linh Sơn, từ con người đến sự vật, đều phủ lên nó một làn
sương mù mờ ảo: không thấy không gian, không thấy thời gian, không thấy
mặt người và cũng chẳng nghe tiếng nói. Những điều này đã tạo cho Linh Sơn
một sắc thái tiểu thuyết riêng, không lẫn lộn dù là tiểu thuyết của phương
Đông hay phương Tây. Linh Sơn sử dụng “thủ pháp dòng ý thức” để đi sâu
vào nội tâm, khai thác từng ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn con người,
những suy nghĩ của họ về bản thân, về dân tộc, về ý nghĩa của con người cá
nhân trước cộng đồng, trước quá khứ và tương lai. “Thủ pháp dòng ý thức”
mang đậm bút pháp của chủ nghĩa hiện đại phương Tây, nhưng cái mục đích
mà nó hướng đến là một tâm hồn Trung Quốc, đậm chất Á Đông. Ngoài ra,
Linh Sơn là một tác phẩm kết cấu tổng hợp nhiều hình thái và thể loại sáng
tạo văn chương. Trong đó, hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư
cấu, triết lý, hoạt kê, hội thoại, đối thọai, độc thoại... quyện vào nhau như trái
núi mang nhiều vẻ hiện thực và kỳ bí tùy theo thời gian và thế ngắm.
Mặc dù chính quyền Trung Quốc phủ nhận Cao Hành Kiện là nhà văn
Trung Quốc theo nghĩa quốc tịch, nhưng chắc chắn Cao Hành Kiện là một
nhà văn và nhà viết kịch Trung Quốc, theo nghĩa ngôn ngữ, chứ không phải
13
quốc tịch. G.S. Nguyễn Lân Dũng lại “phong” cho ông rất nhiều phẩm chất
tốt đẹp: “ Cao Hành Kiện là một nhân tài. Ông là một nghệ sĩ đa năng...Ngòi
bút Cao Hành Kiện thâm thuý và khốc liệt, kiểu viết độc đáo và hầu như chưa
có tiền lệ...Nhiều tình tiết cho thấy tác giả am hiểu khá tường tận lịch sử,
phong tục tập quán, tâm lý của dân tộc Trung Hoa...Một năng lực sáng tạo
không thể phủ nhận, một tài năng và một tri thức không dễ gì có được...”.
Tiểu thuyết Linh Sơn của ông được Viện hàn lâm Thụy Điển đánh giá như
sau: “Tác phẩm tầm cỡ nhất của Cao Hành Kiện, tiểu thuyết Linh Sơn là một
trong những sáng tạo văn học hiếm hoi tự lấy mình làm tham chiếu chứ không
thể đem so sánh với một tác phẩm nào khác” [22, tr.647]. Linh Sơn được tác
giả bắt đầu cấu tứ từ mùa hè năm 1982, viết nó trong những năm 1983, năm
1984 và hoàn thành vào năm 1989 tại Paris, là một quyển tiểu thuyết chứa
đựng những giá trị sâu sắc về nội dung và những cách tân về hình thức. Giáo
sư Mabel Lee, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh đã nhận định:
“Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong”
[64].
1.2. Quan niệm văn chương của Cao Hành Kiện
Trong bài phát biểu của Cao Hành Kiện với nhan đề “Một hành trình
văn học”, phần đi tìm một hình thức tiểu thuyết mới cho văn học, nhà văn họ
Cao đã bày tỏ những quan tâm của mình về một hình thức tiểu thuyết mới.
Ông đã đặt ra cho mình những câu hỏi chung như “văn học là gì”, “cái gì sẽ
được truyền tải trong văn học” và những câu hỏi riêng về tiểu thuyết như
“tiểu thuyết là gì ?” và “hình thức tiểu thuyết là gì”. Điều đó có nghĩa, việc
tìm một hình thức tiểu thuyết mới là điều mà tác giả Cao Hành Kiện muốn
hướng đến trong tác phẩm của mình. Trong Kinh thánh của một người tác giả
bày tỏ mong muốn xây dựng một nền văn học mới, thay thế cho nền văn học
trì trệ phát triển của nước nhà “Thời đại mới, cuộc sống mới vì vậy phải có
14
văn học mới. Mặc dù không hiểu cuộc sống mới, văn học mới là như thế nào,
nhưng anh hình dung chắc chẳng giống với các bài dân ca mới “Đại nhảy
vọt” hay những tác phẩm người tốt việc tốt đăng trên báo chí tập san” [23,
tr.134]. Trong tiểu thuyết nổi tiếng của ông, Linh Sơn, nhà văn bày tỏ rõ ràng
quan điểm của mình trong việc xây dựng một hình thức tiểu thuyết mới
“những người loạng choạng sẽ loạng choạng và tiểu thuyết cách mạng của
văn học đả đảo mê tín với cách mạng mang tính tiểu thuyết, số mạng của tiểu
thuyết” [21, tr.404]. Là một tác gia đoạt giải Nobel, Cao Hành Kiện có nhiều
bài phát biểu trình bày những quan niệm của ông về một hình thức tiểu thuyết
mới như “Không có chủ nghĩa”, “Sự cần thiết của cô đơn”, “Kỹ thuật hiện
đại” và “Tính dân tộc”… Nhìn chung, những bài phát biểu của Cao Hành
Kiện là hướng đến một mục đích chung là sự tự do đối với người viết và
người đọc. Vì vậy, những quan niệm về tiểu thuyết của ông hầu hết đều trình
bày về sự tự do, đối với bản thân người sáng tác nói chung và bản thân ông
đặc biệt nói riêng. Tự do đối với người sáng tác điều cần thiết nhất là sự tự do
trong suy nghĩ và tự do trong cách diễn đạt. Tự do trong suy nghĩ theo tác giả
họ Cao đã từng phát biểu “bất kể về chính trị hay văn học, tôi không thuộc
phái nào hết, trong đó bao gồm cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đế quốc”
và nhà văn tự coi mình là “người đàn ông mảnh khảnh, luôn tìm cách thoát
khỏi sự kiềm tỏa của nhà chức trách để nói với thế giới bằng chất giọng của
chính mình” [67]. Với nhà văn việc sáng tác văn học trước tiên là vấn đề cá
nhân, quan điểm này đã được tác giả đề cập đến trong bài diễn từ Nobel “Lý
do của văn học” ông đã cho rằng “Văn học là vấn đề cá nhân: ở đây tôi muốn
nói văn học cũng chỉ có thể là tiếng nói của cá nhân, mà vốn xưa nay vẫn
thế” [22, tr.651]. Để tìm giá trị cho mỗi cá nhân vì thế trong tác phẩm của họ
Cao luôn vẽ nên hình ảnh một con người luôn luôn hoài nghi: hoài nghi về giá
trị của bản thân, hoài nghi về giá trị mỗi cá nhân trong xã hội, hoài nghi về
15
lịch sử nơi sáng tạo ra giá trị của dân tộc. Con người cá nhân để tìm thấy được
giá trị của bản thân mình nên họ phải soi chiếu mình trong mối quan hệ với
cộng đồng, với xã hội. Vì thế trong Kinh Thánh của một người, tác giả cũng
bày tỏ quan niệm của mình về giá trị bên trong của sự vật “tất cả mọi vật trên
thế gian này hoạt động trong đều rất bình thường, nhưng nếu xem xét kỹ càng
thì lại sâu sắc vô cùng” [23, tr.54]. Cao Hành Kiện là người đề cao sự tự do
trong cách diễn đạt và việc sử dụng bút pháp của các trào lưu văn học. Nhà
văn không câu nệ việc sử dụng bút pháp phương Tây trong những tác phẩm
của mình. Với ông việc học tập những thủ pháp lẫn nhau trong sáng tác như là
một sự trao đổi và học hỏi. Nhà văn không tự gán cho mình bất cứ tên gọi của
một trường phái hay chủ nghĩa nào nhất định, ông tự nhận mình là một cá
nhân “Không chủ nghĩa”. Trong bài phát biểu “Không có chủ nghĩa” tại hội
nghị 40 năm văn học Trung Quốc, Cao Hành Kiện đã thừa nhận rằng “Văn
học phương Tây, nhất là văn học hiện đại phương Tây có rất nhiều quan niệm
và phương pháp giúp tôi khám phá rất lớn, nhưng không nhận ra rằng lôi
thẳng về như thế là có thể dẫn tới những tác phẩm tốt. Do đó tôi càng xem
trọng tác phẩm, không nghĩ tới chuyện gán cho mình cái nhãn hiệu chủ
nghĩa” [22, tr.680]. Với ông, về kỹ thuật viết có thể học tập lẫn nhau, nhưng
cái tinh thần trong tác phẩm vẫn là một tinh thần Trung Hoa. Biến cái bút
pháp phương Tây ấy trở nên hợp với phong vị truyền thống của dân tộc mình.
Tác giả họ Cao không đặt cho mình bất cứ một trình tự nào trong cách diễn
đạt. Trong chương 58 của Linh Sơn, Cao đã bày tỏ quan niệm của mình về
tính không logic khi sử dụng ngôn ngữ “Anh chỉ muốn kể lại từ đầu bằng thứ
ngôn ngữ vượt quá nhân quả và logic. Thiên hạ kể nhiều chuyện chẳng ra đâu
vào đâu, anh cũng có thể như thế” [21, tr.313]. Trong chương 8 của Linh Sơn,
Cao Hành Kiện cũng đã bày tỏ rõ quan điểm của mình khi đoạn tuyệt với
logic, đoạn tuyệt với sự sắp xếp tình tiết cốt truyện, trình tự không gian và
16
thời gian theo một trình tự logic nhất định “Bản thân cuộc sống cũng chẳng
tuân theo một logich nào, thế mà tại sao người tôi lại cứ muốn suy diễn ý
nghĩa cuộc sống bằng logich? Hơn nữa, logich là cái gì? Tôi nghĩ có lẽ tôi
phải tách ra khỏi suy nghĩ bởi vì mọi đau khổ, buồn phiền của tôi bắt nguồn
từ đây” [21, tr.51]. Và tác giả mong muốn xây dựng một trình tự logic cho
riêng mình, đó là logic được tính bằng “cấu trúc trái tim” “Tôi đã lập cho
mình một kiểu trình tự, nói cách khác là một kiểu logic, một hệ nhân quả.
Những trình tự, logic, nhân quả trong thế giới hỗn độn này đều do con người
lập nên để khẳng định mình. Sao tôi không tạo ra một trình tự, logic, nhân
quả cho riêng mình nhỉ? Tôi có thể ẩn nấp trong đó sống yên ổn với lương
tâm tôi” [21, tr.283]. Điều đó có nghĩa quyển tiểu thuyết Linh Sơn của Cao là
một quyển tiểu thuyết viết cho cá nhân tác giả, viết để tìm sự tự do trong linh
hồn người cầm bút, chối từ một trình tự, một sự sắp đặt sẵn về bất cứ sự việc
hay một tư tưởng nào đó. Bên cạnh đó, Cao Hành Kiện lại có sự phân định rõ
ràng giữa văn học- lịch sử và triết học, điều này là một cách tân về một hình
thức mới so với hình thức tiểu thuyết cổ điển là văn học, sử, triết bất phân.
Như vậy, quan điểm tự do trong tác phẩm của Cao Hành Kiện là quan điểm
xuyên suốt, chi phối ngòi bút của ông. Giúp ông sáng tạo nên những tác phẩm
có nội dung phong phú, gắn bó cuộc đời thật, phản ánh tâm hồn ông. Với
Cao, viết văn chỉ là vì để thỏa niềm đam mê, không vì mục đích vụ lợi cá
nhân “Văn chương lạnh tất nhiên không tạo nên tin tức trên báo chí và chẳng
gây chú ý nơi công chúng. Nó hiện hữu chỉ vì con người tìm kiếm một sinh
hoạt thuần tuý tinh thần bên ngoài những ước muốn thoả mãn vật chất” [54].
Tự do trong cách suy nghĩ và tự do đối với đối tượng thưởng thức, vì vậy ông
đã trở nên miễn nhiễm với cái văn đàn ồn ào ngoài kia. Bên cạnh quyền tự do
đối với tác giả, Cao còn bày tỏ tinh thần tự do của mình đối với người đọc.
Đối với ông người đọc có quyền hiểu tác phẩm của tác giả theo nhiều chiều
17
hướng khác nhau, và ông cho rằng không nên gán ghép bất cứ một ý nghĩa bắt
buộc nào của tác phẩm đến người đọc: “Quan hệ giữa tác giả và độc giả luôn
luôn là một mối thống trị tinh thần xuyên qua những văn bản được viết; họ
không cần phải gặp nhau hay giao lưu xã hội. Nhà văn không chịu một trách
nhiệm nào đối với độc giả, và độc giả không cần phải khống chế nhà văn.
Chính độc giả chọn đọc hay không đọc một tác phẩm” [54].
Cao Hành Kiện quan niệm rằng văn học cũng là một cách bổ sung cho
lịch sử. Lịch sử theo tác giả chỉ là một loạt những quy luật phát triển, những
trào lưu mù lòa đến rồi lại đi, mà chẳng có một tiếng nói cá nhân trong ấy. Vì
vậy, nói về tiếng nói yếu ớt của cá nhân cũng là một cách bổ sung thêm cho
lịch sử “Những quy luật lớn lao của lịch sử khi không thể giãi bày loài người
được, thì con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của chính mình” [23,
tr.663]. Con người cá nhân để tìm thấy được giá trị của bản thân mình nên họ
phải soi chiếu mình trong mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội. Vì thế trong
Kinh Thánh của một người, tác giả cũng bày tỏ quan niệm của mình về giá trị
bên trong của sự vật “Tất cả mọi vật trên thế gian này hoạt động trông đều
rất bình thường, nhưng nếu xem xét kỹ càng thì lại sâu sắc vô cùng” [23,
tr.54].
Với tác giả họ Cao, văn học sẽ không bị gò bó bởi bất cứ quan niệm
chính trị hay bất cứ chính đảng nào. Nhà văn phê phán lối sáng tác bị ảnh
hưởng bởi quan niệm chính trị, dùng chính trị để gò bó tư tưởng sáng tác của
nhà văn, tước mất quyền tự do trong suy nghĩ cá nhân của nhà văn. Họ Cao đã
thừa nhận rằng văn chương của mình không nhằm để phục vụ chính trị, không
theo bất cứ tôn giáo và học thuyết nào, ông viết là chỉ vì bản thân, vì sự cô
đơn của bản thân mà thôi “Văn học một khi đã uốn thành tụng ca của quốc
gia, kì xí của dân tộc, miệng lưỡi của chính đảng, hoặc phát ngôn của một
giai cấp hoặc một tập đoàn, cho dù có thể vận dụng thủ đoạn tuyên truyền,
18
mở rộng thanh thế, rợp trời kín đất chi nữa, cái loại văn học đó cũng chôn vùi
mất bản tính, không thành văn học, mà biến thành công cụ của quyền lực
hoặc lợi ích” [22, tr.651]. Quay về đúng với tiếng nói bản thân mình, nhà văn
sẽ không biến mình thành công cụ của chính trị. Và nền văn học như thế với
ông là nền “Văn học lạnh”: “Văn chương lạnh là loại văn chương không bị
chi phối bởi độc giả hay chính trị. Nhà văn chỉ viết lại những hồi ức, những
kỷ niệm của bản thân mình. Nhà văn không cần nổi danh, không cần tham gia
vào một đoàn phái nào cả. Vì vậy nhà văn phải tự mưu sinh, vì viết văn chỉ là
hoạt động tinh thần, không mưu cầu danh vọng vật chất” [54]. Trong mười
năm của Cách mạng văn hóa, với Cao là một nỗi ám ảnh bởi vì đã đưa chính
trị vào văn học “Cách mạng văn học và văn học cách mạng đều cùng đưa văn
học với cá nhân vào chỗ chết”. Thời kỳ Cách mạng văn hóa, thời kỳ mười
năm đen tối của lịch sử Trung Quốc “Mười năm Cách Mạng Văn Hóa là một
thời kỳ bi thảm trong lịch sử nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, gây nên
hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa xã hội của đất nước” [29, tr.348], và những cá nhân muốn tồn tại
trong thời kỳ văn học này, muốn nói tiếng nói của mình, theo tác giả họ Cao
thì “trừ ra câm lặng chỉ còn cách đào thoát” [22, tr.652]. Với ông nhà văn
chỉ có trách nhiệm với ngôn ngữ của mình, với những gì mình viết, và với
quyết tâm chối bỏ ý thức hệ của người khác, của những gì mà chính trị đã bắt
ông phải tuân theo, ông đã chọn cho mình lối sống “Không cần chủ nghĩa”:
“Văn học một khi thoát li cái công lợi của hiện thực, mới thắng được cái tự
do trọn vẹn” [22, tr.681]. Ông đã chọn con đường lưu vong để bảo vệ tiếng
nói cá nhân của mình.
Vấn đề cô đơn trong mỗi cá nhân cũng được nhà văn trình bày trong
quan niệm về văn chương của mình. Viết văn đối với họ Cao chỉ là một cách
làm vơi bớt nỗi cô đơn của bản thân, nó là nhân tố giúp cho con người đạt
19
được khả năng nhận thức cao nhất “Và tư duy phản tỉnh chỉ có thể bắt đầu khi
con người ở trong cô đơn” [55]. Trong Kinh Thánh của một người, tác giả đã
một lần nữa nhắc lại giá trị của “cô đơn”: “Anh bảo cô đơn tĩnh mịch anh
chẳng hề sợ, chính vì thế mà không bị hủy diệt, ngược lại nỗi cô đơn, tĩnh
mịch nội tâm đã bảo vệ anh” [23, tr.109]. Ở Linh Sơn cũng vậy, trong bài
diễn từ về “Lý do của văn học”, tác giả họ Cao đã thừa nhận quyển tiểu thuyết
Linh Sơn của ông là viết để xua đi nỗi cô đơn trong lòng “Tôi viết nó thuần
chỉ vì muốn xua đi nỗi cô đơn trong lòng, viết cho riêng mình, chẳng hề mong
cầu có khả năng phát biểu” [21, tr.652]. Và trong chương 72 của Linh Sơn,
tác giả một lần nữa lại nhắc đến “Hắn vội nói những cái mác đó đều do các
hạ dán vào, hắn viết tiểu thuyết để thoát khỏi cô đơn, tìm lấy thú vui” [21,
tr.402]. Sáng tác văn chương với ông là vì thỏa niềm cô đơn “Người đọc và
người viết tự ý tham dự. Vì thế, văn chương không có nhiệm vụ gì đối với đám
đông hay xã hội; và những phán xét đạo đức hay luân lý bị gán ghép bởi đám
phê bình gia thích xía vào chuyện của người khác thì chẳng hề hấn gì đến nhà
văn” [54].
Quan niệm của ông về văn học là phải vì con người và cần sự trung
thực trong cách phản ánh cuộc sống. Ông thừa nhận trong các sáng tác của
mình là “Tôi viết về thực tế cuộc sống như nó đang diễn ra, không chỉ ở
Trung Quốc, mà còn ở nhiều nơi khác”, giá trị cá nhân con người trong tác
phẩm của Cao Hành Kiện là rất lớn “Con người với những vấn đề tồn tại cơ
bản của nó, bất kỳ ở đâu, là điều quan tâm chính của tôi. Điều này lớn hơn số
phận của một quốc gia, đất nước. Tôi cũng tin như nhiều người hiện nay rằng
các hệ thống đại tự sự đã thuộc về quá khứ” [23, tr.663]. Vì vậy, những tác
phẩm của Cao Hành Kiện đều phản ánh hiện thực cuộc sống, nhưng cuộc
sống mà tác giả họ Cao phản ánh không chỉ là bề mặt nổi của cuộc sống, mà
là cái sâu thẳm bên trong của nó “Và dù có là tưởng tượng hay hư cấu đi nữa
20
thì sự chân thật là phẩm chất gốc rễ không bứng đi được của văn học. Nhà
văn quay về địa vị chứng nhân, tìm ra cái chân thật, nghi ngờ sự thật đã được
ghi chép” [52], “Văn học sau khi cởi hết sự trói buộc của chủ nghĩa này hoặc
chủ nghĩa kia, còn phải quay về với cảnh ngộ khốn khổ của đời người, mà cái
cảnh khổ của đời người nào có thay đổi là bao, vẫn rành rành là chủ đề muôn
thuở của văn học” [52], cái nền tảng kinh nghiệm cuộc sống vẫn là nền tảng
vững chắc để ông phát triển. Nhà văn, với con người luôn hoài nghi về cuộc
sống, luôn đặt ra những câu hỏi về cuộc sống, nhìn cuộc sống không chỉ bằng
bề mặt của nó. Nhìn cuộc sống là như vậy, nhìn chính bản thân của mình cũng
như vậy, luôn hoài nghi đối với những diễn biến phức tạp trong tâm hồn mỗi
cá nhân. Với tác giả họ Cao “văn học là vì người sống, hơn nữa, là sự khẳng
định cái hiện tại đối với người sống”. Tính chân thực trong cuộc sống đối với
ông là gốc rễ của văn học. Vì vậy trong tiểu thuyết tính chân thực là điều mà
tác giả họ Cao đặt lên hàng đầu và ông đề xuất phải hướng đến việc đề cao
tính chân thực trong bản chất của nó, đúng với chiều sâu của nó. Điều này đã
được Cao đề xuất trong chương 2, những chương đầu của quyển tiểu thuyết
Linh Sơn “hiện thực cuộc sống này, hay nói cách khác bản chất cuộc sống
vốn dĩ thế này , không phải thế kia, còn tôi sở dĩ quay lưng với hiện thực cuộc
sống chính bởi vì tôi chỉ liệt kê một loạt hiện tượng trong cuộc sống và dĩ
nhiên chẳng thể nào phản ánh cuộc sống một cách chính xác, kết quả, tôi chỉ
bước vào ngã rẽ của hiện thực méo mó” [21, tr.16] và hiện thực đối với tác
giả họ Cao là “Hiện thực tồn tại trong kinh nghiệm mà phải là kinh nghiệm tự
thân cơ. Tuy nhiên dù là kinh nghiệm tự thân, qua lời kể bỗng chốc trở thành
câu chuyện” [21, tr.19]. Điều này cũng đã thể hiện một phần nào đó quan
niệm về cuộc sống và văn chương của tác giả, văn chương là phải đi liền với
hiện thực cuộc sống.
21
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố cấu thành nên tác phẩm văn học,
văn học sẽ không thể có được nếu như không có sự tồn tại của ngôn ngữ. Để
phản ánh hiện thực cuộc sống một cách khách quan và trung thực nhất, Cao
Hành Kiện chủ trương sử dụng ngôn ngữ chất phác để diễn tả bộ mặt cuộc
sống “Anh cần tìm một cách trần thuật đơn giản, những mong sử dụng ngôn
ngữ chất phác để miêu tả, trình diện bộ mặt cuộc sống nguyên bản nát bét, bị
ô nhiễm chính trị nặng nề nhưng cũng chẳng dễ dàng gì” [23, tr.176]. Bên
cạnh đó, ngôn ngữ còn là phương tiện truyền tải những thông tin, những cảm
xúc của tâm hồn. Vì vậy, Cao Hành Kiện trong những tác phẩm của mình từ
tiểu thuyết, truyện ngắn đến những vở kịch của ông, ông đều chú ý đến sự
cách tân ngôn ngữ, ông chủ trương mang cảm xúc của mình rót đầy ngôn ngữ,
dùng ngôn ngữ để diễn tả những cảm xúc của mình. Bởi vì với ông, ngôn ngữ
chính là sợi dây nối kết giữa con người và cuộc sống thực. Với ông văn học
không chỉ còn là chuyện của một quốc gia, không bị rào cản ngôn ngữ làm
mất đi giá trị của tác phẩm văn học “Tác phẩm văn học vượt trên ranh giới
quốc gia, thông qua phiên dịch lại vượt trên chủng loại ngôn ngữ, tiến đó
vượt qua những mặc định nào đó của tập quán xã hội và quan hệ giữa người
với người, vốn hình thành theo khu vực địa lý và lịch sử , để phơi bày sâu xa
cái nhân tính phổ quát đại đồng” [22, tr.654]. Ngôn ngữ với ông “Không chỉ
là sự truyền đạt ý nghĩa, mà còn để nghiêng tai lắng nghe và xác nhận chính
mình” [22, tr.661]. Ông muốn tìm cho mình một thứ ngôn ngữ có thể diễn tả
trọn vẹn những tâm tư, xúc cảm của con người, một ngôn ngữ có thể diễn tả
được cả những điều không thể nói ra được trong tâm hồn sâu kín của con
người. Ở cuối chương 58 tác giả có viết : “Một ngôn từ có thể diễn tả trọn vẹn
mọi đau khổ, buồn thương của cuộc đời, nỗi sợ hãi và niềm vui vẻ, cô đơn và
an ủi, phân vân và đợi chờ, hoài nghi và quyết đoán, yếu đuối và dũng cảm,
ghen tị và nuối tiếc, bình tĩnh và nôn nóng, tự tin, khoan dung và ngại ngùng ,
22
nhân từ và độc ác, bàng quan và yên bình, hèn hạ và thù hận, cao quý và
nhẫn tâm, tàn nhẫn và lương tâm, nhiệt tình và lãnh đạm, lạnh lùng, lì lợm,
dâm tà, hư vinh, tham lam, tôn trọng và khinh thường, tự phụ, hoài nghi,
khiêm tốn và kiêu ngạo, ngoan cường và phẫn nộ, ai oán và hổ thẹn, ngạc
nhiên, chán chường, bỗng nhiên tỉnh ngộ, tất cả đều không hiểu, đều không
thể làm sáng tỏ, đều cất bước lên đường vì tất cả những cái đó” [21, tr.314].
Những quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện đã đóng góp một
phần cho việc xây dựng đề tài tiểu thuyết. Từ việc lấy đề tài xuất phát từ thực
tế cuộc sống, đến việc tự do trong sáng tạo ngôn ngữ tiểu thuyết và xây dựng
một hình thức tiểu thuyết mới về cốt truyện nhân vật. Với tác giả họ Cao tiểu
thuyết “giống như một nắm bột có thể vắt theo đủ mọi hình thù, tiểu thuyết là
uyển chuyển và bao gộp được các hình thức thay đổi cho nhà văn khai thác”
[22, tr.672]. Và ông tin rằng, quan điểm về văn học của ông sẽ đóng góp một
phần cho những định hướng về việc xây dựng một nền văn học thực thụ “Tôi
cũng tin rằng nếu một giống nòi không thể dung chứa thứ văn chương phi
thực dụng này, thì đó không chỉ là một sự bất hạnh cho nhà văn mà còn là
một biểu thị của sự nghèo nàn tận đáy về tinh thần của giống nòi ấy” [54].
Cao Hành Kiện được coi là một tác giả “trung dung nhất thời này”.
23
Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN
TRONG LINH SƠN
2.1. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn của
Cao Hành Kiện
Theo Từ điển văn học “Cốt truyện là thuật ngữ chỉ sự phát triển của
hành động, của tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và
kịch” [20, tr.324]. Cốt truyện tạo ra một trường hành động cho các nhân vật
và cho phép tác giả thể hiện và lý giải tính cách của chúng. Điều đó có nghĩa
hành động của nhân vật chính là điều dệt nên cốt truyện. Tuy nhiên, Linh Sơn
là một tác phẩm ngoại lệ, nó phá vỡ kiểu kết cấu của cốt truyện truyền thống.
Nó xây dựng một cốt truyện không dựa vào hành động của nhân vật, mà cấu
trúc gốc của cốt truyện trong Linh Sơn là “bằng trái tim con người”. Về cốt
truyện trong Linh Sơn, trong phát biểu “Một hành trình văn học”, Cao Hành
Kiện đã thừa nhận rằng tiểu thuyết Linh Sơn không theo một kiểu cốt truyện
thông thường: “Cuốn sách không theo đường dây cốt truyện, mà dựa vào thế
giới bên trong của tác giả. Thay vì cốt truyện và tình tiết, trái tim tôi là cấu
trúc gốc của nó. Điều này giải thích vì sao nó thực sự không nằm vừa bất kỳ
phạm trù nào với tư cách là tiểu thuyết” [22, tr.670]. Vấn đề xây dựng cốt
truyện còn được nhắc lại ở nhiều trang viết trong Linh Sơn. Đặc biệt là trong
chương 72, chương bộc lộ quan điểm xây dựng cốt truyện rõ ràng nhất. Trong
cuộc đối thoại tưởng tượng giữa nhà phê bình và nhân vật “hắn”, quan niệm
về cốt truyện đã được xây dựng. Theo quan niệm của nhân vật “hắn” - cũng
chính là quan niệm của tác giả, muốn xây dựng một cốt truyện khác với cách
xây dựng cốt truyện truyền thống. Nhà phê bình văn học, nhân vật tưởng
tượng trong cuộc nói chuyện với “hắn”, người đại diện cho một lối hình thức
cũ trong tiểu thuyết, đã đưa ra một số quan điểm về cách xây dựng cốt truyện
24
trong tiểu thuyết cũ là một cốt truyện truyền thống phải có đầy đủ ba phần là
mở đầu, cao trào và kết luận “Trước hết phải có mở đầu, sau đó phát triển ra,
có cao trào, có kết thúc. Ít nhất một cuốn tiểu thuyết phải có những điều cơ
bản đó” [21, tr.401]. Nhưng nhân vật “hắn”, người đại diện cho quan niệm
của tác giả lại không đồng tình với ý kiến đó. “Hắn” đã đề nghị đến một cách
xây dựng cốt truyện khác “Hắn hỏi liệu có còn cách viết khác? Giống như
một câu chuyện, có cái kể từ đầu đến cuối, có cái lộn từ cuối lên đầu, có cái
có đầu nhưng không kết, một số khác chỉ có kết thúc hoặc một phần không kể
tiếp, có cái kể không hết, một số kể cũng được mà không kể cũng chẳng sao,
chẳng có gì hay đáng kể. Tất cả những thứ đó đều là chuyện” [21, tr.401].
Tiếp theo đó, khi nhà phê bình phê phán “hắn”: “Ở phương Đông càng không
có người tồi tệ như anh! Gộp các chuyện du lịch, chuyện nghe hơi nồi chõ,
cảm tưởng, bút ký, tiểu phẩm, các bài nghị luận mang hơi hướng lý thuyết,
ngụ ngôn không ra ngụ ngôn, những bài dân ca, ca dao ghi chép được, thêm
vào một chút chuyện ma quái thần thoại xào xáo lên cái gọi là tiểu thuyết”
[21, tr.402]. “Hắn” nói “những quyển như địa phương chí Chiến Quốc,
những hồi ức về người và việc xuất sắc của đời lưỡng Hán, đời Ngụy Tấn,
Nam Bắc triều, truyền kỳ của đời Đường, truyện truyền miệng đời Tống, đời
Nguyên, những bút ký và tiểu thuyết chương hồi đời Minh, Thanh. Từ trước
đến nay, tất cả những thứ đó được nhắc đến khắp nơi, trở thành ngôn ngữ
đường phố, chúng được ghi chép lẫn lộn mà ai có đặt tiêu chuẩn nào cho
chúng đâu” [21, tr.402]. Như vậy, theo quan điểm của “hắn” cốt truyện trong
tiểu thuyết hiện đại không theo một trình tự nào nhất định, có hoặc không đấy
đủ ba yếu tố làm nên một cốt truyện cao trào, phát triển và kết thúc. Cốt
truyện theo quan điểm của “hắn” đã bị mờ hóa, mất đi một vài đặc điểm nào
của cốt truyện truyền thống. Bên cạnh đó, cốt truyện trong tiểu thuyết hiện đại
theo quan điểm hiện đại của “hắn” là sự tập hợp lại những câu chuyện tản
25
mát lại với nhau. Tuy nhiên sự tản mát này là có một mục đích nhất định của
tác giả. Trong Linh Sơn, những mảnh ghép đó được ghép lại với nhau trên
một nền tảng văn hóa rộng lớn để tạo nên những gì thuộc giá trị của truyền
thống Trung Hoa. Như vậy, dựa theo những quan niệm về nghệ thuật xây
dựng cốt truyện trong Linh Sơn theo quan niệm “hắn”- người đại diện cho
những cách tân trong tiểu thuyết hiện đại, chúng tôi tiếp xúc đến nghệ thuật
xây dựng cốt truyện ở ba cách xây dựng: cốt truyện mờ hóa, cốt truyện kết
cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi, cốt truyện siêu tiểu thuyết
2.2. Cách xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn
2.2.1. Cốt truyện mờ hóa
Cốt truyện mờ hóa là loại cốt truyện bị khiếm khuyết, hay bị lược bỏ đi
một trong những thành phần chính để hình thành nên cốt truyện như mở đầu,
phát triển, cao trào và kết thúc. Trong Linh Sơn, chúng ta thấy rằng có một số
câu chuyện, mà trong đó phần kết thúc không được nhắc đến đó là trong
những chương chứa nhân vật “tôi” như chương 18, chương 10. Ở chương 10,
chúng ta thấy rằng, cốt truyện ở đây là kể lại chuyến tham quan của nhân vật
“tôi” với người dẫn đường trong khu rừng nguyên sinh và nhân vật “tôi” đã
lạc mất người dẫn đường của mình. Câu chuyện được giới thiệu, phát triển
tình tiết, và cao trào là nhân vật chính bị thất lạc. Nhưng hầu hết người đọc
không thấy được phần kết thúc. Chúng ta chẳng biết cuối cùng nhân vật chính
có thoát khỏi khu rừng nguyên sinh đó hay không. Cốt truyện ở đây đã được
mờ hóa phần kết thúc, đưa người đọc vào trạng thái hoang mang cực độ để
tìm ra phương án giải cứu cho nhân vật chính. Vào cuối chương 10, người
đọc chỉ nhận được một hàng chữ để lại của tác giả “Giờ đây tôi giống như một
con cá mắc vào lưới bị một cái xiên cá to lớn đâm thủng, cứ giãy giụa mãi mà
không thể thay đổi được số phận của mình, trừ phi xuất hiện phép màu.
Nhưng cả cuộc đời tôi, chẳng phải cũng đang chờ đợi một phép màu thế này
26
hay thế khác đó sao” [21, tr.64].
Kiểu mờ hóa phần kết thúc cốt truyện được tác giả sử dụng lại trong
chương 18, một lần nữa nhân vật chính “tôi” không tìm được lối ra khi mắc
kẹt trong bùn trong chuyến viếng thăm bờ hồ Thảo. Câu chuyện được kể lại
và lên đến đỉnh điểm, rồi lại không có phần kết thúc làm cho người đọc không
biết được phần kết thúc của nó. Khi nhân vật bị mắc kẹt trong khu rừng
nguyên sinh, hay vùng đầm lầy và không tìm được lối ra…, mọi tình tiết dẫn
đến sự giải thoát đều bị tước bỏ. Trong chương 18, người kể chuyện “tôi”
nhận ra rằng kính viễn vọng của trạm quan sát không thể thấy rõ được anh ta,
mặt hồ thì vắng vẻ và thời gian là vào buổi chiều tối, không có một bóng
người, trời lạnh và bùn ngày càng ngập, chân không rút ra được, tê cứng. Như
vậy, chúng ta sẽ không thể tìm ra nguyên nhân cho việc giải cứu người kể
chuyện. Cũng tương tự như vậy trong chương 10, khi nhân vật chính bị mắc
kẹt trong khu vực trắc địa hàng không 12M ở độ cao hơn ba nghìn mét. Trên
người nhân vật chính không có bản đồ trắc địa, xung quanh là sương mù bao
phủ không tìm được lối ra và âm thanh cũng bị lạc mất. Tuy nhiên trong hai
tình huống xảy ra trong chương 10 và chương 18 chúng ta nhận thấy thái độ
và cách giải quyết vấn đề của nhân vật chính. Lúc đầu anh ta có hoảng hốt
“Mạch máu thái dương đập mạnh, tôi hiểu ra rằng tự nhiên đã chơi tôi một
vố, chơi khăm kẻ không có tín ngưỡng, không biết sợ hãi gì như tôi” [21,
tr.63], nhưng sau đó anh ta với thái độ bình tĩnh nhất để suy ngẫm về triết học
cuộc đời, anh ta phát hiện ra điều mà anh ta tìm kiếm chính là sự yên tĩnh
vắng vẻ không bóng người như vậy “không có tiếng dế rúc, cũng chẳng có
tiếng ếch nhái kêu. Chắc đây là cái tĩnh mịch nguyên thủy đã mất hết ý nghĩa
mà tôi đang tìm kiếm chăng” [21, tr.108]. Cách kết thúc cốt truyện không có
kết quả, nhân vật chính rơi vào tình huống khó khăn bất ngờ và không đưa ra
được cách giải quyết, không có bất cứ thông tin nào cho độc giả về phương án
27
giải quyết. Ý định của người kể chuyện trong cách xây dựng tình huống này
là cuộc đời này luôn có những chuyện đặt chúng ta trong những tình huống
khó xử, những khó khăn buộc ta phải giải quyết một cách khẩn cấp, con
người đôi khi rơi vào nỗi tuyệt vọng, nhưng trong lúc đó con người cần phải
tìm lại giá trị của chính bản thân mình, cần phải bình tâm lại và suy nghĩ về
những vấn đề đã qua. Cuộc sống này luôn có những khó khăn nhưng bên cạnh
đó sẽ có những điều giúp chúng ta giải quyết khó khăn. Khó khăn và hướng
giải quyết nó luôn tồn tại song song, khi một khó khăn đến, sẽ có phương
pháp giải quyết đến cùng. Vấn đề là chúng ta không được làm lạc mất chính
bản thân mình. Đây là cách xây dựng cốt truyện theo ý nghĩa bài học cuộc
sống. Cuộc sống không theo một mặt phẳng trật tự nào cả, mà các tình tiết
xảy ra xung quanh nó một cách rối rắm, không theo logic.
Cốt truyện mờ hóa còn được thể hiện ở phương diện tác giả không miêu
tả rõ nội dung của cốt truyện. Cách xây dựng cốt truyện này được sử dụng
trong những chương người kể chuyện đi tìm lại những ký ức của mình như
chương 37 và chương 54. Trong những chương ấy, người kể chuyện như một
người lang thang không mục đích, bắt gặp hình ảnh hồi ức tuổi thơ mình
trong những nơi mà anh ta đi qua. Ở những chương ấy, người kể chuyện với
giọng điệu trầm buồn, mang trong mình một nỗi thất vọng về những ký ức đã
bị đánh mất cùng một nỗi hụt hẫng không tìm thấy được lần nữa “Anh đã trở
lại những nơi xưa ấy nhưng chẳng tìm thấy chút gì nữa. Không bãi ngói vụn,
không căn gác nhỏ, chẳng có cánh cửa to đen sì dày nặng có cái vòng sắt,
ngay cả con ngõ nhỏ yên tĩnh trước cửa cũng tìm không thấy chứ đừng nói
bức tường chắn có tạc đôi kỳ lân đá” [21, tr.293].
Cốt truyện trong Linh Sơn còn được kể theo nhiều cách. Trong chương
25, câu chuyện được bắt đầu với hai cái cột đá và một bình nguyên ruộng bậc
thang rộng bao la. Câu chuyện được kể về nơi địa lí ấy theo nhiều cách kể
28
khác nhau. Câu chuyện đầu tiên là câu chuyện về một vị đại thần làm quan
chức Thượng thư bộ hình. Hoàng thượng do tin lời xàm tấu nên đã giết chết
toàn bộ gia đình ông ta. Nhân vật “anh” nhận thấy rằng câu chuyện đó còn có
thể kể theo cách khác “anh cũng có thể kể theo cốt truyện này” [21, tr.135],
và câu chuyện đó còn được kể theo nhiều cách kể thành những câu chuyện
khác nhau về nơi chôn vị vương công đại thần phò tá Chu Nguyên Chương,
nơi có một gia đình nhà nho làng quê. Như vậy bắt đầu câu chuyện với hai cái
cột đá và từ đó có nhiều cách kể khác nhau cho một câu chuyện. Tuy nhiên
chúng ta nhận thấy rằng những câu chuyện được kể đều bằng giọng giễu cợt
thâm thuý. Khi kể về câu chuyện tuy là hai cách kể khác nhau nhưng chúng ta
đều nhận thấy những điều không thật của lịch sử về một vị vua nổi tiếng lỗi
lạc nhưng lại rất tàn nhẫn với người đã giúp đỡ mình gìn giữ ngôi báu. Điều
đó như một sự vong ân bội nghĩa của con người. Qua câu chuyện vị đại thần
đó chúng ta lại có những cách cảm nhận khác nhau về lịch sử “Câu chuyện
này cũng có thể có một cách kể khác rất xa với những gì ghi chép trong các
sách lịch sử nhưng gần kể với tiểu thuyết bút ký” [21, tr.136]. Câu chuyện thứ
hai được kể cũng từ hai cái cột đá là về một nhà Nho suốt đời thi cử lận đận.
Cuối cùng được một lời khen của Thánh thượng khi ngài đang mê mải trong
nữ sắc. Lời khen đó lại trở thành báu vật đối với nhà Nho này. Một câu
chuyện khác để minh chứng cho sự hoài nghi về sự không thật của lịch sử khi
nhân vật “tôi” hoài nghi vị vua có công trị thủy của người dân Trung Hoa là
Đại Vũ “công lao trị thủy của ông là nạo vét sông Hoàng Hà, nhưng tôi hoài
nghi lắm” [ 21, tr.399]. Đại Vũ là một ông vua hiền minh trong lịch sử của
Trung Hoa, nhưng dưới ngòi bút “nghi ngờ” của Cao, ông đã nghi ngờ luôn
cả sự nhân từ của Đại Vũ. Hoài nghi lịch sử, hoài nghi với những gì dân gian
đã nói, Cao là một con người hiện đại với bản tính đa nghi, một bản tính rất
đặc trưng của con người hiện đại. Luôn luôn luôn hoài nghi với những gì diễn
29
ra xung quanh họ. Những câu chuyện kể trên đều nói về sự tàn ác trong lịch
sử. Và tất cả lịch sử cuối cùng đều biến mất chỉ còn lại một tấm bảng với
hàng khẩu hiệu “Vi cách mạng chủng điền, đại công nhi vô tư” [21, tr.138],
cùng với sự thờ ơ của thế hệ sau với lịch sử của tổ tiên “bây giờ người ta càng
lao động thì càng giàu. Chẳng còn ai hiểu được chữ trên đền thờ nữa. Vả lại
con cháu của nhà này đều đã giàu có nhờ buôn bán, làm gì có lúc nhàn rỗi để
chữa lại chúng chứ” [21, tr.138]. Tác giả, với tinh thần hoài nghi lịch sử, hoài
nghi với chính những gì mà lịch sử đã để lại đã tạo ra nhiều cách kể khác
nhau cho một câu chuyện lịch sử. Tinh thần hoài nghi ấy còn được bộc lộ qua
những câu chuyện giữa những người trong cuộc nói chuyện với nhau, lòng tin
giữa người với người không còn tồn tại nữa “Anh nói nàng nhất định không
phải là y tá, trên đường đi nàng toàn kể những chuyện dối trá, những điều
nàng nói cũng không phải là bạn của nàng mà chính là nàng, những sự việc
chính nàng trải qua. Nàng đáp lại anh cũng chẳng hơn gì nàng” [21, tr.180].
Bên cạnh cốt truyện mờ hóa kết thúc, cốt truyện được kể theo nhiều cách
khác nhau, cốt truyện được hiểu theo nhiều cách khác nhau nếu thay đổi phần
kết thúc cũng được, chẳng hạn chương 48. Chương 48 kể về một nữ Ni đời
Tấn đến nhà quan Tư Mã để hóa giải tai nạn cho vị quan này. Chuyện được
hiểu theo nhiều cách khác nhau, nó có thể là một bài học về đạo đức, một bài
học về Phật giáo, một bài học về triết học xử thế “Anh bảo nếu thay đổi phần
kết của câu chuyện, thì có thể biến thành bài thuyết giáo đạo đức, nhắc nhở
con người không được tham lam háo sắc. Câu chuyện này còn có thể là bài
học tôn giáo thúc đẩy con người đi theo đạo Phật. Nó còn có thể là bài triết
học xử thế, dạy con người thường xuyên tự vấn lương tâm hoặc chỉ ra nỗi đau
khổ của con người, mọi đau khổ ấy xuất phát từ chính ta, từ đó có thể suy ra
rất nhiều học thuyết tinh vi sâu sắc. Tất cả tùy thuộc vào các giải thích cuối
cùng mà người kể đưa ra” [21, tr.257]. Lối kể chuyện thay đổi kết thúc khác
30
nhau còn được tác giả sử dụng trong chương 61 khi nhân vật “tôi” trong cuộc
trò chuyện với anh bạn cùng lớp kể về câu chuyện người rừng. Tuy nhiên,
đằng sau kết thúc cho câu chuyện ấy là một sự thật về tội ác của con người
“đó cũng là cái hay trong câu chuyện người rừng của cậu. Nghe thì có vẻ vui
nhưng thực ra con người cực kỳ tàn nhẫn” [21, tr.347].
Như vậy, cốt truyện mờ hóa giúp cho người đọc có khả năng tư duy khi
luôn đặt những câu hỏi nghi vấn về những gì xảy ra xung quanh họ, khi người
đọc phải suy nghĩ và tìm ra phương pháp giải quyết tình huống cho câu
chuyện. Nó tạo nên lôi cuốn cho người đọc hiện đại.
2.2.2. Cốt truyện kết cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi
Cốt truyện kết cấu kép là sự tồn tại hai cốt truyện trong cùng một quyển
tiểu thuyết. Tuy nhiên, khác với kết cấu song song, cốt truyện kết cấu kép có
một trung tâm làm gốc cho toàn bộ câu chuyện. Nếu như kết cấu song song
hai cốt truyện đi cùng nhau và không có điểm gặp gỡ thì cốt truyện kết cấu
kép sẽ gặp nhau tại một điểm chung. Điều đó ta dễ dàng nhật thấy được trong
Linh Sơn khi cốt truyện được xây dựng theo hành động của nhân vật. Ở Linh
Sơn, cuộc hành trình vật lý được xây dựng theo hành động bên ngoài của
nhân vật và hành trình tâm linh xây dựng dựa vào hoạt động tinh thần của
nhân vật. Tuy nhiên dù là hoạt động tinh thần hay hoạt động bên ngoài thì nó
đều xuất phát từ một điểm chung duy nhất là từ bản ngã của một con người
phân tách ra. Nó là hai hoạt động vật lý và tinh thần của con người, giữa
những gì anh ta thấy và sự tư duy lại những điều anh ta nhận thức.
Cốt truyện trong Linh Sơn được xây dựng theo lối kết cấu kép giữa cuộc
hành trình vật lý và cuộc hành trình tâm linh của nhân vật chính và bản ngã
của anh ấy “khi anh tìm đường đến Linh Sơn thì tôi đang thong thả du lãm
dọc sông Trường Giang, chính là để dõi tìm cái điều chân thực ấy” [21,
tr.15]. Một trong những cốt truyện trong cấu trúc kép đó là một câu chuyện
31
được kể dựa theo chuyến đi có thật dọc sông Dương Tử của chính bản thân
tác giả. Chuyến đi của nhân vật còn lại là chuyến đi khám phá vào nội tâm sâu
sắc của con người như đã phân tích ở trên. Kết cấu cốt truyện kép là sự kết
hợp giữa những kinh nghiệm của tác giả với ảo giác, cùng những hồi ức mà
anh ấy đã trải qua trong quá khứ. Hiện thực và quá khứ đan xen vào nhau, tạo
nên một cuộc hành trình mang đậm màu sắc tâm linh. Để lý giải cho việc sử
dụng kinh nghiệm bản thân làm nên câu chuyện văn học, tác giả có viết “hiện
thực tồn tại trong kinh nghiệm, mà phải là kinh nghiệm tự thân cơ. Tuy nhiên,
dù là kinh nghiệm tự thân hễ qua lời kể bỗng chốc biến thành câu chuyện”
[21, tr.19]. Nhà văn sử dụng chất liệu từ chính cuộc sống mình, từ những gì
mà ông đã trải qua xây dựng nên tình tiết để kể thành những câu chuyện. Vì
vậy, người đọc cũng là người bạn song hành cùng tác giả trong cuộc hành
trình vật lý. Bên cạnh đó khám phá cùng anh những điều anh thấy trên con
đường của mình bằng con mắt lạ lẫm, hiếu kỳ của trẻ thơ khi tiếp xúc với con
người, thiên nhiên, và lịch sử khi nhìn những dòng chữ viết về lịch sử như
hình con nòng nọc “Bây giờ trong lăng mộ Đại Vũ chẳng còn di tích cổ, chỉ
còn một tấm bia đối diện với đại diện viết văn tự hình con nòng nọc mà chưa
chuyên gia, học giả nào có thể đọc nổi” [21, tr.400] hoặc “Truyền thuyết nói
rằng chính Đại Vũ từng trị thủy ở nơi đây trên bờ sông hiện vẫn còn một tảng
đá tròn chạm khắc, người ta lờ mờ đọc được trên đó mười bảy chữ cổ hình
con nòng nọc” [21, tr.43]. Sử dụng góc nhìn trẻ thơ giúp cho tác giả giữ được
thái độ nhìn nhận khách quan với những sự việc diễn ra xung quanh nó.
Nơi bắt đầu trong cuộc hành trình vật lý của tác giả là nằm ở chương hai
ở cao nguyên Thanh Tạng và vùng đồng bằng Tứ Xuyên, vùng dân tộc
Khương. Tiếp đó người dẫn chuyện xưng “tôi” của chúng ta sẽ dẫn chúng ta
đến với cuộc sống của những dân tộc ít người ở trung và thượng lưu của con
sông Dương Tử, đi tất cả các con đường từ bờ biển phía Đông Nam sau đó lên
32
phía Bắc. Trong cuộc hành trình này, người kể chuyện nêu lên mối quan hệ
giữa con người và thiên nhiên, giữa cá nhân và tập thể. Nếu người đọc theo
sát tác giả, tức người kể chuyện xưng “tôi”, nhân vật chính trong vai người
dẫn đường cho cuộc hành trình, người đọc có thể vẽ được tuyến đường trên
bản đồ đương đại Trung Quốc.
Cũng trong cuốn tiểu thuyết này còn tồn tại cuộc hành trình của kẻ theo
đuổi mục tiêu đến Linh Sơn, được chỉ ra từ chương 2 “Anh đã tin có một
đường đi vẽ nguệch ngoạc trên bao thuốc lá để trong túi áo, tin vào kẻ đồng
hành gặp nhau ngẫu nhiên trên xe lửa huống hồ hắn chỉ nghe nói phong
phanh, làm thế nào chứng minh hắn nói thật. Anh chưa từng trông thấy một
ghi chép xác thực, ngay cả tập sách lớn nói về các địa điểm du lịch mới in
gần đây cũng chẳng có đề mục của cái tên này” [21, tr.9]. Cấu trúc cốt truyện
kép giúp người đọc đi cùng tác giả được cả trong thực tế và cả trong tưởng
tượng trong cùng một cuốn tiểu thuyết. Tuy nhiên, cuộc hành trình thực tế
được che phủ bởi tâm lý của con người đang tìm đường đến Linh Sơn. Trong
cuộc hành trình vào nội tâm, nội tâm của người kể chuyện trở thành yếu tố
chính cho phát triển cốt truyện, chủ yếu là dựa vào tiếng nói khác nhau của
những đại từ, đại diện cho những khía cạnh khác nhau của tác giả trong cùng
một bản ngã. Cuốn tiểu thuyết được chia làm 81 chương, như 81 tập phim dài
được xây dựng bằng cấu trúc kép, chồng chéo đan xen lẫn nhau đưa người
đọc đến một mục tiêu cuối cùng là tìm ra được những bản ngã của mình để
hoàn thiện mình hơn. Trong cuộc hành trình tâm linh của mình, “anh” và
“nàng” đã cùng sáng tạo ra những câu chuyện huyền bí quanh Linh Sơn. Điều
đó có nghĩa là hai nhân vật chính “anh” và “nàng” là hai người góp phần xây
dựng nên cốt truyện trên con đường đi vào nội tâm của con người “nàng nói
nàng không biết thêm thắt để tạo ra câu chuyện huyền bí hơn như anh, hơn
nữa anh kể nhiều rồi, còn nàng chẳng qua là mới bắt đầu” [21, tr.162 ].
33
Trong cốt truyện của hành trình tâm linh, cuộc đối thoại giữa nhân vật “anh”
và “cái bóng”của anh ấy kéo dài đằng đẵng. Thông qua những cuộc đối thoại
như thế những câu chuyện dần dần đã được hình thành “Anh nói tất nhiên rồi,
có chuyện của đàn ông, những câu chuyện đàn ông kể cho đàn bà và những
chuyện của đàn ông mà đàn bà thích nghe. Anh hỏi nàng muốn nghe loại
chuyện nào” [21, tr.168], “Anh nói chuyện của anh đã kể xong rồi, trút hết
bao nhiêu sự thô tục và xấu xa hệt như nọc độc của rắn Kỳ xà vậy. Tốt hơn
hết là anh hãy nghe những chuyện của đàn bà hoặc giả nói những chuyện mà
đàn bà kể cho đàn ông nghe” [21, tr.167]. Trong Linh Sơn chúng ta có thể dễ
dàng nhận ra trong cuộc hành trình tâm linh, trong khi cốt truyện của nhân vật
“anh” kể hầu hết là những chuyện kể về những huyền thoại xung quanh Linh
Sơn “Anh hối hận vì mình đã không đủ dũng khí đi theo nàng, nói những câu
mời mọc lãng mạn, những tư tưởng hão huyền mà thiếu chúng thì không thể
trở thành một câu chuyện tình được” [21, tr.42]. Nhưng những câu chuyện
của “nàng” thì lại khác, những câu chuyện mà “nàng” kể hầu hết là về cuộc
sống thực của nàng “nàng bảo những gì cần có nàng đều có hết rồi, có
chồng, có con trai, một gia đình nhỏ hạnh phúc dưới mắt người khác”
[21,tr.209]. Vì vậy, con đường đi vào thế giới tâm linh của Linh Sơn có sự
đan xen lẫn nhau giữa những huyền thoại và những sự thực đã được hư cấu
“Nàng bảo nàng không biết kể chuyện, không như anh có thể cả những
chuyện tầm phào. Điều nàng muốn là sự thực, một sự thực không giấu giếm.
Sự thực của đàn bà” [21, tr.167].
Trong Linh Sơn, hai thủ pháp chính được sử dụng là đối thoại và dòng ý
thức. Phương pháp đối thoại được sử dụng rộng rãi trong những chương của
tiểu thuyết chủ yếu là những cuộc đối thoại giữa “anh” và “nàng”, “anh” và
“hắn”, “tôi” và “hắn”. Những cuộc đối thoại cung cấp cho chúng ta những
thông tin về cuộc sống, người kể chuyện cảm thấy hoàn thiện hơn sau nhưng
34
cuộc nói chuyện. Có nhiều cuộc đối thoại dài đằng đẵng chứa đầy mâu thuẫn
giữa“anh” và “nàng” ở chương 50, chương 60... Bên cạnh đó cũng có những
cuộc đối thoại ngắn, gặp nhau một cách tình cờ giữa “anh” và “hắn” trong
chương 1 “Tình cờ trên xe lửa anh đã nghe thấy một người nào đó nói đến
một nơi gọi là Linh Sơn. Người đó ngồi đối diện anh, tách trà của anh đặt sát
cốc nước của anh ta” [21, tr.6], giữa “tôi” và “hắn”, giữa “tôi” và những
đạo sĩ, những hòa thượng đã gặp trên đường như trong chương 47 bàn về ý
nghĩa của cuộc sống, về Phật giáo và Đạo giáo. Bên cạnh đó còn có những
cuộc đối thoại tưởng tượng như trong chương 52, chương 72 …cho phép
người kể chuyện tham gia vào những cuộc tranh luận văn học và trình bày
những quan điểm của anh ta về những độc đáo của văn chương như đề tài,
nhân vật, cốt truyện…bên cạnh thủ pháp đối thoại thì dòng ý thức cũng được
sử dụng để cho phép cuộc phiêu lưu tinh thần được sử dụng tự do trong tác
phẩm hư cấu.
Những biến cố, tình tiết nhỏ được coi là có giá trị mạnh mẽ hơn so với
những tình tiết lớn. Chúng tôi cho rằng chính những tình tiết nhỏ ấy lại góp
phần làm đẹp nên bức tranh cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ không đầy đủ, bao
gồm nhiều tình tiết nhỏ xây dựng nên nó. Cũng như trong Linh Sơn, những
nhân vật phụ như những đạo sĩ trên đường nhân vật “tôi” đã gặp, những người
đàn bà đi qua cuộc đời nhân vật “anh”, đứa bé bị bỏ rơi trong rừng vắng…tất
cả đều góp phần hình thành nên Linh Sơn, nơi con người hoàn thiện mình
hơn. Những nhân vật phụ trong Linh Sơn, họ đến và đi không để lại dấu vết
và ý nghĩa gì, nhưng họ là người mở đường, người chỉ dẫn, người bầu bạn với
nhân vật chính của chúng ta trên hai cuộc hành trình thực tế và tâm hồn.
“Dòng ý thức” phát triển cùng với sự phát triển tâm lý của con người.
Cao đã sử dụng thành công thủ pháp tường thuật hiện đại để đạt được những
độc đáo cho cuốn tiểu thuyết của mình. “Dòng ý thức” được sử dụng trong
35
những chương mà người kể chuyện nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu trước
đó của mình cùng với những kinh nghiệm mà người kể chuyện đã trải qua
trong cuộc sống như chương 2, chương 22, chương 35, chương 54… Ta dễ
dàng bắt gặp hình ảnh người kể chuyện dễ dàng quay trở lại quá khứ của
mình khi anh ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của những kỷ niệm trước
đó, chủ yếu là những hình ảnh mảnh sân, mái ngói, bức tường đổ, con đường
lát đá màu xanh hằn vết bánh xe cút kít,…Điều này tạo ra một loại ám thị ký
ức mạnh mẽ sâu sắc “Tôi nhìn những viên ngói rầu rĩ, xếp xít như vảy cá gợi
cho tôi những kỷ niệm thời thơ ấu” [21, tr.81]. Cao đã từng muốn xây dựng
một loại ngôn ngữ kể chuyện không quan tâm đến trình tự, có thể kết hợp
thực tế, quá khứ và tưởng tượng. “Dòng ý thức” còn được sử dụng trong
những chương có chứa những giấc mơ như trong chương 19 và chương 66,
khi người kể chuyện bước vào bóng tối đầy sợ hãi, lo lắng và bất an. Tâm lý
người kể chuyện được miêu tả đầy đủ nhất và phân tích sâu sắc trong những
chương này. Sức mạnh ngôn ngữ “dòng ý thức” trong việc thể hiện thế giới
nội tâm của con người, loại ngôn ngữ không bị chặn bởi những quy tắc và
logic “Một ngôn ngữ có thể diễn tả trọn vẹn mọi đau khổ, buồn thương của
cuộc đời, nỗi sợ hãi và niềm vui vẻ, cô đơn và an ủi…tất cả đều không hiểu,
đều không thể làm sáng tỏ, đều cất bước lên đường vì tất cả những cái đó?”
[21, tr.315]
Như vậy, cốt truyện của Linh Sơn có kết cấu dạng kép và đan xen nhiều
câu chuyện kể với nhau. Tuy nhiên, dù là kết cấu kép hay từng câu chuyện
phân mảnh rời rạc thì Linh Sơn vẫn được xây dựng trên một nền tảng vững
chắc là tâm hồn con người. Con đường đến Linh Sơn dù là trong thực tế hay
trong trí tưởng tượng cũng góp phần giúp con người hoàn thiện hơn, nhìn
nhận bản thân mình một cách đầy đủ, trọn vẹn hơn. Nền tảng đó được ví như
một trò chơi xếp hình, để rồi cũng phải hoàn thành được bức hình mà trò chơi
36
đã định sẵn “Anh bịa từ đầu đến cuối, chơi những ngôn từ như đứa trẻ đùa
nghịch gỗ xếp hình. Những mẫu gỗ xếp hình chỉ có thể xếp cố định theo sơ đồ
đã vạch sẵn, tất cả các kết cấu cũng đã bao hàm trong mẫu gỗ đó. Không thể
sắp xếp theo kiểu mới cho dù người ta biến đổi thế nào” [21, tr.313].
2.2.3. Cốt truyện siêu tiểu thuyết
Siêu tiểu thuyết có liên hệ sâu xa đến chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó không
những chỉ là một loại tiểu thuyết của hậu hiện đại, nó còn là loại tiểu thuyết
độc nhất của thời hậu hiện đại. Chúng ta có thể nhận biết tác phẩm siêu tiểu
thuyết qua một vài đặc điểm như tự nó có chủ ý, tự nhận thức và tự nhận biết.
Tiểu thuyết Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết có chứa những đặc tính của
siêu tiểu thuyết qua kỹ thuật xây dựng cốt truyện phản cấu trúc, nhân vật
chính không rõ ràng, các tình tiết thì mơ hồ lãng đãng khiến cho người đọc rơi
vào trạng thái hoang mang, lẫn lộn. Chúng ta dễ dàng nhận thấy tác phẩm
Linh Sơn giống như một trò chơi đang tự nó trình bày cách chơi của nó. Nó
đưa ra những quan điểm về xây dựng tiểu thuyết, và cuối cùng không ngoài
tác phẩm nào khác, chính nó lấy mình làm tham chiếu. Đây là một trong
những đặt trưng của siêu tiểu thuyết “Dùng nó để đánh giá chính bản thân
nó”. Tiểu thuyết Linh Sơn đưa ra những quan niệm về xây dựng nhân vật, về
cốt truyện, không gian và thời gian trong chương 72, rồi lại sử dụng những
chương khác để chứng minh quan điểm sáng tác của mình. Kết cấu nhân vật
trong Linh Sơn cũng là một sự tham chiếu lớn khi nhân vật “tôi” tự lấy mình
làm tham chiếu, tách ra thành nhiều bản ngã của chính bản thân mình để làm
cho mình ngày càng hoàn thiện hơn. Một đặc điểm nữa của siêu tiểu thuyết
trình bày trong Linh Sơn là sự đoạn tuyệt với cách kể chuyện truyền thống
bằng cách sử dụng đại từ số ít làm nhân vật chỉ biến đổi góc độ tường thuật.
Linh Sơn còn phá vỡ luôn cả cách kết cấu cốt truyện bằng cách kết hợp giữa
cốt truyện truyền thống cùng với sự cách tân trong xây dựng cốt truyện theo
37
thời kỳ hậu hiện đại: cốt truyện kết thúc không rõ ràng và lấp lửng. Kết cấu
truyện độc đáo của siêu tiểu thuyết mà Linh Sơn thể hiện là kết thúc truyện đa
kết. Linh Sơn không có kết thúc rõ ràng, đem lại nhiều cách hiểu khác nhau.
Người đọc tham gia vào cuộc hành trình cùng tác giả với những thông tin thì
bị nhiễu loạn, người đọc bị lẫn lộn giữa thực tế và tưởng tượng của tác giả.
Bên cạnh đó một số kỹ thuật viết văn cũng đã làm nên thành công cho
Linh Sơn. Kỹ thuật “điềm báo trước” được sử dụng trong chương 36 khi vị
chủ trì của Đại Hùng Bảo điện dự đoán trước tương lai của ngôi chùa này sẽ
bị hủy diệt, tu viện sẽ bị đốt cháy và biến mất “chỉ có vị cao tăng mới biết
được ngôi chùa này sẽ bị hủy hoại” [21, tr.191]. Kỹ thuật “Sử dụng ý nghĩa
tượng trưng” về Linh Sơn trong chương 25 và chương 76. Người kể chuyện
đã không nhận ra vị trí của Linh Sơn, nhưng Linh Sơn chỉ là một địa điểm,
một không gian tồn tại trong tâm tưởng. Linh Sơn là nơi không thể đạt được
trong cuộc sống thực. Kỹ thuật “Xây dựng tình huống bí ẩn , thần bí” cũng
được sử dụng trong chương 13 và chương 14, nhiều nhân vật thần bí cũng
xuất hiện như những người bói toán, những phụ nữ cài hoa trà đỏ, người nữ tu
trong chương 48…Kỹ thuật xây dựng “tình huống khó xử” còn được tác giả
thể hiện trong chương 44 và chương 50, khi nhân vật “nàng” phải đứng trước
sự lựa chọn giữa cuộc sống phiêu lưu và cuộc sống bình thường, rồi từ đó đưa
nhân vật chính của chúng ta vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Các kỹ thuật
khác như trùng hợp ngẫu nhiên, bất ngờ, cũng được sử dụng nhưng nó chỉ
đóng một phần nhỏ.
Như vậy, cốt truyện siêu tiểu thuyết cùng một số kỹ thuật hiện đại đã
góp phần mang lại cho Linh Sơn một hình thức tiểu thuyết mới pha trộn giữa
Đông và Tây, giữa hiện đại và cổ điển.
38
Tiểu kết:
Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết có nhiều đổi mới trong xây dựng cốt
truyện. Cao Hành Kiện sử dụng linh hoạt những kiểu kết cấu truyền thống để
biến đổi kết cấu cốt truyện trong Linh Sơn của riêng mình. Cốt truyện trong
Linh Sơn cũng như những thành phần khác góp phần xây dựng nên cuốn tiểu
thuyết này đều hỗn độn, gây cho người đọc cảm giác hoang mang, bế tắc. Cốt
truyện xây dựng như một biểu hiện tâm trạng của con người thời hậu hiện đại
luôn luôn hoài nghi lẫn lộn giữa hiện thực và tưởng tượng.
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY
Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY

More Related Content

What's hot

[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đLuận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
nataliej4
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
HanaTiti
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt NamLuận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAYCảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
NOT
 

What's hot (20)

[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đLuận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
 
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt NamLuận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAYCảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
 

Similar to Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY

Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.doc
Đặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.docĐặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.doc
Đặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.doc
Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơiNghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
hanhha12
 
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đạiLuận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOTLuận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựTìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.docNghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 

Similar to Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY (20)

Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Đặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.doc
Đặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.docĐặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.doc
Đặc Điểm Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Khái Hưng.doc
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơiNghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
 
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
 
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
 
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đạiLuận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
 
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOTLuận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
 
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
 
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựTìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.docNghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
onLongV
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
ChuPhan32
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
vivan030207
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
PhiTrnHngRui
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 

Recently uploaded (18)

40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 

Luận văn: Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện, HAY

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lâm Nhựt Anh LINH SƠN VÀ QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT CỦA CAO HÀNH KIỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lâm Nhựt Anh LINH SƠN VÀ QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT CỦA CAO HÀNH KIỆN Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  • 3. LỜI CÁM ƠN Tôi xin gửi lời cám ơn đến phòng Sau Đại học, quý thầy cô khoa Ngữ Văn, những người thầy đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời gian qua và cung cấp cho tôi nhiều kiến thức quý báu giúp tôi có nền tảng kiến thức để thực hiện luận văn này Tôi muốn gửi lời cám ơn chân thành đến người thầy hướng dẫn của tôi Tiến sĩ Đinh Phan Cẩm Vân vì sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của cô trong suốt quá trình tôi tiến hành nghiên cứu. Chính cô đã hỗ trợ và tư vấn cho tôi trong tất cả giai đoạn của luận văn. Giúp tôi có được một cách nhìn toàn diện hơn cho luận văn của mình. Bên cạnh đó tôi xin gửi lời cám ơn của mình đến PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp, người thầy đã tạo điều kiện cho tôi tiếp xúc với nền văn học Trung Quốc. Lời cám ơn cuối cùng tôi xin gửi đến ba mẹ tôi, những người bạn của tôi, đặc biệt là những người bạn trong lớp Cao học Văn học nước ngoài khoá 21, đã đồng hành cùng tôi trong suốt khoá luận. Tôi xin gửi đến tất cả lời cám ơn chân thành. TP. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 9 năm 2012. Người viết luận văn Lâm Nhựt Anh Lớp Cao học Văn học nước ngoài khoá 21
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Và kết quả trong luận văn này chưa từng được công bố ở các công trình khác. TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012 Người viết luận văn Lâm Nhựt Anh Lớp Cao học Văn học Nước ngoài Khóa 21
  • 5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cám ơn Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề......................................................................................................2 3. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7 5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................7 6. Cấu trúc luận văn.................................................................................................7 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG..................................................................9 1.1. Linh Sơn và Tác giả Cao Hành Kiện ................................................................9 1.1.1. Tác giả Cao Hành Kiện ..............................................................................9 1.1.2. Tiểu thuyết Linh Sơn ................................................................................10 1.2. Quan niệm văn chương của Cao Hành Kiện ..................................................13 Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TRONG LINH SƠN.......23 2.1. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn của Cao Hành Kiện ......................................................................................................23 2.2. Cách xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn......................................................25 2.2.1. Cốt truyện mờ hóa....................................................................................25 2.2.2. Cốt truyện kết cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi....................30 2.2.3. Cốt truyện siêu tiểu thuyết........................................................................36 Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG LINH SƠN........39 3.1. Quan niệm về cách xây dựng nhân vật trong Linh Sơn..................................39 3.2. Xây dựng nhân vật phân mảnh trong Linh Sơn ..............................................45 3.2.1. Đại từ “tôi”- cái tôi trong cuộc hành trình vật lý .....................................45 3.2.2. Đại từ “anh”- cái tôi trong cuộc hành trình tâm linh...............................52
  • 6. 3.2.3. Đại từ “nàng” - Cái tôi nữ tính trong một cơ thể nam tính....................60 3.2.4. Đại từ “hắn” - cái tôi xa lạ.......................................................................65 Chương 4: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KHÔNG GIAN TRONG LINH SƠN.....71 4.1. Quan niệm về không gian trong Linh Sơn......................................................71 4.2. Xây dựng không gian lồng ghép trong Linh Sơn............................................73 4.2.1. Không gian thực .......................................................................................73 4.2.2. Không gian phi thực.................................................................................84 KẾT LUẬN..............................................................................................................92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................94
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giải Nobel văn học năm 2000 trao cho nhà văn người Trung Quốc đầu tiên: Cao Hành Kiện. Là một nhà văn lưu vong, so với một số nhà văn hiện đại khác của Trung Quốc như Mạc Ngôn, Vương Mông, Thẩm Tùng Văn thì cái tên Cao Hành Kiện không mấy “mặn mà” với đất nước này. Tác phẩm của Cao Hành Kiện không dễ đọc, nó pha trộn giữa tinh thần phương Đông và bút pháp hiện đại phương Tây. Cao Hành Kiện có nhiều đóng góp trong việc xây dựng một loại hình tiểu thuyết mới. Vì vậy, ông đã đưa ra nhiều quan niệm về tiểu thuyết mới trong các sáng tác của mình cũng như trong những bài phát biểu của ông tại giải Nobel và ở các trường Đại Học. Linh Sơn là quyển tiểu thuyết đoạt giải Nobel của ông và cũng chính là quyển sách minh chứng cho những quan niệm tiểu thuyết của ông. Vì vậy nó là một quyển tiểu thuyết thích hợp cho những ai muốn tìm hiểu về quan niệm tiểu thuyết của Cao Hành Kiện. Tiểu thuyết Linh Sơn không dễ đọc, nó rất kén độc giả. Linh Sơn đòi hỏi người đọc một khả năng tư duy và một kinh nghiệm sống phong phú, bởi vì nó là một quyển tiểu thuyết bán tự truyện được xây dựng từ một chuyến đi thực tế của nhà văn. Bên cạnh đó nó là quyển tiểu thuyết phản ánh những kinh nghiệm đã trải qua trong cuộc đời tác giả. Linh Sơn chứa nhiều quan điểm triết học và tôn giáo. Nhiều suy ngẫm về cuộc đời đã được tác giả bộc lộ trong từng trang của Linh Sơn. Quan niệm về xây dựng một tiểu thuyết mới được chứng minh trong Linh Sơn bằng việc đổi mới xây dựng nhân vật, cốt truyện, yếu tố không gian và thời gian.Vì vậy, đến với đề tài nghiên cứu về những quan niệm tiểu thuyết trong Linh Sơn là một cách làm sáng tỏ những quan niệm tiểu thuyết của ông và nhằm minh chứng cho việc xây dựng một quyển tiểu thuyết bằng chính những quan điểm của tác giả.
  • 8. 2 Từ những lí do trên chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Linh Sơn và quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện”. Ở đề tài này chúng tôi mở rộng nêu những quan điểm đổi mới về tiểu thuyết do Cao Hành Kiện đề xuất trong những bài phát biểu của mình. Đồng thời đề tài cũng chỉ ra sự vận dụng những quan điểm của ông vào trong tiểu thuyết như một sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Qua đó giúp chúng ta hiểu được mục đích mà tác giả muốn đổi mới trong tiểu thuyết, giúp chúng ta thấy được phong cách Trung Hoa độc đáo trong tác phẩm cũng như trong con người ông. Đề tài cũng là một sự minh chứng Cao Hành Kiện xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của Trung Hoa. 2. Lịch sử vấn đề Là một tác giả lớn mang tầm cỡ quốc tế, nhiều tác phẩm của Cao đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Vì vậy, nghiên cứu về tác phẩm của Cao Hành Kiện là công việc của nhiều nhà phê bình trong nước và thế giới. Những công trình nghiên cứu về Linh Sơn được chú ý nhiều nhất trên thế giới là những công trình nghiên cứu về vấn đề văn hoá trong Linh Sơn. Nhiều học giả cũng như sinh viên quốc tế đã đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa văn hoá học và văn học trong tiểu thuyết Linh Sơn. Công trình đầu tiên phải kể đến là công trình của giáo sư Mabel Lee tại trường đại học Sydney, một dịch giả nổi tiếng đã dịch từ tiếng Trung sang tiếng Anh tác phẩm Linh Sơn. Công trình với tên gọi “Comparative Literature and Culture” (tạm dịch là “So sánh văn chương và văn hoá”). Ngoài ra, giáo sư Lee còn nghiên cứu về vai trò của đại từ trong tác phẩm Linh Sơn “Pronouns as Protagonists: On Gao Xingjian’s Theories of Narration” (tạm dịch là “Đại từ như vai chính: lý thuyết về tường thuật của Cao Hành Kiện”). Trong công trình nghiên cứu này, giáo sư Lee nói đến việc sử dụng đại từ trong Linh Sơn (“Pronouns in Soul Mountain”), việc sử dụng nhiều kỹ thuật và thí nghiệm về ngôn ngữ trong
  • 9. 3 quyển tiểu thuyết ( “Experimentation with Language and Technique”) và về một hình thức mới cho tường thuật (“A new Form of Narration”). Nghiên cứu về những ảnh hưởng của văn hoá trong Linh Sơn còn phải kể đến những công trình nghiên cứu của Li Xia “Cross-Cultural Intertextuality in Gao Xingjian's Novel Lingshair: A Chinese Perspective” (tạm dịch là : “Sự giao thoa văn hoá trong tiểu thuyết Linh Sơn của Cao Hành Kiện: một phối cảnh Trung Quốc”). Trong công trình nghiên cứu này tác giả cũng đề cập đến lý thuyết về sự tường thuật trong tiểu thuyết Linh Sơn. Bên cạnh đó, tác giả còn nói đến sự ảnh hưởng của phương Tây trong Linh Sơn như việc sử dụng thủ pháp dòng ý thức, so sánh giữa Cao Hành Kiện và Samuel Beckett, giữa tiểu thuyết Linh Sơn cùng với Ngọn núi thần kỳ của Thomas Mann. Bên cạnh đó còn có những công trình nghiên cứu như “Gao Xingjian's Novel Lingshan (Soul Mountain): A Long Journey in Search of a Woman?” ( tạm dịch là: “Tiểu thuyết Linh Sơn của Cao Hành Kiện: Một chuyến đi dài trong việc tìm kiếm một người phụ nữ” ) của Marian Galik, “Styles of Truth in Gao Xingjian's Soul Mountain” (tạm dịch là : “Văn phong của sự thật trong Linh Sơn của Cao Hành Kiện” ) của Timothy Hoye, “Gao Xingjian and “Soul Mountain" : Ambivalent Storytelling” (tạm dịch là: “Cao Hành Kiện và Linh Sơn : Những mâu thuẫn trong cách kể” ) của Robert Nagle, “Gao Xingjian and the Asian Experimentation in Postmodernist Performance" ( tạm dịch là: “Linh Sơn và cuộc thử nghiệm của khuynh hướng hậu hiện đại ở Châu Á” của Kwok-kan Tam Ở Việt Nam, số lượng nghiên cứu về Linh Sơn cũng như về tác giả Cao Hành Kiện còn khá khiêm tốn so với nước ngoài, ngay cả đến nay. Đã có một số bài dịch về những bài phát biểu của ông tại các hội thảo khoa học. Các nhà văn Việt Nam đọc cuốn tiểu thuyết này ít nhiều có phân vân, trăn trở và gợi mở cả về nội dung và kỹ thuật viết. Sự phân thân của ta, mi, nàng (hay tôi,
  • 10. 4 bạn và nàng) là cái cá nhân cô đơn đi tìm đồng vọng, là cái một mình đối chọi cái toàn thể, nhiều mình, là cái hôm nay tìm về, tìm lại hôm qua, ngược nguồn văn hóa, lịch sử để may ra có thể thấy được “bản lai chân diện mục” của mình. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng đã không tiếc lời để khen Cao Hành Kiện và Linh Sơn của ông: “Cao Hành Kiện là một nhân tài. Ông là một nghệ sĩ đa năng...Ngòi bút Cao Hành Kiện thâm thuý và khốc liệt, kiểu viết độc đáo và hầu như chưa có tiền lệ...Nhiều tình tiết cho thấy tác giả am hiểu khá tường tận lịch sử, phong tục tập quán, tâm lý của dân tộc Trung Hoa...Một năng lực sáng tạo không thể phủ nhận, một tài năng và một tri thức không dễ gì có được” [63]. Công trình nghiên cứu tiếp theo về Linh Sơn ở Việt Nam là “Những điểm tương đồng giữa Linh Sơn và Hồng Lâu mộng” của tiến sĩ Đinh Phan Cẩm Vân, trong Kỷ yếu khoa Ngữ Văn 30 năm nghiên cứu và giảng dạy, sau đó tham gia hội thảo quốc tế về văn học Cận hiện đại Trung Quốc tại Đại học Bình Đông, Đài Loan. Trong công trình nghiên cứu của mình tiến sĩ Đinh Phan Cẩm Vân đã chỉ ra điểm giống nhau giữa Linh Sơn và Hồng Lâu Mộng là: “Cao Hành Kiện cũng như Tào Tuyết Cần đã cùng chung một thao tác là trình bày đan xen vào nội dung tác phẩm những quan niệm nghệ thuật mới của mình” [44, tr.223]. Điều đó đã gợi một số điểm quý báu cho luận văn này. Một bài viết của Trương Thái Du với nhan đề “ Đọc Linh Sơn của Cao Hành Kiện”, trong Tham luận ở hội thảo “Tác phẩm tiểu thuyết và sân khấu của Gao Xingjjian, giải Nobel văn học 2000” tại Aix-en-Provence, Pháp, 1/2005, người viết đã không ngừng ca ngợi tác phẩm Linh Sơn và nghệ thuật viết của Cao Hành kiện như sau: “Linh Sơn, tác phẩm chính đưa lại giải Nobel văn học cho Gao Xingjian, có thể gọi là một tiểu thuyết bách khoa. Xuất bản lần đầu ở Đài Loan năm 1991 nó chỉ bán được khoảng 90 cuốn. Sang năm sau số bán còn thấp hơn nữa, chừng 60 cuốn. Nhưng rồi cùng với thời gian, Linh Sơn trở thành cuốn sách bán chạy (bestseller), thành một hiện tượng văn học
  • 11. 5 lớn”, “81 chương đoạn Linh Sơn là 81 bậc cầu thang đưa Gao đến sự giác ngộ, sự thanh lọc (cathasis). Gao không thành Phật, ông vẫn là con người, con người không biết thỏa mãn bao giờ. Nhưng ông đã đến được chốn Linh Sơn của mình, dù ông vẫn chẳng hiểu nó là gì. Cuốn tiểu thuyết của Gao, vì thế, khó đọc, nhưng cũng hấp dẫn, vì thế” [49]…. Bài viết của Phạm Xuân Nguyên phỏng vấn Cao Hành Kiện tại nhà riêng của ông khi sang Pháp dự hội thảo “Tác phẩm tiểu thuyết và sân khấu của Cao Hành Kiện, giải Nobel Văn học 2000” với tiêu đề: “Cao Hành Kiện: cứu mình bằng văn chương nghệ thuật”. Trong bài viết này tác giả cũng có đề cập đến một số quan điểm về văn học mà họ Cao đã trình bày “Văn học chỉ phơi bày thực trạng đời sống con người, nêu lên những vấn đề nhân bản của nó. Đừng hoang tưởng là có thể giải quyết được hết mọi vấn đề của con người, của cuộc sống. Tôi viết về thực tế cuộc sống như nó đang diễn ra, không chỉ ở Trung Quốc, mà còn ở nhiều nơi khác. Con người với những vấn đề tồn tại cơ bản của nó, bất kỳ ở đâu, là điều quan tâm chính của tôi. Điều này lớn hơn số phận của một quốc gia, đất nước. Tôi cũng tin như nhiều người hiện nay rằng các hệ thống đại tự sự đã thuộc về quá khứ” [61]. Bài viết góp một phần để biết quan điểm về văn học của Cao Hành Kiện, để từ đó có cái nhìn đúng đắn về những giá trị văn học mà tác giả thể hiện trong tác phẩm của mình. Và nhiều bài viết khác viết về Cao Hành Kiện như “Tản mạn quanh Linh Sơn” của Nguyễn Khắc Phê, “Cao Hành Kiện độc hành trên đường nghệ thuật” của Trường Minh. Bên cạnh đó còn có một số bài phát biểu của họ Cao tại các hội thảo như bài diễn từ của Cao Hành Kiện về “Lý do của văn học” đọc tại Hàn Lâm viện Thụy Điển ngày 10- 12- 2000, bài phát biểu của Cao Hành Kiện tại Đại học Hồng Kông ngày 31- 1- 2001 với nhan đề “Một hành trình của văn học”, “Ngòi bút và bạo chúa” trích diễn văn Nobel văn chương của Cao Hành Kiện do tác giả đọc ngày 10- 12- 2000, “Không có chủ nghĩa” bài phát biểu của
  • 12. 6 Cao Hành Kiện tại Đài Loan…Qua những bài diễn thuyết đó, chúng ta cũng thấy được phần nào quan niệm về văn học của tác giả. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã đưa ra những lí giải sâu sắc về Linh Sơn. Tuy nhiên chưa có công trình nào tổng quát những quan niệm tiểu thuyết của Cao Hành Kiện trong Linh Sơn. Dù vậy, những công trình ấy là những gợi ý và tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu của luận văn. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp sau: Phương pháp Loại hình giúp khu biệt loại hình tiểu thuyết với các loại hình nghệ thuật khác. Phương pháp Thống kê giúp chúng tôi tìm ra những chi tiết trong Linh Sơn có liên quan đến đề tài mà chúng tôi khảo sát Phương pháp So sánh giúp chúng tôi so sánh đối chiếu với những tác phẩm khác của Cao Hành kiện như tiểu thuyết Kinh thánh của một người, những truyện ngắn của ông cùng với những vở kịch mà ông đã sáng tác. Phương pháp Hệ thống giúp chúng tôi sắp xếp lại những dữ liệu, giúp quá trình thực hiện đề tài tiết kiệm được thời gian và tránh được nhiều sai sót trong quá trình tiếp cận. Phương pháp Kí hiệu giúp giải mã những biểu tượng trong tác phẩm. Phương pháp lịch sử- xã hội để tìm ra mối quan hệ giữa thời đại- nhà văn- tác phẩm. Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng phương pháp phê bình Tiểu sử để giúp chúng tôi tìm hiểu được những ảnh hưởng rõ nét của cuộc đời tác giả lên trên tác phẩm của ông.
  • 13. 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Văn bản chính mà chúng tôi sử dụng chính trong luận văn là tiểu thuyết Linh Sơn do Ông Văn Tùng dịch. Ngoài ra luận văn còn sử dụng tiểu thuyết Kinh thánh của một người như một sự hỗ trợ làm rõ thêm về quan niệm tiểu thuyết của Cao Hành Kiện. Bên cạnh đó còn một số truyện ngắn cùng kịch của ông . Đối tượng mà chúng tôi tiến hành khảo sát ở đây là “Quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện” qua Linh Sơn. Thông qua các bài viết và các bài báo cáo của ông và những bài nghiên cứu phê bình của độc giả trong nước và thế giới, chúng tôi muốn một phần nào đó làm rõ hơn và ứng dụng những quan niệm ấy vào tiểu thuyết của ông. 5. Đóng góp của luận văn Nhà văn Cao Hành Kiện là một tên tuổi khá nổi tiếng, được bạn đọc trong nước và thế giới biết đến. Vì vậy luận văn như là một đóng góp nhỏ bé, như một viên gạch góp phần xây dựng thêm tên tuổi của nhà văn người Trung Quốc này. Đến với luận văn chúng tôi mong mỏi giúp cho người đọc dễ dàng tiếp cận những tác phẩm của Cao Hành Kiện nếu như hiểu được quan niệm về nghệ thuật của ông. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài hai phần dẫn nhập và kết luận, phần nội dung luận văn được chia thành bốn phần Chương 1 bàn về những vấn đề chung. Chương này gồm hai phần chính. Phần giới thiệu tác giả Cao Hành Kiện và tiểu thuyết Linh Sơn và phần những quan niệm văn chương của ông. Chương này mục đích là giới hạn phạm vi nghiên cứu trong Linh Sơn chỉ dừng lại ở những quan niệm tiểu thuyết được tác giả nhắc đến trong quyển tiểu thuyết này. Đồng thời qua chương một,
  • 14. 8 chúng tôi muốn cung cấp một số thông tin về cuộc đời tác giả và quyển tiểu thuyết mà chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu. Chương 2: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn. Chương này gồm hai phần: những quan niệm về xây dựng cốt truyện và cách xây dựng cốt truyện. Chương này nhằm giới hạn những vấn đề lý thuyết về cốt truyện trong phạm vi tiểu thuyết Linh Sơn. Từ đó nổi bật lên sự vận dụng của những lý thuyết ấy vào trong tiểu thuyết. Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Linh Sơn. Chương này gồm hai phần chính: những quan niệm về cách xây dựng nhân vật trong Linh Sơn và phần xây dựng nhân vật phân mảnh trong Linh Sơn. Chương này mục đích nêu lên được một số vấn đề lý thuyết về quan niệm xây dựng nhân vật của Cao và đồng thời cũng làm nổi bật lên được sự vận dụng khéo léo của Cao những quan niệm của mình vào trong tiểu thuyết Chương 4: Chương này bao gồm có hai phần chính phần lý thuyết và phần ứng dụng về cách xây dựng không gian trong Linh Sơn. Giúp cho chúng ta thấy rằng không gian trong Linh Sơn là sự đan xen giữa không gian thực và không gian tưởng tượng.
  • 15. 9 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Linh Sơn và Tác giả Cao Hành Kiện 1.1.1. Tác giả Cao Hành Kiện Cao Hành Kiện sinh năm 1940 tại Giang Tây, Trung Quốc. Ông là con trai cả trong một gia đình có hai anh em. Bố là nhân viên nhà băng, mẹ là diễn viên nghiệp dư. Mẹ ông đọc rất nhiều văn học phương Tây, từ Balzac, Zola đến Steinbeck. Chính bà là người khuyến khích con trai đến với sân khấu. Nhưng khi Cao 20 tuổi, mẹ ông trẫm mình xuống sông tự vẫn khi đang sống trong một trại lao động. “Dù không hẳn là trí thức, bà vẫn phải đi cải tạo như bao nhiêu người khác”, nhà văn nói. Nhớ lại thời kỳ mà con người “không thể tự do bày tỏ những điều người ta nghĩ, ngay cả trong gia đình mình”, nhà văn cho biết: “Tất cả những gì người ta nói lúc đó đều giả dối. Mỗi người đều mang một cái mặt nạ. Qua văn chương, bạn sẽ tìm thấy cuộc sống thực, đằng sau lớp vỏ của hư cấu, sự thật được hé lộ” [ 67]. Cao Hành Kiện sinh năm 1940, thời kỳ mà Trung Quốc đã bị xâm chiếm của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Ông sinh ra trong hoàn cảnh chiến tranh, lớn lên trải qua cuộc biến động của Cách mạng văn hóa, cuộc sống không bình yên đã được nén lại trong những trang viết của ông. Bên cạnh đó, trong một cuộc kiểm tra sức khỏe định kỳ ông bị chẩn đoán nhầm bệnh ung thư phổi, căn bệnh mà đã giết chết cha của ông cách đây mười năm. Trong lúc chờ đợi kết quả kiểm tra một lần nữa, ông đã tự tìm cho mình một thú vui là tìm kiếm một cái nghĩa địa cũ ở một miền quê xa xôi, nơi mà không khí ít bị ô nhiễm và trải qua thời gian để đọc sách. Mặc dù là tâm điểm của cuộc tấn công trên diễn đàn văn học lúc bấy giờ, nhưng Cao Hành Kiện với thái độ dửng dưng đã đặt cho mình vị trí của kẻ bên ngoài trong cuộc tranh giành ồn ào trên văn đàn. Tấm chụp X-rays cuối cùng đã xác định rằng, tất cả những
  • 16. 10 phán đoán trước kia đều là sai, ông là một người hoàn toàn khỏe mạnh. Tuy nhiên trong khoảng thời gian chờ đợi con người đến với cái chết, trong phút giây sắp chạm trán với tử thần ấy đã cho ông một sự sắp xếp lại những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời. Nên với tác giả họ Cao, sự trì hoãn cái chết là một sự tái sinh lần nữa, khiến ông quyết tâm viết một quyển tiểu thuyết. Khi những suy nghĩ, những sợ hãi về cái chết sắp xảy ra đã tiêu tan thì một tin đồn Cao sẽ đi Thanh Hải để cải tạo. Một vài người bạn của ông cũng đã được gửi đến đó, nhưng chỉ một trong số mười người đi là có thể trở về. Điều này đã khiến ông càng muốn rời khỏi Bắc Kinh hơn nữa. Cao Hành Kiện là một nhà văn, nhà viết kịch và là một họa sĩ có tài. Mặc dù cuộc đời là một nhà văn lưu vong nhưng ông vẫn cống hiến hết mình cho sự nghiệp văn học. Dù ở bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào đi nữa, nhà hoạt động nghệ thuật họ Cao vẫn chọn cho mình lối đi tiên phong, xây dựng những nẻo đường nghệ thuật mới. Ông đạt được một số thành công trong lĩnh vực kịch thực nghiệm và xây dựng một hình thức tiểu thuyết mới. Ma Jian (Mã Kiến), nhà văn người Anh gốc Trung - tác giả cuốn Beijing Coma (Bắc Kinh liệt vị) nhận định: “Cao Hành Kiện vừa là nhà cách tân ngôn ngữ, vừa là nhà văn chân chính. Những tác phẩm của ông đã nhấn mạnh lần nữa tầm quan trọng của cái tôi cá nhân trên cái tập thể. Ông là một trong những nhà văn đầu tiên thời hậu Mao Trạch Đông biết hấp thu tinh hoa văn học và triết học phương Tây để trộn lẫn với những giá trị cổ điển của Trung Quốc, tạo ra một hình thức mới cho kịch và tiểu thuyết” [67]. 1.1.2. Tiểu thuyết Linh Sơn Cao Hành Kiện đạt giải Nobel văn chương năm 2000 với tiểu thuyết Linh Sơn. Ông là người Trung Quốc đầu tiên đoạt giải NoBel. Trong thông cáo ngày 12 tháng 10 năm 2000 Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã đánh giá về tác phẩm Linh Sơn như sau “Giải văn chương Nobel năm 2000 tặng thưởng nhà
  • 17. 11 văn Hoa ngữ Cao Hành Kiện cho một trước tác có tầm cỡ thế giới, mang dấu ấn đắng cay trong nhận thức và nét tinh tế của ngôn từ, mở ra nhiều nẻo đường mới cho nghệ thuật tiểu thuyết và sân khấu Trung Quốc” [22, tr.647]. Cuốn sách nhỏ với nhan đề Khám phá kỹ năng viết tiểu thuyết hiện đại viết năm 1981, đã đề cập đến những hướng tiếp cận khác nhau đối với tiểu thuyết và những kỹ năng cần thiết để thực hiện. Cuốn sách đã gây tranh cãi về chủ nghĩa hiện đại đối lập chủ nghĩa hiện thực Trung Quốc vào những năm 1980. Và Linh sơn là quyển tiểu thuyết mà tác giả đã viết dựa trên những quan điểm đó. Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết bán tự truyện của Cao Hành Kiện dựa trên một chuyến đi năm tháng có thật dọc theo con sông Dương Tử, vùng nội địa của miền Nam Trung Quốc từ tháng bảy đến tháng mười hai năm 1983. Linh Sơn là quyển tiểu thuyết mà chủ đề và nội dung của nó là vết tích từ hai cuộc chấn thương trải qua trong cuộc đời Cao Hành Kiện: sự khủng bố trong thời kỳ Cách mạng văn hóa và việc chẩn đoán nhầm căn bệnh ung thư, những điều khiến tác giả quyết tâm làm một chuyến đi dài để viết Linh Sơn. Bên cạnh đó, Linh Sơn còn là một quyển sách xây dựng trên một nền tảng văn hóa rộng lớn, nền văn hóa phương Nam Trung Quốc, dọc sông Dương Tử, nơi mà những quy luật nghiêm ngặt của Khổng giáo đã mờ nhạt, thay vào đó là một nền văn hóa dựa trên tư tưởng của Đạo giáo và Phật giáo như: những tập tục thờ cúng dân gian thần bí, những lễ hội cùng những trò mê tín, những đền đài và chùa chiền trong nghi lễ Phật giáo…Linh Sơn xứng đáng là một quyển từ điển về nền tảng văn hóa của khu vực miền Nam Trung Quốc. Bên cạnh thành công trong lĩnh vực miêu tả văn hóa, Linh Sơn còn là cuộc hành trình của một con người đi tìm bản ngã của chính mình, bản ngã của dân tộc. Linh Sơn xây dựng hình ảnh một con người hoài nghi với tất cả, một căn bệnh của con người hiện đại, hoài nghi sự tồn tại của chính bản thân, hoài nghi mối quan hệ giữa con người trong xã hội, giữa con người và môi
  • 18. 12 trường tự nhiên, giữa con người và lịch sử của nhân loại. Linh Sơn là hình ảnh một con người cô độc, đi tìm lại cái hồn dân tộc, tìm lại bản ngã của chính bản thân mình trên nền móng văn hóa đồ sộ của dân tộc Trung Hoa. Linh Sơn mang đậm dấu ấn hậu hiện đại, với kiểu con người phân mảnh, hoài nghi chính bản thân mình do hậu quả của nền kinh tế thị trường gây nên. Từng nhân vật, từng chương của Linh Sơn luôn là những câu hỏi “Ta là gì? Ta cần gì? Ta phải làm gì?”. Bên cạnh thành công về mặt nội dung, Linh Sơn còn mang những nét đặc sắc về nghệ thuật trong xây dựng nhân vật, cốt truyện. Linh Sơn từ bỏ cách xây dựng theo kiểu truyền thống từ cốt truyện, đề tài, nhân vật. Tất cả mọi thứ trong Linh Sơn, từ con người đến sự vật, đều phủ lên nó một làn sương mù mờ ảo: không thấy không gian, không thấy thời gian, không thấy mặt người và cũng chẳng nghe tiếng nói. Những điều này đã tạo cho Linh Sơn một sắc thái tiểu thuyết riêng, không lẫn lộn dù là tiểu thuyết của phương Đông hay phương Tây. Linh Sơn sử dụng “thủ pháp dòng ý thức” để đi sâu vào nội tâm, khai thác từng ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn con người, những suy nghĩ của họ về bản thân, về dân tộc, về ý nghĩa của con người cá nhân trước cộng đồng, trước quá khứ và tương lai. “Thủ pháp dòng ý thức” mang đậm bút pháp của chủ nghĩa hiện đại phương Tây, nhưng cái mục đích mà nó hướng đến là một tâm hồn Trung Quốc, đậm chất Á Đông. Ngoài ra, Linh Sơn là một tác phẩm kết cấu tổng hợp nhiều hình thái và thể loại sáng tạo văn chương. Trong đó, hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, hoạt kê, hội thoại, đối thọai, độc thoại... quyện vào nhau như trái núi mang nhiều vẻ hiện thực và kỳ bí tùy theo thời gian và thế ngắm. Mặc dù chính quyền Trung Quốc phủ nhận Cao Hành Kiện là nhà văn Trung Quốc theo nghĩa quốc tịch, nhưng chắc chắn Cao Hành Kiện là một nhà văn và nhà viết kịch Trung Quốc, theo nghĩa ngôn ngữ, chứ không phải
  • 19. 13 quốc tịch. G.S. Nguyễn Lân Dũng lại “phong” cho ông rất nhiều phẩm chất tốt đẹp: “ Cao Hành Kiện là một nhân tài. Ông là một nghệ sĩ đa năng...Ngòi bút Cao Hành Kiện thâm thuý và khốc liệt, kiểu viết độc đáo và hầu như chưa có tiền lệ...Nhiều tình tiết cho thấy tác giả am hiểu khá tường tận lịch sử, phong tục tập quán, tâm lý của dân tộc Trung Hoa...Một năng lực sáng tạo không thể phủ nhận, một tài năng và một tri thức không dễ gì có được...”. Tiểu thuyết Linh Sơn của ông được Viện hàn lâm Thụy Điển đánh giá như sau: “Tác phẩm tầm cỡ nhất của Cao Hành Kiện, tiểu thuyết Linh Sơn là một trong những sáng tạo văn học hiếm hoi tự lấy mình làm tham chiếu chứ không thể đem so sánh với một tác phẩm nào khác” [22, tr.647]. Linh Sơn được tác giả bắt đầu cấu tứ từ mùa hè năm 1982, viết nó trong những năm 1983, năm 1984 và hoàn thành vào năm 1989 tại Paris, là một quyển tiểu thuyết chứa đựng những giá trị sâu sắc về nội dung và những cách tân về hình thức. Giáo sư Mabel Lee, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh đã nhận định: “Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong” [64]. 1.2. Quan niệm văn chương của Cao Hành Kiện Trong bài phát biểu của Cao Hành Kiện với nhan đề “Một hành trình văn học”, phần đi tìm một hình thức tiểu thuyết mới cho văn học, nhà văn họ Cao đã bày tỏ những quan tâm của mình về một hình thức tiểu thuyết mới. Ông đã đặt ra cho mình những câu hỏi chung như “văn học là gì”, “cái gì sẽ được truyền tải trong văn học” và những câu hỏi riêng về tiểu thuyết như “tiểu thuyết là gì ?” và “hình thức tiểu thuyết là gì”. Điều đó có nghĩa, việc tìm một hình thức tiểu thuyết mới là điều mà tác giả Cao Hành Kiện muốn hướng đến trong tác phẩm của mình. Trong Kinh thánh của một người tác giả bày tỏ mong muốn xây dựng một nền văn học mới, thay thế cho nền văn học trì trệ phát triển của nước nhà “Thời đại mới, cuộc sống mới vì vậy phải có
  • 20. 14 văn học mới. Mặc dù không hiểu cuộc sống mới, văn học mới là như thế nào, nhưng anh hình dung chắc chẳng giống với các bài dân ca mới “Đại nhảy vọt” hay những tác phẩm người tốt việc tốt đăng trên báo chí tập san” [23, tr.134]. Trong tiểu thuyết nổi tiếng của ông, Linh Sơn, nhà văn bày tỏ rõ ràng quan điểm của mình trong việc xây dựng một hình thức tiểu thuyết mới “những người loạng choạng sẽ loạng choạng và tiểu thuyết cách mạng của văn học đả đảo mê tín với cách mạng mang tính tiểu thuyết, số mạng của tiểu thuyết” [21, tr.404]. Là một tác gia đoạt giải Nobel, Cao Hành Kiện có nhiều bài phát biểu trình bày những quan niệm của ông về một hình thức tiểu thuyết mới như “Không có chủ nghĩa”, “Sự cần thiết của cô đơn”, “Kỹ thuật hiện đại” và “Tính dân tộc”… Nhìn chung, những bài phát biểu của Cao Hành Kiện là hướng đến một mục đích chung là sự tự do đối với người viết và người đọc. Vì vậy, những quan niệm về tiểu thuyết của ông hầu hết đều trình bày về sự tự do, đối với bản thân người sáng tác nói chung và bản thân ông đặc biệt nói riêng. Tự do đối với người sáng tác điều cần thiết nhất là sự tự do trong suy nghĩ và tự do trong cách diễn đạt. Tự do trong suy nghĩ theo tác giả họ Cao đã từng phát biểu “bất kể về chính trị hay văn học, tôi không thuộc phái nào hết, trong đó bao gồm cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đế quốc” và nhà văn tự coi mình là “người đàn ông mảnh khảnh, luôn tìm cách thoát khỏi sự kiềm tỏa của nhà chức trách để nói với thế giới bằng chất giọng của chính mình” [67]. Với nhà văn việc sáng tác văn học trước tiên là vấn đề cá nhân, quan điểm này đã được tác giả đề cập đến trong bài diễn từ Nobel “Lý do của văn học” ông đã cho rằng “Văn học là vấn đề cá nhân: ở đây tôi muốn nói văn học cũng chỉ có thể là tiếng nói của cá nhân, mà vốn xưa nay vẫn thế” [22, tr.651]. Để tìm giá trị cho mỗi cá nhân vì thế trong tác phẩm của họ Cao luôn vẽ nên hình ảnh một con người luôn luôn hoài nghi: hoài nghi về giá trị của bản thân, hoài nghi về giá trị mỗi cá nhân trong xã hội, hoài nghi về
  • 21. 15 lịch sử nơi sáng tạo ra giá trị của dân tộc. Con người cá nhân để tìm thấy được giá trị của bản thân mình nên họ phải soi chiếu mình trong mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội. Vì thế trong Kinh Thánh của một người, tác giả cũng bày tỏ quan niệm của mình về giá trị bên trong của sự vật “tất cả mọi vật trên thế gian này hoạt động trong đều rất bình thường, nhưng nếu xem xét kỹ càng thì lại sâu sắc vô cùng” [23, tr.54]. Cao Hành Kiện là người đề cao sự tự do trong cách diễn đạt và việc sử dụng bút pháp của các trào lưu văn học. Nhà văn không câu nệ việc sử dụng bút pháp phương Tây trong những tác phẩm của mình. Với ông việc học tập những thủ pháp lẫn nhau trong sáng tác như là một sự trao đổi và học hỏi. Nhà văn không tự gán cho mình bất cứ tên gọi của một trường phái hay chủ nghĩa nào nhất định, ông tự nhận mình là một cá nhân “Không chủ nghĩa”. Trong bài phát biểu “Không có chủ nghĩa” tại hội nghị 40 năm văn học Trung Quốc, Cao Hành Kiện đã thừa nhận rằng “Văn học phương Tây, nhất là văn học hiện đại phương Tây có rất nhiều quan niệm và phương pháp giúp tôi khám phá rất lớn, nhưng không nhận ra rằng lôi thẳng về như thế là có thể dẫn tới những tác phẩm tốt. Do đó tôi càng xem trọng tác phẩm, không nghĩ tới chuyện gán cho mình cái nhãn hiệu chủ nghĩa” [22, tr.680]. Với ông, về kỹ thuật viết có thể học tập lẫn nhau, nhưng cái tinh thần trong tác phẩm vẫn là một tinh thần Trung Hoa. Biến cái bút pháp phương Tây ấy trở nên hợp với phong vị truyền thống của dân tộc mình. Tác giả họ Cao không đặt cho mình bất cứ một trình tự nào trong cách diễn đạt. Trong chương 58 của Linh Sơn, Cao đã bày tỏ quan niệm của mình về tính không logic khi sử dụng ngôn ngữ “Anh chỉ muốn kể lại từ đầu bằng thứ ngôn ngữ vượt quá nhân quả và logic. Thiên hạ kể nhiều chuyện chẳng ra đâu vào đâu, anh cũng có thể như thế” [21, tr.313]. Trong chương 8 của Linh Sơn, Cao Hành Kiện cũng đã bày tỏ rõ quan điểm của mình khi đoạn tuyệt với logic, đoạn tuyệt với sự sắp xếp tình tiết cốt truyện, trình tự không gian và
  • 22. 16 thời gian theo một trình tự logic nhất định “Bản thân cuộc sống cũng chẳng tuân theo một logich nào, thế mà tại sao người tôi lại cứ muốn suy diễn ý nghĩa cuộc sống bằng logich? Hơn nữa, logich là cái gì? Tôi nghĩ có lẽ tôi phải tách ra khỏi suy nghĩ bởi vì mọi đau khổ, buồn phiền của tôi bắt nguồn từ đây” [21, tr.51]. Và tác giả mong muốn xây dựng một trình tự logic cho riêng mình, đó là logic được tính bằng “cấu trúc trái tim” “Tôi đã lập cho mình một kiểu trình tự, nói cách khác là một kiểu logic, một hệ nhân quả. Những trình tự, logic, nhân quả trong thế giới hỗn độn này đều do con người lập nên để khẳng định mình. Sao tôi không tạo ra một trình tự, logic, nhân quả cho riêng mình nhỉ? Tôi có thể ẩn nấp trong đó sống yên ổn với lương tâm tôi” [21, tr.283]. Điều đó có nghĩa quyển tiểu thuyết Linh Sơn của Cao là một quyển tiểu thuyết viết cho cá nhân tác giả, viết để tìm sự tự do trong linh hồn người cầm bút, chối từ một trình tự, một sự sắp đặt sẵn về bất cứ sự việc hay một tư tưởng nào đó. Bên cạnh đó, Cao Hành Kiện lại có sự phân định rõ ràng giữa văn học- lịch sử và triết học, điều này là một cách tân về một hình thức mới so với hình thức tiểu thuyết cổ điển là văn học, sử, triết bất phân. Như vậy, quan điểm tự do trong tác phẩm của Cao Hành Kiện là quan điểm xuyên suốt, chi phối ngòi bút của ông. Giúp ông sáng tạo nên những tác phẩm có nội dung phong phú, gắn bó cuộc đời thật, phản ánh tâm hồn ông. Với Cao, viết văn chỉ là vì để thỏa niềm đam mê, không vì mục đích vụ lợi cá nhân “Văn chương lạnh tất nhiên không tạo nên tin tức trên báo chí và chẳng gây chú ý nơi công chúng. Nó hiện hữu chỉ vì con người tìm kiếm một sinh hoạt thuần tuý tinh thần bên ngoài những ước muốn thoả mãn vật chất” [54]. Tự do trong cách suy nghĩ và tự do đối với đối tượng thưởng thức, vì vậy ông đã trở nên miễn nhiễm với cái văn đàn ồn ào ngoài kia. Bên cạnh quyền tự do đối với tác giả, Cao còn bày tỏ tinh thần tự do của mình đối với người đọc. Đối với ông người đọc có quyền hiểu tác phẩm của tác giả theo nhiều chiều
  • 23. 17 hướng khác nhau, và ông cho rằng không nên gán ghép bất cứ một ý nghĩa bắt buộc nào của tác phẩm đến người đọc: “Quan hệ giữa tác giả và độc giả luôn luôn là một mối thống trị tinh thần xuyên qua những văn bản được viết; họ không cần phải gặp nhau hay giao lưu xã hội. Nhà văn không chịu một trách nhiệm nào đối với độc giả, và độc giả không cần phải khống chế nhà văn. Chính độc giả chọn đọc hay không đọc một tác phẩm” [54]. Cao Hành Kiện quan niệm rằng văn học cũng là một cách bổ sung cho lịch sử. Lịch sử theo tác giả chỉ là một loạt những quy luật phát triển, những trào lưu mù lòa đến rồi lại đi, mà chẳng có một tiếng nói cá nhân trong ấy. Vì vậy, nói về tiếng nói yếu ớt của cá nhân cũng là một cách bổ sung thêm cho lịch sử “Những quy luật lớn lao của lịch sử khi không thể giãi bày loài người được, thì con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của chính mình” [23, tr.663]. Con người cá nhân để tìm thấy được giá trị của bản thân mình nên họ phải soi chiếu mình trong mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội. Vì thế trong Kinh Thánh của một người, tác giả cũng bày tỏ quan niệm của mình về giá trị bên trong của sự vật “Tất cả mọi vật trên thế gian này hoạt động trông đều rất bình thường, nhưng nếu xem xét kỹ càng thì lại sâu sắc vô cùng” [23, tr.54]. Với tác giả họ Cao, văn học sẽ không bị gò bó bởi bất cứ quan niệm chính trị hay bất cứ chính đảng nào. Nhà văn phê phán lối sáng tác bị ảnh hưởng bởi quan niệm chính trị, dùng chính trị để gò bó tư tưởng sáng tác của nhà văn, tước mất quyền tự do trong suy nghĩ cá nhân của nhà văn. Họ Cao đã thừa nhận rằng văn chương của mình không nhằm để phục vụ chính trị, không theo bất cứ tôn giáo và học thuyết nào, ông viết là chỉ vì bản thân, vì sự cô đơn của bản thân mà thôi “Văn học một khi đã uốn thành tụng ca của quốc gia, kì xí của dân tộc, miệng lưỡi của chính đảng, hoặc phát ngôn của một giai cấp hoặc một tập đoàn, cho dù có thể vận dụng thủ đoạn tuyên truyền,
  • 24. 18 mở rộng thanh thế, rợp trời kín đất chi nữa, cái loại văn học đó cũng chôn vùi mất bản tính, không thành văn học, mà biến thành công cụ của quyền lực hoặc lợi ích” [22, tr.651]. Quay về đúng với tiếng nói bản thân mình, nhà văn sẽ không biến mình thành công cụ của chính trị. Và nền văn học như thế với ông là nền “Văn học lạnh”: “Văn chương lạnh là loại văn chương không bị chi phối bởi độc giả hay chính trị. Nhà văn chỉ viết lại những hồi ức, những kỷ niệm của bản thân mình. Nhà văn không cần nổi danh, không cần tham gia vào một đoàn phái nào cả. Vì vậy nhà văn phải tự mưu sinh, vì viết văn chỉ là hoạt động tinh thần, không mưu cầu danh vọng vật chất” [54]. Trong mười năm của Cách mạng văn hóa, với Cao là một nỗi ám ảnh bởi vì đã đưa chính trị vào văn học “Cách mạng văn học và văn học cách mạng đều cùng đưa văn học với cá nhân vào chỗ chết”. Thời kỳ Cách mạng văn hóa, thời kỳ mười năm đen tối của lịch sử Trung Quốc “Mười năm Cách Mạng Văn Hóa là một thời kỳ bi thảm trong lịch sử nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, gây nên hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước” [29, tr.348], và những cá nhân muốn tồn tại trong thời kỳ văn học này, muốn nói tiếng nói của mình, theo tác giả họ Cao thì “trừ ra câm lặng chỉ còn cách đào thoát” [22, tr.652]. Với ông nhà văn chỉ có trách nhiệm với ngôn ngữ của mình, với những gì mình viết, và với quyết tâm chối bỏ ý thức hệ của người khác, của những gì mà chính trị đã bắt ông phải tuân theo, ông đã chọn cho mình lối sống “Không cần chủ nghĩa”: “Văn học một khi thoát li cái công lợi của hiện thực, mới thắng được cái tự do trọn vẹn” [22, tr.681]. Ông đã chọn con đường lưu vong để bảo vệ tiếng nói cá nhân của mình. Vấn đề cô đơn trong mỗi cá nhân cũng được nhà văn trình bày trong quan niệm về văn chương của mình. Viết văn đối với họ Cao chỉ là một cách làm vơi bớt nỗi cô đơn của bản thân, nó là nhân tố giúp cho con người đạt
  • 25. 19 được khả năng nhận thức cao nhất “Và tư duy phản tỉnh chỉ có thể bắt đầu khi con người ở trong cô đơn” [55]. Trong Kinh Thánh của một người, tác giả đã một lần nữa nhắc lại giá trị của “cô đơn”: “Anh bảo cô đơn tĩnh mịch anh chẳng hề sợ, chính vì thế mà không bị hủy diệt, ngược lại nỗi cô đơn, tĩnh mịch nội tâm đã bảo vệ anh” [23, tr.109]. Ở Linh Sơn cũng vậy, trong bài diễn từ về “Lý do của văn học”, tác giả họ Cao đã thừa nhận quyển tiểu thuyết Linh Sơn của ông là viết để xua đi nỗi cô đơn trong lòng “Tôi viết nó thuần chỉ vì muốn xua đi nỗi cô đơn trong lòng, viết cho riêng mình, chẳng hề mong cầu có khả năng phát biểu” [21, tr.652]. Và trong chương 72 của Linh Sơn, tác giả một lần nữa lại nhắc đến “Hắn vội nói những cái mác đó đều do các hạ dán vào, hắn viết tiểu thuyết để thoát khỏi cô đơn, tìm lấy thú vui” [21, tr.402]. Sáng tác văn chương với ông là vì thỏa niềm cô đơn “Người đọc và người viết tự ý tham dự. Vì thế, văn chương không có nhiệm vụ gì đối với đám đông hay xã hội; và những phán xét đạo đức hay luân lý bị gán ghép bởi đám phê bình gia thích xía vào chuyện của người khác thì chẳng hề hấn gì đến nhà văn” [54]. Quan niệm của ông về văn học là phải vì con người và cần sự trung thực trong cách phản ánh cuộc sống. Ông thừa nhận trong các sáng tác của mình là “Tôi viết về thực tế cuộc sống như nó đang diễn ra, không chỉ ở Trung Quốc, mà còn ở nhiều nơi khác”, giá trị cá nhân con người trong tác phẩm của Cao Hành Kiện là rất lớn “Con người với những vấn đề tồn tại cơ bản của nó, bất kỳ ở đâu, là điều quan tâm chính của tôi. Điều này lớn hơn số phận của một quốc gia, đất nước. Tôi cũng tin như nhiều người hiện nay rằng các hệ thống đại tự sự đã thuộc về quá khứ” [23, tr.663]. Vì vậy, những tác phẩm của Cao Hành Kiện đều phản ánh hiện thực cuộc sống, nhưng cuộc sống mà tác giả họ Cao phản ánh không chỉ là bề mặt nổi của cuộc sống, mà là cái sâu thẳm bên trong của nó “Và dù có là tưởng tượng hay hư cấu đi nữa
  • 26. 20 thì sự chân thật là phẩm chất gốc rễ không bứng đi được của văn học. Nhà văn quay về địa vị chứng nhân, tìm ra cái chân thật, nghi ngờ sự thật đã được ghi chép” [52], “Văn học sau khi cởi hết sự trói buộc của chủ nghĩa này hoặc chủ nghĩa kia, còn phải quay về với cảnh ngộ khốn khổ của đời người, mà cái cảnh khổ của đời người nào có thay đổi là bao, vẫn rành rành là chủ đề muôn thuở của văn học” [52], cái nền tảng kinh nghiệm cuộc sống vẫn là nền tảng vững chắc để ông phát triển. Nhà văn, với con người luôn hoài nghi về cuộc sống, luôn đặt ra những câu hỏi về cuộc sống, nhìn cuộc sống không chỉ bằng bề mặt của nó. Nhìn cuộc sống là như vậy, nhìn chính bản thân của mình cũng như vậy, luôn hoài nghi đối với những diễn biến phức tạp trong tâm hồn mỗi cá nhân. Với tác giả họ Cao “văn học là vì người sống, hơn nữa, là sự khẳng định cái hiện tại đối với người sống”. Tính chân thực trong cuộc sống đối với ông là gốc rễ của văn học. Vì vậy trong tiểu thuyết tính chân thực là điều mà tác giả họ Cao đặt lên hàng đầu và ông đề xuất phải hướng đến việc đề cao tính chân thực trong bản chất của nó, đúng với chiều sâu của nó. Điều này đã được Cao đề xuất trong chương 2, những chương đầu của quyển tiểu thuyết Linh Sơn “hiện thực cuộc sống này, hay nói cách khác bản chất cuộc sống vốn dĩ thế này , không phải thế kia, còn tôi sở dĩ quay lưng với hiện thực cuộc sống chính bởi vì tôi chỉ liệt kê một loạt hiện tượng trong cuộc sống và dĩ nhiên chẳng thể nào phản ánh cuộc sống một cách chính xác, kết quả, tôi chỉ bước vào ngã rẽ của hiện thực méo mó” [21, tr.16] và hiện thực đối với tác giả họ Cao là “Hiện thực tồn tại trong kinh nghiệm mà phải là kinh nghiệm tự thân cơ. Tuy nhiên dù là kinh nghiệm tự thân, qua lời kể bỗng chốc trở thành câu chuyện” [21, tr.19]. Điều này cũng đã thể hiện một phần nào đó quan niệm về cuộc sống và văn chương của tác giả, văn chương là phải đi liền với hiện thực cuộc sống.
  • 27. 21 Ngôn ngữ là một trong những yếu tố cấu thành nên tác phẩm văn học, văn học sẽ không thể có được nếu như không có sự tồn tại của ngôn ngữ. Để phản ánh hiện thực cuộc sống một cách khách quan và trung thực nhất, Cao Hành Kiện chủ trương sử dụng ngôn ngữ chất phác để diễn tả bộ mặt cuộc sống “Anh cần tìm một cách trần thuật đơn giản, những mong sử dụng ngôn ngữ chất phác để miêu tả, trình diện bộ mặt cuộc sống nguyên bản nát bét, bị ô nhiễm chính trị nặng nề nhưng cũng chẳng dễ dàng gì” [23, tr.176]. Bên cạnh đó, ngôn ngữ còn là phương tiện truyền tải những thông tin, những cảm xúc của tâm hồn. Vì vậy, Cao Hành Kiện trong những tác phẩm của mình từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến những vở kịch của ông, ông đều chú ý đến sự cách tân ngôn ngữ, ông chủ trương mang cảm xúc của mình rót đầy ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để diễn tả những cảm xúc của mình. Bởi vì với ông, ngôn ngữ chính là sợi dây nối kết giữa con người và cuộc sống thực. Với ông văn học không chỉ còn là chuyện của một quốc gia, không bị rào cản ngôn ngữ làm mất đi giá trị của tác phẩm văn học “Tác phẩm văn học vượt trên ranh giới quốc gia, thông qua phiên dịch lại vượt trên chủng loại ngôn ngữ, tiến đó vượt qua những mặc định nào đó của tập quán xã hội và quan hệ giữa người với người, vốn hình thành theo khu vực địa lý và lịch sử , để phơi bày sâu xa cái nhân tính phổ quát đại đồng” [22, tr.654]. Ngôn ngữ với ông “Không chỉ là sự truyền đạt ý nghĩa, mà còn để nghiêng tai lắng nghe và xác nhận chính mình” [22, tr.661]. Ông muốn tìm cho mình một thứ ngôn ngữ có thể diễn tả trọn vẹn những tâm tư, xúc cảm của con người, một ngôn ngữ có thể diễn tả được cả những điều không thể nói ra được trong tâm hồn sâu kín của con người. Ở cuối chương 58 tác giả có viết : “Một ngôn từ có thể diễn tả trọn vẹn mọi đau khổ, buồn thương của cuộc đời, nỗi sợ hãi và niềm vui vẻ, cô đơn và an ủi, phân vân và đợi chờ, hoài nghi và quyết đoán, yếu đuối và dũng cảm, ghen tị và nuối tiếc, bình tĩnh và nôn nóng, tự tin, khoan dung và ngại ngùng ,
  • 28. 22 nhân từ và độc ác, bàng quan và yên bình, hèn hạ và thù hận, cao quý và nhẫn tâm, tàn nhẫn và lương tâm, nhiệt tình và lãnh đạm, lạnh lùng, lì lợm, dâm tà, hư vinh, tham lam, tôn trọng và khinh thường, tự phụ, hoài nghi, khiêm tốn và kiêu ngạo, ngoan cường và phẫn nộ, ai oán và hổ thẹn, ngạc nhiên, chán chường, bỗng nhiên tỉnh ngộ, tất cả đều không hiểu, đều không thể làm sáng tỏ, đều cất bước lên đường vì tất cả những cái đó” [21, tr.314]. Những quan niệm về tiểu thuyết của Cao Hành Kiện đã đóng góp một phần cho việc xây dựng đề tài tiểu thuyết. Từ việc lấy đề tài xuất phát từ thực tế cuộc sống, đến việc tự do trong sáng tạo ngôn ngữ tiểu thuyết và xây dựng một hình thức tiểu thuyết mới về cốt truyện nhân vật. Với tác giả họ Cao tiểu thuyết “giống như một nắm bột có thể vắt theo đủ mọi hình thù, tiểu thuyết là uyển chuyển và bao gộp được các hình thức thay đổi cho nhà văn khai thác” [22, tr.672]. Và ông tin rằng, quan điểm về văn học của ông sẽ đóng góp một phần cho những định hướng về việc xây dựng một nền văn học thực thụ “Tôi cũng tin rằng nếu một giống nòi không thể dung chứa thứ văn chương phi thực dụng này, thì đó không chỉ là một sự bất hạnh cho nhà văn mà còn là một biểu thị của sự nghèo nàn tận đáy về tinh thần của giống nòi ấy” [54]. Cao Hành Kiện được coi là một tác giả “trung dung nhất thời này”.
  • 29. 23 Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TRONG LINH SƠN 2.1. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn của Cao Hành Kiện Theo Từ điển văn học “Cốt truyện là thuật ngữ chỉ sự phát triển của hành động, của tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch” [20, tr.324]. Cốt truyện tạo ra một trường hành động cho các nhân vật và cho phép tác giả thể hiện và lý giải tính cách của chúng. Điều đó có nghĩa hành động của nhân vật chính là điều dệt nên cốt truyện. Tuy nhiên, Linh Sơn là một tác phẩm ngoại lệ, nó phá vỡ kiểu kết cấu của cốt truyện truyền thống. Nó xây dựng một cốt truyện không dựa vào hành động của nhân vật, mà cấu trúc gốc của cốt truyện trong Linh Sơn là “bằng trái tim con người”. Về cốt truyện trong Linh Sơn, trong phát biểu “Một hành trình văn học”, Cao Hành Kiện đã thừa nhận rằng tiểu thuyết Linh Sơn không theo một kiểu cốt truyện thông thường: “Cuốn sách không theo đường dây cốt truyện, mà dựa vào thế giới bên trong của tác giả. Thay vì cốt truyện và tình tiết, trái tim tôi là cấu trúc gốc của nó. Điều này giải thích vì sao nó thực sự không nằm vừa bất kỳ phạm trù nào với tư cách là tiểu thuyết” [22, tr.670]. Vấn đề xây dựng cốt truyện còn được nhắc lại ở nhiều trang viết trong Linh Sơn. Đặc biệt là trong chương 72, chương bộc lộ quan điểm xây dựng cốt truyện rõ ràng nhất. Trong cuộc đối thoại tưởng tượng giữa nhà phê bình và nhân vật “hắn”, quan niệm về cốt truyện đã được xây dựng. Theo quan niệm của nhân vật “hắn” - cũng chính là quan niệm của tác giả, muốn xây dựng một cốt truyện khác với cách xây dựng cốt truyện truyền thống. Nhà phê bình văn học, nhân vật tưởng tượng trong cuộc nói chuyện với “hắn”, người đại diện cho một lối hình thức cũ trong tiểu thuyết, đã đưa ra một số quan điểm về cách xây dựng cốt truyện
  • 30. 24 trong tiểu thuyết cũ là một cốt truyện truyền thống phải có đầy đủ ba phần là mở đầu, cao trào và kết luận “Trước hết phải có mở đầu, sau đó phát triển ra, có cao trào, có kết thúc. Ít nhất một cuốn tiểu thuyết phải có những điều cơ bản đó” [21, tr.401]. Nhưng nhân vật “hắn”, người đại diện cho quan niệm của tác giả lại không đồng tình với ý kiến đó. “Hắn” đã đề nghị đến một cách xây dựng cốt truyện khác “Hắn hỏi liệu có còn cách viết khác? Giống như một câu chuyện, có cái kể từ đầu đến cuối, có cái lộn từ cuối lên đầu, có cái có đầu nhưng không kết, một số khác chỉ có kết thúc hoặc một phần không kể tiếp, có cái kể không hết, một số kể cũng được mà không kể cũng chẳng sao, chẳng có gì hay đáng kể. Tất cả những thứ đó đều là chuyện” [21, tr.401]. Tiếp theo đó, khi nhà phê bình phê phán “hắn”: “Ở phương Đông càng không có người tồi tệ như anh! Gộp các chuyện du lịch, chuyện nghe hơi nồi chõ, cảm tưởng, bút ký, tiểu phẩm, các bài nghị luận mang hơi hướng lý thuyết, ngụ ngôn không ra ngụ ngôn, những bài dân ca, ca dao ghi chép được, thêm vào một chút chuyện ma quái thần thoại xào xáo lên cái gọi là tiểu thuyết” [21, tr.402]. “Hắn” nói “những quyển như địa phương chí Chiến Quốc, những hồi ức về người và việc xuất sắc của đời lưỡng Hán, đời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều, truyền kỳ của đời Đường, truyện truyền miệng đời Tống, đời Nguyên, những bút ký và tiểu thuyết chương hồi đời Minh, Thanh. Từ trước đến nay, tất cả những thứ đó được nhắc đến khắp nơi, trở thành ngôn ngữ đường phố, chúng được ghi chép lẫn lộn mà ai có đặt tiêu chuẩn nào cho chúng đâu” [21, tr.402]. Như vậy, theo quan điểm của “hắn” cốt truyện trong tiểu thuyết hiện đại không theo một trình tự nào nhất định, có hoặc không đấy đủ ba yếu tố làm nên một cốt truyện cao trào, phát triển và kết thúc. Cốt truyện theo quan điểm của “hắn” đã bị mờ hóa, mất đi một vài đặc điểm nào của cốt truyện truyền thống. Bên cạnh đó, cốt truyện trong tiểu thuyết hiện đại theo quan điểm hiện đại của “hắn” là sự tập hợp lại những câu chuyện tản
  • 31. 25 mát lại với nhau. Tuy nhiên sự tản mát này là có một mục đích nhất định của tác giả. Trong Linh Sơn, những mảnh ghép đó được ghép lại với nhau trên một nền tảng văn hóa rộng lớn để tạo nên những gì thuộc giá trị của truyền thống Trung Hoa. Như vậy, dựa theo những quan niệm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn theo quan niệm “hắn”- người đại diện cho những cách tân trong tiểu thuyết hiện đại, chúng tôi tiếp xúc đến nghệ thuật xây dựng cốt truyện ở ba cách xây dựng: cốt truyện mờ hóa, cốt truyện kết cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi, cốt truyện siêu tiểu thuyết 2.2. Cách xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn 2.2.1. Cốt truyện mờ hóa Cốt truyện mờ hóa là loại cốt truyện bị khiếm khuyết, hay bị lược bỏ đi một trong những thành phần chính để hình thành nên cốt truyện như mở đầu, phát triển, cao trào và kết thúc. Trong Linh Sơn, chúng ta thấy rằng có một số câu chuyện, mà trong đó phần kết thúc không được nhắc đến đó là trong những chương chứa nhân vật “tôi” như chương 18, chương 10. Ở chương 10, chúng ta thấy rằng, cốt truyện ở đây là kể lại chuyến tham quan của nhân vật “tôi” với người dẫn đường trong khu rừng nguyên sinh và nhân vật “tôi” đã lạc mất người dẫn đường của mình. Câu chuyện được giới thiệu, phát triển tình tiết, và cao trào là nhân vật chính bị thất lạc. Nhưng hầu hết người đọc không thấy được phần kết thúc. Chúng ta chẳng biết cuối cùng nhân vật chính có thoát khỏi khu rừng nguyên sinh đó hay không. Cốt truyện ở đây đã được mờ hóa phần kết thúc, đưa người đọc vào trạng thái hoang mang cực độ để tìm ra phương án giải cứu cho nhân vật chính. Vào cuối chương 10, người đọc chỉ nhận được một hàng chữ để lại của tác giả “Giờ đây tôi giống như một con cá mắc vào lưới bị một cái xiên cá to lớn đâm thủng, cứ giãy giụa mãi mà không thể thay đổi được số phận của mình, trừ phi xuất hiện phép màu. Nhưng cả cuộc đời tôi, chẳng phải cũng đang chờ đợi một phép màu thế này
  • 32. 26 hay thế khác đó sao” [21, tr.64]. Kiểu mờ hóa phần kết thúc cốt truyện được tác giả sử dụng lại trong chương 18, một lần nữa nhân vật chính “tôi” không tìm được lối ra khi mắc kẹt trong bùn trong chuyến viếng thăm bờ hồ Thảo. Câu chuyện được kể lại và lên đến đỉnh điểm, rồi lại không có phần kết thúc làm cho người đọc không biết được phần kết thúc của nó. Khi nhân vật bị mắc kẹt trong khu rừng nguyên sinh, hay vùng đầm lầy và không tìm được lối ra…, mọi tình tiết dẫn đến sự giải thoát đều bị tước bỏ. Trong chương 18, người kể chuyện “tôi” nhận ra rằng kính viễn vọng của trạm quan sát không thể thấy rõ được anh ta, mặt hồ thì vắng vẻ và thời gian là vào buổi chiều tối, không có một bóng người, trời lạnh và bùn ngày càng ngập, chân không rút ra được, tê cứng. Như vậy, chúng ta sẽ không thể tìm ra nguyên nhân cho việc giải cứu người kể chuyện. Cũng tương tự như vậy trong chương 10, khi nhân vật chính bị mắc kẹt trong khu vực trắc địa hàng không 12M ở độ cao hơn ba nghìn mét. Trên người nhân vật chính không có bản đồ trắc địa, xung quanh là sương mù bao phủ không tìm được lối ra và âm thanh cũng bị lạc mất. Tuy nhiên trong hai tình huống xảy ra trong chương 10 và chương 18 chúng ta nhận thấy thái độ và cách giải quyết vấn đề của nhân vật chính. Lúc đầu anh ta có hoảng hốt “Mạch máu thái dương đập mạnh, tôi hiểu ra rằng tự nhiên đã chơi tôi một vố, chơi khăm kẻ không có tín ngưỡng, không biết sợ hãi gì như tôi” [21, tr.63], nhưng sau đó anh ta với thái độ bình tĩnh nhất để suy ngẫm về triết học cuộc đời, anh ta phát hiện ra điều mà anh ta tìm kiếm chính là sự yên tĩnh vắng vẻ không bóng người như vậy “không có tiếng dế rúc, cũng chẳng có tiếng ếch nhái kêu. Chắc đây là cái tĩnh mịch nguyên thủy đã mất hết ý nghĩa mà tôi đang tìm kiếm chăng” [21, tr.108]. Cách kết thúc cốt truyện không có kết quả, nhân vật chính rơi vào tình huống khó khăn bất ngờ và không đưa ra được cách giải quyết, không có bất cứ thông tin nào cho độc giả về phương án
  • 33. 27 giải quyết. Ý định của người kể chuyện trong cách xây dựng tình huống này là cuộc đời này luôn có những chuyện đặt chúng ta trong những tình huống khó xử, những khó khăn buộc ta phải giải quyết một cách khẩn cấp, con người đôi khi rơi vào nỗi tuyệt vọng, nhưng trong lúc đó con người cần phải tìm lại giá trị của chính bản thân mình, cần phải bình tâm lại và suy nghĩ về những vấn đề đã qua. Cuộc sống này luôn có những khó khăn nhưng bên cạnh đó sẽ có những điều giúp chúng ta giải quyết khó khăn. Khó khăn và hướng giải quyết nó luôn tồn tại song song, khi một khó khăn đến, sẽ có phương pháp giải quyết đến cùng. Vấn đề là chúng ta không được làm lạc mất chính bản thân mình. Đây là cách xây dựng cốt truyện theo ý nghĩa bài học cuộc sống. Cuộc sống không theo một mặt phẳng trật tự nào cả, mà các tình tiết xảy ra xung quanh nó một cách rối rắm, không theo logic. Cốt truyện mờ hóa còn được thể hiện ở phương diện tác giả không miêu tả rõ nội dung của cốt truyện. Cách xây dựng cốt truyện này được sử dụng trong những chương người kể chuyện đi tìm lại những ký ức của mình như chương 37 và chương 54. Trong những chương ấy, người kể chuyện như một người lang thang không mục đích, bắt gặp hình ảnh hồi ức tuổi thơ mình trong những nơi mà anh ta đi qua. Ở những chương ấy, người kể chuyện với giọng điệu trầm buồn, mang trong mình một nỗi thất vọng về những ký ức đã bị đánh mất cùng một nỗi hụt hẫng không tìm thấy được lần nữa “Anh đã trở lại những nơi xưa ấy nhưng chẳng tìm thấy chút gì nữa. Không bãi ngói vụn, không căn gác nhỏ, chẳng có cánh cửa to đen sì dày nặng có cái vòng sắt, ngay cả con ngõ nhỏ yên tĩnh trước cửa cũng tìm không thấy chứ đừng nói bức tường chắn có tạc đôi kỳ lân đá” [21, tr.293]. Cốt truyện trong Linh Sơn còn được kể theo nhiều cách. Trong chương 25, câu chuyện được bắt đầu với hai cái cột đá và một bình nguyên ruộng bậc thang rộng bao la. Câu chuyện được kể về nơi địa lí ấy theo nhiều cách kể
  • 34. 28 khác nhau. Câu chuyện đầu tiên là câu chuyện về một vị đại thần làm quan chức Thượng thư bộ hình. Hoàng thượng do tin lời xàm tấu nên đã giết chết toàn bộ gia đình ông ta. Nhân vật “anh” nhận thấy rằng câu chuyện đó còn có thể kể theo cách khác “anh cũng có thể kể theo cốt truyện này” [21, tr.135], và câu chuyện đó còn được kể theo nhiều cách kể thành những câu chuyện khác nhau về nơi chôn vị vương công đại thần phò tá Chu Nguyên Chương, nơi có một gia đình nhà nho làng quê. Như vậy bắt đầu câu chuyện với hai cái cột đá và từ đó có nhiều cách kể khác nhau cho một câu chuyện. Tuy nhiên chúng ta nhận thấy rằng những câu chuyện được kể đều bằng giọng giễu cợt thâm thuý. Khi kể về câu chuyện tuy là hai cách kể khác nhau nhưng chúng ta đều nhận thấy những điều không thật của lịch sử về một vị vua nổi tiếng lỗi lạc nhưng lại rất tàn nhẫn với người đã giúp đỡ mình gìn giữ ngôi báu. Điều đó như một sự vong ân bội nghĩa của con người. Qua câu chuyện vị đại thần đó chúng ta lại có những cách cảm nhận khác nhau về lịch sử “Câu chuyện này cũng có thể có một cách kể khác rất xa với những gì ghi chép trong các sách lịch sử nhưng gần kể với tiểu thuyết bút ký” [21, tr.136]. Câu chuyện thứ hai được kể cũng từ hai cái cột đá là về một nhà Nho suốt đời thi cử lận đận. Cuối cùng được một lời khen của Thánh thượng khi ngài đang mê mải trong nữ sắc. Lời khen đó lại trở thành báu vật đối với nhà Nho này. Một câu chuyện khác để minh chứng cho sự hoài nghi về sự không thật của lịch sử khi nhân vật “tôi” hoài nghi vị vua có công trị thủy của người dân Trung Hoa là Đại Vũ “công lao trị thủy của ông là nạo vét sông Hoàng Hà, nhưng tôi hoài nghi lắm” [ 21, tr.399]. Đại Vũ là một ông vua hiền minh trong lịch sử của Trung Hoa, nhưng dưới ngòi bút “nghi ngờ” của Cao, ông đã nghi ngờ luôn cả sự nhân từ của Đại Vũ. Hoài nghi lịch sử, hoài nghi với những gì dân gian đã nói, Cao là một con người hiện đại với bản tính đa nghi, một bản tính rất đặc trưng của con người hiện đại. Luôn luôn luôn hoài nghi với những gì diễn
  • 35. 29 ra xung quanh họ. Những câu chuyện kể trên đều nói về sự tàn ác trong lịch sử. Và tất cả lịch sử cuối cùng đều biến mất chỉ còn lại một tấm bảng với hàng khẩu hiệu “Vi cách mạng chủng điền, đại công nhi vô tư” [21, tr.138], cùng với sự thờ ơ của thế hệ sau với lịch sử của tổ tiên “bây giờ người ta càng lao động thì càng giàu. Chẳng còn ai hiểu được chữ trên đền thờ nữa. Vả lại con cháu của nhà này đều đã giàu có nhờ buôn bán, làm gì có lúc nhàn rỗi để chữa lại chúng chứ” [21, tr.138]. Tác giả, với tinh thần hoài nghi lịch sử, hoài nghi với chính những gì mà lịch sử đã để lại đã tạo ra nhiều cách kể khác nhau cho một câu chuyện lịch sử. Tinh thần hoài nghi ấy còn được bộc lộ qua những câu chuyện giữa những người trong cuộc nói chuyện với nhau, lòng tin giữa người với người không còn tồn tại nữa “Anh nói nàng nhất định không phải là y tá, trên đường đi nàng toàn kể những chuyện dối trá, những điều nàng nói cũng không phải là bạn của nàng mà chính là nàng, những sự việc chính nàng trải qua. Nàng đáp lại anh cũng chẳng hơn gì nàng” [21, tr.180]. Bên cạnh cốt truyện mờ hóa kết thúc, cốt truyện được kể theo nhiều cách khác nhau, cốt truyện được hiểu theo nhiều cách khác nhau nếu thay đổi phần kết thúc cũng được, chẳng hạn chương 48. Chương 48 kể về một nữ Ni đời Tấn đến nhà quan Tư Mã để hóa giải tai nạn cho vị quan này. Chuyện được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nó có thể là một bài học về đạo đức, một bài học về Phật giáo, một bài học về triết học xử thế “Anh bảo nếu thay đổi phần kết của câu chuyện, thì có thể biến thành bài thuyết giáo đạo đức, nhắc nhở con người không được tham lam háo sắc. Câu chuyện này còn có thể là bài học tôn giáo thúc đẩy con người đi theo đạo Phật. Nó còn có thể là bài triết học xử thế, dạy con người thường xuyên tự vấn lương tâm hoặc chỉ ra nỗi đau khổ của con người, mọi đau khổ ấy xuất phát từ chính ta, từ đó có thể suy ra rất nhiều học thuyết tinh vi sâu sắc. Tất cả tùy thuộc vào các giải thích cuối cùng mà người kể đưa ra” [21, tr.257]. Lối kể chuyện thay đổi kết thúc khác
  • 36. 30 nhau còn được tác giả sử dụng trong chương 61 khi nhân vật “tôi” trong cuộc trò chuyện với anh bạn cùng lớp kể về câu chuyện người rừng. Tuy nhiên, đằng sau kết thúc cho câu chuyện ấy là một sự thật về tội ác của con người “đó cũng là cái hay trong câu chuyện người rừng của cậu. Nghe thì có vẻ vui nhưng thực ra con người cực kỳ tàn nhẫn” [21, tr.347]. Như vậy, cốt truyện mờ hóa giúp cho người đọc có khả năng tư duy khi luôn đặt những câu hỏi nghi vấn về những gì xảy ra xung quanh họ, khi người đọc phải suy nghĩ và tìm ra phương pháp giải quyết tình huống cho câu chuyện. Nó tạo nên lôi cuốn cho người đọc hiện đại. 2.2.2. Cốt truyện kết cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi Cốt truyện kết cấu kép là sự tồn tại hai cốt truyện trong cùng một quyển tiểu thuyết. Tuy nhiên, khác với kết cấu song song, cốt truyện kết cấu kép có một trung tâm làm gốc cho toàn bộ câu chuyện. Nếu như kết cấu song song hai cốt truyện đi cùng nhau và không có điểm gặp gỡ thì cốt truyện kết cấu kép sẽ gặp nhau tại một điểm chung. Điều đó ta dễ dàng nhật thấy được trong Linh Sơn khi cốt truyện được xây dựng theo hành động của nhân vật. Ở Linh Sơn, cuộc hành trình vật lý được xây dựng theo hành động bên ngoài của nhân vật và hành trình tâm linh xây dựng dựa vào hoạt động tinh thần của nhân vật. Tuy nhiên dù là hoạt động tinh thần hay hoạt động bên ngoài thì nó đều xuất phát từ một điểm chung duy nhất là từ bản ngã của một con người phân tách ra. Nó là hai hoạt động vật lý và tinh thần của con người, giữa những gì anh ta thấy và sự tư duy lại những điều anh ta nhận thức. Cốt truyện trong Linh Sơn được xây dựng theo lối kết cấu kép giữa cuộc hành trình vật lý và cuộc hành trình tâm linh của nhân vật chính và bản ngã của anh ấy “khi anh tìm đường đến Linh Sơn thì tôi đang thong thả du lãm dọc sông Trường Giang, chính là để dõi tìm cái điều chân thực ấy” [21, tr.15]. Một trong những cốt truyện trong cấu trúc kép đó là một câu chuyện
  • 37. 31 được kể dựa theo chuyến đi có thật dọc sông Dương Tử của chính bản thân tác giả. Chuyến đi của nhân vật còn lại là chuyến đi khám phá vào nội tâm sâu sắc của con người như đã phân tích ở trên. Kết cấu cốt truyện kép là sự kết hợp giữa những kinh nghiệm của tác giả với ảo giác, cùng những hồi ức mà anh ấy đã trải qua trong quá khứ. Hiện thực và quá khứ đan xen vào nhau, tạo nên một cuộc hành trình mang đậm màu sắc tâm linh. Để lý giải cho việc sử dụng kinh nghiệm bản thân làm nên câu chuyện văn học, tác giả có viết “hiện thực tồn tại trong kinh nghiệm, mà phải là kinh nghiệm tự thân cơ. Tuy nhiên, dù là kinh nghiệm tự thân hễ qua lời kể bỗng chốc biến thành câu chuyện” [21, tr.19]. Nhà văn sử dụng chất liệu từ chính cuộc sống mình, từ những gì mà ông đã trải qua xây dựng nên tình tiết để kể thành những câu chuyện. Vì vậy, người đọc cũng là người bạn song hành cùng tác giả trong cuộc hành trình vật lý. Bên cạnh đó khám phá cùng anh những điều anh thấy trên con đường của mình bằng con mắt lạ lẫm, hiếu kỳ của trẻ thơ khi tiếp xúc với con người, thiên nhiên, và lịch sử khi nhìn những dòng chữ viết về lịch sử như hình con nòng nọc “Bây giờ trong lăng mộ Đại Vũ chẳng còn di tích cổ, chỉ còn một tấm bia đối diện với đại diện viết văn tự hình con nòng nọc mà chưa chuyên gia, học giả nào có thể đọc nổi” [21, tr.400] hoặc “Truyền thuyết nói rằng chính Đại Vũ từng trị thủy ở nơi đây trên bờ sông hiện vẫn còn một tảng đá tròn chạm khắc, người ta lờ mờ đọc được trên đó mười bảy chữ cổ hình con nòng nọc” [21, tr.43]. Sử dụng góc nhìn trẻ thơ giúp cho tác giả giữ được thái độ nhìn nhận khách quan với những sự việc diễn ra xung quanh nó. Nơi bắt đầu trong cuộc hành trình vật lý của tác giả là nằm ở chương hai ở cao nguyên Thanh Tạng và vùng đồng bằng Tứ Xuyên, vùng dân tộc Khương. Tiếp đó người dẫn chuyện xưng “tôi” của chúng ta sẽ dẫn chúng ta đến với cuộc sống của những dân tộc ít người ở trung và thượng lưu của con sông Dương Tử, đi tất cả các con đường từ bờ biển phía Đông Nam sau đó lên
  • 38. 32 phía Bắc. Trong cuộc hành trình này, người kể chuyện nêu lên mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, giữa cá nhân và tập thể. Nếu người đọc theo sát tác giả, tức người kể chuyện xưng “tôi”, nhân vật chính trong vai người dẫn đường cho cuộc hành trình, người đọc có thể vẽ được tuyến đường trên bản đồ đương đại Trung Quốc. Cũng trong cuốn tiểu thuyết này còn tồn tại cuộc hành trình của kẻ theo đuổi mục tiêu đến Linh Sơn, được chỉ ra từ chương 2 “Anh đã tin có một đường đi vẽ nguệch ngoạc trên bao thuốc lá để trong túi áo, tin vào kẻ đồng hành gặp nhau ngẫu nhiên trên xe lửa huống hồ hắn chỉ nghe nói phong phanh, làm thế nào chứng minh hắn nói thật. Anh chưa từng trông thấy một ghi chép xác thực, ngay cả tập sách lớn nói về các địa điểm du lịch mới in gần đây cũng chẳng có đề mục của cái tên này” [21, tr.9]. Cấu trúc cốt truyện kép giúp người đọc đi cùng tác giả được cả trong thực tế và cả trong tưởng tượng trong cùng một cuốn tiểu thuyết. Tuy nhiên, cuộc hành trình thực tế được che phủ bởi tâm lý của con người đang tìm đường đến Linh Sơn. Trong cuộc hành trình vào nội tâm, nội tâm của người kể chuyện trở thành yếu tố chính cho phát triển cốt truyện, chủ yếu là dựa vào tiếng nói khác nhau của những đại từ, đại diện cho những khía cạnh khác nhau của tác giả trong cùng một bản ngã. Cuốn tiểu thuyết được chia làm 81 chương, như 81 tập phim dài được xây dựng bằng cấu trúc kép, chồng chéo đan xen lẫn nhau đưa người đọc đến một mục tiêu cuối cùng là tìm ra được những bản ngã của mình để hoàn thiện mình hơn. Trong cuộc hành trình tâm linh của mình, “anh” và “nàng” đã cùng sáng tạo ra những câu chuyện huyền bí quanh Linh Sơn. Điều đó có nghĩa là hai nhân vật chính “anh” và “nàng” là hai người góp phần xây dựng nên cốt truyện trên con đường đi vào nội tâm của con người “nàng nói nàng không biết thêm thắt để tạo ra câu chuyện huyền bí hơn như anh, hơn nữa anh kể nhiều rồi, còn nàng chẳng qua là mới bắt đầu” [21, tr.162 ].
  • 39. 33 Trong cốt truyện của hành trình tâm linh, cuộc đối thoại giữa nhân vật “anh” và “cái bóng”của anh ấy kéo dài đằng đẵng. Thông qua những cuộc đối thoại như thế những câu chuyện dần dần đã được hình thành “Anh nói tất nhiên rồi, có chuyện của đàn ông, những câu chuyện đàn ông kể cho đàn bà và những chuyện của đàn ông mà đàn bà thích nghe. Anh hỏi nàng muốn nghe loại chuyện nào” [21, tr.168], “Anh nói chuyện của anh đã kể xong rồi, trút hết bao nhiêu sự thô tục và xấu xa hệt như nọc độc của rắn Kỳ xà vậy. Tốt hơn hết là anh hãy nghe những chuyện của đàn bà hoặc giả nói những chuyện mà đàn bà kể cho đàn ông nghe” [21, tr.167]. Trong Linh Sơn chúng ta có thể dễ dàng nhận ra trong cuộc hành trình tâm linh, trong khi cốt truyện của nhân vật “anh” kể hầu hết là những chuyện kể về những huyền thoại xung quanh Linh Sơn “Anh hối hận vì mình đã không đủ dũng khí đi theo nàng, nói những câu mời mọc lãng mạn, những tư tưởng hão huyền mà thiếu chúng thì không thể trở thành một câu chuyện tình được” [21, tr.42]. Nhưng những câu chuyện của “nàng” thì lại khác, những câu chuyện mà “nàng” kể hầu hết là về cuộc sống thực của nàng “nàng bảo những gì cần có nàng đều có hết rồi, có chồng, có con trai, một gia đình nhỏ hạnh phúc dưới mắt người khác” [21,tr.209]. Vì vậy, con đường đi vào thế giới tâm linh của Linh Sơn có sự đan xen lẫn nhau giữa những huyền thoại và những sự thực đã được hư cấu “Nàng bảo nàng không biết kể chuyện, không như anh có thể cả những chuyện tầm phào. Điều nàng muốn là sự thực, một sự thực không giấu giếm. Sự thực của đàn bà” [21, tr.167]. Trong Linh Sơn, hai thủ pháp chính được sử dụng là đối thoại và dòng ý thức. Phương pháp đối thoại được sử dụng rộng rãi trong những chương của tiểu thuyết chủ yếu là những cuộc đối thoại giữa “anh” và “nàng”, “anh” và “hắn”, “tôi” và “hắn”. Những cuộc đối thoại cung cấp cho chúng ta những thông tin về cuộc sống, người kể chuyện cảm thấy hoàn thiện hơn sau nhưng
  • 40. 34 cuộc nói chuyện. Có nhiều cuộc đối thoại dài đằng đẵng chứa đầy mâu thuẫn giữa“anh” và “nàng” ở chương 50, chương 60... Bên cạnh đó cũng có những cuộc đối thoại ngắn, gặp nhau một cách tình cờ giữa “anh” và “hắn” trong chương 1 “Tình cờ trên xe lửa anh đã nghe thấy một người nào đó nói đến một nơi gọi là Linh Sơn. Người đó ngồi đối diện anh, tách trà của anh đặt sát cốc nước của anh ta” [21, tr.6], giữa “tôi” và “hắn”, giữa “tôi” và những đạo sĩ, những hòa thượng đã gặp trên đường như trong chương 47 bàn về ý nghĩa của cuộc sống, về Phật giáo và Đạo giáo. Bên cạnh đó còn có những cuộc đối thoại tưởng tượng như trong chương 52, chương 72 …cho phép người kể chuyện tham gia vào những cuộc tranh luận văn học và trình bày những quan điểm của anh ta về những độc đáo của văn chương như đề tài, nhân vật, cốt truyện…bên cạnh thủ pháp đối thoại thì dòng ý thức cũng được sử dụng để cho phép cuộc phiêu lưu tinh thần được sử dụng tự do trong tác phẩm hư cấu. Những biến cố, tình tiết nhỏ được coi là có giá trị mạnh mẽ hơn so với những tình tiết lớn. Chúng tôi cho rằng chính những tình tiết nhỏ ấy lại góp phần làm đẹp nên bức tranh cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ không đầy đủ, bao gồm nhiều tình tiết nhỏ xây dựng nên nó. Cũng như trong Linh Sơn, những nhân vật phụ như những đạo sĩ trên đường nhân vật “tôi” đã gặp, những người đàn bà đi qua cuộc đời nhân vật “anh”, đứa bé bị bỏ rơi trong rừng vắng…tất cả đều góp phần hình thành nên Linh Sơn, nơi con người hoàn thiện mình hơn. Những nhân vật phụ trong Linh Sơn, họ đến và đi không để lại dấu vết và ý nghĩa gì, nhưng họ là người mở đường, người chỉ dẫn, người bầu bạn với nhân vật chính của chúng ta trên hai cuộc hành trình thực tế và tâm hồn. “Dòng ý thức” phát triển cùng với sự phát triển tâm lý của con người. Cao đã sử dụng thành công thủ pháp tường thuật hiện đại để đạt được những độc đáo cho cuốn tiểu thuyết của mình. “Dòng ý thức” được sử dụng trong
  • 41. 35 những chương mà người kể chuyện nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu trước đó của mình cùng với những kinh nghiệm mà người kể chuyện đã trải qua trong cuộc sống như chương 2, chương 22, chương 35, chương 54… Ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh người kể chuyện dễ dàng quay trở lại quá khứ của mình khi anh ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của những kỷ niệm trước đó, chủ yếu là những hình ảnh mảnh sân, mái ngói, bức tường đổ, con đường lát đá màu xanh hằn vết bánh xe cút kít,…Điều này tạo ra một loại ám thị ký ức mạnh mẽ sâu sắc “Tôi nhìn những viên ngói rầu rĩ, xếp xít như vảy cá gợi cho tôi những kỷ niệm thời thơ ấu” [21, tr.81]. Cao đã từng muốn xây dựng một loại ngôn ngữ kể chuyện không quan tâm đến trình tự, có thể kết hợp thực tế, quá khứ và tưởng tượng. “Dòng ý thức” còn được sử dụng trong những chương có chứa những giấc mơ như trong chương 19 và chương 66, khi người kể chuyện bước vào bóng tối đầy sợ hãi, lo lắng và bất an. Tâm lý người kể chuyện được miêu tả đầy đủ nhất và phân tích sâu sắc trong những chương này. Sức mạnh ngôn ngữ “dòng ý thức” trong việc thể hiện thế giới nội tâm của con người, loại ngôn ngữ không bị chặn bởi những quy tắc và logic “Một ngôn ngữ có thể diễn tả trọn vẹn mọi đau khổ, buồn thương của cuộc đời, nỗi sợ hãi và niềm vui vẻ, cô đơn và an ủi…tất cả đều không hiểu, đều không thể làm sáng tỏ, đều cất bước lên đường vì tất cả những cái đó?” [21, tr.315] Như vậy, cốt truyện của Linh Sơn có kết cấu dạng kép và đan xen nhiều câu chuyện kể với nhau. Tuy nhiên, dù là kết cấu kép hay từng câu chuyện phân mảnh rời rạc thì Linh Sơn vẫn được xây dựng trên một nền tảng vững chắc là tâm hồn con người. Con đường đến Linh Sơn dù là trong thực tế hay trong trí tưởng tượng cũng góp phần giúp con người hoàn thiện hơn, nhìn nhận bản thân mình một cách đầy đủ, trọn vẹn hơn. Nền tảng đó được ví như một trò chơi xếp hình, để rồi cũng phải hoàn thành được bức hình mà trò chơi
  • 42. 36 đã định sẵn “Anh bịa từ đầu đến cuối, chơi những ngôn từ như đứa trẻ đùa nghịch gỗ xếp hình. Những mẫu gỗ xếp hình chỉ có thể xếp cố định theo sơ đồ đã vạch sẵn, tất cả các kết cấu cũng đã bao hàm trong mẫu gỗ đó. Không thể sắp xếp theo kiểu mới cho dù người ta biến đổi thế nào” [21, tr.313]. 2.2.3. Cốt truyện siêu tiểu thuyết Siêu tiểu thuyết có liên hệ sâu xa đến chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó không những chỉ là một loại tiểu thuyết của hậu hiện đại, nó còn là loại tiểu thuyết độc nhất của thời hậu hiện đại. Chúng ta có thể nhận biết tác phẩm siêu tiểu thuyết qua một vài đặc điểm như tự nó có chủ ý, tự nhận thức và tự nhận biết. Tiểu thuyết Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết có chứa những đặc tính của siêu tiểu thuyết qua kỹ thuật xây dựng cốt truyện phản cấu trúc, nhân vật chính không rõ ràng, các tình tiết thì mơ hồ lãng đãng khiến cho người đọc rơi vào trạng thái hoang mang, lẫn lộn. Chúng ta dễ dàng nhận thấy tác phẩm Linh Sơn giống như một trò chơi đang tự nó trình bày cách chơi của nó. Nó đưa ra những quan điểm về xây dựng tiểu thuyết, và cuối cùng không ngoài tác phẩm nào khác, chính nó lấy mình làm tham chiếu. Đây là một trong những đặt trưng của siêu tiểu thuyết “Dùng nó để đánh giá chính bản thân nó”. Tiểu thuyết Linh Sơn đưa ra những quan niệm về xây dựng nhân vật, về cốt truyện, không gian và thời gian trong chương 72, rồi lại sử dụng những chương khác để chứng minh quan điểm sáng tác của mình. Kết cấu nhân vật trong Linh Sơn cũng là một sự tham chiếu lớn khi nhân vật “tôi” tự lấy mình làm tham chiếu, tách ra thành nhiều bản ngã của chính bản thân mình để làm cho mình ngày càng hoàn thiện hơn. Một đặc điểm nữa của siêu tiểu thuyết trình bày trong Linh Sơn là sự đoạn tuyệt với cách kể chuyện truyền thống bằng cách sử dụng đại từ số ít làm nhân vật chỉ biến đổi góc độ tường thuật. Linh Sơn còn phá vỡ luôn cả cách kết cấu cốt truyện bằng cách kết hợp giữa cốt truyện truyền thống cùng với sự cách tân trong xây dựng cốt truyện theo
  • 43. 37 thời kỳ hậu hiện đại: cốt truyện kết thúc không rõ ràng và lấp lửng. Kết cấu truyện độc đáo của siêu tiểu thuyết mà Linh Sơn thể hiện là kết thúc truyện đa kết. Linh Sơn không có kết thúc rõ ràng, đem lại nhiều cách hiểu khác nhau. Người đọc tham gia vào cuộc hành trình cùng tác giả với những thông tin thì bị nhiễu loạn, người đọc bị lẫn lộn giữa thực tế và tưởng tượng của tác giả. Bên cạnh đó một số kỹ thuật viết văn cũng đã làm nên thành công cho Linh Sơn. Kỹ thuật “điềm báo trước” được sử dụng trong chương 36 khi vị chủ trì của Đại Hùng Bảo điện dự đoán trước tương lai của ngôi chùa này sẽ bị hủy diệt, tu viện sẽ bị đốt cháy và biến mất “chỉ có vị cao tăng mới biết được ngôi chùa này sẽ bị hủy hoại” [21, tr.191]. Kỹ thuật “Sử dụng ý nghĩa tượng trưng” về Linh Sơn trong chương 25 và chương 76. Người kể chuyện đã không nhận ra vị trí của Linh Sơn, nhưng Linh Sơn chỉ là một địa điểm, một không gian tồn tại trong tâm tưởng. Linh Sơn là nơi không thể đạt được trong cuộc sống thực. Kỹ thuật “Xây dựng tình huống bí ẩn , thần bí” cũng được sử dụng trong chương 13 và chương 14, nhiều nhân vật thần bí cũng xuất hiện như những người bói toán, những phụ nữ cài hoa trà đỏ, người nữ tu trong chương 48…Kỹ thuật xây dựng “tình huống khó xử” còn được tác giả thể hiện trong chương 44 và chương 50, khi nhân vật “nàng” phải đứng trước sự lựa chọn giữa cuộc sống phiêu lưu và cuộc sống bình thường, rồi từ đó đưa nhân vật chính của chúng ta vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Các kỹ thuật khác như trùng hợp ngẫu nhiên, bất ngờ, cũng được sử dụng nhưng nó chỉ đóng một phần nhỏ. Như vậy, cốt truyện siêu tiểu thuyết cùng một số kỹ thuật hiện đại đã góp phần mang lại cho Linh Sơn một hình thức tiểu thuyết mới pha trộn giữa Đông và Tây, giữa hiện đại và cổ điển.
  • 44. 38 Tiểu kết: Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết có nhiều đổi mới trong xây dựng cốt truyện. Cao Hành Kiện sử dụng linh hoạt những kiểu kết cấu truyền thống để biến đổi kết cấu cốt truyện trong Linh Sơn của riêng mình. Cốt truyện trong Linh Sơn cũng như những thành phần khác góp phần xây dựng nên cuốn tiểu thuyết này đều hỗn độn, gây cho người đọc cảm giác hoang mang, bế tắc. Cốt truyện xây dựng như một biểu hiện tâm trạng của con người thời hậu hiện đại luôn luôn hoài nghi lẫn lộn giữa hiện thực và tưởng tượng.