SlideShare a Scribd company logo
§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI
TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC X· HéI Vµ NH¢N V¡N
-----------------------------------------------------
PH¹M NGUYÔN QUúNH LINH
B¸O NH¢N D¢N VíI C¸C VÊN §Ò §èI NGO¹I,
VËN §éNG QUèC TÕ Vµ §ÊU TRANH NGO¹I GIAO
Tõ N¡M 1951 §ÕN N¡M 1954
LUËN V¡N TH¹C SÜ
Chuyªn ngµnh: LÞch sö §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam
Hµ NéI - 2014
§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI
TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC X· HéI Vµ NH¢N V¡N
-----------------------------------------------------
PH¹M NGUYÔN QUúNH LINH
B¸O NH¢N D¢N VíI C¸C VÊN §Ò §èI NGO¹I,
VËN §éNG QUèC TÕ Vµ §ÊU TRANH NGO¹I GIAO
Tõ N¡M 1951 §ÕN N¡M 1954
LuËn v¨n Th¹c sÜ chuyªn ngµnh LÞch sö §¶ng
M· sè: 6022 03 15
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS Ng« §¨ng Tri
Hµ Néi - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn “Báo Nhân Dân với các vấn đề đối
ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954”
là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Ngô
Đăng Tri mà trước đó chưa có bất cứ tác giả nào công bố.
Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản khóa luận là có tính xác
thực và nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả
Phạm Nguyễn Quỳnh Linh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả xin
bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các cô, chú, anh, chị công tác tại thư viện
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Thư
viện Quốc gia Việt Nam đã cung cấp những tư liệu hết sức quý giá. Tác giả
xin cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam - Khoa Lịch sử - trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn -
Đại học Quốc gia Hà Nội và nhất là sự tận tình hướng dẫn, chỉ bảo của
PGS.TS Ngô Đăng Tri.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do giới hạn về mặt thời gian và nhận thức
nên luận văn không tránh khỏi những thiếu xót, hạn chế. Do vậy, tác giả rất
mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo; những đóng góp ý kiến quý
báu của toàn thể các bạn.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN
ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ NĂM 1951
ĐẾN ĐẦU NĂM 1953..................................................................................... 8
1.1. Sự ra đời của báo Nhân Dân (1951).................................................... 8
1.1.1. Báo chí của Đảng về công tác đối ngoại từ năm 1945 đến
năm 1950.................................................................................................... 8
1.1.2. Sự ra đời của Báo Nhân Dân năm 1951.........................................14
1.2 Báo Nhân Dân với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu
tranh ngoại giao từ năm 1951 đến đầu năm 1953...................................22
1.2.1 Vấn đề đối ngoại và đấu tranh ngoại giao.......................................22
1.2.2. Vận động quốc tế............................................................................29
Chương 2: BÁO NHÂN DÂN VỚI VÂN ĐỀ ĐỐI NGOẠI VẬN
ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ GIỮA
NĂM 1953 ĐẾN NĂM 1954 .........................................................................46
2.1. Về vận động quốc tế............................................................................46
2.1.1. Với ba nước Đông Dương và các nước xã hội chủ nghĩa..............46
2.1.2. Với nhân dân tiến bộ Pháp và các lực lượng yêu chuộng hòa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới............................................55
2.2. Vấn đề đối ngoại và đấu tranh ngoại giao........................................59
2.2.1. Vấn đề đối ngoại ............................................................................59
2.2.2. Về đấu tranh ngoại giao .................................................................61
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM............................................75
3.1. Nhận xét...............................................................................................75
3.1.1. Về ưu điểm.....................................................................................75
3.1.2. Về khuyết điểm ..............................................................................89
3.2. Các kinh nghiệm lịch sử.....................................................................91
3.2.1. Kinh nghiệm phản ánh các lĩnh vực đối ngoại và đấu tranh
ngoại giao .................................................................................................91
3.2.2. Kinh nghiệm vận động quốc tế và bồi dưỡng đội ngũ phóng
viên nâng cao chuyên môn nghiệp vụ......................................................98
KẾT LUẬN..................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................112
PHỤ LỤC.....................................................................................................121
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Công tác báo chí có vai trò quan trọng đối với vấn đề lý luận, tư tưởng
và tổ chức của Đảng ta. Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong
hoạt động của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu
tranh cách mạng. Báo chí là bộ phận hữu cơ, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện
và trực tiếp của Đảng. Nền báo chí Việt Nam là nền báo chí cách mạng, nền
báo chí nhân dân, mang đậm tính độc lập, đồng thời hướng tới sự hiện đại, hội
nhập bình đẳng với báo chí trong khu vực và trên thế giới. Nền báo chí ấy,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng phát triển nhằm thực hiện các mục
tiêu cao cả của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, nền báo chí ấy luôn gắn liền với số phận của nhân dân, hoạt động vì
nhân dân. Tính chất nhân dân, dân tộc và hiện đại của báo chí nước ta thể hiện
trên tất cả các bình diện, từ nội dung đến hình thức, từ quy mô phát triển đến
phương thức phát hành.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), báo chí đã hoàn
thành xuất sắc chức năng của mình đối với sự nghiệp cách mạng, trong đó, có
đóng góp của báo Nhân Dân- cơ quan Trung ương, tiếng nói của Đảng nhà
nước và nhân dân Việt Nam. Báo Nhân Dân ra đời là sự tiếp nối truyền thống
vẻ vang của dòng báo chí cách mạng trước đó. Kể từ số báo Nhân Dân đầu
tiên xuất bản tháng 3- 1951, báo đã góp phần tuyên truyền đường lối đúng
đắn của Đảng, tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lê Nin và
động viên quần chúng nhân dân thực hiện chính sách của Đảng. Báo Nhân
Dân đồng thời đã tái hiện lại khá đầy đủ và toàn diện không khí chiến đấu ác
liệt cũng như tinh thần đấu tranh dũng cảm kiên cường của nhân dân ta trên
tất cả các mặt trân chính trị, quân sự và ngoại giao, phản ánh mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Báo Nhân Dân
2
thật sự là người bạn đáng tin cậy của đồng bào và chiến sĩ ta, là cuốn sử biên
niên của cách mạng nước ta.
Trong kháng chiến, nếu như thắng lợi trên mặt trận quân sự đóng vai trò
quyết định, thì thắng lợi trên mặt trận đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh
ngoại giao có ý nghĩa to lớn, khẳng định những thắng lợi trên mặt trận quân sự.
Đối ngoại được hiểu là những công việc, các quan hệ và hoạt động của một
nước đối với một hoặc một số nước khác, các tổ chức quốc tế. Còn đấu tranh
ngoại giao là nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương lượng
giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Vận động quốc tế
thì được hiểu là hoạt động nhằm tranh thủ sự ủng hộ, chi viện kể cả vật chất và
tinh thần của các nước thuộc lực lượng xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ,
tiến bộ, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới.
Trong giai đoạn từ 1951- 1954, trước những biến đổi to lớn của bối cảnh
quốc tế và trong nước, hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh
ngoại giao của Đảng có nhiều bước chuyển biến quan trọng. Báo Nhân Dân với
vai trò là cơ quan ngôn luận của Đảng đã phát huy vai trò là ngọn cờ đầu trên
mặt trận chính trị tư tưởng của báo chí Việt Nam. Báo từng bước khẳng định vị
trí của mình trong quá trình đấu tranh cách mạng, hoàn thành tốt chức năng
tuyên tuyền đường lối đối ngoại và các hoạt động thực tiễn của Đảng.
Ngày nay, đất nước ta đã giành được độc lập, đang trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập cùng bạn bè quốc tế. Song song với quá
trình tập trung phát triển kinh tế, ổn định xã hội thì hoạt động đối ngoại cũng
là vấn đề luôn được Đảng và nhà nước đặt lên hàng đầu với phương châm
"Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" trên cơ sở tôn
trọng độc lập và bình đẳng lần nhau nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè
quốc tế, sự đầu tư và giúp đỡ của các nước bạn. Trong bối cảnh như vậy có
thể nói, báo chí với vai trò là kênh thông tin truyền tải và tái hiện lại càng trở
nên quan trọng hơn. Báo Nhân Dân từ khi ra đời cho đến nay, với lịch sử 63
3
năm vẻ vang, luôn là ngọn cờ tiên phong về chính trị tư tưởng trên mặt trận
báo chí cần khẳng định hơn nữa vị thế, hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyên truyền
của mình. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, bên cạnh những cơ hội cũng có nhiều vấn đề đặt ra đôí với báo
chí cách mạng nói chung, báo Nhân Dân nói riêng cả trong sự lãnh đạo, chỉ
đạo và về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sự phản ánh các vấn đề đối ngoại,
vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao. Nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng đối với báo chí nói chung, báo Nhân Dân nói riêng, trong đó có giai
đoạn từ khi báo Nhân Dân ra đời đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
(1951- 1954) không chỉ làm rõ một chặng đường lịch sử của tờ báo này mà
còn có thể rút ra những kinh nghiệm phục vụ hiện tại.
Chính vì vậy, với góc độ là đề tài luận văn ThS lịch sử Đảng, đề
tài“Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh
ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954” là một đề tài có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn quan trọng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài về Đảng lãnh đạo công tác báo chí nói chung, vai trò của báo
Nhân Dân trên lĩnh vực đối ngoại nói riêng lâu nay đã được rất nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Như: Báo chí Việt Nam do Hồng Chương chủ
biên xuất bản năm 1985, Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam
(1925- 2010) do Đào Duy Quát chủ biên xuất bản năm 2010...đã trình bày
những nét cơ bản nhất về lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, thống kê và
trình bày sơ lược đặc điểm, quá trình phát triển của các tờ báo cách mạng tiêu
biểu từ năm 1925 đến nay, trong đó có báo Nhân Dân.
Các cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu về báo Nhân Dân như: Sơ thảo
lịch sử năm mươi năm báo Nhân Dân 1951- 2001 do Hồng Vinh chủ biên
xuất bản năm 2001... đã khái quát cả chặng đường phát triển và đặc điểm của
báo Nhân Dân từ khi ra đời đến nay. Bên cạnh đó, báo Nhân Dân với việc
4
phản ánh các vấn đề lịch sử cũng có một số luận văn tốt nghiệp như: Báo
Nhân Dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1951- 1954) của Lê
thị Thanh (khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn,
1994) tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu sự ra đời của báo Nhân Dân, sự phát
triển của báo Nhân Dân trong kháng chiến, báo Nhân Dân có những bài viết
đa dạng về tất cả các lĩnh vực trong kháng chiến chống Pháp như củng cố
chính trị, công tác xây dựng hậu phương, quân sự, ngoại giao...hay luận văn
tốt nghiệp báo Nhân Dân với công cuộc khôi phục cải tạo và bước đầu phát
triển kinh tế 1954- 1960 của Lê Thị Lan Anh (khoa Lịch sử, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn) đã đi vào khảo sát một khía cạnh phản ánh của
báo Nhân Dân đó là phản ánh công cuộc khôi phục cải tạo và bước đầu phát
triển kinh tế của nước ta trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954- 1960...
Một số công trình ít nhiều có đề cập tới sự phản ánh của báo Nhân Dân
về đối ngoại như Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam do Lưu Văn Lợi chủ
biên xuất bản năm 1996; Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành
độc lập, tự do (1945- 1975) của tác giả Nguyễn Phúc Luân xuất bản năm
2001; Ngoại giao Việt Nam 1945- 2000 do Nguyễn Đình Bin chủ biên xuất
bản năm 2002; cuốn Quan hệ Việt- Mỹ (1939- 1945) do Phạm Thu Nga chủ
biên xuất bản năm 2004. Hay dưới dạng luận án như Quan hệ Việt- Lào-
Campuchia trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ 1945-1954 của Đỗ Đình
Hãng; hoặc dưới hình thức là các tư liệu lịch sử lưu trữ như Hoạt động đối
ngoại từ đầu năm 1951 đến 1953- tiền đề giải quyết vấn đề hòa bình ở Việt
Nam (tài liệu lưu trữ tại khoa Lịch sử, trường Đại Học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội).... Các công trình này với quy mô khác nhau đã có đề cập
đến các bài đăng trên báo Nhân Dân về đối ngọai và đấu tranh ngoại giao.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu nào tập trung
nghiên cứu về sự lãnh đạo, chỉ đạo báo Nhân Dân của Đảng từ năm 1951 đến
năm 1954, nhất là vai trò của Báo Nhân Dân trên lĩnh vực đối ngoại, vận
5
động quốc tế và đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến kiến quốc từ
năm 1951 đến năm 1954. Nói cách khác, đề tài Báo Nhân Dân với các vấn đề
đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm
1954 vẫn là một đề tài mới, có nhiều vấn đề cần đi sâu làm rõ thêm, cả về mặt
giá trị lịch sử và kinh nghiệm thiết thực của nó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trình bày những nội dung được báo Nhân
Dân phản ánh từ năm 1951 đến năm 1954 về vấn đề đối ngoại, vận động quốc
tế và đấu tranh ngoại giao, qua đó nêu lên vai trò của báo Nhân Dân đối với
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và rút ra những kinh nghiệm phục vụ
hiện tại.
Nhiệm vụ của luận văn là:
+ Tập hợp những vấn đề về đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh
ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954 được phản ánh trên báo Nhân Dân.
+ Nêu lên chủ trương đối ngoại của Đảng trong kháng chiến chống
Pháp và thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta nhằm tranh thủ
sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến và đấu tranh ngoại giao với
địch góp phần đưa kháng chiến đến thắng lợi.
+ Khẳng định vai trò cũng như chỉ ra các hạn chế của báo Nhân Dân
đối với cuộc kháng chiến trên lĩnh vực đội ngoại, đấu tranh ngoại giao, vận
động quốc tế từ năm 1951 đến năm 1954.
+ Rút ra những kinh nghiệm để phục vụ thực tiễn hiện tại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
đối với báo Nhân Dân từ năm 1951 đến năm 1954, cụ thể là vai trò của báo
Nhân Dân, với tư cách là cơ quan ngôn luận của Đảng, tiếng nói của Đảng và
nhân dân ta trên lĩnh vực đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
6
Phạm vi nội dung nghiên cứu là sự phản ánh của báo Nhân Dân về vấn
đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng, Nhà nước
ta từ năm 1951 đến năm 1954.
Phạm vi lĩnh vực nghiên cứu là hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế
và đấu tranh ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta được phản ánh trên báo
Nhân Dân từ năm 1951 đến năm 1954. Tuy nhiên vì hoạt động đối ngoại là
một hoạt động lớn, sâu rộng thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, nên trong phạm vi luận văn thạc sĩ lịch sử, tác giả luận văn chỉ đề cập
đến hoạt động đối ngoại chính trị của Đảng được phản ánh trên báo Nhân Dân
từ năm 1951 đến năm 1954, các mặt khác đề cập ở mức độ cần thiết.
Phạm vi thời gian là từ năm 1951 khi báo Nhân Dân ra số đầu tiên đến
khi cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp kết thức thắng lợi, tháng 7-1954
(giai đoạn 1945- 1950 và giai đoạn tiếp quản miền Bắc đến tháng 5 năm 1955
chỉ đề cập mức độ cần thiết)
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Phương pháp nghiên cứu là các phương pháp của khoa học lịch sử như
phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, sự kết hợp hai phương pháp ấy.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích, tổng hợp...
Nguồn tư liệu chủ yếu đề thực hiện luận văn là các vấn đề được đăng
trên báo Nhân Dân về chủ trương, chính sách, hoạt động đối ngoại, vận động
quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng, Nhà nước nước ta từ năm 1951 đến
năm 1954. Ngoài ra luận văn còn sử dụng kết quả các nghiên cứu của các tác
giả khác trong các công trình có liên quan, như các sách về lịch sử ngoại giao,
các sách về lịch sử báo chí, về lịch sử kháng chiến chống Pháp, các luận văn,
luận án, bái nghiên cứu trên các tạp chí,... có đề cập tới đấu tranh ngoại giao,
vận động quốc tế thời kỳ 1951- 1954.
7
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Trình bày có hệ thống chủ trương đối ngoại, vận động quốc tế và đấu
tranh ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, nhất là từ năm 1951 đến năm 1954.
- Nêu lên thành tựu, hạn chế, lý giải nguyên nhân của các thành công
và hạn chế của báo Nhân Dân trong việc phản ánh các hoạt động đối ngoại,
vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao, từ đó khẳng định vai trò, sự đóng
góp của báo Nhân Dân đối với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
- Đúc rút những kinh nghiệm phản ánh của báo Đảng nói chung báo
Nhân Dân nói riêng về các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh
ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954 để phục vụ lĩnh vực công tác ngày
hiện nay.
- Cung cấp thêm tư liệu xác thực cho việc nghiên cứu lịch sử báo chí của
Đảng và biện soạn lịch sử báo Nhân Dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương là:
Chương 1: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN ĐỘNG
QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ NĂM 1951
ĐẾN ĐẦU NĂM 1953
Chương 2: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN ĐỘNG
QUỐC TẾ, ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ GIỮA NĂM 1953
ĐẾN NĂM 1954
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
8
Chương 1:
BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI,
VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO
TỪ NĂM 1951 ĐẾN ĐẦU NĂM 1953
1.1. Sự ra đời của báo Nhân Dân (1951)
1.1.1. Báo chí của Đảng về công tác đối ngoại từ năm 1945 đến
năm 1950.
Báo chí Việt Nam từ khi ra đời và phát triển đến ngày nay đã khẳng
định được vai trò quan trọng của mình là kênh thông tin truyền tải và phản
ánh thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại đế quốc
thực dân để giành và giữ nền độc lập đất nước, nếu bọn đế quốc sử dụng báo
chí để xâm lược nước ta, nô dịch nhân dân ta thì dưới sự lãnh đạo của Đảng,
báo chí cách mạng như một thứ vũ khí sắc bén gắn liền với cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc. Trong đó, quá trình tìm tòi và khảo nghiệm
không ngừng của Đảng ta trong việc tìm ra cho mình hình mẫu của một tờ
báo làm cơ quan ngôn luận chung nhất của Trung ương Đảng, làm phương
tiện tuyên truyền đắc lực cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân
tộc, phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng nhân dân là một quá trình
lâu dài và đòi hỏi sự cố gắng rất lớn. Ngay từ khi đất nước còn chìm đắm
trong những đêm dài nô lệ, vấn đề báo chí và đòi tự do báo chí đã được
Nguyễn Ái Quốc đề cập đến bằng nhiều bài viết và sách báo. Người còn sử
dụng mọi diễn đàn để tố cáo chế độ báo chí hà khắc của thực dân Pháp tại
Đông Dương, vạch tràn sự thối nát của báo chí thực dân. Người đã viết nhiều
lần lớn tiếng đòi tự do báo chí, cũng như đòi các quyền tự do dân chủ khác.
Báo Thanh Niên- cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh
Niên xuất bản năm 1925 do Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập ra nền báo chí
cách mạng của giai cấp vô sản làm chủ biên. Báo Thanh Niên là tờ báo đầu
9
tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê Nin vào nước ta mở đầu cho sự nghiệp
báo chí cách mạng Việt Nam. Việc xuất bản báo Thanh Niên đánh dấu một
bước ngoặt trong lịch sử báo chí cách mạng, báo tích cực tuyên truyền chuẩn
bị về tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính Đảng thống nhất. Ngày
3/2/1930 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam khi đã đánh giá cao vai
trò của báo chí. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng có ghi: “Đảng phải mở rộng
tuyên truyền cổ động, ra sách, báo, truyền đơn”… để làm cho “quần chúng
biết mục đích của Đảng và ý kiến của Đảng đối với các việc xảy ra” [2,4]
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, tờ Tranh Đấu cơ quan ngôn luận
đầu tiên của Đảng được xuất bản. Số 1 của báo ra ngày 15-8-1930. Tiếp theo
thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939, Đảng cho xuất bản tờ Dân Chúng vào
năm 1938. Đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất bản công khai và được chính
quyền thực dân thừa nhận sự hợp pháp. Với khoảng 80 số báo trong hơn một
năm tồn tại, báo Dân Chúng đã ghi lại chiến công có ý nghĩa mở đường cho tự
do báo chí, chống lại báo chí phản động của bọn cầm quyền ở Đông Dương.
Trong những năm lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập,
đặc biệt, trong phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939, Đảng Cộng sản
Đông Dương đã sử dụng triệt để vai trò của báo chí để tuyên truyền, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, cổ động, tổ chức quần chúng đấu
tranh. Hàng loạt tờ báo được in và phát hành rộng rãi: Tin Tức, Thời Mới, An
Nam Trẻ, Tiền Phong, Dân Chúng, Lao Động…
Sau chiến tranh thế giới thứ II, cùng với sự thay đổi về chính trị kinh tế
văn hóa xã hội, báo chí cũng bị kéo vào vòng ảnh hưởng và mang một sắc
thái mới. Trước ảnh hưởng của báo chí trong công tác tuyên truyền chính
quyền thực dân đã ban hành một loạt sắc lệnh, nghị định liên quan trực tiếp
đến sự phát triển của báo chí. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã có những chủ
trương đúng đắn kịp thời. Tháng 5-1941, Hội nghị ban chấp hành trung ương
Đảng lần thứ 8 đã thông qua nghị quyết chuyển hướng tổ chức và chỉ đạo ra
10
báo bí mật dưới mọi hình thức. Sau khi mặt trận Việt minh được thành lập,
Đảng ta quyết định xuất bản tờ báo Cứu Quốc làm cơ quan cổ động của Việt
Nam độc lập đồng minh. Ngoài báo chí của mặt trận, Đảng còn chủ trương
xuất bản một loạt các báo của địa phương, các cơ quan đoàn thể, các ngành để
tuyên truyền chính sách của Đảng. Do đó dù không có điều kiện hoạt động
công khai, báo chí Việt Nam đặc biệt là dòng báo chí cách mạng vẫn tiếp tục
phát triển với nhiều tờ báo được xuất bản bí mật.
Có thể nói trước cách mạng tháng tám, Đảng ta đã coi trọng chỉ đạo
trên mặt trận báo chí. Nhận thấy vai trò của báo chí cách mạng đối với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng quan tâm xây dựng đội ngũ cổ động tuyên
truyền trên lĩnh vực tư tưởng. Dù trong điều kiện rất khó khăn, báo chí vẫn
phát triển mạnh mẽ dưới mọi hình thức, trở thành kênh thông tin quan trọng
đến với người dân. Báo chí cách mạng đã trở thành thứ vũ khí sắc bén chĩa
mũi nhọn vào kẻ thù, góp phần tuyên truyền đường lối cách mạng đúng đắn
của Đảng ta.
* Các tờ báo “tiền thân” của báo Nhân Dân với công tác đối ngoại từ
năm 1945 đến năm 1950
Trước khi báo Nhân Dân ra đời, báo chí cách mạng Việt Nam đã có một
truyền thống đấu tranh lâu dài. Sự xuất hiện của báo Nhân Dân - tờ báo lớn
nhất của Đảng ta còn xuất bản cho đến ngày nay là kết quả của quá trình
chuyển đổi thay thế dần từ các tờ báo "tiền thân" của nó. Báo Nhân Dân là sự
kế thừa truyền thống vẻ vang của các tờ báo Thanh Niên, Tranh Đấu, Dân
Chúng, Cứu quốc, Cờ Giải Phóng và báo Sự Thật...do Đảng và các tổ chức tiền
thân của Đảng thành lập nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu đấu tranh cách
mạng, trong đó tiếp nối trực tiếp nhất từ hai tờ báo Cờ Giải Phóng và Sự Thật.
Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (1939), phát xít Nhật nhanh chóng
xâm chiếm Đông Dương, câu kết với Pháp thống trị Đông Dương, vấn đề giải
phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Tháng 10-1942, Tờ Cờ Giải Phóng cơ
11
quan trung ương của Đảng ra đời do đồng chí Trường Chinh phụ trách biên
tập đồng thời cũng là cây bút chính của tờ báo. Trong thời gian tồn tại, từ năm
1942 đến cuối năm 1945, Báo Cờ giải phóng đã góp phần tuyên truyền đường
lối chủ trương chính sách của Đảng. Báo phổ biến những kinh nghiệm công
tác xây dựng Đảng, nhắc nhở cán bộ đảng viên đề cao cảnh giác đối với hoạt
động phá hoại của bọn nội gian. Đặc biệt báo coi trọng việc giáo dục nâng cao
trình độ cán bộ và đảng viên, làm cho Đảng có thể đóng được vai trò tiên
phong trong sự nghiệp cách mạng. Đối với vấn đề đối ngoại, vận động quốc
tế, Cờ giải phóng có vai trò to lớn trong việc khẳng định cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam. Báo đăng những bài phân tích nguyên nhân,
tính chất, diễn biến, triển vọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, vạch rõ
tội ác của bọn phát xít gây chiến, đề cao vai trò của Liên Xô trong cuộc chiến
đấu chống chủ nghĩa phát xít. Báo tích cực chỉ rõ tội các của bọn phát xít
Pháp - Nhật và tay sai phản động ở Đông Dương. Có thẻ nói, Cờ giải phóng
luôn theo dõi bám sát tình hình, nắm bắt được âm mưu, thủ đoạn của địch nên
kịp thời thông tin cho quần chúng. Báo có tác dụng to lớn đối với công cuộc
khởi nghia vũ trang giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám.
Cuối năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật,
báo Cờ giải phóng cũng chấm dứt vai trò lịch sử của mình sau khi đã cống
hiến nhiều công sức cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như
trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam. Là một tờ báo ra đời theo yêu cầu
của điều kiện lịch sử nặng nề chỉ đạo thực tiễn cách mạng nhưng Cờ giải
phóng đã có những đóng góp về giá trị nội dung và nghệ thuật đối với nền báo
chí Việt Nam. Với nội dung bài vở, cách trình bày, hệ thống chương mục của
tờ báo, nó đã bước đầu xây dựng lên hình mẫu của một tờ báo Đảng, là các
bản lề trong quá trình tìm ra một khuôn mặt ổn định cho tờ báo làm tiếng nói
chính thức của Đảng trong hệ thống báo chí Việt Nam. Từ những người cầm
bút, xây dựng và nuôi dưỡng tờ báo lớn lên đã trở thành thế hệ đầu tiên đào
12
tạo ra một lớp người cầm bút, sử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén trong
cuộc đấu tranh cách mạng. Thế hệ cầm bút của Đảng trong thời kỳ đó đã tạo
nên một tiếng nói chung cho dân tộc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn
đọc đến tận mai sau.
Thực hiện đúng như nghị quyết của Đảng về chiến thuật vận động
tuyên truyền trong giai đoạn này. “Báo sách của Đảng phải viết thật dễ hiểu
tránh những danh từ lủng củng và cách nói trừu tượng để cho quần chúng dễ
nhận, văn phải hùng hồn không máy móc khô khan, phải phản ánh quyền lợi
của các giới, phải biết về chính trị để có thể chú trọng về văn hóa nghệ thuật
thể dục”[16, 21]. Cờ Giải Phóng đã cố gắng cả ở nội dung, hình thức, văn
phong, chăm chút từng chữ, từng câu, từng chi tiết nhỏ phấn đấu nâng vị trí
của mình lên ngang tầm lịch sử, trở thành ngọn cờ đầu trong nền báo chí cách
mạng của Đảng ta. Cờ Giải Phóng cũng là tờ báo quan trọng nhất khi Đảng ta
vừa giành được chính quyền sau cách mạng tháng 8-1945.
Trên lĩnh vực báo chí, sau cách mạng tháng Tám, Trung ương Đảng đã
kịp thời có sự chuyển hướng đúng đắn để báo chí làm tốt chức năng của nó.
Báo chí cách mạng lúc này trở thành hệ thống báo chí nằm dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản – trở thành báo chí chính thống của Nhà nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa. Đầu tháng 12-1945 Trung ương Đảng quyết định xuất bản
báo Sự Thật để tiêp tục tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng và hướng
dẫn quần chúng nhân dân.
Do việc Đảng ta rút vào hoạt động, báo Sự Thật được xuất bản dưới
danh nghĩa làm cơ quan tuyên truyền cổ động của hội nghiên cứu chủ nghĩa
Mác ở Đông Dương. Báo Sự thật số 1 ra ngày 5-12-1945 đến tháng 2-1951 thì
ngừng xuất bản, số cuối là số 154 ra ngày 25-12-1950. Sự Thật số 1 đăng xã
luận nêu rõ mục đích xuất bản tờ báo: “Nhân dân Đông Dương đang kháng
chiến. Muốn thắng lợi phải chống óc bè phái và mưu mô chia rẻ, đặng củng
cố mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược'' [16,25]
13
Sự Thật ra đời là sự kế tục và thay thế báo Cờ Giải Phóng làm cơ quan
ngôn luận của Trung ương Đảng, do điều kiện lịch sử Đảng rút vào bí mật vì
thế Sự Thật xuất bản dưới danh nghĩa cơ quan tuyên truyền cổ động cho Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, và khi kháng chiến bùng nổ thì nó
trở thành cơ quan tuyên truyền cổ động kháng chiến. Dù xuất bản dưới danh
nghĩa nào thì Sự Thật cũng đảm nhiệm vai trò làm người tuyên truyền cho học
thuyết Mác chỉ đạo quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến cứu
nước giải phóng dân tộc. Sau cách mạng tháng 8. chính quyền cách mạng non
trẻ phải đối diện với thù trong giặc ngoài. Lúc này, vấn đề đối ngoại, đấu
tranh ngoại giao trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Dưới sự chỉ đạo sâu
sát của đồng chí Trường Chinh và các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng, báo
Sự thật góp phần không nhỏ vào thắng lợi của công cuộc củng cố, xây dựng
và bảo vệ chính quyền nhân dân. Báo tích cực tuyên truyền đường lối đối
ngoại đúng đắn của Đảng ta. Trong cuộc đấu tranh ngoại giao với kẻ thù, Sự
Thật tích cực vạch trần bộ mặt phản động của thực dân Pháp và tay sai đồng
thời tỏ rõ quan điểm của Đảng và chính phủ ta. Báo Sự Thật cũng góp phần
không nhỏ khẳng đinh những thắng lợi trên mặt trận đối ngoại. Trong năm
1950, báo đăng nhiều xã luận giới thiệu về các nước xã hội chủ nghĩa đặt
quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Qua báo Sự Thật các nghị quyết của Đảng,
của chính phủ và Hồ Chủ tịch đã kịp thời đến với nhân dân và hướng hành
động của nhân dân theo sự lãnh đạo chung.
Báo Sự Thật số 1 ra ngày 5-12-1945 đến tháng 2-1951 thì ngừng xuất
bản. Trước khi báo Nhân Dân ra đời, báo Sự Thật là vũ khí sắc bén chống lại
âm mưu chia rẽ hòa bình của lực lượng phản động. Tờ báo đã không ngừng
đấu tranh cho sự tất thắng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tuyên truyền chủ
trương chính sách của Đảng và nhà nước, phản ánh toàn diện các hoạt động
trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
14
Như vậy, các tờ báo "tiền thân" của báo Nhân Dân đã có một truyền
thống đấu tranh vẻ vang, luôn theo sát thực tiễn cách mạng, làm tròn nhiệm
vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Có thể nói, sự ra đời của các tờ
báo này là quá trình chuẩn bị tất yếu nhằm tìm tòi, khảo nghiệm, từ đó tạo cơ
sở, tiền đề quan trọng cho sự ra đời báo Nhân Dân.Với những đóng góp về
nội dung, nghệ thuật đã được chứng minh với lịch sử. Trong đó báo Sự Tthật
là tờ báo tiền thân trực tiếp của tờ báo Nhân Dân – tờ báo Chính phủ là cơ
quan ngôn luận của Trung ương Đảng ta đến tận hôm nay.
Với sự góp sức của toàn Đảng, toàn dân, Nhân Dân là tiếng nói của
Việt Nam kháng chiến, vang khắp vùng tự do và vùng tạm chiếm, cùng tiếng
súng của quân đội nhân dân đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Thực
hiện theo chủ trương của Đảng, báo Nhân Dân đã thực sự trở thành cơ quan
Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, thực sự là tiếng nói của Đảng và
diễn đàn của nhân dân trong một giai đoạn lịch sử kế tiếp.
1.1.2. Sự ra đời của Báo Nhân Dân năm 1951
* Bối cảnh quốc tế
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, quân Đồng minh và nhân dân thế
giới giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống phát xít Đức- Italia- Nhật
Bản. Một cục diện thế giới mới được hình thành trên cơ sở sự thay đổi về
tương quan lực lượng giữa các nước tư bản thắng trận, giữa Liên Xô, Mỹ và
sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Tình hình thế giới đã có sự
thay đổi căn bản, tác động, chi phối tới quan hệ quốc tế, cũng như đối với
dòng chảy lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Liên
Xô trở thành một cường quốc có uy tín và ảnh hưởng rất lớn, một nhân tố
không thể thiếu trong việc giải quyết các mối quan hệ quốc tế. Liên Xô cũng
không còn là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất bị cô lập trong vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa xã hội từ một nước đang trong quá trình hình thành
thành một hệ thống thế giới và dần có vai trò là một nhân tố góp phần quyết
15
định sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Một loạt các nước ở Châu Âu
và Châu Á đã thông qua việc thiết lập chính quyền nhân dân ở các nước đó và
đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, sự ra đời của hàng loạt các nhà
nước Dân chủ nhân dân Đông Âu và sự ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa (1-10-1949) đã đánh dấu bước ngoặt to lớn đưa chủ nghĩa xã hội
thành một hệ thống thế giới. Hoàn cảnh đó tạo thế liên hoàn để các nước hỗ
trợ và giúp đỡ nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội, phối hợp với phong trào cách
mạng trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong khi đó, Mỹ sau chiến tranh là nước thắng trận duy nhất không
những không bị chiến tranh tàn phá, mà còn giàu lên nhanh chóng và trở
thành nước đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa. Mỹ không chỉ có tiềm lực
kinh tế mà còn mạnh về quân sự. Các nước Tây Âu và Nhật Bản đều là con
nợ của Mỹ. Mỹ âm mưu thực hiện những "chiến lược toàn cầu phản cách
mạng" với mục tiêu của mình vươn lên làm bá chủ thế giới. Chiến lược đó
nhằm ngăn chặn Liên Xô, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và
phong trào cách mạng thế giới mà Liên Xô làm chủ cột, tiến tới xóa bỏ hệ
thống xã hội chủ nghĩa, đồng thời xác lập vai trò chi phối toàn diện của Mỹ
trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, buộc các nước này đi theo quỹ đạo
của Mỹ, âm mưu đẩy lùi chống phá phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới, giành giật thuộc địa của các nước đế quốc bị suy yếu. Ngoài học thuyết
Truman, Mỹ còn tiến hành kế hoạch Marshall ở Châu Âu. Mỹ cũng xác định
Pháp có vai trò quan trọng trong việc hình thành liên minh các nước đế quốc
chống Liên Xô và lực lượng cách mạng thế giới, đồng thời phục vụ cho mưu
đồ chiến lược của Mỹ ở khu vực Châu Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam. Đây là nhân tố chi phối thái độ, chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến
tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, trái với quan điểm
trước kia trong việc phản đối Pháp trở lại Đông Dương.
16
Hai nước Anh và Pháp tuy cùng là nước thắng trận nhưng cũng trong
thế suy yếu, chính trị không ổn định. Anh và Pháp có yêu cầu nhất quán là
bảo vệ hệ thống thuộc địa của mình. Nước Pháp đi theo đường lối trung dung
trong quan hệ với Mỹ và khối Xô viết, có chính sách tương đối độc lập so với
Mỹ, Anh trong việc giải quyết các vấn đề Châu Âu. Tuy nhiên khác với Anh,
Pháp thiên về chính sách dùng vũ lực để bảo vệ lợi ích thuộc địa.
Chính sự lớn mạnh của Liên Xô và Mỹ, sự hình thành một hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa, đối lập với các nước đế quốc và lực lượng phản động
quốc tế, cùng việc xác lập trật tự hai cực- trật tự Ianta, đưa tới cuộc đối đầu
gay gắt giữa hai cường quốc Liên Xô- anh cả của các nước xã hội chủ nghĩa
và Mỹ- đại diện cho các nước tư bản. Cuộc "chiến tranh lạnh" giữa hai cường
quốc đã làm cho sự đối đầu giữa hai hệ thống xã hội đối lập, được gọi là đối
đầu Đông - Tây ngày càng sâu sắc. Nó chi phối các mối quan hệ quốc tế và
khu vực trong nhiều thập niên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II trở đi.
Trong khi đó, phong trào cách mạng trên thế giới bao gồm phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phong trào đấu tranh vì hòa bình,
dân chủ và tiến bộ xã hội của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu
Âu, châu Mỹ La Tinh bùng nổ và phát triển mạnh mẽ làm cho hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc bắt đầu tan rã. Các nước đế quốc buộc phải từng
bước rút lui và thừa nhận nền độc lập của các dân tộc. Đại đa số các nước
thuộc địa và bán thuộc địa khác đã giành được độc lập chính trị và đi theo con
đường dân tộc chủ nghĩa. Các quốc gia mới giành độc lập đã từng bước tập
hợp với nhau để bảo vệ, củng cố nền độc lập chính trị và phục hưng đất nước.
Từ năm 1950, tình hình thế giới có nhiều thay đổi không có lợi cho Mỹ và
các nước tư bản đế quốc. Cách mạng Trung Quốc thành công, hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa phát triển, phong trào cách mạng thế giới lên cao, Mỹ sa lầy ở
Triều Tiên, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam ngày càng
17
thắng lợi....Tình hình đó buộc Mỹ phải có những điều chỉnh quan trọng. Giới
quân sự Mỹ thấy rõ, hướng yếu nhất trong chiến lược của Mỹ ở châu Á là Đông
Nam Á, trong đó Đông Dương có tầm quan trọng chiến lược lớn trong lợi ích
quốc tế chung và cũng thiết yếu như lợi ích của Pháp đối với nền an ninh của thế
giới tự do. Cùng với Triều Tiên, Đông Dương trở thành một trong hai gọng kìm
chiến lược "Ngăn chặn cộng sản" của Mỹ ở Đông Nam Á. Đặc biệt, Việt Nam
được xem là khâu then chốt có ảnh hưởng đối với cả khu vực Đông nam Á và
các khu vực khác. Bởi vậy, với thất bại của Pháp, Mỹ ngày càng can thiệp sâu
vào Đông Dương âm mưu kéo dài chiến tranh và dần thay thế Pháp.
* Bối cảnh trong nước
Sau cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ âm mưu
quay trở lại thiết lập nền thống trị thuộc địa trên đất nước ta. Ngày 19-12-
1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng với đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực
cánh sinh" đã giành được nhiều thắng lợi về mặt quân sự. Với chiến thắng
Việt Bắc 1947, ta đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Đến năm
1950, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã giành được nhiều thắng lợi to lớn
về chính trị, ngoại giao, quân sự. Sau chiến thắng Biên giới thu đông năm
1950, ta giành thế chủ động trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, xây dựng được
một hậu phương vững mạnh. Chính quyền cách mạng ở vùng giáp ranh có cơ
sở chính trị vững mạnh là khối đoàn kết toàn dân, được tập hợp trong Mặt
trận Liên Việt. Hậu phương kháng chiến ngày càng được mở rộng và vững
chắc về mọi mặt. Cũng từ sự lớn mạnh về mọi mặt trong quá trình tiến hành
cuộc kháng chiến, uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế,
phá vỡ thế bị bao vây, cô lập với thế giới bên ngoài.
Đầu năm 1950, nhận lời mời của Đảng và chính phủ các nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô
18
Viết, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang thăm hai nước này. Sự kiện đó có ý nghĩa
quan trọng trong lịch sử ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì
nó góp phần phá vỡ vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta, từ đó
mở rộng quan hệ quốc tế, tạo hậu thuẫn vững mạnh cho cuộc kháng chiến
chống Pháp và can thiệp Mỹ. Tiếp đó, chính phủ các nước Trung Quốc, Liên
Xô, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên và một loạt các nước dân chủ
nhân dân khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân
chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ ta được xem
là thắng lợi ngoại giao hết sức to lớn. Thắng lợi này đã tác động và ảnh hưởng
nhiều đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đây cũng chính là điều
kiện thuận lợi để Việt Nam "hòa vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới
một cách trực tiếp và có hiệu quả hơn"[62, 198], đồng thời tạo tiền đề cho các
hoạt động ngoại giao của chính phủ ta ở những giai đoạn sau.
Tình hình mới đòi hỏi Đảng bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng, xác định những chính sách và biện pháp đưa cuộc kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy, tháng 2-1951, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã
họp tại Chiêm Hóa - Tuyên Quang. Đây là một thắng lợi chính trị to lớn của
cuộc kháng chiến. Tại đại hội, Đảng quyết định ra hoạt động công khai và đổi
tên thành Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đảng Lao Động Việt Nam ra đời lúc
này là một sự kiện có ý nghĩa trọng đại về mặt đối nội cũng như về mặt đối
ngoại. Đó là một điều hoàn toàn cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu gấp rút tăng
cường lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang trên đà phát
triển nhanh chóng, đồng thời đáp ứng yêu cầu phối hợp chặt chẽ hơn nữa với
các cuộc kháng chiến cứu nước cũng đang phát triển của các dân tộc Lào và
Campuchia để cùng nhau sát cánh giải phóng toàn bán đảo Đông Dương khỏi
kẻ thù chung. Đại hội Đảng toàn quốc lần II đã thảo luận và thông qua Báo cáo
chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, báo cáo Bàn về cách mạng Việt
19
Nam do Trường Chinh đọc, thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ
mới của Đảng. Việc xuất bản tờ báo mới làm cơ quan ngôn luận chính của
Trung ương thay thế tờ báo Sự Thật cũng trở thành vấn đề cấp thiết.
* Sự ra đời của Báo Nhân Dân năm 1951.
Truớc yêu cầu mới của cuộc kháng chiến với công tác báo chí, Ngày
16-2-1951, Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đã ra nghị quyết xuất bản
một tờ báo kế tục sự nghiệp báo Sự thật lấy tên là Nhân Dân. Nghị Quyết về
báo Nhân Dân- cơ quan trung ương của Đảng chỉ rõ:
"Để tuyên truyền chủ nghĩa và động viên đảng viên và quần chúng
nhân dân thực hành chính sách của Đảng, Đại hội quyết định Đảng Lao Động
Việt Nam xuất bản một tờ báo lấy tên là Nhân Dân cơ quan trung ương của
Đảng. Báo Nhân Dân ra hàng tuần, khi nào có điều kiện sẽ ra hàng ngày. Đối
tượng chính của Nhân Dân là đảng viên ở các chi bộ và quần chúng nhân dân.
Trong thời kỳ kháng chiến vì sự giao thông liên lạc khó khăn, ngoài báo
Trung ương sẽ có hai tờ báo Đảng ở Liên khu V và Nam Bộ lấy tên là Nhân
Dân Liên khu V và Nhân Dân Nam Bộ. Báo Trung ương do Ban chấp hành
Trung ương phụ trách, báo ở Liên Khu V và Nam Bộ do các Ban chấp hành
của hai địa phương ấy phụ trách. Báo Nhân Dân địa phương phải theo đúng
đường lối chính trị của báo Nhân Dân Trung ương và đăng xã luận của báo
Nhân Dân. Cơ quan chỉ đạo các cấp của Đảng, nhất là Trung ương, các khu
và các cán bộ phụ trách mọi ngành của các cấp ủy ấy, có nhiệm vụ viết bài
cho báo Nhân Dân. Mỗi cấp ủy Đảng, từ tỉnh trở lên, phải chỉ định một đồng
chí cấp ủy viên làm thông tin viên cho tờ báo. Các Tỉnh Đảng bộ phải đảm
bảo việc phát hành đều đặn tờ báo của Đảng xuống tận chi bộ" [24, 427].
Sự ra đời của báo Nhân Dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá
trình đấu tranh cách mạng. Nhân dịp báo tròn 40 năm, đồng chí Thép Mới -
người trực tiếp nhận nhiệm vụ ra số báo đầu tiên đã kể lại:
20
" Vào một ngày tháng 2 -1951, Đại hội Đảng lần thứ II của Đảng họp
tại khu rừng lịch sử, không xa Ngòi Trình - Sông Lô đã quyết định thành lập
báo Nhân Dân - cơ quan trung ương của Đảng Lao Động Việt Nam. Ngay sau
đại hội vào một buổi trưa mùa xuân hửng nắng, đồng chí Trường Chinh -
Tổng bí thư của Đảng và đồng chí Tố Hữu - Trưởng ban tuyên huấn của Đảng
ngồi trên những gốc cây khô của một dãy núi không xa khu vực Đại hội, họp
bàn việc xuất bản báo Nhân Dân và quyết định nội dung bài vở hình thức của
tờ Nhân Dân số 1"[76, 7].
Số báo Nhân Dân đầu tiên xuất bản ngày 11-3- 1951. Số đầu tiên của tờ
báo được in tại nhà in Việt Hưng, dưới chân Đèo Khế. Báo Nhân Dân số 1 in
8 trang, khổ vừa 30x40 cm trên giấy trắng. Số 1 báo Nhân Dân do đồng chí
Nguyễn Đỗ Cung trình bày. Những tờ báo đầu tiên của số 1 báo Nhân Dân
vừa được in ra đã có các chiến sĩ quân bưu và giao thông hỏa tốc chuyển đến
các mặt trận, vùng tự do và vùng sau lưng địch, đưa nghị quyết của Đảng đến
với đồng bào chiến sĩ. Số báo Nhân Dân đầu tiên ra ngày 11-3- 1951 đã được
vinh dự công bố chính cương, điều lệ của Đảng, bên cạnh đó là bài chính luận
của đồng chí Trường Chinh, lần đầu tiên công khai trình bày đồng chí Hồ Chí
Minh như người lãnh tụ giai cấp: " Hồ Chủ tịch, Người sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo Đảng ta". Trên trang 6 và 7 báo dành đăng bài giới thiệu về Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II dưới đầu đề của bài tường thuật "Đại hội của
chúng ta", bên cạnh đó là lời của chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân thi
đua sản xuất. Dưới sự chỉ đạo của Bộ chính trị đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh, công việc ra báo đi vào nề nếp tương đối nhanh. Ngày 10-7- 1951, Bộ
chính trị ra nghị quyết 26NQ/TƯ chính thức thành lập Ban biên tập của báo.
Về tổ chức cơ quan báo Nhân Dân có 2 bộ phận: bộ phân biên tập và bộ phận
trị sự, phát hành đặt ở gần nhà in. Bộ phận biên tập do Tổng bí thư Trường
Chinh làm chủ nhiệm. Đồng chí Trần Quang Huy làm thư ký Ban biên tập.
Vào tháng 3-1951, bộ phận biên tập chỉ có 15 người, kể cả nhân viên đánh
21
máy, cấp dưỡng. Bộ phận trị sự do đồng chí Lê Đăng Ninh phụ trách. Nhà in
Việt Hưng do đồng chí Sĩ Trúc làm giám đốc. Kế thừa và phát huy truyền
thống báo Đảng, báo Nhân Dân tích cực thực hiện những nhiệm vụ do Đại
hội II đề ra. Các số báo Nhân Dân đã từng bước cải thiện và nâng cao chất
lượng về nội dung cũng như hình thức, ngày càng thu hút nhiều độc giả hơn.
Báo nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của đội ngũ cộng tác viên. Báo Nhân
Dân đã góp phần quan trọng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng.Báo
Nhân Dân ra đời với chức năng phản ánh trung thành nguyện vọng của nhân
dân, nhiệm vụ và thực tiễn của cuộc kháng chiến, tuyên truyền chủ trương
chính sách của Đảng, đồng thời báo là tiếng nói chung giữa Đảng và nhân
dân. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1951-1954), báo Nhân Dân đã thực
sự trở thành cơ quan Trung ương của Đảng Lao Động Việt Nam, thực sự là
tiếng nói của Đảng và diễn đàn của nhân dân. Quá trình ra đời và phát triển
của báo Nhân Dân trong kháng chiến chống Pháp gắn liền với quá trình phát
triển mới của sự nghiệp kháng chiến và cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, theo hướng tiếp tục giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn. Từng bước theo sát cuộc kháng chiến của nhân dân ta, báo Nhân
Dân luôn luôn thay mặt Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến trên mọi lĩnh vực.
Quy mô của báo phát triển cùng với bước phát triển của cuộc kháng chiến.
Nội dung và hình thức của báo ngày càng hoàn thiện. Bắt đầu từ số báo
đầu tiên ra đời tháng 3-1951, qua hơn một năm thực tiễn, tháng 9- 1952 Bộ
chính trị và Ban bí thư khẳng định rõ ràng nội dung, nhiệm vụ và đối tượng
của báo Nhân Dân một cách chính thức và có hệ thống. Từ ngày 6-2-1953,
báo Nhân Dân rút ngắn một bước kỳ hạn phát hành báo chuyển sang ra 5
ngày một số vào các ngày mùng một, mùng sáu và mười một, mười sáu, hai
mốt, hai sáu. Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), bắt đầu từ
ngày 16-5-1954, báo Nhân Dân lại rút ngắn kỳ hạn phát hành một bước nữa
chuyển sang ra ba ngày một số, rồi hai ngày một kỳ 6 trang, từ số 222 (tháng
22
9-1954) cho tới khi về Hà Nội giữa tháng 10- 1954; từ số 241 ngày 20-10-
1954 báo ra hàng ngày. Quá trình rút ngắn kì hạn phát hành của báo Nhân
Dân không chỉ thể hiện bước phát triển của cuộc kháng chiến, sự cố gắng lớn
của Đảng trong việc từng bước xây dựng và hoàn thiện một tờ báo Đảng xứng
đáng với vị trí của nó trong sự nghiệp cách mạng dân tộc mà còn cho thấy báo
Nhân Dân ngày càng gắn bó mật thiết với quần chúng, đáp ứng đúng nguyện
vọng của nhân dân, được đông đảo bạn đọc đón nhận và ủng hộ.
Đối với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao,
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh tình
hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi. Báo đã đăng nhiều bài phân tích
về các hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt Nam, các sự kiện quốc tế
quan trọng, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, giới thiệu những thành tựu xây
dựng đất nước ở Liên Xô Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông
Âu, nêu cao vấn đề đoàn kết quốc tế giữa Việt Nam và các nước Đông Dương
khác, các hoạt động ngoại giao trong hội nghị Giơnevơ dẫn đến kí kết hiệp
định buộc thực dân Pháp công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước ta...
1.2 Báo Nhân Dân với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu
tranh ngoại giao từ năm 1951 đến đầu năm 1953
1.2.1 Vấn đề đối ngoại và đấu tranh ngoại giao
* Vấn đề đối ngoại:
Vấn đề đối ngoại là một trong những chủ đề thường xuyên trên báo
Nhân Dân. Những thay đổi của bối cảnh quốc tế và trong nước đã có tác động
mạnh mẽ đến hoạt động đối ngoại của Đảng và chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới, với phương châm "tự lực cánh sinh" dựa vào
sức mình là chính song vẫn tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Có thể
23
nói, sự thay đổi căn bản của tình hình quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai
cùng với những bước phát triển của cuộc kháng chiến trong nước đã ảnh
hưởng lớn đến phương hướng, nhiệm vụ và hoạt động ngoại giao của Việt
Nam từ 1946-1954, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại giao của
chính phủ ta đạt được nhiều thành tựu.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng 12-1946, với đường lối
kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh" dưới sự lãnh
đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi. Mục tiêu
cơ bản của cuộc kháng chiến là làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của
Pháp và can thiệp Mỹ, giành lại độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trên
cơ sở phân tích xu hướng phát triển của tình hình thế giới đồng thời xuất phát
từ yêu cầu phá thế bao vây, gắn cuộc kháng chiến với xu thế phát triển cách
mạng ở bên ngoài, tạo thêm thế và lực cho sự nghiệp chống thực dân Pháp
của nhân dân ta, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi "Sau vấn đề phòng
thủ, ngoại giao là vấn đề cần yếu cho một nước độc lập"[62, 95] và kịp thời
đề ra phương hướng nhiệm vụ đối ngoại trong thời chiến. Mặt trận đối ngoại
của ta phát huy tính chất chính nghĩa và tất thắng của cuộc kháng chiến, đẩy
mạnh cuộc vận động quốc tế với nhiều hình thức khác nhau nhằm gắn cuộc
kháng chiến với trào lưu cách mạng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở
các khu vực khác nhau trên thế giới. Đồng thời ta thực hiện sách lược lợi
dụng sự khác nhau về lợi ích trước mắt giữa thế lực thù địch nhất là giữa Mỹ -
Tưởng với Pháp để phân hóa, kiềm chế mưu đồ tăng cường và mở rộng chiến
tranh, tạo tiền đề giành thắng lợi có ý nghĩa bước ngoặt ngay từ giai đoạn đầu
của cuộc chiến tranh. Mục tiêu trước mắt của sách lược tập hợp lực lượng bên
ngoài nhằm kêu gọi các nước dân chủ trên thế giới, các tổ chức dân chủ Pháp
và thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh vì chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn
nữa Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ cần phải "Đoàn kết với Miên,
24
Lào" và "Thân thiện với các dân tộc Tàu, Xiêm (Thái Lan), Ấn Độ, Miến
Điện, Nam Dương (Indonexia) và các dân tộc yêu chuộng dân chủ, hòa bình
trên thế giới " [62, 96]
Tháng 9-1947, chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách người đứng đầu của
Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong dịp trả lời phỏng vấn của báo chí nước
ngoài đã khái quát nhiệm vụ và phương hướng đối ngoại chủ yếu của Việt
Nam, khẳng định Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai" [4, 220]; "Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ
nơi lực lượng của Việt Nam"[4, 105]; "Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui
lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam"[4, 105]. Định hướng đó
chẳng những phản ánh mục tiêu của cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân
ta mà còn có tác dụng làm rõ trong dư luận nước Pháp và các quốc gia khác
về tinh thần thiện chí muốn thúc đẩy quan hệ với các lực lượng dân chủ và
hòa bình trên thế giới. Nó có tác dụng tranh thủ lực lượng trung gian chưa
đứng hẳn về phía thực dân xâm lược Pháp, đồng thời sẵn sàng rộng mở quan
hệ với các lực lượng khác nhau bên ngoài, góp phần vào cuộc phá vây quốc
tế, cô lập thế lực thực dân hiếu chiến Pháp và cải thiện vị trí quốc tế của Việt
Nam. Chủ Tịch Hồ Chí Minh quan tâm tranh thủ sự ủng hộ của các nước châu
Á và các thuộc địa Pháp. Chủ tịch đã nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu
chính phủ các nước mới giành được độc lập như Indonexia, Ấn Độ, Miến
Điện và lãnh tụ các phong trào giải phóng "Vì Tổ quốc, vì tự do, nhân dân
Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng. Vì nhân đạo, vì chính nghĩa, vì
hòa bình chung và lợi ích chung, nhân dân Việt Nam mong các vị giúp đỡ
mọi phương diện"[4, 105]. Có thể nói, mọi cố gắng ngoại giao Việt Nam từ
1946-1950, là nhằm phá vòng vây, nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với các
nước xã hội chủ nghĩa, tạo mối liên hệ trực tiếp với một số nước Đông Nam Á
và từ địa bàn này mở rộng tiếp xúc, tuyên truyền quốc tế, phát triển ngoại
giao nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
25
Từ năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi có lợi
cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam. Nhận thức rõ thời cơ và thách
thức đặt ra, Từ Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 1-1949 đến Đại hội Đảng
lần thứ II ( tháng 2-1951), đặc biệt là sau thắng lợi biên giới 1950, ta giành
thế chủ động trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, Đảng và nhà nước ta đã đề ra
đường lối đối ngoại và sách lược ngoại giao đúng đắn. Hoạt động đối ngoại
trong giai đoạn này là phục vụ cho mục tiêu lớn nhất của cuộc kháng chiến
"Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc
lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới"[62, 114]. Mỹ càng can thiệp vào
Đông Dương thì mâu thuẫn giữa Pháp với Mỹ càng tăng lên, đồng thời sự
chuyển hóa lực lượng càng trở nên phức tạp hơn. Những yếu tố trên là cơ sở
để nhà nước ta định ra chính sách đối ngoại và phương hướng tập hợp lực
lượng bên ngoài, kịp thời chuyển hướng hoạt động ngoại giao và vận động
quốc tế trong bối cảnh cuộc kháng chiến đã có bước phát triển mới. Đại hội
Đảng toàn quốc lần II (2-1951) đã khẳng định Chính sách ngoại giao Việt
Nam phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ,
bình đẳng về quyền lợi, bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới. Đại hội khái quát
đường lối quốc tế của ta là: Đoàn kết chặt chẽ và giúp đỡ hai dân tộc Miên,
Lào kháng chiến giành độc lập, cùng Việt Nam hoàn toàn giải phóng Đông
Dương, tích cực ủng hộ phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, đoàn
kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác,
liên hiệp mật thiết với nhân dân Pháp và nhân dân thuộc địa Pháp, góp phần
vào công cuộc chống đế quốc, gìn giữ hòa bình và dân chủ thế giới.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II (2-1951) của Đảng đã chủ trương xuất
bản báo Nhân Dân, với vai trò là cơ quan ngôn luận của Đảng, tiếng nói đại
diện cho Đảng và quần chúng nhân dân. Ngay từ khi mới ra đời, báo Nhân
Dân đã tích cực hoạt động phục vụ cho nhu cầu của cuộc kháng chiến. Báo
26
Nhân Dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc phản ánh hoạt
động đối ngoại của chính phủ ta từ 1951- 1954.
Với chức năng là cơ quan ngôn luận của Đảng, từ năm 1951 đến năm
1953, báo đăng nhiều bài phân tích về các hoạt động đối ngoại của chính phủ
Việt Nam, các sự kiện quốc tế quan trọng, ủng hộ phong trào đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, giới
thiệu những thành tựu xây dựng đất nước ở Liên Xô Trung Quốc và các nước
dân chủ nhân dân Đông Âu, nêu cao vấn đề đoàn kết quốc tế giữa Việt Nam
và các nước Đông Dương khác, các hoạt động đấu tranh ngoại giao vạch trần
luận điệu lừa bip của kẻ thù.
Qua các bài viết đó, báo Nhân Dân đã phản ánh được hoạt động đối
ngoại, vận động quốc tế tích cực của chính phủ ta cũng như cuộc đấu tranh
ngoại giao gay gắt giữa Việt Nam, cũng như hai nước Đông Dương và các lực
lượng yêu chuộng hòa bình với Pháp, Mỹ và các lực lượng phản động trên thế
giới. Sau khi đặt quan hệ ngoại giao với các nứơc, cùng với việc củng cố, tăng
cường chiều sâu trong quan hệ với các Đảng Cộng sản, công nhân, ta cũng
tích cực triển khai bước đột phá là chủ động thiết lập quan hệ với các đảng
cầm quyền, các đảng tham chính tại nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Mặt khác, quan hệ quốc tế của Đảng ta được mở rộng và làm sâu sắc
trên cả bình diện song phương và đa phương.
Với quan hệ song phương, Đảng chú trọng chiều sâu và tính thiết thực,
theo đó tăng cường mở rộng hợp tác với rất nhiều Đảng thường xuyên nhất là
với Đảng cộng sản Liên Xô, Đảng cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, Đảng cộng sản Cuba, Đảng Nhân dân Campuchia. Từ đó,
Đảng tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế
giới, sự ủng hộ cả về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa anh
em. Đảng cũng bắt đầu tiến hành các cuộc trao đổi lý luận, đối thoại chính trị
với Đảng Cộng sản Pháp.
27
Trên bình diện đa phương, Đảng ta chủ động, tích cực hoạt động, có
những đóng góp thiết thực về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn tại các diễn
đàn của các Đảng cộng sản, các tổ chức quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân Việt Nam đã tăng cường đẩy mạnh kháng chiến đồng thời tham gia
thiết thực và phối hợp mật thiết với cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình trên thế
giới. Việt Nam không chỉ tích cực tổ chức các hoạt động đấu tranh bảo vệ hòa
bình thế giới trong nước mà còn tham gia nhiều hoạt động quốc tế bảo vệ hòa
bình như Đại hội Hòa bình thế giới ở Vácxava (11-1950), Đại hội Hòa bình
thế giới ở Viên (11-1951)...Đồng thời, ta cũng năng động hơn trong việc phối
hợp với các hoạt động của các tổ chức dân chủ thế giới, nhất là trong phong
trào thanh niên, phụ nữ dân chủ và tổ chức liên hiệp công đoàn thế giới...Tất
cả những hoạt động đó đã được phản ánh khá rõ nét trên báo Nhân Dân.
* Về đấu tranh ngoại giao:
Ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp,
thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia.
Thuật ngữ này thông thường đề cập đến ngoại giao quốc tế, việc chỉ đạo, thực
hiện các mối quan hệ quốc tế thông qua sự can thiệp hay hoà giải của các nhà
ngoại giao liên quan đến các vấn đề như kinh tế, thương mại, văn hoá, du lịch,
chiến tranh và tạo nền hòa bình... Các hiệp ước quốc tế thường được đàm
phán bởi các nhà ngoại giao trước tiên để đi đến việc xác nhận chính thức bởi
các chính trị gia của các nước. Trong các bài viết về hoạt động ngoại giao với
kẻ thù, các bài viết trên báo Nhân Dân chiếm một số lượng không lớn, nhưng
đã cho thấy đường lối đối ngoại khéo léo về sách lược và cứng rắn về nguyên
tắc của Đảng và chính phủ ta nhằm cô lập, phân loại kẻ thù, đồng thời khẳng
định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến nhân dân ta.
Đến năm 1951, kẻ thù trực tiếp trong cuộc kháng chiến của nhân dân ba
nước Đông Dương không chỉ có thực dân Pháp mà từ cuối năm 1950, đế quốc
Mỹ đã bắt đầu đẩy mạnh can thiệp vào Đông Dương. Trước sự biến đổi của
28
tình hình quốc tế và trong nước, với sự ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa (1-10-1949) sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lan sang khu vực
Châu Á và đe dọa đến chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Từ đó, Mỹ lại
càng quan tâm hơn đến khu vực Đông Nam Á đặc biệt là Đông Dương. Hơn
nữa, từ năm 1950, trên đà thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam đặc biệt sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới 1950, Liên Xô, Trung
Quốc, hàng loạt các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên…lần lượt
tuyên bố đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Việc thừa nhận ấy đã giáng
một đòn mạnh vào kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, bè lũ bù nhìn
cũng như bọn phản động Mỹ, Anh đang mưu tính trực tiếp can thiệp vào
chiến tranh Việt- Pháp. Cán cân đối đầu giữa hai lực lượng xã hội chủ nghĩa
đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ, Anh,
Pháp đang nghiêng về có lợi cho phe xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Mỹ, Anh,
Pháp phản ứng rất gay gắt. Mỹ coi Đông Dương là một trong những điểm
nóng trong chiến lược chiến tranh lạnh của đế quốc Mỹ và các cường quốc
phương Tây.
Trước tình hình đó, báo Nhân Dân đã phản ánh khá toàn diện âm mưu
cũng như các hoạt động đối ngoại của kẻ thù nhằm gây bất lợi cho cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng trên thế giới. Đồng thời báo bày tỏ thái độ
của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng phản động đó.
Báo Nhân Dân số 12 ra ngày 14-6-1951 có bài "Mỹ Anh Pháp định âm mưu
gì?" chỉ rõ âm mưu của chúng tại hội nghị Tân-gia-ba và phân tích rõ những
phương sách mới của kẻ thù trong việc phối hợp mật thiết hơn trong âm mưu
siết chặt vòng vây xung quanh Trung Quốc, phá hoại phong trào giải phóng
dân tộc Đông Nam Á. Hội nghị Tân- gia-ba là một bước mới của đế quốc Mỹ,
Anh, Pháp trong kế hoạch gây chiến tranh xâm lược và phá hoại hòa bình ở
Viễn Đông. Bài báo nhấn mạnh: "Việt Nam tiếp giáp với Hoa Nam cho nên
trong việc thực hiện chủ trương tại hội nghị, Mỹ Anh đều đồng ý với Pháp là
29
cần tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam và nắm vững Bắc Bộ" [80],
"Vận mệnh của Mã Lai dính chặt với vận mệnh của Đông Dương Bắc Bộ Việt
Nam, trở thành một bộ phận chủ chốt trong hệ thống phòng thủ Đông Nam Á,
do đó thực dân Pháp ở Đông Dương sẽ được quyền ưu tiên trong sự giúp đỡ
của Mỹ-Anh" [80]. Đồng thời, bài báo còn khẳng định Việt Nam sẽ đoàn kết
với nhân dân Trung Quốc và nhân dân Châu Á ra sức tiêu diệt địch để đập tan
âm mưu của Mỹ, Anh, Pháp.
Báo Nhân Dân còn có nhiều bài viết về vấn đề Mỹ muốn lợi dụng việc
ký kết Hòa ước với Nhật Bản tháng 8-1951 nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh chống
Mỹ của nhân dân Nhật Bản, hiệp ước được kí kết với 48 nước trên cơ sở dự
thảo do Mỹ đưa ra có lợi cho Mỹ. Báo đăng liên tiếp trên các số báo 19, 20, 24,
26 (năm 1951) các bài: "Vấn đề hiệp ước hòa bình với Nhật Bản" (số 19 ra
ngày 2-8-1951). Trong bài này, báo đăng Bản tuyên bố của chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa nêu ra những tội ác của Nhật Bản đối với nhân dân
Việt Nam và đưa ra ý kiến phản đối việc Bảo Đại không được phép thay mặt
chính phủ Việt Nam ký hòa ước với Nhật bản. Đến số 20 ra ngày 9-8-1951 lại
có bài viết "Phản đối ký hòa ước riêng với Nhật", số 24 ra ngày 6-9-1951 có
bài "Vấn đề hòa ước với Nhật Bản", số 26 ra ngày 20-9-1951 có bài "Hòa ước
Nhật do Mỹ Anh nặn ra hoàn toàn vô giá trị". Các bài viết này chủ yếu nêu ra
những phương hại mà Việt Nam phải gánh chịu khi Mỹ kí hòa ước với Nhật,
bày tỏ thái độ phản đối của Việt Nam đối với hòa ước, coi hòa ước này như mớ
giấy lộn, khẳng định Mỹ không thể ngăn được làn sóng cách mạng ở Thái Bình
Dương, quyết tâm tiêu diệt thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xâm lược.
1.2.2. Vận động quốc tế
*Đảng tăng cường mối quan hệ với hai nước Đông Dương và tranh thủ
sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa thực dân Pháp chinh phục ba nước Đông Dương từ thế kỷ
XIX. Năm 1887, Pháp thành lập Liên Bang Đông Dương. Trong phạm vi
30
Đông Dương, Pháp thống nhất chính sách thống trị về chính trị, điều hòa phối
hợp quyền lợi về kinh tế nhằm kiểm soát khai thác Đông Dương một cách tốt
nhất. Đối với Việt Nam, Lào, Campuchia, việc Đông Dương trở thành một
thực thể chính trị, kinh tế đã gắn bó số phận của ba nước trong cuộc sống
hàng ngày cũng như trong cuộc đấu tranh chống sự bất công bóc lột vì một
nền độc lập, tự do. Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930
trên cơ sở mối quan hệ mật thiết gắn bó ràng buộc giữa nhân dân Việt Nam,
Campuchia và Lào. Nhờ tinh thần đoàn kết, liên lạc chặt chẽ với nhau thống
nhất hành động chống đế quốc Pháp trên nguyên tắc dân tộc tự quyết, đến
năm 1945 cả ba nước Đông Dương đều giành được chính quyền. Ngay sau
đó, Pháp đã nhanh chóng quay trở lại xâm lược Đông Dương. Trong kế hoạch
tái chiếm Đông Dương, Pháp âm mưu biến Đông Dương thành một chiến
trường, nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào phải đứng lên cầm vũ khí
chống lại. Mối quan hệ lịch sử đã làm cho ba dân tộc anh em trở thành đồng
minh trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung. Trong chỉ thị Toàn dân
kháng chiến ngày 22-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra:
"Chương trình kháng chiến" gồm 12 điểm trong đó nhấn mạnh: "Đoàn kết với
hai dân tộc Miên, Lào và các dân tộc bị áp bức trong khối Liên hiệp Pháp" [9,
158]. Bản thân nhân dân hai nước Campuchia và Lào cũng đều nhận thức sự
cần thiết phải đoàn kết với nhân dân Việt Nam để tăng thêm sức mạnh đấu
tranh. Bởi vậy, trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954) nhân dân ba nước
đã cùng nhau chiến đấu anh dũng, tăng cường các hoạt động đối ngoại nhằm
thắt chặt tinh thần hữu nghị chống lại kẻ thù.
Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tháng 2-1951
đã đánh giá tình hình mới và đề ra nhiệm vụ mới cho 3 nước trong đó nhấn
mạnh: "Vì Đông Dương là một chiến trường cách mạng và Việt Nam có
nhiệm vụ phối hợp với cách mạng Miên- Lào nên lúc này phải tích cực giúp
đỡ cuộc kháng chiến của Miên- Lào phát triển chiến tranh du kích, xây dựng
31
lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa"[62, 161]. Vấn đề tăng cường liên
minh chiến đấu giữa ba nước càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, ngày 11-3-1951,
Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã họp,
gồm đại biểu mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme Ítxarắc, Mặt trận Lào
Itxala. Hội nghị đã quyết định lập khối liên minh nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia. Thành lập khối liên minh nhân dân ba nước Đông Dương là nhân
tố mới cực kỳ quan trọng trong tình hình Đông Dương đang biến chuyển, gắn
bó và tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân 3 nước. Khối liên minh của nhân dân
Việt Nam-Lào-Campuchia thành lập và hoạt động là một điều đặc biệt trong
lịch sử đấu tranh chính trị và vũ trang giành giải phóng dân tộc của nhân dân
ba nước. Đó là một hình thức tổ chức chính trị và pháp lý độc đáo của ba dân
tộc gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống kẻ thù
chung, một hình thức quan hệ quốc tế và phối hợp chiến đấu của ngoại giao
nhân dân trong khi chưa có điều kiện tổ chức sự liên minh chính thức giữa ba
quốc gia. Trước tình hình đó, báo Nhân Dân đã có nhiều bài viết về sự tăng
cường liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Tiêu biểu như ngay
trong số 3 báo Nhân Dân ngày 7-4-1951 có hai bài viết: "Ba dân tộc Việt-
Miên- Lào đoàn kết và đấu tranh đến cùng" và "Tuyên ngôn của Hội nghị liên
minh Việt-Miên-Lào" phân tích quá trình đấu tranh, giành thắng lợi của ba
dân tộc, sự cần thiết phải liên minh vào một mặt trận chung để chống lại âm
mưu chia rẽ của kẻ thù. Các bài viết phân tích nội dung của Tuyên ngôn đó là
hội liên minh ba nước ra đời trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng tương trợ
và tôn trọng chủ quyền để cùng đánh đuổi kẻ thù chung giành độc lập dân tộc
và góp sức bảo vệ hòa bình thế giới;
Trên các trang báo Nhân Dân, tình láng giềng đoàn kết thân thiết giữa
nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia được thể hiện rất rõ thông qua
các bài viết cổ vũ cuộc đấu tranh của 3 nước Đông Dương, nhân dân 3 nước
sát cánh cùng nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Đồng thời, báo
32
có những bài viết ca ngợi tinh thần đấu tranh, bày tỏ niềm tin và quyết tâm
đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và
Campuchia trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Tiêu biểu như trên
trang 2 báo Nhân Dân số 29 ngày 18-10 năm 1951 có bài "Kháng chiến Lào
nhất định thắng lợi" ca ngợi tinh thần yêu nước của nhân dân Lào, quá trình
đấu tranh và những thắng lợi giành được của nhân dân nước bạn, nhân kỷ
niệm lần thứ 6 ngày thành lập Chính phủ Lào. Nhân dân Việt Nam chúc
mừng và tin tưởng nhân dân Lào nhất định thắng lợi.
Ngày 01-10-1949, sau thắng lợi của cách mạng ở Trung Quốc, nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung
Quốc đã làm nghiêng cán cân lực lượng quốc tế về phía cách mạng và hoà
bình. Hai ngày sau, (3-10-1949), Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao với chính phủ Trung Quốc. Hành động thể hiện lập trường trước sau như
một, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Liên Xô có ý nghĩa
thực tiễn vô cùng to lớn. Với hành động này, Liên Xô đã kéo theo hàng loạt
các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa, như Bungari, Hungari, Cộng hoà
dân chủ nhân dân Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ba Lan, Mông Cổ, Cộng hoà dân
chủ nhân dân Đức, Anbani công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc, mở rộng hành lang địa chính trị của phe xã hội chủ nghĩa ra tới biên
giới Việt Trung, góp phần quyết định vào việc phá vỡ vòng vây của chủ nghĩa
đế quốc với Việt Nam, nối Việt Nam với các nước trong phe xã hội chủ
nghĩa. Những điều kiện để chính phủ Hồ Chí Minh thiết lập quan hệ ngoại
giao chính thức với các nước đã chín muồi.
Trung Quốc có mối quan hệ ngoại giao rất quan trọng đối với Việt
Nam. Nhiều thập kỷ trước cách mạng Tháng Tám, Trung Quốc không những
là cửa ngõ, chỗ đứng chân của các nhà yêu nước Việt Nam, mà còn là nơi các
nhà yêu nước Việt Nam tiếp thu tư tưởng của cách mạng tháng Mười. Trên
33
thực tế, nhiều nhà yêu nước Việt Nam đã tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng
Tháng Mười qua lăng kính Trung Quốc.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra cục diện mới
cho cách mạng Việt Nam. Nhờ thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, cách
mạng Việt Nam mới có khả năng thoát khỏi ra tình trạng bị bao vây, cô lập,
kiến lập các mối quan hệ trực tiếp với Liên Xô và các nước trong phe xã hội
chủ nghĩa. Trước vận hội mới, ngày 14-01-1950, Chính phủ nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng hòa tuyên bố cùng với chính phủ các nước ở trên thế giới:
“Trải qua mấy năm kháng chiến, nước Việt Nam từng được nhân dân toàn
thế giới đồng tình và ủng hộ. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tuyên bố với chính phủ các nước trên thế giới rằng: Chính phủ nước Việt
Nam Dân Chủ cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân
dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng
quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt
Nam để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới…” [4, 121]
Ngày 15-1-1950, Bộ Ngoại giao tuyên bố Chính phủ Việt Nam "công
nhận Chính phủ nhân dân Trung Quốc do Chủ tịch Mao Trạch Đông lãnh đạo
và quyết định kiến lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ với
Chính phủ nhân dân Trung Quốc"[24,14]. Ngày 18-1-1950, Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 30-1-
1950, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Liên Xô, sau đó là Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lần lượt
công nhận.Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân thừa
nhận và đặt bang giao với Việt Nam chứng tỏ phe dân chủ thế giới do Liên
Xô đứng đầu quyết tâm giúp đỡ Việt Nam, đặt Việt Nam một cách công khai
và chính thức trong hàng ngũ các nước dân chủ thế giới. Việc thừa nhận đó
được thực hiện là một thắng lợi cho ta, là một cú đau đánh vào thực dân Pháp
34
và phe lũ bù nhìn và cũng là một cú đánh vào bọn phản động Mĩ - Anh đang
mưu tính trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt - Pháp. Ban Thường vụ
Trung ương nêu rõ: Sau cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Đông Dương đã
thành một tiền tiêu trong mặt trận dân chủ chống đế quốc ở Đông Nam Á. Sau
việc các nước thừa nhận Việt Nam, không phải phe phản động quốc tế đã
chùn, trái lại chúng càng xúc tiến mưu mô can thiệp. Vấn đề đặt ra là chúng ta
phải tranh thủ thời gian, bên trong thì củng cố và khuếch trương lực lượng,
bên ngoài thì đón lấy sự giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng của các bạn ta, để
hàng động kịp thời chuyển mạnh sang tổng phản công, giải phóng cho ta,
đồng thời cũng để bảo vệ hoà bình thế giới, bảo vệ Liên Xô, phá âm mưu của
bọn gây chiến, làm cho cách mạng lan rộng ở Đông Nam Á. Việc Chính phủ
các nước chính thức thừa nhận và kiến lập ngoại giao với Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một thắng lợi to lớn về chính trị của ta và cũng là
một việc rất trọng yếu trong lịch sử nước ta. Nó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
kháng chiến hiện thời. Với sự thừa nhận của các nước bạn, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã bắt đầu có địa vị trên trường quốc tế.
Trong năm 1950, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thực hiện lập các
Hội Hữu nghị Việt – Xô và Việt – Trung, nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa
nhân dân hai nước Việt Nam – Liên Xô, Việt Nam – Trung Quốc, mục đích
làm cho nhân dân Việt Nam hiểu biết về Liên Xô, Trung Quốc về mọi mặt:
chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, tăng cường tình đoàn kết giữa nhân dân
hai nước Việ Nam – Liên Xô và Việt Nam – Trung Quốc để đấu tranh cho
hòa bình thế giới.
Để phục vụ tốt việc tuyên truyền, Việt Nam đã đề nghị Liên Xô và
Trung Quốc thỏa thuận để Việt Nam thành lập Đại sứ quán ở thủ đô hai nước.
Tháng 4– 1951, đại sứ quán nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành
lập ở Bắc Kinh. Tháng 2- 1952, đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt
đầu hoạt động ở Mátxcơva. Sứ quán Việt Nam ở Liên Xô, Trung Quốc đóng
35
vai trò quan trọng trong công việc nối Việt Nam với Thế giới, thực hiện thu
thập tin tức, tài liệu, kinh nghiệm về xây dựng, quản lý kinh tế, quân sự, đối
nội, đối ngoại để gửi về nước; cung câp tin tức trong nước phục vụ công tác
tuyên truyền quốc tế của bạn; phối hợp cơ quan ngoại giao, cơ quan tuyên
truyền của các nước bạn kịp thời đối phó với âm mưu của chủ nghĩa đế quốc.
Chính phủ Việt Nam đã cử đoàn đại biểu và nhân dân đi thăm hữu nghị
hoặc đi dự các Đại hội Quốc tế. Ngày 3-8-1951, phái đoàn Việt Nam do
Hoàng Quốc Việt dẫn đầu đã đi thăm Trung Quốc. Phái đoàn “lần lượt đến
chào mừng các vị thủ trưởng hiệp hội và Chính phủ, đi thăm các đoàn thể
nhân dân và tiếp tục với cán bộ, nhân dân thủ đô Trung Quốc mới. Nhân dịp
đó, phái đoàn Hoàng Quốc Việt đã giới thiệu cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam là giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc và tích cực bảo vệ hòa bình
thế giới, nói rõ chủ trương của ta là kháng chiến trường kỳ, ý chí sắt đá của
nhân dân ra là kháng chiến để đến thắng lợi toàn thắng” [18; 44].
Cuối năm 1952, đoàn đại biểu Việt Nam do đồng chí Tôn Đức Thắng
dẫn đầu đến thăm Trung Quốc. Cuộc viếng thăm nhằm mục đích thắt chặt
tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt – Hoa và trao đổi học tập
kinh nghiệm. Tại cuộc viếng thăm, phái đoàn Việt Nam đã báo cáo tình hình
kháng chiến Việt Nam, sự trưởng thành của quân đội, sự phát triển của chiến
tranh du kích, sự tham gia, phục vụ tiền tuyến của hàng vạn dân công trong
một chiến dịch, những thành tích chiến đấu anh dũng của bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương dân quân du kích, sự nỗ lực thi đua sản xuất của công nhân và
nông dân, sự hăng hái đóng góp của các tầng lớp nhân dân Việt Nam cho
kháng chiến [18,45].
Tháng 10– 1952, nhân ngày Quốc khánh của Trung Quốc, Đảng và
Chính phủ Việt Nam đã có lời chúc mừng đến Đảng và nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam nêu cao vai trò của Trung Quốc đối với phong trào cách mạng thế
giới cũng như cách mạng Việt Nam, đồng thời Chính phủ Việt Nam cũng
36
khẳng định Trung Quốc thắng lợi, nghĩa là Việt Nam thắng lợi, không những
vì từ xưa đến nay, hai dân tộc Việt– Hoa có quan hệ khăng khít về địa lý, kinh
tế, văn hóa mà còn vì cách mạng Trung Quốc đã giúp đỡ cho cách mạng Việt
Nam nhiều kinh nghiệm quý báu về kháng chiến kiến quốc”[18,45]
Trong bối cảnh đó, nhằm cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng, Báo
Nhân Dân có nhiều bài viết về hoạt động ngoại giao với Trung Quốc như:
việc thành lập Đại sứ quán đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
tại Trung Quốc, báo Nhân Dân có bài "Củng cố tình hữu nghị Việt Hoa"
(trang 1 báo Nhân Dân số 9 ngày 20-5-1951) viết về sự kiện ngày 8-4-1951,
tại Bắc Kinh đồng chí Hoàng Văn Hoan đại diện chính phủ nước ta làm Đại
sứ đặc mệnh toàn quyền đã trình quốc thư lên chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa, lần đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có Đại sứ quán ở
nước ngoài. Ngoài ra báo Nhân Dân còn có nhiều bài viết ca ngợi Đảng Cộng
sản Trung Quốc như trên báo số 14 ngày 28-6-1951 có bài "Mừng 30 năm
thành công vĩ đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc" nêu lên quá trình thành
lập và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, những nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam và những điều học
hỏi, noi theo gương sáng của Trung Quốc; Các bài viết về các chuyến thăm
của đoàn đại biểu Việt Nam đến thăm Trung Quốc và đại biểu Trung Quốc tới
Việt Nam như "Hoan nghênh đoàn đại biểu Việt Nam sang thăm Trung Quốc"
(số 19 ngày 2-8-1951), "Phái đoàn Hoàng Quốc Việt sang thăm Trung Quốc"
(số 20 ngày 9-8-1951), "Thăm Trung Quốc" của tác giả Tôn Đức Thắng trên
báo Nhân Dân số 42 ngày 24-1-1952 viết về sự kiện sau chiến dịch Cao Lạng,
biên giới Việt- Trung được mở rộng phái đoàn ngoại giao của ta đã sang thăm
Trung Quốc để thắt chặt thêm tình hữu nghị và trao đổi học tập kinh nghiệm
lẫn nhau, ngưỡng mộ trước sự thành công của nước bạn và sự tin tưởng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta...Bên cạnh đó, trên báo Nhân
Dân còn có các bài viết, các điện văn chúc mừng kỉ niệm các ngày lễ lớn của
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf

More Related Content

Similar to Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf

Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
NuioKila
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Man_Ebook
 
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài Trangluanvan.com / 0934.536.149
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nướcLuận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
ssuser499fca
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
ssuser499fca
 
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống MỹPhong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
CHUYEN DE 2020.pptx
CHUYEN DE 2020.pptxCHUYEN DE 2020.pptx
CHUYEN DE 2020.pptx
PHCHONG812925
 
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
nataliej4
 
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...
Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...
Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống phápĐảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namTiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Heli Sama
 
Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)
Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)
Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài Trangluanvan.com / 0934.536.149
 
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhLuận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh HòaTổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf (20)

Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
 
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
 
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nướcLuận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống MỹPhong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
 
CHUYEN DE 2020.pptx
CHUYEN DE 2020.pptxCHUYEN DE 2020.pptx
CHUYEN DE 2020.pptx
 
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
 
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
 
Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...
Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...
Vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lã...
 
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống phápĐảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
 
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namTiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
 
Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)
Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)
Luận văn: Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí – Xuất Bản.
 
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhLuận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
 
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh HòaTổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
 
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
 

More from NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
NuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
NuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
NuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
NuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
NuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
NuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
NuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
NuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
NuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
NuioKila
 

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
vivan030207
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
onLongV
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
PhiTrnHngRui
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
ChuPhan32
 

Recently uploaded (18)

Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
 

Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954.pdf

  • 1. §¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC X· HéI Vµ NH¢N V¡N ----------------------------------------------------- PH¹M NGUYÔN QUúNH LINH B¸O NH¢N D¢N VíI C¸C VÊN §Ò §èI NGO¹I, VËN §éNG QUèC TÕ Vµ §ÊU TRANH NGO¹I GIAO Tõ N¡M 1951 §ÕN N¡M 1954 LUËN V¡N TH¹C SÜ Chuyªn ngµnh: LÞch sö §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam Hµ NéI - 2014
  • 2. §¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC X· HéI Vµ NH¢N V¡N ----------------------------------------------------- PH¹M NGUYÔN QUúNH LINH B¸O NH¢N D¢N VíI C¸C VÊN §Ò §èI NGO¹I, VËN §éNG QUèC TÕ Vµ §ÊU TRANH NGO¹I GIAO Tõ N¡M 1951 §ÕN N¡M 1954 LuËn v¨n Th¹c sÜ chuyªn ngµnh LÞch sö §¶ng M· sè: 6022 03 15 Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS Ng« §¨ng Tri Hµ Néi - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản Luận văn “Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Ngô Đăng Tri mà trước đó chưa có bất cứ tác giả nào công bố. Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản khóa luận là có tính xác thực và nguồn gốc rõ ràng. Tác giả Phạm Nguyễn Quỳnh Linh
  • 4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các cô, chú, anh, chị công tác tại thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Thư viện Quốc gia Việt Nam đã cung cấp những tư liệu hết sức quý giá. Tác giả xin cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Khoa Lịch sử - trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và nhất là sự tận tình hướng dẫn, chỉ bảo của PGS.TS Ngô Đăng Tri. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do giới hạn về mặt thời gian và nhận thức nên luận văn không tránh khỏi những thiếu xót, hạn chế. Do vậy, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo; những đóng góp ý kiến quý báu của toàn thể các bạn.
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ NĂM 1951 ĐẾN ĐẦU NĂM 1953..................................................................................... 8 1.1. Sự ra đời của báo Nhân Dân (1951).................................................... 8 1.1.1. Báo chí của Đảng về công tác đối ngoại từ năm 1945 đến năm 1950.................................................................................................... 8 1.1.2. Sự ra đời của Báo Nhân Dân năm 1951.........................................14 1.2 Báo Nhân Dân với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến đầu năm 1953...................................22 1.2.1 Vấn đề đối ngoại và đấu tranh ngoại giao.......................................22 1.2.2. Vận động quốc tế............................................................................29 Chương 2: BÁO NHÂN DÂN VỚI VÂN ĐỀ ĐỐI NGOẠI VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ GIỮA NĂM 1953 ĐẾN NĂM 1954 .........................................................................46 2.1. Về vận động quốc tế............................................................................46 2.1.1. Với ba nước Đông Dương và các nước xã hội chủ nghĩa..............46 2.1.2. Với nhân dân tiến bộ Pháp và các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới............................................55 2.2. Vấn đề đối ngoại và đấu tranh ngoại giao........................................59 2.2.1. Vấn đề đối ngoại ............................................................................59 2.2.2. Về đấu tranh ngoại giao .................................................................61 Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM............................................75 3.1. Nhận xét...............................................................................................75 3.1.1. Về ưu điểm.....................................................................................75 3.1.2. Về khuyết điểm ..............................................................................89
  • 6. 3.2. Các kinh nghiệm lịch sử.....................................................................91 3.2.1. Kinh nghiệm phản ánh các lĩnh vực đối ngoại và đấu tranh ngoại giao .................................................................................................91 3.2.2. Kinh nghiệm vận động quốc tế và bồi dưỡng đội ngũ phóng viên nâng cao chuyên môn nghiệp vụ......................................................98 KẾT LUẬN..................................................................................................109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................112 PHỤ LỤC.....................................................................................................121
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Công tác báo chí có vai trò quan trọng đối với vấn đề lý luận, tư tưởng và tổ chức của Đảng ta. Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh cách mạng. Báo chí là bộ phận hữu cơ, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng. Nền báo chí Việt Nam là nền báo chí cách mạng, nền báo chí nhân dân, mang đậm tính độc lập, đồng thời hướng tới sự hiện đại, hội nhập bình đẳng với báo chí trong khu vực và trên thế giới. Nền báo chí ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng phát triển nhằm thực hiện các mục tiêu cao cả của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nền báo chí ấy luôn gắn liền với số phận của nhân dân, hoạt động vì nhân dân. Tính chất nhân dân, dân tộc và hiện đại của báo chí nước ta thể hiện trên tất cả các bình diện, từ nội dung đến hình thức, từ quy mô phát triển đến phương thức phát hành. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), báo chí đã hoàn thành xuất sắc chức năng của mình đối với sự nghiệp cách mạng, trong đó, có đóng góp của báo Nhân Dân- cơ quan Trung ương, tiếng nói của Đảng nhà nước và nhân dân Việt Nam. Báo Nhân Dân ra đời là sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của dòng báo chí cách mạng trước đó. Kể từ số báo Nhân Dân đầu tiên xuất bản tháng 3- 1951, báo đã góp phần tuyên truyền đường lối đúng đắn của Đảng, tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lê Nin và động viên quần chúng nhân dân thực hiện chính sách của Đảng. Báo Nhân Dân đồng thời đã tái hiện lại khá đầy đủ và toàn diện không khí chiến đấu ác liệt cũng như tinh thần đấu tranh dũng cảm kiên cường của nhân dân ta trên tất cả các mặt trân chính trị, quân sự và ngoại giao, phản ánh mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Báo Nhân Dân
  • 8. 2 thật sự là người bạn đáng tin cậy của đồng bào và chiến sĩ ta, là cuốn sử biên niên của cách mạng nước ta. Trong kháng chiến, nếu như thắng lợi trên mặt trận quân sự đóng vai trò quyết định, thì thắng lợi trên mặt trận đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao có ý nghĩa to lớn, khẳng định những thắng lợi trên mặt trận quân sự. Đối ngoại được hiểu là những công việc, các quan hệ và hoạt động của một nước đối với một hoặc một số nước khác, các tổ chức quốc tế. Còn đấu tranh ngoại giao là nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Vận động quốc tế thì được hiểu là hoạt động nhằm tranh thủ sự ủng hộ, chi viện kể cả vật chất và tinh thần của các nước thuộc lực lượng xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ, tiến bộ, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới. Trong giai đoạn từ 1951- 1954, trước những biến đổi to lớn của bối cảnh quốc tế và trong nước, hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng có nhiều bước chuyển biến quan trọng. Báo Nhân Dân với vai trò là cơ quan ngôn luận của Đảng đã phát huy vai trò là ngọn cờ đầu trên mặt trận chính trị tư tưởng của báo chí Việt Nam. Báo từng bước khẳng định vị trí của mình trong quá trình đấu tranh cách mạng, hoàn thành tốt chức năng tuyên tuyền đường lối đối ngoại và các hoạt động thực tiễn của Đảng. Ngày nay, đất nước ta đã giành được độc lập, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập cùng bạn bè quốc tế. Song song với quá trình tập trung phát triển kinh tế, ổn định xã hội thì hoạt động đối ngoại cũng là vấn đề luôn được Đảng và nhà nước đặt lên hàng đầu với phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" trên cơ sở tôn trọng độc lập và bình đẳng lần nhau nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, sự đầu tư và giúp đỡ của các nước bạn. Trong bối cảnh như vậy có thể nói, báo chí với vai trò là kênh thông tin truyền tải và tái hiện lại càng trở nên quan trọng hơn. Báo Nhân Dân từ khi ra đời cho đến nay, với lịch sử 63
  • 9. 3 năm vẻ vang, luôn là ngọn cờ tiên phong về chính trị tư tưởng trên mặt trận báo chí cần khẳng định hơn nữa vị thế, hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyên truyền của mình. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những cơ hội cũng có nhiều vấn đề đặt ra đôí với báo chí cách mạng nói chung, báo Nhân Dân nói riêng cả trong sự lãnh đạo, chỉ đạo và về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sự phản ánh các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao. Nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với báo chí nói chung, báo Nhân Dân nói riêng, trong đó có giai đoạn từ khi báo Nhân Dân ra đời đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1951- 1954) không chỉ làm rõ một chặng đường lịch sử của tờ báo này mà còn có thể rút ra những kinh nghiệm phục vụ hiện tại. Chính vì vậy, với góc độ là đề tài luận văn ThS lịch sử Đảng, đề tài“Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954” là một đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đề tài về Đảng lãnh đạo công tác báo chí nói chung, vai trò của báo Nhân Dân trên lĩnh vực đối ngoại nói riêng lâu nay đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Như: Báo chí Việt Nam do Hồng Chương chủ biên xuất bản năm 1985, Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925- 2010) do Đào Duy Quát chủ biên xuất bản năm 2010...đã trình bày những nét cơ bản nhất về lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, thống kê và trình bày sơ lược đặc điểm, quá trình phát triển của các tờ báo cách mạng tiêu biểu từ năm 1925 đến nay, trong đó có báo Nhân Dân. Các cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu về báo Nhân Dân như: Sơ thảo lịch sử năm mươi năm báo Nhân Dân 1951- 2001 do Hồng Vinh chủ biên xuất bản năm 2001... đã khái quát cả chặng đường phát triển và đặc điểm của báo Nhân Dân từ khi ra đời đến nay. Bên cạnh đó, báo Nhân Dân với việc
  • 10. 4 phản ánh các vấn đề lịch sử cũng có một số luận văn tốt nghiệp như: Báo Nhân Dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1951- 1954) của Lê thị Thanh (khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, 1994) tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu sự ra đời của báo Nhân Dân, sự phát triển của báo Nhân Dân trong kháng chiến, báo Nhân Dân có những bài viết đa dạng về tất cả các lĩnh vực trong kháng chiến chống Pháp như củng cố chính trị, công tác xây dựng hậu phương, quân sự, ngoại giao...hay luận văn tốt nghiệp báo Nhân Dân với công cuộc khôi phục cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế 1954- 1960 của Lê Thị Lan Anh (khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) đã đi vào khảo sát một khía cạnh phản ánh của báo Nhân Dân đó là phản ánh công cuộc khôi phục cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế của nước ta trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954- 1960... Một số công trình ít nhiều có đề cập tới sự phản ánh của báo Nhân Dân về đối ngoại như Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam do Lưu Văn Lợi chủ biên xuất bản năm 1996; Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945- 1975) của tác giả Nguyễn Phúc Luân xuất bản năm 2001; Ngoại giao Việt Nam 1945- 2000 do Nguyễn Đình Bin chủ biên xuất bản năm 2002; cuốn Quan hệ Việt- Mỹ (1939- 1945) do Phạm Thu Nga chủ biên xuất bản năm 2004. Hay dưới dạng luận án như Quan hệ Việt- Lào- Campuchia trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ 1945-1954 của Đỗ Đình Hãng; hoặc dưới hình thức là các tư liệu lịch sử lưu trữ như Hoạt động đối ngoại từ đầu năm 1951 đến 1953- tiền đề giải quyết vấn đề hòa bình ở Việt Nam (tài liệu lưu trữ tại khoa Lịch sử, trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội).... Các công trình này với quy mô khác nhau đã có đề cập đến các bài đăng trên báo Nhân Dân về đối ngọai và đấu tranh ngoại giao. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu về sự lãnh đạo, chỉ đạo báo Nhân Dân của Đảng từ năm 1951 đến năm 1954, nhất là vai trò của Báo Nhân Dân trên lĩnh vực đối ngoại, vận
  • 11. 5 động quốc tế và đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến kiến quốc từ năm 1951 đến năm 1954. Nói cách khác, đề tài Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954 vẫn là một đề tài mới, có nhiều vấn đề cần đi sâu làm rõ thêm, cả về mặt giá trị lịch sử và kinh nghiệm thiết thực của nó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là trình bày những nội dung được báo Nhân Dân phản ánh từ năm 1951 đến năm 1954 về vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao, qua đó nêu lên vai trò của báo Nhân Dân đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và rút ra những kinh nghiệm phục vụ hiện tại. Nhiệm vụ của luận văn là: + Tập hợp những vấn đề về đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954 được phản ánh trên báo Nhân Dân. + Nêu lên chủ trương đối ngoại của Đảng trong kháng chiến chống Pháp và thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến và đấu tranh ngoại giao với địch góp phần đưa kháng chiến đến thắng lợi. + Khẳng định vai trò cũng như chỉ ra các hạn chế của báo Nhân Dân đối với cuộc kháng chiến trên lĩnh vực đội ngoại, đấu tranh ngoại giao, vận động quốc tế từ năm 1951 đến năm 1954. + Rút ra những kinh nghiệm để phục vụ thực tiễn hiện tại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với báo Nhân Dân từ năm 1951 đến năm 1954, cụ thể là vai trò của báo Nhân Dân, với tư cách là cơ quan ngôn luận của Đảng, tiếng nói của Đảng và nhân dân ta trên lĩnh vực đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
  • 12. 6 Phạm vi nội dung nghiên cứu là sự phản ánh của báo Nhân Dân về vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta từ năm 1951 đến năm 1954. Phạm vi lĩnh vực nghiên cứu là hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta được phản ánh trên báo Nhân Dân từ năm 1951 đến năm 1954. Tuy nhiên vì hoạt động đối ngoại là một hoạt động lớn, sâu rộng thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, nên trong phạm vi luận văn thạc sĩ lịch sử, tác giả luận văn chỉ đề cập đến hoạt động đối ngoại chính trị của Đảng được phản ánh trên báo Nhân Dân từ năm 1951 đến năm 1954, các mặt khác đề cập ở mức độ cần thiết. Phạm vi thời gian là từ năm 1951 khi báo Nhân Dân ra số đầu tiên đến khi cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp kết thức thắng lợi, tháng 7-1954 (giai đoạn 1945- 1950 và giai đoạn tiếp quản miền Bắc đến tháng 5 năm 1955 chỉ đề cập mức độ cần thiết) 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu Phương pháp nghiên cứu là các phương pháp của khoa học lịch sử như phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, sự kết hợp hai phương pháp ấy. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp... Nguồn tư liệu chủ yếu đề thực hiện luận văn là các vấn đề được đăng trên báo Nhân Dân về chủ trương, chính sách, hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng, Nhà nước nước ta từ năm 1951 đến năm 1954. Ngoài ra luận văn còn sử dụng kết quả các nghiên cứu của các tác giả khác trong các công trình có liên quan, như các sách về lịch sử ngoại giao, các sách về lịch sử báo chí, về lịch sử kháng chiến chống Pháp, các luận văn, luận án, bái nghiên cứu trên các tạp chí,... có đề cập tới đấu tranh ngoại giao, vận động quốc tế thời kỳ 1951- 1954.
  • 13. 7 6. Dự kiến đóng góp của luận văn - Trình bày có hệ thống chủ trương đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là từ năm 1951 đến năm 1954. - Nêu lên thành tựu, hạn chế, lý giải nguyên nhân của các thành công và hạn chế của báo Nhân Dân trong việc phản ánh các hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao, từ đó khẳng định vai trò, sự đóng góp của báo Nhân Dân đối với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam. - Đúc rút những kinh nghiệm phản ánh của báo Đảng nói chung báo Nhân Dân nói riêng về các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến năm 1954 để phục vụ lĩnh vực công tác ngày hiện nay. - Cung cấp thêm tư liệu xác thực cho việc nghiên cứu lịch sử báo chí của Đảng và biện soạn lịch sử báo Nhân Dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương là: Chương 1: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ NĂM 1951 ĐẾN ĐẦU NĂM 1953 Chương 2: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ, ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ GIỮA NĂM 1953 ĐẾN NĂM 1954 Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
  • 14. 8 Chương 1: BÁO NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐỐI NGOẠI, VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TỪ NĂM 1951 ĐẾN ĐẦU NĂM 1953 1.1. Sự ra đời của báo Nhân Dân (1951) 1.1.1. Báo chí của Đảng về công tác đối ngoại từ năm 1945 đến năm 1950. Báo chí Việt Nam từ khi ra đời và phát triển đến ngày nay đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình là kênh thông tin truyền tải và phản ánh thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại đế quốc thực dân để giành và giữ nền độc lập đất nước, nếu bọn đế quốc sử dụng báo chí để xâm lược nước ta, nô dịch nhân dân ta thì dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí cách mạng như một thứ vũ khí sắc bén gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Trong đó, quá trình tìm tòi và khảo nghiệm không ngừng của Đảng ta trong việc tìm ra cho mình hình mẫu của một tờ báo làm cơ quan ngôn luận chung nhất của Trung ương Đảng, làm phương tiện tuyên truyền đắc lực cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng nhân dân là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự cố gắng rất lớn. Ngay từ khi đất nước còn chìm đắm trong những đêm dài nô lệ, vấn đề báo chí và đòi tự do báo chí đã được Nguyễn Ái Quốc đề cập đến bằng nhiều bài viết và sách báo. Người còn sử dụng mọi diễn đàn để tố cáo chế độ báo chí hà khắc của thực dân Pháp tại Đông Dương, vạch tràn sự thối nát của báo chí thực dân. Người đã viết nhiều lần lớn tiếng đòi tự do báo chí, cũng như đòi các quyền tự do dân chủ khác. Báo Thanh Niên- cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên xuất bản năm 1925 do Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập ra nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản làm chủ biên. Báo Thanh Niên là tờ báo đầu
  • 15. 9 tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê Nin vào nước ta mở đầu cho sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam. Việc xuất bản báo Thanh Niên đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử báo chí cách mạng, báo tích cực tuyên truyền chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính Đảng thống nhất. Ngày 3/2/1930 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam khi đã đánh giá cao vai trò của báo chí. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng có ghi: “Đảng phải mở rộng tuyên truyền cổ động, ra sách, báo, truyền đơn”… để làm cho “quần chúng biết mục đích của Đảng và ý kiến của Đảng đối với các việc xảy ra” [2,4] Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, tờ Tranh Đấu cơ quan ngôn luận đầu tiên của Đảng được xuất bản. Số 1 của báo ra ngày 15-8-1930. Tiếp theo thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939, Đảng cho xuất bản tờ Dân Chúng vào năm 1938. Đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất bản công khai và được chính quyền thực dân thừa nhận sự hợp pháp. Với khoảng 80 số báo trong hơn một năm tồn tại, báo Dân Chúng đã ghi lại chiến công có ý nghĩa mở đường cho tự do báo chí, chống lại báo chí phản động của bọn cầm quyền ở Đông Dương. Trong những năm lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập, đặc biệt, trong phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã sử dụng triệt để vai trò của báo chí để tuyên truyền, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, cổ động, tổ chức quần chúng đấu tranh. Hàng loạt tờ báo được in và phát hành rộng rãi: Tin Tức, Thời Mới, An Nam Trẻ, Tiền Phong, Dân Chúng, Lao Động… Sau chiến tranh thế giới thứ II, cùng với sự thay đổi về chính trị kinh tế văn hóa xã hội, báo chí cũng bị kéo vào vòng ảnh hưởng và mang một sắc thái mới. Trước ảnh hưởng của báo chí trong công tác tuyên truyền chính quyền thực dân đã ban hành một loạt sắc lệnh, nghị định liên quan trực tiếp đến sự phát triển của báo chí. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã có những chủ trương đúng đắn kịp thời. Tháng 5-1941, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 đã thông qua nghị quyết chuyển hướng tổ chức và chỉ đạo ra
  • 16. 10 báo bí mật dưới mọi hình thức. Sau khi mặt trận Việt minh được thành lập, Đảng ta quyết định xuất bản tờ báo Cứu Quốc làm cơ quan cổ động của Việt Nam độc lập đồng minh. Ngoài báo chí của mặt trận, Đảng còn chủ trương xuất bản một loạt các báo của địa phương, các cơ quan đoàn thể, các ngành để tuyên truyền chính sách của Đảng. Do đó dù không có điều kiện hoạt động công khai, báo chí Việt Nam đặc biệt là dòng báo chí cách mạng vẫn tiếp tục phát triển với nhiều tờ báo được xuất bản bí mật. Có thể nói trước cách mạng tháng tám, Đảng ta đã coi trọng chỉ đạo trên mặt trận báo chí. Nhận thấy vai trò của báo chí cách mạng đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng quan tâm xây dựng đội ngũ cổ động tuyên truyền trên lĩnh vực tư tưởng. Dù trong điều kiện rất khó khăn, báo chí vẫn phát triển mạnh mẽ dưới mọi hình thức, trở thành kênh thông tin quan trọng đến với người dân. Báo chí cách mạng đã trở thành thứ vũ khí sắc bén chĩa mũi nhọn vào kẻ thù, góp phần tuyên truyền đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta. * Các tờ báo “tiền thân” của báo Nhân Dân với công tác đối ngoại từ năm 1945 đến năm 1950 Trước khi báo Nhân Dân ra đời, báo chí cách mạng Việt Nam đã có một truyền thống đấu tranh lâu dài. Sự xuất hiện của báo Nhân Dân - tờ báo lớn nhất của Đảng ta còn xuất bản cho đến ngày nay là kết quả của quá trình chuyển đổi thay thế dần từ các tờ báo "tiền thân" của nó. Báo Nhân Dân là sự kế thừa truyền thống vẻ vang của các tờ báo Thanh Niên, Tranh Đấu, Dân Chúng, Cứu quốc, Cờ Giải Phóng và báo Sự Thật...do Đảng và các tổ chức tiền thân của Đảng thành lập nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu đấu tranh cách mạng, trong đó tiếp nối trực tiếp nhất từ hai tờ báo Cờ Giải Phóng và Sự Thật. Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (1939), phát xít Nhật nhanh chóng xâm chiếm Đông Dương, câu kết với Pháp thống trị Đông Dương, vấn đề giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Tháng 10-1942, Tờ Cờ Giải Phóng cơ
  • 17. 11 quan trung ương của Đảng ra đời do đồng chí Trường Chinh phụ trách biên tập đồng thời cũng là cây bút chính của tờ báo. Trong thời gian tồn tại, từ năm 1942 đến cuối năm 1945, Báo Cờ giải phóng đã góp phần tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Báo phổ biến những kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng, nhắc nhở cán bộ đảng viên đề cao cảnh giác đối với hoạt động phá hoại của bọn nội gian. Đặc biệt báo coi trọng việc giáo dục nâng cao trình độ cán bộ và đảng viên, làm cho Đảng có thể đóng được vai trò tiên phong trong sự nghiệp cách mạng. Đối với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế, Cờ giải phóng có vai trò to lớn trong việc khẳng định cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Báo đăng những bài phân tích nguyên nhân, tính chất, diễn biến, triển vọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, vạch rõ tội ác của bọn phát xít gây chiến, đề cao vai trò của Liên Xô trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. Báo tích cực chỉ rõ tội các của bọn phát xít Pháp - Nhật và tay sai phản động ở Đông Dương. Có thẻ nói, Cờ giải phóng luôn theo dõi bám sát tình hình, nắm bắt được âm mưu, thủ đoạn của địch nên kịp thời thông tin cho quần chúng. Báo có tác dụng to lớn đối với công cuộc khởi nghia vũ trang giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Cuối năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật, báo Cờ giải phóng cũng chấm dứt vai trò lịch sử của mình sau khi đã cống hiến nhiều công sức cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam. Là một tờ báo ra đời theo yêu cầu của điều kiện lịch sử nặng nề chỉ đạo thực tiễn cách mạng nhưng Cờ giải phóng đã có những đóng góp về giá trị nội dung và nghệ thuật đối với nền báo chí Việt Nam. Với nội dung bài vở, cách trình bày, hệ thống chương mục của tờ báo, nó đã bước đầu xây dựng lên hình mẫu của một tờ báo Đảng, là các bản lề trong quá trình tìm ra một khuôn mặt ổn định cho tờ báo làm tiếng nói chính thức của Đảng trong hệ thống báo chí Việt Nam. Từ những người cầm bút, xây dựng và nuôi dưỡng tờ báo lớn lên đã trở thành thế hệ đầu tiên đào
  • 18. 12 tạo ra một lớp người cầm bút, sử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh cách mạng. Thế hệ cầm bút của Đảng trong thời kỳ đó đã tạo nên một tiếng nói chung cho dân tộc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc đến tận mai sau. Thực hiện đúng như nghị quyết của Đảng về chiến thuật vận động tuyên truyền trong giai đoạn này. “Báo sách của Đảng phải viết thật dễ hiểu tránh những danh từ lủng củng và cách nói trừu tượng để cho quần chúng dễ nhận, văn phải hùng hồn không máy móc khô khan, phải phản ánh quyền lợi của các giới, phải biết về chính trị để có thể chú trọng về văn hóa nghệ thuật thể dục”[16, 21]. Cờ Giải Phóng đã cố gắng cả ở nội dung, hình thức, văn phong, chăm chút từng chữ, từng câu, từng chi tiết nhỏ phấn đấu nâng vị trí của mình lên ngang tầm lịch sử, trở thành ngọn cờ đầu trong nền báo chí cách mạng của Đảng ta. Cờ Giải Phóng cũng là tờ báo quan trọng nhất khi Đảng ta vừa giành được chính quyền sau cách mạng tháng 8-1945. Trên lĩnh vực báo chí, sau cách mạng tháng Tám, Trung ương Đảng đã kịp thời có sự chuyển hướng đúng đắn để báo chí làm tốt chức năng của nó. Báo chí cách mạng lúc này trở thành hệ thống báo chí nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – trở thành báo chí chính thống của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đầu tháng 12-1945 Trung ương Đảng quyết định xuất bản báo Sự Thật để tiêp tục tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng và hướng dẫn quần chúng nhân dân. Do việc Đảng ta rút vào hoạt động, báo Sự Thật được xuất bản dưới danh nghĩa làm cơ quan tuyên truyền cổ động của hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Báo Sự thật số 1 ra ngày 5-12-1945 đến tháng 2-1951 thì ngừng xuất bản, số cuối là số 154 ra ngày 25-12-1950. Sự Thật số 1 đăng xã luận nêu rõ mục đích xuất bản tờ báo: “Nhân dân Đông Dương đang kháng chiến. Muốn thắng lợi phải chống óc bè phái và mưu mô chia rẻ, đặng củng cố mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược'' [16,25]
  • 19. 13 Sự Thật ra đời là sự kế tục và thay thế báo Cờ Giải Phóng làm cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng, do điều kiện lịch sử Đảng rút vào bí mật vì thế Sự Thật xuất bản dưới danh nghĩa cơ quan tuyên truyền cổ động cho Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, và khi kháng chiến bùng nổ thì nó trở thành cơ quan tuyên truyền cổ động kháng chiến. Dù xuất bản dưới danh nghĩa nào thì Sự Thật cũng đảm nhiệm vai trò làm người tuyên truyền cho học thuyết Mác chỉ đạo quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước giải phóng dân tộc. Sau cách mạng tháng 8. chính quyền cách mạng non trẻ phải đối diện với thù trong giặc ngoài. Lúc này, vấn đề đối ngoại, đấu tranh ngoại giao trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Dưới sự chỉ đạo sâu sát của đồng chí Trường Chinh và các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng, báo Sự thật góp phần không nhỏ vào thắng lợi của công cuộc củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân. Báo tích cực tuyên truyền đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng ta. Trong cuộc đấu tranh ngoại giao với kẻ thù, Sự Thật tích cực vạch trần bộ mặt phản động của thực dân Pháp và tay sai đồng thời tỏ rõ quan điểm của Đảng và chính phủ ta. Báo Sự Thật cũng góp phần không nhỏ khẳng đinh những thắng lợi trên mặt trận đối ngoại. Trong năm 1950, báo đăng nhiều xã luận giới thiệu về các nước xã hội chủ nghĩa đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Qua báo Sự Thật các nghị quyết của Đảng, của chính phủ và Hồ Chủ tịch đã kịp thời đến với nhân dân và hướng hành động của nhân dân theo sự lãnh đạo chung. Báo Sự Thật số 1 ra ngày 5-12-1945 đến tháng 2-1951 thì ngừng xuất bản. Trước khi báo Nhân Dân ra đời, báo Sự Thật là vũ khí sắc bén chống lại âm mưu chia rẽ hòa bình của lực lượng phản động. Tờ báo đã không ngừng đấu tranh cho sự tất thắng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, phản ánh toàn diện các hoạt động trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
  • 20. 14 Như vậy, các tờ báo "tiền thân" của báo Nhân Dân đã có một truyền thống đấu tranh vẻ vang, luôn theo sát thực tiễn cách mạng, làm tròn nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Có thể nói, sự ra đời của các tờ báo này là quá trình chuẩn bị tất yếu nhằm tìm tòi, khảo nghiệm, từ đó tạo cơ sở, tiền đề quan trọng cho sự ra đời báo Nhân Dân.Với những đóng góp về nội dung, nghệ thuật đã được chứng minh với lịch sử. Trong đó báo Sự Tthật là tờ báo tiền thân trực tiếp của tờ báo Nhân Dân – tờ báo Chính phủ là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng ta đến tận hôm nay. Với sự góp sức của toàn Đảng, toàn dân, Nhân Dân là tiếng nói của Việt Nam kháng chiến, vang khắp vùng tự do và vùng tạm chiếm, cùng tiếng súng của quân đội nhân dân đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện theo chủ trương của Đảng, báo Nhân Dân đã thực sự trở thành cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, thực sự là tiếng nói của Đảng và diễn đàn của nhân dân trong một giai đoạn lịch sử kế tiếp. 1.1.2. Sự ra đời của Báo Nhân Dân năm 1951 * Bối cảnh quốc tế Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, quân Đồng minh và nhân dân thế giới giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống phát xít Đức- Italia- Nhật Bản. Một cục diện thế giới mới được hình thành trên cơ sở sự thay đổi về tương quan lực lượng giữa các nước tư bản thắng trận, giữa Liên Xô, Mỹ và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Tình hình thế giới đã có sự thay đổi căn bản, tác động, chi phối tới quan hệ quốc tế, cũng như đối với dòng chảy lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Liên Xô trở thành một cường quốc có uy tín và ảnh hưởng rất lớn, một nhân tố không thể thiếu trong việc giải quyết các mối quan hệ quốc tế. Liên Xô cũng không còn là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất bị cô lập trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa xã hội từ một nước đang trong quá trình hình thành thành một hệ thống thế giới và dần có vai trò là một nhân tố góp phần quyết
  • 21. 15 định sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Một loạt các nước ở Châu Âu và Châu Á đã thông qua việc thiết lập chính quyền nhân dân ở các nước đó và đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, sự ra đời của hàng loạt các nhà nước Dân chủ nhân dân Đông Âu và sự ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (1-10-1949) đã đánh dấu bước ngoặt to lớn đưa chủ nghĩa xã hội thành một hệ thống thế giới. Hoàn cảnh đó tạo thế liên hoàn để các nước hỗ trợ và giúp đỡ nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội, phối hợp với phong trào cách mạng trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Trong khi đó, Mỹ sau chiến tranh là nước thắng trận duy nhất không những không bị chiến tranh tàn phá, mà còn giàu lên nhanh chóng và trở thành nước đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa. Mỹ không chỉ có tiềm lực kinh tế mà còn mạnh về quân sự. Các nước Tây Âu và Nhật Bản đều là con nợ của Mỹ. Mỹ âm mưu thực hiện những "chiến lược toàn cầu phản cách mạng" với mục tiêu của mình vươn lên làm bá chủ thế giới. Chiến lược đó nhằm ngăn chặn Liên Xô, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới mà Liên Xô làm chủ cột, tiến tới xóa bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa, đồng thời xác lập vai trò chi phối toàn diện của Mỹ trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, buộc các nước này đi theo quỹ đạo của Mỹ, âm mưu đẩy lùi chống phá phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, giành giật thuộc địa của các nước đế quốc bị suy yếu. Ngoài học thuyết Truman, Mỹ còn tiến hành kế hoạch Marshall ở Châu Âu. Mỹ cũng xác định Pháp có vai trò quan trọng trong việc hình thành liên minh các nước đế quốc chống Liên Xô và lực lượng cách mạng thế giới, đồng thời phục vụ cho mưu đồ chiến lược của Mỹ ở khu vực Châu Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Đây là nhân tố chi phối thái độ, chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, trái với quan điểm trước kia trong việc phản đối Pháp trở lại Đông Dương.
  • 22. 16 Hai nước Anh và Pháp tuy cùng là nước thắng trận nhưng cũng trong thế suy yếu, chính trị không ổn định. Anh và Pháp có yêu cầu nhất quán là bảo vệ hệ thống thuộc địa của mình. Nước Pháp đi theo đường lối trung dung trong quan hệ với Mỹ và khối Xô viết, có chính sách tương đối độc lập so với Mỹ, Anh trong việc giải quyết các vấn đề Châu Âu. Tuy nhiên khác với Anh, Pháp thiên về chính sách dùng vũ lực để bảo vệ lợi ích thuộc địa. Chính sự lớn mạnh của Liên Xô và Mỹ, sự hình thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đối lập với các nước đế quốc và lực lượng phản động quốc tế, cùng việc xác lập trật tự hai cực- trật tự Ianta, đưa tới cuộc đối đầu gay gắt giữa hai cường quốc Liên Xô- anh cả của các nước xã hội chủ nghĩa và Mỹ- đại diện cho các nước tư bản. Cuộc "chiến tranh lạnh" giữa hai cường quốc đã làm cho sự đối đầu giữa hai hệ thống xã hội đối lập, được gọi là đối đầu Đông - Tây ngày càng sâu sắc. Nó chi phối các mối quan hệ quốc tế và khu vực trong nhiều thập niên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II trở đi. Trong khi đó, phong trào cách mạng trên thế giới bao gồm phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ La Tinh bùng nổ và phát triển mạnh mẽ làm cho hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc bắt đầu tan rã. Các nước đế quốc buộc phải từng bước rút lui và thừa nhận nền độc lập của các dân tộc. Đại đa số các nước thuộc địa và bán thuộc địa khác đã giành được độc lập chính trị và đi theo con đường dân tộc chủ nghĩa. Các quốc gia mới giành độc lập đã từng bước tập hợp với nhau để bảo vệ, củng cố nền độc lập chính trị và phục hưng đất nước. Từ năm 1950, tình hình thế giới có nhiều thay đổi không có lợi cho Mỹ và các nước tư bản đế quốc. Cách mạng Trung Quốc thành công, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa phát triển, phong trào cách mạng thế giới lên cao, Mỹ sa lầy ở Triều Tiên, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam ngày càng
  • 23. 17 thắng lợi....Tình hình đó buộc Mỹ phải có những điều chỉnh quan trọng. Giới quân sự Mỹ thấy rõ, hướng yếu nhất trong chiến lược của Mỹ ở châu Á là Đông Nam Á, trong đó Đông Dương có tầm quan trọng chiến lược lớn trong lợi ích quốc tế chung và cũng thiết yếu như lợi ích của Pháp đối với nền an ninh của thế giới tự do. Cùng với Triều Tiên, Đông Dương trở thành một trong hai gọng kìm chiến lược "Ngăn chặn cộng sản" của Mỹ ở Đông Nam Á. Đặc biệt, Việt Nam được xem là khâu then chốt có ảnh hưởng đối với cả khu vực Đông nam Á và các khu vực khác. Bởi vậy, với thất bại của Pháp, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Đông Dương âm mưu kéo dài chiến tranh và dần thay thế Pháp. * Bối cảnh trong nước Sau cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ âm mưu quay trở lại thiết lập nền thống trị thuộc địa trên đất nước ta. Ngày 19-12- 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh" đã giành được nhiều thắng lợi về mặt quân sự. Với chiến thắng Việt Bắc 1947, ta đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Đến năm 1950, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã giành được nhiều thắng lợi to lớn về chính trị, ngoại giao, quân sự. Sau chiến thắng Biên giới thu đông năm 1950, ta giành thế chủ động trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, xây dựng được một hậu phương vững mạnh. Chính quyền cách mạng ở vùng giáp ranh có cơ sở chính trị vững mạnh là khối đoàn kết toàn dân, được tập hợp trong Mặt trận Liên Việt. Hậu phương kháng chiến ngày càng được mở rộng và vững chắc về mọi mặt. Cũng từ sự lớn mạnh về mọi mặt trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế, phá vỡ thế bị bao vây, cô lập với thế giới bên ngoài. Đầu năm 1950, nhận lời mời của Đảng và chính phủ các nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô
  • 24. 18 Viết, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang thăm hai nước này. Sự kiện đó có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì nó góp phần phá vỡ vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta, từ đó mở rộng quan hệ quốc tế, tạo hậu thuẫn vững mạnh cho cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ. Tiếp đó, chính phủ các nước Trung Quốc, Liên Xô, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên và một loạt các nước dân chủ nhân dân khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ ta được xem là thắng lợi ngoại giao hết sức to lớn. Thắng lợi này đã tác động và ảnh hưởng nhiều đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam "hòa vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới một cách trực tiếp và có hiệu quả hơn"[62, 198], đồng thời tạo tiền đề cho các hoạt động ngoại giao của chính phủ ta ở những giai đoạn sau. Tình hình mới đòi hỏi Đảng bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, xác định những chính sách và biện pháp đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy, tháng 2-1951, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã họp tại Chiêm Hóa - Tuyên Quang. Đây là một thắng lợi chính trị to lớn của cuộc kháng chiến. Tại đại hội, Đảng quyết định ra hoạt động công khai và đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đảng Lao Động Việt Nam ra đời lúc này là một sự kiện có ý nghĩa trọng đại về mặt đối nội cũng như về mặt đối ngoại. Đó là một điều hoàn toàn cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu gấp rút tăng cường lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang trên đà phát triển nhanh chóng, đồng thời đáp ứng yêu cầu phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cuộc kháng chiến cứu nước cũng đang phát triển của các dân tộc Lào và Campuchia để cùng nhau sát cánh giải phóng toàn bán đảo Đông Dương khỏi kẻ thù chung. Đại hội Đảng toàn quốc lần II đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, báo cáo Bàn về cách mạng Việt
  • 25. 19 Nam do Trường Chinh đọc, thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ mới của Đảng. Việc xuất bản tờ báo mới làm cơ quan ngôn luận chính của Trung ương thay thế tờ báo Sự Thật cũng trở thành vấn đề cấp thiết. * Sự ra đời của Báo Nhân Dân năm 1951. Truớc yêu cầu mới của cuộc kháng chiến với công tác báo chí, Ngày 16-2-1951, Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đã ra nghị quyết xuất bản một tờ báo kế tục sự nghiệp báo Sự thật lấy tên là Nhân Dân. Nghị Quyết về báo Nhân Dân- cơ quan trung ương của Đảng chỉ rõ: "Để tuyên truyền chủ nghĩa và động viên đảng viên và quần chúng nhân dân thực hành chính sách của Đảng, Đại hội quyết định Đảng Lao Động Việt Nam xuất bản một tờ báo lấy tên là Nhân Dân cơ quan trung ương của Đảng. Báo Nhân Dân ra hàng tuần, khi nào có điều kiện sẽ ra hàng ngày. Đối tượng chính của Nhân Dân là đảng viên ở các chi bộ và quần chúng nhân dân. Trong thời kỳ kháng chiến vì sự giao thông liên lạc khó khăn, ngoài báo Trung ương sẽ có hai tờ báo Đảng ở Liên khu V và Nam Bộ lấy tên là Nhân Dân Liên khu V và Nhân Dân Nam Bộ. Báo Trung ương do Ban chấp hành Trung ương phụ trách, báo ở Liên Khu V và Nam Bộ do các Ban chấp hành của hai địa phương ấy phụ trách. Báo Nhân Dân địa phương phải theo đúng đường lối chính trị của báo Nhân Dân Trung ương và đăng xã luận của báo Nhân Dân. Cơ quan chỉ đạo các cấp của Đảng, nhất là Trung ương, các khu và các cán bộ phụ trách mọi ngành của các cấp ủy ấy, có nhiệm vụ viết bài cho báo Nhân Dân. Mỗi cấp ủy Đảng, từ tỉnh trở lên, phải chỉ định một đồng chí cấp ủy viên làm thông tin viên cho tờ báo. Các Tỉnh Đảng bộ phải đảm bảo việc phát hành đều đặn tờ báo của Đảng xuống tận chi bộ" [24, 427]. Sự ra đời của báo Nhân Dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình đấu tranh cách mạng. Nhân dịp báo tròn 40 năm, đồng chí Thép Mới - người trực tiếp nhận nhiệm vụ ra số báo đầu tiên đã kể lại:
  • 26. 20 " Vào một ngày tháng 2 -1951, Đại hội Đảng lần thứ II của Đảng họp tại khu rừng lịch sử, không xa Ngòi Trình - Sông Lô đã quyết định thành lập báo Nhân Dân - cơ quan trung ương của Đảng Lao Động Việt Nam. Ngay sau đại hội vào một buổi trưa mùa xuân hửng nắng, đồng chí Trường Chinh - Tổng bí thư của Đảng và đồng chí Tố Hữu - Trưởng ban tuyên huấn của Đảng ngồi trên những gốc cây khô của một dãy núi không xa khu vực Đại hội, họp bàn việc xuất bản báo Nhân Dân và quyết định nội dung bài vở hình thức của tờ Nhân Dân số 1"[76, 7]. Số báo Nhân Dân đầu tiên xuất bản ngày 11-3- 1951. Số đầu tiên của tờ báo được in tại nhà in Việt Hưng, dưới chân Đèo Khế. Báo Nhân Dân số 1 in 8 trang, khổ vừa 30x40 cm trên giấy trắng. Số 1 báo Nhân Dân do đồng chí Nguyễn Đỗ Cung trình bày. Những tờ báo đầu tiên của số 1 báo Nhân Dân vừa được in ra đã có các chiến sĩ quân bưu và giao thông hỏa tốc chuyển đến các mặt trận, vùng tự do và vùng sau lưng địch, đưa nghị quyết của Đảng đến với đồng bào chiến sĩ. Số báo Nhân Dân đầu tiên ra ngày 11-3- 1951 đã được vinh dự công bố chính cương, điều lệ của Đảng, bên cạnh đó là bài chính luận của đồng chí Trường Chinh, lần đầu tiên công khai trình bày đồng chí Hồ Chí Minh như người lãnh tụ giai cấp: " Hồ Chủ tịch, Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta". Trên trang 6 và 7 báo dành đăng bài giới thiệu về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II dưới đầu đề của bài tường thuật "Đại hội của chúng ta", bên cạnh đó là lời của chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân thi đua sản xuất. Dưới sự chỉ đạo của Bộ chính trị đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, công việc ra báo đi vào nề nếp tương đối nhanh. Ngày 10-7- 1951, Bộ chính trị ra nghị quyết 26NQ/TƯ chính thức thành lập Ban biên tập của báo. Về tổ chức cơ quan báo Nhân Dân có 2 bộ phận: bộ phân biên tập và bộ phận trị sự, phát hành đặt ở gần nhà in. Bộ phận biên tập do Tổng bí thư Trường Chinh làm chủ nhiệm. Đồng chí Trần Quang Huy làm thư ký Ban biên tập. Vào tháng 3-1951, bộ phận biên tập chỉ có 15 người, kể cả nhân viên đánh
  • 27. 21 máy, cấp dưỡng. Bộ phận trị sự do đồng chí Lê Đăng Ninh phụ trách. Nhà in Việt Hưng do đồng chí Sĩ Trúc làm giám đốc. Kế thừa và phát huy truyền thống báo Đảng, báo Nhân Dân tích cực thực hiện những nhiệm vụ do Đại hội II đề ra. Các số báo Nhân Dân đã từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng về nội dung cũng như hình thức, ngày càng thu hút nhiều độc giả hơn. Báo nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của đội ngũ cộng tác viên. Báo Nhân Dân đã góp phần quan trọng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng.Báo Nhân Dân ra đời với chức năng phản ánh trung thành nguyện vọng của nhân dân, nhiệm vụ và thực tiễn của cuộc kháng chiến, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, đồng thời báo là tiếng nói chung giữa Đảng và nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1951-1954), báo Nhân Dân đã thực sự trở thành cơ quan Trung ương của Đảng Lao Động Việt Nam, thực sự là tiếng nói của Đảng và diễn đàn của nhân dân. Quá trình ra đời và phát triển của báo Nhân Dân trong kháng chiến chống Pháp gắn liền với quá trình phát triển mới của sự nghiệp kháng chiến và cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo hướng tiếp tục giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Từng bước theo sát cuộc kháng chiến của nhân dân ta, báo Nhân Dân luôn luôn thay mặt Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến trên mọi lĩnh vực. Quy mô của báo phát triển cùng với bước phát triển của cuộc kháng chiến. Nội dung và hình thức của báo ngày càng hoàn thiện. Bắt đầu từ số báo đầu tiên ra đời tháng 3-1951, qua hơn một năm thực tiễn, tháng 9- 1952 Bộ chính trị và Ban bí thư khẳng định rõ ràng nội dung, nhiệm vụ và đối tượng của báo Nhân Dân một cách chính thức và có hệ thống. Từ ngày 6-2-1953, báo Nhân Dân rút ngắn một bước kỳ hạn phát hành báo chuyển sang ra 5 ngày một số vào các ngày mùng một, mùng sáu và mười một, mười sáu, hai mốt, hai sáu. Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), bắt đầu từ ngày 16-5-1954, báo Nhân Dân lại rút ngắn kỳ hạn phát hành một bước nữa chuyển sang ra ba ngày một số, rồi hai ngày một kỳ 6 trang, từ số 222 (tháng
  • 28. 22 9-1954) cho tới khi về Hà Nội giữa tháng 10- 1954; từ số 241 ngày 20-10- 1954 báo ra hàng ngày. Quá trình rút ngắn kì hạn phát hành của báo Nhân Dân không chỉ thể hiện bước phát triển của cuộc kháng chiến, sự cố gắng lớn của Đảng trong việc từng bước xây dựng và hoàn thiện một tờ báo Đảng xứng đáng với vị trí của nó trong sự nghiệp cách mạng dân tộc mà còn cho thấy báo Nhân Dân ngày càng gắn bó mật thiết với quần chúng, đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân, được đông đảo bạn đọc đón nhận và ủng hộ. Đối với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao, Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi. Báo đã đăng nhiều bài phân tích về các hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt Nam, các sự kiện quốc tế quan trọng, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, giới thiệu những thành tựu xây dựng đất nước ở Liên Xô Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, nêu cao vấn đề đoàn kết quốc tế giữa Việt Nam và các nước Đông Dương khác, các hoạt động ngoại giao trong hội nghị Giơnevơ dẫn đến kí kết hiệp định buộc thực dân Pháp công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta... 1.2 Báo Nhân Dân với vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại giao từ năm 1951 đến đầu năm 1953 1.2.1 Vấn đề đối ngoại và đấu tranh ngoại giao * Vấn đề đối ngoại: Vấn đề đối ngoại là một trong những chủ đề thường xuyên trên báo Nhân Dân. Những thay đổi của bối cảnh quốc tế và trong nước đã có tác động mạnh mẽ đến hoạt động đối ngoại của Đảng và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, với phương châm "tự lực cánh sinh" dựa vào sức mình là chính song vẫn tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Có thể
  • 29. 23 nói, sự thay đổi căn bản của tình hình quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai cùng với những bước phát triển của cuộc kháng chiến trong nước đã ảnh hưởng lớn đến phương hướng, nhiệm vụ và hoạt động ngoại giao của Việt Nam từ 1946-1954, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại giao của chính phủ ta đạt được nhiều thành tựu. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng 12-1946, với đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh" dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi. Mục tiêu cơ bản của cuộc kháng chiến là làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp và can thiệp Mỹ, giành lại độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của tình hình thế giới đồng thời xuất phát từ yêu cầu phá thế bao vây, gắn cuộc kháng chiến với xu thế phát triển cách mạng ở bên ngoài, tạo thêm thế và lực cho sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi "Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là vấn đề cần yếu cho một nước độc lập"[62, 95] và kịp thời đề ra phương hướng nhiệm vụ đối ngoại trong thời chiến. Mặt trận đối ngoại của ta phát huy tính chất chính nghĩa và tất thắng của cuộc kháng chiến, đẩy mạnh cuộc vận động quốc tế với nhiều hình thức khác nhau nhằm gắn cuộc kháng chiến với trào lưu cách mạng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Đồng thời ta thực hiện sách lược lợi dụng sự khác nhau về lợi ích trước mắt giữa thế lực thù địch nhất là giữa Mỹ - Tưởng với Pháp để phân hóa, kiềm chế mưu đồ tăng cường và mở rộng chiến tranh, tạo tiền đề giành thắng lợi có ý nghĩa bước ngoặt ngay từ giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh. Mục tiêu trước mắt của sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài nhằm kêu gọi các nước dân chủ trên thế giới, các tổ chức dân chủ Pháp và thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh vì chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ cần phải "Đoàn kết với Miên,
  • 30. 24 Lào" và "Thân thiện với các dân tộc Tàu, Xiêm (Thái Lan), Ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương (Indonexia) và các dân tộc yêu chuộng dân chủ, hòa bình trên thế giới " [62, 96] Tháng 9-1947, chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách người đứng đầu của Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong dịp trả lời phỏng vấn của báo chí nước ngoài đã khái quát nhiệm vụ và phương hướng đối ngoại chủ yếu của Việt Nam, khẳng định Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai" [4, 220]; "Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam"[4, 105]; "Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam"[4, 105]. Định hướng đó chẳng những phản ánh mục tiêu của cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta mà còn có tác dụng làm rõ trong dư luận nước Pháp và các quốc gia khác về tinh thần thiện chí muốn thúc đẩy quan hệ với các lực lượng dân chủ và hòa bình trên thế giới. Nó có tác dụng tranh thủ lực lượng trung gian chưa đứng hẳn về phía thực dân xâm lược Pháp, đồng thời sẵn sàng rộng mở quan hệ với các lực lượng khác nhau bên ngoài, góp phần vào cuộc phá vây quốc tế, cô lập thế lực thực dân hiếu chiến Pháp và cải thiện vị trí quốc tế của Việt Nam. Chủ Tịch Hồ Chí Minh quan tâm tranh thủ sự ủng hộ của các nước châu Á và các thuộc địa Pháp. Chủ tịch đã nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu chính phủ các nước mới giành được độc lập như Indonexia, Ấn Độ, Miến Điện và lãnh tụ các phong trào giải phóng "Vì Tổ quốc, vì tự do, nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng. Vì nhân đạo, vì chính nghĩa, vì hòa bình chung và lợi ích chung, nhân dân Việt Nam mong các vị giúp đỡ mọi phương diện"[4, 105]. Có thể nói, mọi cố gắng ngoại giao Việt Nam từ 1946-1950, là nhằm phá vòng vây, nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa, tạo mối liên hệ trực tiếp với một số nước Đông Nam Á và từ địa bàn này mở rộng tiếp xúc, tuyên truyền quốc tế, phát triển ngoại giao nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
  • 31. 25 Từ năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam. Nhận thức rõ thời cơ và thách thức đặt ra, Từ Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 1-1949 đến Đại hội Đảng lần thứ II ( tháng 2-1951), đặc biệt là sau thắng lợi biên giới 1950, ta giành thế chủ động trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, Đảng và nhà nước ta đã đề ra đường lối đối ngoại và sách lược ngoại giao đúng đắn. Hoạt động đối ngoại trong giai đoạn này là phục vụ cho mục tiêu lớn nhất của cuộc kháng chiến "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới"[62, 114]. Mỹ càng can thiệp vào Đông Dương thì mâu thuẫn giữa Pháp với Mỹ càng tăng lên, đồng thời sự chuyển hóa lực lượng càng trở nên phức tạp hơn. Những yếu tố trên là cơ sở để nhà nước ta định ra chính sách đối ngoại và phương hướng tập hợp lực lượng bên ngoài, kịp thời chuyển hướng hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế trong bối cảnh cuộc kháng chiến đã có bước phát triển mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần II (2-1951) đã khẳng định Chính sách ngoại giao Việt Nam phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, bình đẳng về quyền lợi, bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới. Đại hội khái quát đường lối quốc tế của ta là: Đoàn kết chặt chẽ và giúp đỡ hai dân tộc Miên, Lào kháng chiến giành độc lập, cùng Việt Nam hoàn toàn giải phóng Đông Dương, tích cực ủng hộ phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, liên hiệp mật thiết với nhân dân Pháp và nhân dân thuộc địa Pháp, góp phần vào công cuộc chống đế quốc, gìn giữ hòa bình và dân chủ thế giới. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II (2-1951) của Đảng đã chủ trương xuất bản báo Nhân Dân, với vai trò là cơ quan ngôn luận của Đảng, tiếng nói đại diện cho Đảng và quần chúng nhân dân. Ngay từ khi mới ra đời, báo Nhân Dân đã tích cực hoạt động phục vụ cho nhu cầu của cuộc kháng chiến. Báo
  • 32. 26 Nhân Dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc phản ánh hoạt động đối ngoại của chính phủ ta từ 1951- 1954. Với chức năng là cơ quan ngôn luận của Đảng, từ năm 1951 đến năm 1953, báo đăng nhiều bài phân tích về các hoạt động đối ngoại của chính phủ Việt Nam, các sự kiện quốc tế quan trọng, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, giới thiệu những thành tựu xây dựng đất nước ở Liên Xô Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, nêu cao vấn đề đoàn kết quốc tế giữa Việt Nam và các nước Đông Dương khác, các hoạt động đấu tranh ngoại giao vạch trần luận điệu lừa bip của kẻ thù. Qua các bài viết đó, báo Nhân Dân đã phản ánh được hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế tích cực của chính phủ ta cũng như cuộc đấu tranh ngoại giao gay gắt giữa Việt Nam, cũng như hai nước Đông Dương và các lực lượng yêu chuộng hòa bình với Pháp, Mỹ và các lực lượng phản động trên thế giới. Sau khi đặt quan hệ ngoại giao với các nứơc, cùng với việc củng cố, tăng cường chiều sâu trong quan hệ với các Đảng Cộng sản, công nhân, ta cũng tích cực triển khai bước đột phá là chủ động thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền, các đảng tham chính tại nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, quan hệ quốc tế của Đảng ta được mở rộng và làm sâu sắc trên cả bình diện song phương và đa phương. Với quan hệ song phương, Đảng chú trọng chiều sâu và tính thiết thực, theo đó tăng cường mở rộng hợp tác với rất nhiều Đảng thường xuyên nhất là với Đảng cộng sản Liên Xô, Đảng cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng cộng sản Cuba, Đảng Nhân dân Campuchia. Từ đó, Đảng tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới, sự ủng hộ cả về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đảng cũng bắt đầu tiến hành các cuộc trao đổi lý luận, đối thoại chính trị với Đảng Cộng sản Pháp.
  • 33. 27 Trên bình diện đa phương, Đảng ta chủ động, tích cực hoạt động, có những đóng góp thiết thực về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn tại các diễn đàn của các Đảng cộng sản, các tổ chức quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã tăng cường đẩy mạnh kháng chiến đồng thời tham gia thiết thực và phối hợp mật thiết với cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình trên thế giới. Việt Nam không chỉ tích cực tổ chức các hoạt động đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới trong nước mà còn tham gia nhiều hoạt động quốc tế bảo vệ hòa bình như Đại hội Hòa bình thế giới ở Vácxava (11-1950), Đại hội Hòa bình thế giới ở Viên (11-1951)...Đồng thời, ta cũng năng động hơn trong việc phối hợp với các hoạt động của các tổ chức dân chủ thế giới, nhất là trong phong trào thanh niên, phụ nữ dân chủ và tổ chức liên hiệp công đoàn thế giới...Tất cả những hoạt động đó đã được phản ánh khá rõ nét trên báo Nhân Dân. * Về đấu tranh ngoại giao: Ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Thuật ngữ này thông thường đề cập đến ngoại giao quốc tế, việc chỉ đạo, thực hiện các mối quan hệ quốc tế thông qua sự can thiệp hay hoà giải của các nhà ngoại giao liên quan đến các vấn đề như kinh tế, thương mại, văn hoá, du lịch, chiến tranh và tạo nền hòa bình... Các hiệp ước quốc tế thường được đàm phán bởi các nhà ngoại giao trước tiên để đi đến việc xác nhận chính thức bởi các chính trị gia của các nước. Trong các bài viết về hoạt động ngoại giao với kẻ thù, các bài viết trên báo Nhân Dân chiếm một số lượng không lớn, nhưng đã cho thấy đường lối đối ngoại khéo léo về sách lược và cứng rắn về nguyên tắc của Đảng và chính phủ ta nhằm cô lập, phân loại kẻ thù, đồng thời khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến nhân dân ta. Đến năm 1951, kẻ thù trực tiếp trong cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương không chỉ có thực dân Pháp mà từ cuối năm 1950, đế quốc Mỹ đã bắt đầu đẩy mạnh can thiệp vào Đông Dương. Trước sự biến đổi của
  • 34. 28 tình hình quốc tế và trong nước, với sự ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (1-10-1949) sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lan sang khu vực Châu Á và đe dọa đến chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Từ đó, Mỹ lại càng quan tâm hơn đến khu vực Đông Nam Á đặc biệt là Đông Dương. Hơn nữa, từ năm 1950, trên đà thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đặc biệt sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới 1950, Liên Xô, Trung Quốc, hàng loạt các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên…lần lượt tuyên bố đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Việc thừa nhận ấy đã giáng một đòn mạnh vào kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, bè lũ bù nhìn cũng như bọn phản động Mỹ, Anh đang mưu tính trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt- Pháp. Cán cân đối đầu giữa hai lực lượng xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ, Anh, Pháp đang nghiêng về có lợi cho phe xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Mỹ, Anh, Pháp phản ứng rất gay gắt. Mỹ coi Đông Dương là một trong những điểm nóng trong chiến lược chiến tranh lạnh của đế quốc Mỹ và các cường quốc phương Tây. Trước tình hình đó, báo Nhân Dân đã phản ánh khá toàn diện âm mưu cũng như các hoạt động đối ngoại của kẻ thù nhằm gây bất lợi cho cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng trên thế giới. Đồng thời báo bày tỏ thái độ của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng phản động đó. Báo Nhân Dân số 12 ra ngày 14-6-1951 có bài "Mỹ Anh Pháp định âm mưu gì?" chỉ rõ âm mưu của chúng tại hội nghị Tân-gia-ba và phân tích rõ những phương sách mới của kẻ thù trong việc phối hợp mật thiết hơn trong âm mưu siết chặt vòng vây xung quanh Trung Quốc, phá hoại phong trào giải phóng dân tộc Đông Nam Á. Hội nghị Tân- gia-ba là một bước mới của đế quốc Mỹ, Anh, Pháp trong kế hoạch gây chiến tranh xâm lược và phá hoại hòa bình ở Viễn Đông. Bài báo nhấn mạnh: "Việt Nam tiếp giáp với Hoa Nam cho nên trong việc thực hiện chủ trương tại hội nghị, Mỹ Anh đều đồng ý với Pháp là
  • 35. 29 cần tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam và nắm vững Bắc Bộ" [80], "Vận mệnh của Mã Lai dính chặt với vận mệnh của Đông Dương Bắc Bộ Việt Nam, trở thành một bộ phận chủ chốt trong hệ thống phòng thủ Đông Nam Á, do đó thực dân Pháp ở Đông Dương sẽ được quyền ưu tiên trong sự giúp đỡ của Mỹ-Anh" [80]. Đồng thời, bài báo còn khẳng định Việt Nam sẽ đoàn kết với nhân dân Trung Quốc và nhân dân Châu Á ra sức tiêu diệt địch để đập tan âm mưu của Mỹ, Anh, Pháp. Báo Nhân Dân còn có nhiều bài viết về vấn đề Mỹ muốn lợi dụng việc ký kết Hòa ước với Nhật Bản tháng 8-1951 nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Nhật Bản, hiệp ước được kí kết với 48 nước trên cơ sở dự thảo do Mỹ đưa ra có lợi cho Mỹ. Báo đăng liên tiếp trên các số báo 19, 20, 24, 26 (năm 1951) các bài: "Vấn đề hiệp ước hòa bình với Nhật Bản" (số 19 ra ngày 2-8-1951). Trong bài này, báo đăng Bản tuyên bố của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nêu ra những tội ác của Nhật Bản đối với nhân dân Việt Nam và đưa ra ý kiến phản đối việc Bảo Đại không được phép thay mặt chính phủ Việt Nam ký hòa ước với Nhật bản. Đến số 20 ra ngày 9-8-1951 lại có bài viết "Phản đối ký hòa ước riêng với Nhật", số 24 ra ngày 6-9-1951 có bài "Vấn đề hòa ước với Nhật Bản", số 26 ra ngày 20-9-1951 có bài "Hòa ước Nhật do Mỹ Anh nặn ra hoàn toàn vô giá trị". Các bài viết này chủ yếu nêu ra những phương hại mà Việt Nam phải gánh chịu khi Mỹ kí hòa ước với Nhật, bày tỏ thái độ phản đối của Việt Nam đối với hòa ước, coi hòa ước này như mớ giấy lộn, khẳng định Mỹ không thể ngăn được làn sóng cách mạng ở Thái Bình Dương, quyết tâm tiêu diệt thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xâm lược. 1.2.2. Vận động quốc tế *Đảng tăng cường mối quan hệ với hai nước Đông Dương và tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa Chủ nghĩa thực dân Pháp chinh phục ba nước Đông Dương từ thế kỷ XIX. Năm 1887, Pháp thành lập Liên Bang Đông Dương. Trong phạm vi
  • 36. 30 Đông Dương, Pháp thống nhất chính sách thống trị về chính trị, điều hòa phối hợp quyền lợi về kinh tế nhằm kiểm soát khai thác Đông Dương một cách tốt nhất. Đối với Việt Nam, Lào, Campuchia, việc Đông Dương trở thành một thực thể chính trị, kinh tế đã gắn bó số phận của ba nước trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong cuộc đấu tranh chống sự bất công bóc lột vì một nền độc lập, tự do. Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930 trên cơ sở mối quan hệ mật thiết gắn bó ràng buộc giữa nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhờ tinh thần đoàn kết, liên lạc chặt chẽ với nhau thống nhất hành động chống đế quốc Pháp trên nguyên tắc dân tộc tự quyết, đến năm 1945 cả ba nước Đông Dương đều giành được chính quyền. Ngay sau đó, Pháp đã nhanh chóng quay trở lại xâm lược Đông Dương. Trong kế hoạch tái chiếm Đông Dương, Pháp âm mưu biến Đông Dương thành một chiến trường, nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào phải đứng lên cầm vũ khí chống lại. Mối quan hệ lịch sử đã làm cho ba dân tộc anh em trở thành đồng minh trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung. Trong chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 22-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra: "Chương trình kháng chiến" gồm 12 điểm trong đó nhấn mạnh: "Đoàn kết với hai dân tộc Miên, Lào và các dân tộc bị áp bức trong khối Liên hiệp Pháp" [9, 158]. Bản thân nhân dân hai nước Campuchia và Lào cũng đều nhận thức sự cần thiết phải đoàn kết với nhân dân Việt Nam để tăng thêm sức mạnh đấu tranh. Bởi vậy, trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954) nhân dân ba nước đã cùng nhau chiến đấu anh dũng, tăng cường các hoạt động đối ngoại nhằm thắt chặt tinh thần hữu nghị chống lại kẻ thù. Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tháng 2-1951 đã đánh giá tình hình mới và đề ra nhiệm vụ mới cho 3 nước trong đó nhấn mạnh: "Vì Đông Dương là một chiến trường cách mạng và Việt Nam có nhiệm vụ phối hợp với cách mạng Miên- Lào nên lúc này phải tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Miên- Lào phát triển chiến tranh du kích, xây dựng
  • 37. 31 lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa"[62, 161]. Vấn đề tăng cường liên minh chiến đấu giữa ba nước càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, ngày 11-3-1951, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã họp, gồm đại biểu mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme Ítxarắc, Mặt trận Lào Itxala. Hội nghị đã quyết định lập khối liên minh nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Thành lập khối liên minh nhân dân ba nước Đông Dương là nhân tố mới cực kỳ quan trọng trong tình hình Đông Dương đang biến chuyển, gắn bó và tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân 3 nước. Khối liên minh của nhân dân Việt Nam-Lào-Campuchia thành lập và hoạt động là một điều đặc biệt trong lịch sử đấu tranh chính trị và vũ trang giành giải phóng dân tộc của nhân dân ba nước. Đó là một hình thức tổ chức chính trị và pháp lý độc đáo của ba dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống kẻ thù chung, một hình thức quan hệ quốc tế và phối hợp chiến đấu của ngoại giao nhân dân trong khi chưa có điều kiện tổ chức sự liên minh chính thức giữa ba quốc gia. Trước tình hình đó, báo Nhân Dân đã có nhiều bài viết về sự tăng cường liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Tiêu biểu như ngay trong số 3 báo Nhân Dân ngày 7-4-1951 có hai bài viết: "Ba dân tộc Việt- Miên- Lào đoàn kết và đấu tranh đến cùng" và "Tuyên ngôn của Hội nghị liên minh Việt-Miên-Lào" phân tích quá trình đấu tranh, giành thắng lợi của ba dân tộc, sự cần thiết phải liên minh vào một mặt trận chung để chống lại âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Các bài viết phân tích nội dung của Tuyên ngôn đó là hội liên minh ba nước ra đời trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng tương trợ và tôn trọng chủ quyền để cùng đánh đuổi kẻ thù chung giành độc lập dân tộc và góp sức bảo vệ hòa bình thế giới; Trên các trang báo Nhân Dân, tình láng giềng đoàn kết thân thiết giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia được thể hiện rất rõ thông qua các bài viết cổ vũ cuộc đấu tranh của 3 nước Đông Dương, nhân dân 3 nước sát cánh cùng nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Đồng thời, báo
  • 38. 32 có những bài viết ca ngợi tinh thần đấu tranh, bày tỏ niềm tin và quyết tâm đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và Campuchia trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Tiêu biểu như trên trang 2 báo Nhân Dân số 29 ngày 18-10 năm 1951 có bài "Kháng chiến Lào nhất định thắng lợi" ca ngợi tinh thần yêu nước của nhân dân Lào, quá trình đấu tranh và những thắng lợi giành được của nhân dân nước bạn, nhân kỷ niệm lần thứ 6 ngày thành lập Chính phủ Lào. Nhân dân Việt Nam chúc mừng và tin tưởng nhân dân Lào nhất định thắng lợi. Ngày 01-10-1949, sau thắng lợi của cách mạng ở Trung Quốc, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc đã làm nghiêng cán cân lực lượng quốc tế về phía cách mạng và hoà bình. Hai ngày sau, (3-10-1949), Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Trung Quốc. Hành động thể hiện lập trường trước sau như một, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Liên Xô có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn. Với hành động này, Liên Xô đã kéo theo hàng loạt các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa, như Bungari, Hungari, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ba Lan, Mông Cổ, Cộng hoà dân chủ nhân dân Đức, Anbani công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, mở rộng hành lang địa chính trị của phe xã hội chủ nghĩa ra tới biên giới Việt Trung, góp phần quyết định vào việc phá vỡ vòng vây của chủ nghĩa đế quốc với Việt Nam, nối Việt Nam với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Những điều kiện để chính phủ Hồ Chí Minh thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với các nước đã chín muồi. Trung Quốc có mối quan hệ ngoại giao rất quan trọng đối với Việt Nam. Nhiều thập kỷ trước cách mạng Tháng Tám, Trung Quốc không những là cửa ngõ, chỗ đứng chân của các nhà yêu nước Việt Nam, mà còn là nơi các nhà yêu nước Việt Nam tiếp thu tư tưởng của cách mạng tháng Mười. Trên
  • 39. 33 thực tế, nhiều nhà yêu nước Việt Nam đã tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng Tháng Mười qua lăng kính Trung Quốc. Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra cục diện mới cho cách mạng Việt Nam. Nhờ thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, cách mạng Việt Nam mới có khả năng thoát khỏi ra tình trạng bị bao vây, cô lập, kiến lập các mối quan hệ trực tiếp với Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Trước vận hội mới, ngày 14-01-1950, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa tuyên bố cùng với chính phủ các nước ở trên thế giới: “Trải qua mấy năm kháng chiến, nước Việt Nam từng được nhân dân toàn thế giới đồng tình và ủng hộ. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với chính phủ các nước trên thế giới rằng: Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới…” [4, 121] Ngày 15-1-1950, Bộ Ngoại giao tuyên bố Chính phủ Việt Nam "công nhận Chính phủ nhân dân Trung Quốc do Chủ tịch Mao Trạch Đông lãnh đạo và quyết định kiến lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ với Chính phủ nhân dân Trung Quốc"[24,14]. Ngày 18-1-1950, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 30-1- 1950, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Liên Xô, sau đó là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lần lượt công nhận.Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân thừa nhận và đặt bang giao với Việt Nam chứng tỏ phe dân chủ thế giới do Liên Xô đứng đầu quyết tâm giúp đỡ Việt Nam, đặt Việt Nam một cách công khai và chính thức trong hàng ngũ các nước dân chủ thế giới. Việc thừa nhận đó được thực hiện là một thắng lợi cho ta, là một cú đau đánh vào thực dân Pháp
  • 40. 34 và phe lũ bù nhìn và cũng là một cú đánh vào bọn phản động Mĩ - Anh đang mưu tính trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt - Pháp. Ban Thường vụ Trung ương nêu rõ: Sau cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Đông Dương đã thành một tiền tiêu trong mặt trận dân chủ chống đế quốc ở Đông Nam Á. Sau việc các nước thừa nhận Việt Nam, không phải phe phản động quốc tế đã chùn, trái lại chúng càng xúc tiến mưu mô can thiệp. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải tranh thủ thời gian, bên trong thì củng cố và khuếch trương lực lượng, bên ngoài thì đón lấy sự giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng của các bạn ta, để hàng động kịp thời chuyển mạnh sang tổng phản công, giải phóng cho ta, đồng thời cũng để bảo vệ hoà bình thế giới, bảo vệ Liên Xô, phá âm mưu của bọn gây chiến, làm cho cách mạng lan rộng ở Đông Nam Á. Việc Chính phủ các nước chính thức thừa nhận và kiến lập ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một thắng lợi to lớn về chính trị của ta và cũng là một việc rất trọng yếu trong lịch sử nước ta. Nó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc kháng chiến hiện thời. Với sự thừa nhận của các nước bạn, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã bắt đầu có địa vị trên trường quốc tế. Trong năm 1950, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thực hiện lập các Hội Hữu nghị Việt – Xô và Việt – Trung, nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Liên Xô, Việt Nam – Trung Quốc, mục đích làm cho nhân dân Việt Nam hiểu biết về Liên Xô, Trung Quốc về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, tăng cường tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước Việ Nam – Liên Xô và Việt Nam – Trung Quốc để đấu tranh cho hòa bình thế giới. Để phục vụ tốt việc tuyên truyền, Việt Nam đã đề nghị Liên Xô và Trung Quốc thỏa thuận để Việt Nam thành lập Đại sứ quán ở thủ đô hai nước. Tháng 4– 1951, đại sứ quán nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ở Bắc Kinh. Tháng 2- 1952, đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu hoạt động ở Mátxcơva. Sứ quán Việt Nam ở Liên Xô, Trung Quốc đóng
  • 41. 35 vai trò quan trọng trong công việc nối Việt Nam với Thế giới, thực hiện thu thập tin tức, tài liệu, kinh nghiệm về xây dựng, quản lý kinh tế, quân sự, đối nội, đối ngoại để gửi về nước; cung câp tin tức trong nước phục vụ công tác tuyên truyền quốc tế của bạn; phối hợp cơ quan ngoại giao, cơ quan tuyên truyền của các nước bạn kịp thời đối phó với âm mưu của chủ nghĩa đế quốc. Chính phủ Việt Nam đã cử đoàn đại biểu và nhân dân đi thăm hữu nghị hoặc đi dự các Đại hội Quốc tế. Ngày 3-8-1951, phái đoàn Việt Nam do Hoàng Quốc Việt dẫn đầu đã đi thăm Trung Quốc. Phái đoàn “lần lượt đến chào mừng các vị thủ trưởng hiệp hội và Chính phủ, đi thăm các đoàn thể nhân dân và tiếp tục với cán bộ, nhân dân thủ đô Trung Quốc mới. Nhân dịp đó, phái đoàn Hoàng Quốc Việt đã giới thiệu cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc và tích cực bảo vệ hòa bình thế giới, nói rõ chủ trương của ta là kháng chiến trường kỳ, ý chí sắt đá của nhân dân ra là kháng chiến để đến thắng lợi toàn thắng” [18; 44]. Cuối năm 1952, đoàn đại biểu Việt Nam do đồng chí Tôn Đức Thắng dẫn đầu đến thăm Trung Quốc. Cuộc viếng thăm nhằm mục đích thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt – Hoa và trao đổi học tập kinh nghiệm. Tại cuộc viếng thăm, phái đoàn Việt Nam đã báo cáo tình hình kháng chiến Việt Nam, sự trưởng thành của quân đội, sự phát triển của chiến tranh du kích, sự tham gia, phục vụ tiền tuyến của hàng vạn dân công trong một chiến dịch, những thành tích chiến đấu anh dũng của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương dân quân du kích, sự nỗ lực thi đua sản xuất của công nhân và nông dân, sự hăng hái đóng góp của các tầng lớp nhân dân Việt Nam cho kháng chiến [18,45]. Tháng 10– 1952, nhân ngày Quốc khánh của Trung Quốc, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã có lời chúc mừng đến Đảng và nhân dân Trung Quốc. Việt Nam nêu cao vai trò của Trung Quốc đối với phong trào cách mạng thế giới cũng như cách mạng Việt Nam, đồng thời Chính phủ Việt Nam cũng
  • 42. 36 khẳng định Trung Quốc thắng lợi, nghĩa là Việt Nam thắng lợi, không những vì từ xưa đến nay, hai dân tộc Việt– Hoa có quan hệ khăng khít về địa lý, kinh tế, văn hóa mà còn vì cách mạng Trung Quốc đã giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu về kháng chiến kiến quốc”[18,45] Trong bối cảnh đó, nhằm cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng, Báo Nhân Dân có nhiều bài viết về hoạt động ngoại giao với Trung Quốc như: việc thành lập Đại sứ quán đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc, báo Nhân Dân có bài "Củng cố tình hữu nghị Việt Hoa" (trang 1 báo Nhân Dân số 9 ngày 20-5-1951) viết về sự kiện ngày 8-4-1951, tại Bắc Kinh đồng chí Hoàng Văn Hoan đại diện chính phủ nước ta làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đã trình quốc thư lên chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, lần đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có Đại sứ quán ở nước ngoài. Ngoài ra báo Nhân Dân còn có nhiều bài viết ca ngợi Đảng Cộng sản Trung Quốc như trên báo số 14 ngày 28-6-1951 có bài "Mừng 30 năm thành công vĩ đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc" nêu lên quá trình thành lập và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Trung Quốc, những nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam và những điều học hỏi, noi theo gương sáng của Trung Quốc; Các bài viết về các chuyến thăm của đoàn đại biểu Việt Nam đến thăm Trung Quốc và đại biểu Trung Quốc tới Việt Nam như "Hoan nghênh đoàn đại biểu Việt Nam sang thăm Trung Quốc" (số 19 ngày 2-8-1951), "Phái đoàn Hoàng Quốc Việt sang thăm Trung Quốc" (số 20 ngày 9-8-1951), "Thăm Trung Quốc" của tác giả Tôn Đức Thắng trên báo Nhân Dân số 42 ngày 24-1-1952 viết về sự kiện sau chiến dịch Cao Lạng, biên giới Việt- Trung được mở rộng phái đoàn ngoại giao của ta đã sang thăm Trung Quốc để thắt chặt thêm tình hữu nghị và trao đổi học tập kinh nghiệm lẫn nhau, ngưỡng mộ trước sự thành công của nước bạn và sự tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta...Bên cạnh đó, trên báo Nhân Dân còn có các bài viết, các điện văn chúc mừng kỉ niệm các ngày lễ lớn của