1. I.3. Lạm phát
Khi lượng tiền giấy phát hành ra vượt quá số lượng vàng hoặc bạc cần
thiết cho lưu thông thì gọi là lạm phát. Nó sẽ làm cho hiện tượng giá cả tăng lên
nhanh chóng và đồng tiền trở nên bị mất giá. Ngược lại, nếu lượng tiền giấy phát
hành ra thấp hơn số lượng vàng hoặc bạc cần thiết cho lưu thông thì gọi là giảm
phát.
Lạm phát vừa phải: lạm phát dưới 10% 1 năm.
Lạm phát phi mã: lạm phát 2 con số1 năm.
Siêu lạm phát: lạm phát 3 ( hoặc 4) con số1 năm.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá
tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm
trước
GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên
- 6 -
CHƯƠNG II
NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BIỆNPHÁP PHÒNG CHỐNG
LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA HIỆNNAY
II.1. Nguyên nhân lạm phát ở nước ta hiện nay
Lạm phát trong kinh tế học được hiểu là sự tăng giá chung. Lạmphát
thường có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền
trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do cầu
tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm phát do
cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạora lạm phát
do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện nay hội tụ đủ cácnguyên
nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ.
II.1.1. Nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong của nền
kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc Việt Nam
gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế. Sự
mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố
làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6
nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê
duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm
2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 11,7%
so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5nghìn tỉ đồng, bằng 4,95%
GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch
xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Tổng cầu tăng nóng vượt quá
khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên quan tới
hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên,
cần phải nhìn nhận việc gia tăng đầu tư nước ngoài và đầu tư công vào kết cấu hạ
tầng tạocơ hội nhiều hơn thách thức, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và giải
quyết các vấn đề "thắt cổ chai", tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn.
II.1.2. Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên ngoài
2. Đó là giá cả các loại hàng hóa trên thế giới đã tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với
sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật liệu đầu
vào, đặc biệt là dầu thô, lên cao gấp 2 đến 3 lần so với năm 2003. Giá dầu lửa đã
tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1-2007 lên 89,4 USD/thùng tháng 12-2007, và đạt
đỉnh mới 125,96 USD/thùng vào ngày 9-5-2008. Tốc độ tăng giá năng lượng, đặc
biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007 và đầu năm 2008 là nguyên nhân
dẫn tới tình trạng lạm phát trên diện rộng ở tất cả các nước trên thế giới. Đến cuối
năm 2007, lạm phát so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam là 12,63% và đến
tháng 4-2008, tỷ lệ này đã là 21,42%. Nhìn vào hình 1, có thể nhận thấy tỷ lệ lạm