SlideShare a Scribd company logo
1 of 42
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG SO SÁNH TU TỪ TRONG CA TỪ 
TRỊNH CÔNG SƠN 
Từ lâu, so sánh tu từ đã xuất hiện nhiều trong ca dao, tục ngữ: “Thân em như tấm lụa đào/ 
phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”, “lòng sung cũng như lòng vả”,… Các nhà văn, nhà thơ 
cũng sử dụng hình thức này trong tác phẩm của mình như một biện pháp nghệ thuật đắc 
dụng nhằm tăng hiệu quả biểu cảm và giá trị thẩm mĩ. Tùy vào khả năng liên tưởng và 
phong cách ngôn ngữ của mỗi tác giả mà chúng ta có những hình ảnh so sánh khác nhau. 
Đến với thơ Nguyễn Bính, ta bắt gặp những hình ảnh bình dị, thân quen như: “Lòng anh 
như chiếc lá khoai/ Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu”, “Mẹ em như bóng nắng về 
chiều/ Sống được bao nhiêu biết bấy nhiêu”. Nhưng khi đi vào hồn thơ Xuân Diệu, ta lại 
được chạm vào những hình ảnh tươi mới, say sưa: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi 
gần”. Có thể nói, nghệ thuật sử dụng so sánh tu từ đã góp phần tạo nên những dấu ấn riêng 
của các tác giả. Trịnh Công Sơn cũng vậy, bằng những quan sát tinh tế và sự chiêm nghiệm 
về tình yêu, quê hương, thân phận của mình, người nhạc sĩ tài hoa ấy đã thổi vào ca từ 
những tiếng nói riêng. Để đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này, người viết sẽ phân tích các câu so 
sánh tu từ dựa trên bốn nhóm nghĩa: so sánh tu từ vẽ lên hình tượng nhân vật trữ tình; so 
sánh tu từ thể hiện những chiêm nghiệm về tình yêu; so sánh tu từ thể hiện những chiêm 
nghiệm về thân phận, cuộc đời; so sánh tu từ thể hiện những sự vật, hiện tượng gần gũi 
trong đời sống. Từ đó, nghệ thuật sử dụng so sánh tu từ trong ca khúc của ông sẽ được làm 
sáng tỏ hơn. 
3.1. So sánh tu từ vẽ lên hình tượng nhân vật trữ tình 
Trong tuyển tập ca khúc Những bài ca không năm tháng, nhân vật trữ tình chủ yếu là hai 
chủ thể: tôi, ta và em – người tình. Tác giả không bao giờ sử dụng đại từ nhân xưng anh để 
chỉ về mình. 
Có thể nói hình ảnh người tình là một trong những nguồn cảm hứng bất tận trong 
các ca khúc của Trịnh Công Sơn. Dù có trực diện gọi tên như Diễm trong Diễm xưa, 
Nguyệt trong Nguyệt ca, Quỳnh Hương trong Quỳnh hương,… hay chỉ thể hiện là 
nhân vật em thì tác giả vẫn luôn giành những hình ảnh tốt đẹp để nói về họ: 
Em đến bên đời hoa vàng một đóa 
Một thoáng hương bay trên trời phố hạ 
(Hoa vàng mấy độ)
Tác giả đã dùng vẻ đẹp của rực rỡ tươi trẻ của một đóa hoa vàng, một mùi hương thoang 
thoảng bay trên trời phố hạ để diễn tả vẻ đẹp của những người con gái ấy. Tuy nhiên, Trịnh 
Công Sơn không chỉ dừng lại ở việc miêu tả vẻ đẹp mà còn miêu tả thêm ý nghĩa của việc 
em đã đến nơi này. Cuộc đời tôi bình dị, em đến và như một đóa hoa rực rỡ ngát hương tô 
điểm cho cuộc đời bình dị ấy trở nên nhiều màu sắc, nhiều hương vị. Em trở thành điểm 
nhấn cho cuộc đời tôi, cho một trời phố hạ oi nồng. Hình thức thể hiện ẩn từ so sánh và yếu 
tố phương diện so sánh đã giúp cho trí tưởng tượng của người tiếp nhận không bị bó hẹp, 
vẻ đẹp của em cũng không bó hẹp trong khuôn khổ bằng hay tương tự với vẻ đẹp thiên 
nhiên. Nó giúp cho hai hình ảnh ấy xóa nhòa ranh giới và hòa quyện vào nhau, sáng bừng 
cả câu chữ. Tác giả đã so sánh một sự vật, sự việc với nhiều sự vật, sự việc từ đó nhấn 
mạnh yếu tố được so sánh. Trong câu này, hình ảnh em đến bên đời đã được nhấn mạnh 
bằng cách đem so sánh với hoa vàng rực rỡ, một thoáng hương bay trên trời phố hạ. Đây 
cũng là hình thức thường xuất hiện trong cách sử dụng biện pháp so sánh tu từ trong ca 
khúc của ông. 
Hơn nữa, khi nói về việc một người con gái vô tình xuất hiện trong cuộc đời mình, ông 
luôn dùng những hình ảnh vui tươi, yêu đời để diễn tả: 
Em đã đến nơi này tựa như cánh én 
(Vẫn có em bên đời) 
Một ngày tình cờ biết em 
Là ngày lạ lùng biết trần gian 
(Còn thấy mặt người) 
Trong hình ảnh đầu, từ tựa như đặt ở giữa hai vế đảm nhận nhiệm vụ kết nối hình ảnh em 
và cánh én trở nên gắn kết với nhau theo quan hệ tương tự, khiến hai hình ảnh ấy đặt cạnh 
nhau không những không chênh chao mà lại còn rất có tình. Cánh én xuất hiện báo hiệu 
một mùa xuân đang đến, mang niềm vui và niềm hy vọng những điều tốt cho mọi người. 
Em đã đến bên cuộc đời anh tựa như cánh én mang mùa xuân về, cho anh một hơi thở mới, 
một niềm tin yêu mới. Cuộc đời anh trở nên ấm áp khi được yêu thương, dù có thể một 
ngày nào đó em như chim bay. Và từ đó, ngày tình cờ biết em trở thành ngày lạ lùng biết 
trần gian. Nếu không có một ngày tình cờ biết em, có lẽ có một người vẫn nghĩ cuộc đời là 
những ngày từ từ trôi, trôi trong công việc, cô độc và im lặng. Nhưng em đã đến và đã cho 
một người biết đời không chỉ là như thế, và cuộc đời cũng chẳng còn đơn độc. Em đã dắt 
một người đi vào những cung bậc cảm xúc của tình yêu, vui tươi, giận hờn,… những cảm
xúc rất thật của cuộc đời. Con người ấy như thấy mình bây giờ mới thực sự sống, thực sự 
biết trần gian. Tác giả đã dùng từ là kết nối hai vế so sánh là các cụm danh từ lại với nhau 
theo nghĩa ngang bằng khiến cho hai hình ảnh như xóa nhòa ranh giới và làm sáng tỏ hơn ý 
nghĩa của một ngày tình cờ biết em. Cấu trúc A – tss – B (ẩn yếu tố phương diện so sánh) 
được tác giả sử dụng một cách nhuần nhuyễn. 
Dù qua mỗi cuộc tình lòng ông lại mang thêm một nỗi niềm, nhưng tác giả luôn dùng 
những hình ảnh đẹp để chỉ những người con gái trong cuộc đời mình: 
Nắng có hồng bằng đôi môi em 
Mưa có buồn bằng đôi mắt em 
(Như cánh vạc bay) 
Nắng, mưa là hai hình ảnh đẹp. Tác giả đã lấy sự hồng hào, ấm áp của nắng để tôn lên vẻ 
đẹp của đôi môi em, lấy nỗi buồn của mưa để chỉ sự đa sầu đa cảm của đôi mắt. Những đôi 
mắt buồn thường là những đôi mắt đẹp. Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên so sánh với vẻ đẹp của 
con người đã là một điều ưu ái, nhưng không dừng lại ở đó, tác giả còn lấy con người làm 
chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là một nét độc đáo. Trước đây, đại thi hào 
Nguyễn Du cũng từng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên so sánh với vẻ đẹp nàng Kiều: 
Làn thu thủy, nét xuân sơn 
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh 
(Truyện Ki ều – Nguyễn Du) 
Nếu trước đây, vẻ đẹp của nàng Kiều đã khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn để từ đó 
“hồng nhan bạc mệnh” thì giờ đây, nhân vật em của Trịnh cũng được so sánh tương tự 
nhưng thiên nhiên ôn hòa, không ghanh ghét. Vả lại, tranh giành hơn kém về nỗi buồn cũng 
để làm gì. Cấu trúc A – x – tss – B đã được tác giả sáng tạo trong sự thể hiện, đôi khi làm 
cho người đọc lầm tưởng. Thoạt đầu, ta thấy nó giống như một câu hỏi tu từ, nhưng thực 
chất nó lại là so sánh tu từ được thể hiện dưới dạng một câu hỏi tu từ. Giống câu hỏi tu từ 
bởi lẽ nó mang tính chất là một câu nghi vấn nhưng lại hàm chứa được câu trả lời. Tuy 
nhiên, trong hai ví dụ trên đều có hai vế A – B rõ rệt. Vả lại, có từ “hồng”, “buồn” nêu lên 
tính chất chung cho cả hai yếu tố được so sánh lẫn yếu tố so sánh, từ đó làm cơ sở cho phép 
so sánh này. Thêm vào đó, từ “bằng” xuất hiện làm cầu nối cho hai vế, đóng vai trò từ so 
sánh trong câu. Có thể thấy, nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành biện pháp so sánh tu từ. Hơn 
nữa, trong hai câu này người tiếp nhận không thể chỉ dựa vào nghĩa của từ “bằng” làm câu 
trả lời, mà nó đã thể hiện một nghĩa khác – sự so sánh hơn kém. Tác giả đã khéo léo thể 
hiện cấu trúc so sánh tu từ dướ hình thức câu hỏi tu từ để nhấn mạnh rằng: nắng không 
hồng bằng đôi môi em, mưa không buồn bằng đôi mắt em. Cấu trúc so sánh tu từ lí tưởng A
– x – tss - B đã được tác giả thể hiện trong sự sáng tạo. Đó là một trong những cái hay trong 
cách sử dụng biện pháp so sánh tu từ của Trịnh Công Sơn. 
Hình ảnh đôi môi thường xuất hiện nhiều trong phép so sánh tu từ của ông, có khi môi hồng 
hào, ấm áp như nắng, khi lại thiêu đốt, cuồng nhiệt như đốm lửa: 
Ngủ đi em đôi môi lửa cháy 
(Em hãy ngủ đi) 
Môi em là đốm lửa 
Cuộc đời đâu biết thế 
(Ru tình) 
Hình ảnh lửa cháy gợi lên cho ta sự nóng bỏng, cuồng nhiệt, khát khao nhưng cũng không 
kém phần phần duyên dáng. Đốm lửa cũng thế, nhưng nhẹ nhàng mời mọc và quyến rũ 
hơn. Cả hai hình ảnh đều là sự vật gợi lên sức nóng, mà những vật như thế thường toát lên 
vẻ quyến rũ khó cưỡng. Trong Sử thi Đăm Săn, nữ thần Mặt trời là vị thần của ánh sáng, 
quyền lực và sự quyến rũ đến cả Đăm Săn cũng muốn chinh phục. Lửa cũng như vậy, trong 
Thần thoại Hy Lạp, lửa cũng là một vị thần. Vì thế, ngoài sự quyến rũ ra, đôi môi ấy còn 
toát ra một sức mạnh quyền lực khiến ai cũng tôn trọng. Tác giả đã thể hiện hai cấu trúc: A 
– B và A – tss – B để thể hiện vẻ đẹp của đôi môi em. Cả hai phép so sánh đều vắng mặt 
yếu tố phương diện so sánh, như vậy sợi dây liên tưởng giữa hai hình ảnh đôi môi – lửa sẽ 
dễ dàng được người tiếp nhận nhân rộng hơn nhờ không bị bó hẹp bởi một từ cụ thể. Tác 
giả luôn vận dụng nhiều cấu trúc thể hiện biện pháp so sánh tu từ và làm mới các hình ảnh 
trong ca khúc của mình. 
Ngoài hình ảnh đôi môi, mái tóc của nhân vật em cũng thường xuất hiện trong các ca khúc 
của Trịnh: 
Ôi tóc em dài đêm thần thoại 
(Gọi tên bốn mùa) 
Đêm là đơn vị thời gian, nhưng tác giả đã sáng tạo dùng đêm làm đơn vị đo cho độ dài, tuy 
nhiên đêm ở đây lại là đêm thần thoại. Từ thần thoại gợi cho ta nghĩ đến những gì rất xưa, 
sự hoài cổ và thần thánh. Tóc của em cũng dài và đẹp như vậy, cũng lung linh, có chút gì 
đó cổ kính và huyền ảo. Trong hình thức A – x – B này, từ so sánh đã được giấu đi, không 
gặp sự gò bó của từ so sánh nào nên mái tóc em dài được tự do tiếp nối với đơn vị đo đêm
thần thoại làm cho mái tóc ấy như dài thêm, huyền ảo thêm, đẹp như một vị thần. Cả câu 
chữ đều toát lên sự lung linh huyền hoặc tạo điểm nhấn cho ca khúc. 
Không chỉ là “đêm thần thoại”, mái tóc của em còn được tác giả ví như “trời xưa”, khi lại là 
“dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn”: 
Tóc em như trời xưa 
Đã đi qua ngàn năm 
(Ru em từng ngón xuân nồng) 
Tóc người như dòng sông xưa ấy đã phai 
Đã lênh đênh biển khơi 
(Có một dòng sông đã qua đời) 
Sợi tóc em bồng trôi nhanh trôi nhanh 
Như dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn 
(Tuổi đá buồn) 
Hình ảnh trời xưa gợi lên một không gian của hoài niệm, của quá khứ. Dòng sông xưa ấy 
cũng là hình ảnh của hoài niệm. Trong một lần vô tình nhìn thấy người yêu cũ đi với người 
yêu bên cạnh dòng sông Hương, tác giả cảm thấy con sông dường như đã qua đời. Vì thế, 
tóc người cũng được ví như dòng sông đã phai, đã lênh đênh biển khơi, không còn thuộc về 
tôi nữa. Hình ảnh dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn cũng thế, cũng là một con sông 
nhưng dòng chảy của mỗi ngày có bao giờ giống mọi ngày. Tất cả các hình ảnh ấy đều 
thuộc về sự hoài niệm của quá khứ và đều là những gì đã xa, không thể nắm bắt được. Mái 
tóc dài là biểu tượng của người con gái, sử dụng những hình ảnh thể hiện sự khó nắm bắt 
để miêu tả mái tóc giúp ta ngầm hiểu cô gái đó không thuộc về nhân vật tôi, từ đó, thể hiện 
một nỗi buồn. 
Những người con gái đi qua đời ông hầu hết đều là những người có vóc dáng “mình hạc 
sương mai”, có lẽ vì thế nên tác giả luôn sử dụng những hình ảnh nhẹ nhàng để diễn ta bờ 
vai ấy: 
Ngủ đi em đôi vai lụa mát 
(Em hãy ngủ đi)
Bờ vai như giấy mới 
Sợ nghiêng hết tình tôi 
(Thương một người) 
Vai em gầy guộc nhỏ 
Như cánh vạc về chốn xa xôi 
(Như cánh vạc bay) 
Hình ảnh đôi vai lụa mát gợi lên sự mềm mại, tươi mát. Bờ vai như giấy mới gợi lên sự 
trong trắng, ngây thơ, bởi thế nên tôi sợ nghiêng hết tình tôi. Đặc biệt, hình ảnh như cánh 
vạc về chốn xa xôi gợi cho ta nhiều nỗi niềm. Theo nhạc sĩ Trần Long Ẩn thì “nhân vật của 
Như cánh vạc bay là một cô gái Huế đã định cư ở nơi xa. Không được ở bên nhau, sống với 
nhau, anh vẫn luôn mong người ấy hạnh phúc, dù anh âm thầm đau khổ”. Trước ngày cưới, 
cô gái đã tìm về Việt Nam để gặp tác giả một lần rồi chạy đi và khóc rất nhiều, bởi thế mà 
ta có hình ảnh: tóc em từng sợi nhỏ/ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh. Yếu tố được so 
sánh: vai em kết hợp với từ chỉ hình dáng gầy guộc nhỏ đã tạo nên sự mỏng manh, yếu đuối 
cho bờ vai ấy. Thế nhưng tác giả lại đem so sánh đôi vai mỏng manh ấy với cánh vạc về 
chốn xa xôi. Trịnh Công Sơn lớn lên ở Huế, ông cũng chịu sự ảnh hưởng ít nhiều về văn 
hóa dân gian. Hình ảnh con cò, con vạc thường xuất hiện trong ca dao, những câu hát than 
thân thể hiện sự chịu thương chịu khó, cam chịu. Khi nói vai em gầy guộc nhỏ/ như cánh 
vạc về chốn xa xôi, đôi vai ấy không chỉ là sự mỏng manh, yếu đuối mà còn là sự cam chịu 
và đơn độc. Một mình cánh vạc bay về chốn xa xôi, một mình em về nơi đất khách quê 
người. Từ gầy guộc nhỏ kết hợp với hình ảnh cánh vạc bay về chốn xa xôi càng làm cho 
nhân vật em thêm gầy guộc, mỏng manh, xa dần, nhỏ dần và mất hút. Trong ca khúc của 
mình, Trịnh Công Sơn thường so sánh một cụm từ với một cụm từ. Khi yếu tố được so sánh 
hay yếu tố so sánh là cả một cụm từ thì sẽ giúp hình ảnh rõ nét hơn, sinh động hơn. Đó 
cũng là một trong những điều tạo nên nét mới lạ trong so sánh tu từ của Trịnh Công Sơn. 
Nói về tình cảm của những nhân vật trữ tình em, nếu như nhạc sĩ Văn Cao đã từng viết: 
Thôi tình em đấy 
Như mùa thu chết rơi theo lá vàng
(Buồn tàn thu – Văn Cao) 
thì khi đi sâu vào miêu tả tình em, ta lại thấy hình ảnh chiếc lá xuất hiện trong ca khúc của 
Trịnh: 
Ru em tình như lá trăm năm vẫn quay về 
(Ru tình) 
Tình em của nhạc sĩ Văn Cao được thể hiện như mùa thu rơi vào niềm tuyệt vọng bởi sự 
rụng rơi héo úa của những chiếc lá vàng vì tháng ngày chờ đợi mòn mỏi. Tình em của 
Trịnh Công Sơn cũng là hình ảnh chiếc những chiếc lá nhưng là chiếc lá trăm năm vẫn 
quay về. Sự rụng rơi là biểu hiện của sự kết thúc, từ đó, nỗi buồn được dấy lên tuy không 
xót xa như mùa thu chết rơi theo lá vàng nhưng nó lại da diết không nguôi. Tuy nhiên, lá 
bao đời vẫn rơi về cội, tình em cũng vậy, cũng một lòng thủy chung và yêu như một qui 
luật của tạo hóa. Hình ảnh ấy vừa gợi lên một nỗi buồn nhưng đồng thời cũng gợi lên niềm 
thanh thản. Trong cấu trúc so sánh này, Trịnh Công Sơn đã đảo trật tự của yếu tố phương 
diện so sánh xuống cuối câu, từ đó nhấn mạnh tình em bao đời vẫn thế, vẫn một lòng không 
đổi và vì thế nên cũng buồn. 
“Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”, những cuộc tình cứ đến rồi đi, những 
người con gái cứ đến rồi đi, người nhạc sĩ ấy cảm thấy em xa vời quá, không thể nắm bắt 
được: 
Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi 
(Hoa vàng mấy độ) 
Tác giả đã so sánh nhân vật em với hình ảnh cơn gió. Cuộc đời vị nhạc sĩ họ Trịnh 
này từng có nhiều lần rung động, nhưng có khi người ta không biết đến tình cảm của 
ông, có khi cũng không đi đến đâu. Vì thế, những nhân vật em xuất hiện trong cuộc 
đời ông cuối cùng cũng đều không thuộc về ông. Hình ảnh cơn gió đã tượng trưng 
cho sự không cố định, khó nắm bắt rồi, nhưng cơn gió này còn được đặt trong trạng 
thái cứ mãi bay đi, càng nhấn mạnh sự khó nắm bắt của nhân vật em. Trong kiểu cấu 
trúc này, vị trí của các yếu tố so sánh đã được thay đổi: từ so sánh được đặt ở đầu 
câu, tiếp theo là yếu tố so sánh, yếu tố được so sánh và cơ sở so sánh. Với việc đảo 
trật tự cấu trúc này, tác giả muốn nhấn mạnh đến yếu tố so sánh bằng cách đưa nó 
lên trước yếu tố được so sánh. Hơn nữa, việc đặt cơ sở so sánh ở cuối câu cũng là 
một dụng ý. Xét về mặt ngữ nghĩa, “còn cứ mãi bay đi” chỉ tính chất luôn di chuyển,
và khi nó được đặt ở cuối câu không gặp bất cứ trở ngại của thành tố nào thì nó sẽ dễ 
dàng tạo hiệu ứng lan tỏa – bay đi. 
Sau khi em đi, niềm đau luôn ùa về dằn vặt, cào xé con tinh yêu thương của tác giả, 
để rồi người tự thốt ra những chiêm nghiệm về sự tồn tại: 
Từ đó em là sương 
Rụng mát trong bình minh 
Từ đó ta là đêm 
Nở đóa hoa vô thường 
(Đóa hoa vô thường) 
Dù thế nào thì em cũng đã ra đi. Khi đến, em trong sáng và long lanh như những giọt 
sương. Nhưng em cũng mong manh và dễ tan biến như giọt sương kia vậy – em đi. 
Trịnh Công Sơn thường ví người tình của mình là sương, bởi sương thường có khi 
đêm về, đó cũng là lúc tâm hồn con người trở nên yếu đuối với quá khứ nhất. Con 
người dễ rơi vào trạng thái cô độc, và nhất là khi hình ảnh em tìm về khi rõ ràng, khi 
lại mờ ảo như sương. Tưởng chừng có thể cầm nắm được nhưng chạm vào lại vội 
vàng tan biến. Em đến rồi đi như một quy luật tuần hoàn của tạo hóa giành cho 
sương, sương sẽ tan khi trời sáng. Hình ảnh rụng mát trong bình minh gợi nên cảm 
giác nhẹ nhàng, thản nhiên không chút vướng bận. Từ đó, tác giả thấy mình là đêm 
bởi chính ông cũng đã thức cùng đêm, hòa vào đêm. Trong đêm, gam màu đen dày 
đặc khỏa lấp từng ngõ ngách yêu thương. Đêm im vắng, mênh mông vô cùng cũng 
như lòng tác giả vậy. Trạng ngữ chỉ thời gian từ đó xuất hiện cho ta thấy trước đây 
ta và em đều không là sương, là đêm cho đến khi gót hồng em muốn quay về. Từ đó 
ta là đêm hay nói đúng hơn từ đó ta chẳng còn gì cả ngoài một mảng tối u buồn. 
Nhưng có một điều đặc biệt trong hình ảnh so sánh này là sương tồn tại trong đêm, 
hay nói cách khác đêm ôm lấy sương. Trên thực tế, đã có rất nhiều người tình đến 
rồi đi và để lại cho tác giả nhiều nỗi buồn. Tuy nhiên, ta không hề thấy một lời oán 
trách nào trong ca từ của ông cả. Chỉ có những tình cảm đáng trân trọng hiện hữu. 
Dù có thấy mình trở thành đêm, ông vẫn muốn được yêu nhân vật em ấy đến trọn 
lòng. Hình ảnh so sánh giàu sức gợi hình, giàu sức biểu cảm được gắn kết bởi từ là
theo nghĩa ngang bằng đã làm cho tâm tư của tác giả được bộc lộ rõ rệt, mãnh liệt, ta 
và màn đêm như hòa chung vào một. 
Có lẽ vì luôn chịu ám ảnh bởi cái chết và nỗi buồn của tình yêu, nên hình ảnh nhân 
vật tôi, ta xuất hiện cũng buồn không kém. Tuy nhiên, vẫn có những lúc tác giả thể 
hiện niềm vui của mình: 
Một hôm bước chân về giữa chợ 
Chợt thấy vui như trẻ thơ 
(Đêm thấy ta là thác đổ) 
Niềm vui được tác giả diễn tả trong sự ngây thơ, trong sáng của trẻ thơ và sự tự do, yêu đời 
của một cánh diều vui. Ở ví dụ đầu, tác giả đã sử dụng cấu trúc A – x – tss – B nhưng A đã 
được ẩn đi. Hành động bước chân về giữa chợ và thể hiện cảm xúc vui như trẻ thơ thì chỉ 
có thể là hành động của con người. Hơn nữa, trong suốt bài Đêm thấy ta là thác đổ, hình 
tượng nhân vật tôi, ta xuất hiện xuyên suốt nên yếu tố được so sánh ở đây chính là cảm xúc 
của nhân vật tôi. Ta có thể khôi phục lại câu một cách đầy đủ như sau: 
Một hôm tôi bước chân về giữa chợ 
Chợt tôi thấy (tâm hồn) vui như trẻ thơ 
Tác giả đã so sánh tâm hồn vui tươi của mình với trẻ thơ, bởi trẻ thơ thường thể hiện 
cảm xúc một cách thật nhất, thoải mái nhất và vô tư nhất. Khi so sánh như vậy, niềm 
vui như được vỡ òa và được lan ra một cách không giới hạn. Hình thức thể hiện yếu 
tố được so sánh một cách gián tiếp như thế này giúp cho hình ảnh cô đọng hơn. Tác 
giả cũng sử dụng hình thức này nhiều và tạo đã nên một phong cách riêng, nét đẹp 
riêng cho hình ảnh so sánh tu từ của ông. 
Tuy có lúc vui tươi nhưng cảm xúc chủ đạo trong so sánh tu từ nói riêng và cảm xúc 
ca từ nói chung vẫn quy lại ở chữ buồn. Và nỗi buồn cũng được ông thể hiện theo 
một cách khác: 
Tình yêu vô tội 
Để lại cho ai 
Buồn như giọt máu 
Lặng lẽ nơi này 
(Lặng l ẽ nơi này)
Một mai thức dậy 
Chuyện trò với lá cây 
Rồi buồn như lá bay 
(Tình sầu) 
Nỗi buồn trở nên lặng lẽ, cô quạnh như giọt máu hay thậm chí là chiếc lá xa rời sự 
sống. Hình ảnh biểu trưng giọt máu gợi cho chúng ta nhiều điều, nhưng sâu sắc nhất 
vẫn là sức gợi về sự sống. Người ra đi để lại nỗi buồn bủa kín nơi này, sự sống của 
một con người trở nên lặng lẽ và cô độc. Hình ảnh so sánh tu từ buồn như gọt máu 
khi rõ rệt, khi không thể định hình tạo sự đau đáu khôn nguôi trong lòng người 
người tiếp nhận. Đây cũng là điểm đặc biệt trong cách sử dụng hình ảnh của ông. Ở 
đây, tác giả cũng sử dụng cấu trúc so sánh tu từ A – x – tss – B nhưng A đã được thể 
hiện một cách gián tiếp. Trong bài Lặng lẽ nơi này, nhân vật em xuất hiện với vai trò 
khách thể, nhân vật tôi đóng vai trò chủ thể. Vì thế, buồn là trạng thái cảm xúc của 
nhân vật tôi. Ta có thể khôi phục lại câu đầy đủ như sau: 
Tình yêu vô tội 
Để lại cho ai 
Tôi buồn như giọt máu 
Lặng lẽ nơi này 
(Lặng l ẽ nơi này) 
Khi tôi được ẩn đi, trong câu chỉ còn thể hiện cảm xúc, lúc này buồn đóng vai trò là 
yếu tố phương diện so sánh đã được tập trung mọi ánh nhìn. Từ đó, cảm xúc buồn 
được nhấn mạnh hơn và lan tỏa hơn. 
Cũng nói về sự sống đang đi vào tàn lụi, hình ảnh lá bay gợi trong lòng mọi người 
một nỗi buồn dai dẳng, da diết kèm theo sự tiếc nuối. Nỗi buồn được diễn tả cùng 
với sự sống, khi người ta vui cuộc sống tràn đầy, khi người ta buồn cuộc sống như 
muốn tắt đi, như chiếc lá kết thúc một cuộc đời. Tuy nhiên, hình ảnh đó gợi nỗi buồn 
nhưng không gây cảm giác lụy, nó vẫn rỉ rích buồn nhưng lại có chút nhẹ nhàng như 
chiếc lá bay, gợi trong lòng người đọc cảm giác man mác. Đó cũng là tâm trạng
chung của rất nhiều người và cũng là những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của con 
người. Cũng diễn tả nỗi buồn, ta hãy thử xem nhà thơ Nguyên Sa nói gì: 
Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm 
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh 
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình 
(Nga – Nguyên Sa) 
Nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh cụ thể, thân thuộc với đời sống thường ngày của 
con người tuy nhiên những hai hình ảnh con chó, đôi mắt cá ươn không hẳn đã đem 
lại hiệu quả tốt cho phép so sánh này. Tuy có thể hiểu được tác giả muốn nói nhân 
vật Nga khi buồn im lặng, ngoan ngoãn trong tay nhân vật anh và cũng có thể nói 
đây là hai hình ảnh đặc biệt và táo bạo khi đưa vào thi ca. Nhưng dù thế nào thì hai 
hình ảnh ấy vẫn chưa hẳn là đẹp, từ đó làm giảm đi xúc cảm thẩm mĩ trong lòng 
người đọc. Ngược lại, hình ảnh so sánh Trịnh Công Sơn sử dụng cũng là những điều 
quen thuộc với con người, ai trong đời cũng từng trải qua cho và vẫn gợi nên giá trị 
thẩm mĩ nên dễ nhận được sự đồng cảm của người tiếp nhận. 
Cùng sử dụng so sánh tu từ để thể hiện nhân vật tôi, nhưng trước mỗi tình huống, sự 
việc và hoàn cảnh khác nhau, các hình ảnh ấy lại có sự khác biệt: 
Ngày xưa khi còn bé 
Tôi mơ có cuộc tình 
Như mơ ước được gần 
Với những nụ hồng 
Nhưng hôm nay không còn trẻ nhỏ như xưa 
Tôi thấy tôi là chiếc bóng phai mờ 
Nhưng hôm nay không còn một hồn bao la 
Tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe 
(Ngày nay không còn bé) 
Hai đoạn trên hiện lên hai mốc thời gian khác nhau và hình ảnh nhân vật trữ tình vì 
thế cũng khác. Khi còn bé, chưa nếm trải nhiều nỗi đau của cuộc đời, cũng chưa va 
vấp nhiều với cuộc đời nên ước mơ cũng ngọt ngào, hồn nhiên. “Mơ có cuộc tình
như mơ ước được gần với những nụ hồng”, một ước mơ tưởng chừng như đơn giản 
nhưng sự thật lại không hề dễ. Nụ hồng tượng trưng cho một tình yêu đẹp, gần nụ 
hồng không phải là điều khó khăn gì nhưng gặp được một tình yêu đẹp mới là điều 
khó, sự thật ấy tất nhiên khi còn bé người ta không thể ý thức được. Đến đoạn thứ 
hai, thời gian hiện lên là thời điểm không còn trẻ nhỏ nữa và cũng chẳng còn một 
hồn bao la như xưa nữa, lúc đó nhân vật trữ tình đã có nhiều trải nghiệm. Vì thế, 
nhân vật tôi đã thấy mình là chiếc bóng phai mờ, chút vết mực nhòe. Cả hai đều là 
những hình ảnh gợi lên sự nhạt nhòa. Chiếc bóng chỉ xuất hiện khi có ánh sáng chiếu 
vào một người, một vật nào đó và độ to nhỏ sẽ tùy thuộc vào góc chiếu, nó cũng sẽ 
mất đi khi ánh sáng không còn. Chính bản thân chiếc bóng đã tạo nên sự mờ nhạt 
bởi vì nó không thể tự sinh ra mà bị phụ thuộc vào vật khác. Thế nhưng, tác giả lại 
cho chiếc bóng kết hợp với tính từ phai mờ càng tô đậm thêm sự mờ nhạt của nó. 
Hình ảnh chút vết mực nhòe cũng vậy, từ vết mực kết hợp với từ chút đứng đầu đã 
cho ta thấy nó rất ít ỏi và nhỏ bé, và càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với từ nhòe ở cuối 
câu. Cả hai từ chút và nhòe một đứng đầu một đứng cuối đóng vị trí hai đầu nút lại 
là những từ chỉ lượng và chất – ít ỏi và nhạt nhòa đã khiến cho hình ảnh vết mực trở 
nên mờ nhạt hơn. Từ đó, nhân vật tôi xuất hiện trong tư thế rỗng. Khi đã nếm trải 
nhiều sự thật ở đời, con người ta lớn lên và nhận ra rằng đời không như những gì 
ngày xưa mình nghĩ. Khi nỗi đau quá nhiều, một lúc nào đó con người ta sẽ nhận ra 
mình là một vật thể bé nhỏ, mờ nhạt trong cuộc đời. Hai hình ảnh về nhân vật tôi 
hiện lên trong hai khoảng thời gia khác nhau, điều đó cho ta thấy trạng từ chỉ thời 
gian trở nên rất đắc dụng trong câu. Trước mỗi hình ảnh so sánh tu từ, tác giả đều 
cho một trạng từ chỉ thời gian xuất hiện, các trạng từ này tạo ra một không gian cụ 
thể để so sánh tu từ có thể thăng hoa cả về cảm xúc lẫn nghĩa, từ đó đạt được hiệu 
quả cao. Ta cũng có thể thường bắt gặp những trạng từ chỉ thời gian này trong các ca 
khúc của ông. 
Trong một ca khúc của mình, tác giả đã ví mình thành hình ảnh tám chú chim khác 
nhau trong tám đoạn: 
Tôi như con chim nhỏ 
Bay về rất ngẩn ngơ
Trên nhân gian chia lìa 
Lòng đầy những oán thù 
Tôi như chim xa lạ 
Đứng nhìn những ngày qua 
Trong tim tôi bất ngờ 
Một lời than rất nhỏ 
Tôi như con chim buồn 
Bay về lúc chiều hôm 
Thôi quên đi thiên đường 
Một đời tôi mãi tìm 
Tôi như con chim bệnh 
Thiếu hạnh phúc trần gian 
Có những tháng mùa đông 
Ngồi khóc rất âm thầm 
Tôi như chim ưu phiền 
Bay về cuối dòng sông 
Con sông mang tin buồn 
Nằm chờ những đóa hồng 
Tôi con chim vô vọng 
Linh hồn rất mong manh 
Trong tôi có một lần 
Một mùa ôi rất lạnh 
Tôi như con chim chiều 
Mang đầy nắng quạnh hiu
Trên đôi vai u sầu 
Tìm về nơi cuối đèo 
Tôi con chim thanh bình 
Mơ được sống hồn nhiên 
Như hoa trên đồng xanh 
Một sớm kia rất hồng 
(Như chim ưu phi ền) 
Hình ảnh so sánh xuất hiện dày đặc trong cùng một ca khúc thế này không phải là 
một điều hiếm hoi trong các ca khúc của ông. Nhưng tất cả các hình ảnh so sánh đều 
là những con chim thì là một điều đặc biệt. Những con chim lớn dần theo mạch cảm 
xúc của tác giả: từ con chim nhỏ đến chim xa lạ, con chim buồn, con chim bệnh đến 
chim ưu phiền, rồi trở thành con chim vô vọng, con chim chiều và cuối cùng là chim 
thanh bình. Thoạt nhìn, có thể ta sẽ thấy các hình ảnh không ăn nhập gì với nhau 
nhưng ngẫm kĩ lại đó lại là một quá trình dài của hành trình cuộc sống. Trong những 
tháng năm khốc liệt của chiến tranh, tác giả đã ví mình là con chim nhỏ bay về rất 
ngẩn ngơ không biết đi đâu, về đâu giữa chốn nhân gian đầy rẫy sự chia lìa và oán 
thù. Khi đã chứng kiến bao thăng trầm, sự tàn khốc và nếm trải trái đắng của cuộc 
đời, người nghệ sĩ ấy lại thấy mình giống như con chim xa lạ. Bởi vì nhận ra cuộc 
đời quá khác biệt với suy nghĩ của “ngày xưa khi còn bé”, nên người ta dễ rơi vào 
trạng thái xa lạ với cuộc đời, sống giữa đời mà như khác biệt. Từ chuyện nhận ra 
những mặt khác nhau của con người, cuộc đời như thế nên nhân vật tôi ấy mới u 
buồn và ví mình thành một con chim buồn/ bay về lúc chiều hôm. Từ đó dặn lòng 
mình thôi quên đi thiên đường/ một đời tôi mãi tìm, vì cuộc đời vốn dĩ không phải là 
những giấc mơ. Tiếp theo là một loạt những hình ảnh: tôi như con chim bệnh, tôi 
như chim ưu phiền, tôi con chim vô vọng, tôi như con chim chiều, đó là hàng loạt 
những trạng thái cảm xúc cứ mỗi lúc một đầy lên theo nỗi buồn. Nhưng đoạn kết lại 
là hình ảnh của một con chim thanh bình/ mơ được sống hồn nhiên/ như hoa trên 
đồng xanh/ một sớm kia rất hồng. Hình ảnh so sánh tu từ này khác với tất cả những 
hình ảnh trước về mặt cấu trúc. Những hình ảnh trước được thể hiện chủ yếu theo
cấu trúc A – tss – B và A – B, vế được so sánh là một từ và vế so sánh là một cụm 
từ. Nhưng ở câu cuối này, tác giả đã so sánh một nhân vật trữ tình (tôi) với nhiều sự 
vật, hiện tượng và cả hai hình ảnh đều ẩn đi yếu tố phương diện so sánh. Tuy nhiên, 
ở yếu tố so sánh đầu: con chim thanh bình mơ được sống hồn nhiên, tác giả không 
sử dụng từ so sánh làm điểm kết nối. Nhưng đến hình ảnh: hoa trên đồng xanh/ một 
sớm kia rất hồng lại xuất hiện từ so sánh như, sử dụng từ so sánh ở đó tạo nên sự 
liền mạch cho câu. Nếu như cả hai hình ảnh ta đều sử dụng từ so sánh để kết nối hai 
vế lại với nhau thì điều đó hoàn toàn được chấp nhận và tác giả vẫn thường sử dụng 
hình thức đó trong so sánh tu từ của mình. Nhưng nếu không sử dụng từ so sánh thì 
câu trên sẽ được viết lại như thế này: 
Tôi con chim thanh bình 
Mơ được sống hồn nhiên 
Hoa trên đồng xanh 
Một sớm kia rất hồng 
Hoặc nếu ta sử dụng từ so sánh mà đặt ở trước vế so sánh đầu: 
Tôi như con chim thanh bình 
Mơ được sống hồn nhiên 
Hoa trên đồng xanh 
Một sớm kia rất hồng 
Như vậy, hình ảnh hoa trên đồng xanh/ một sớm kia rất hồng sẽ trở nên vô nghĩa và 
trở thành yếu tố thừa, bởi trước nó không có sợi dây liên kết nào với hình ảnh tôi và 
còn bị ngăn cách bởi một hình ảnh so sánh khác. Vì thế, từ như xuất hiện rất đắt mà 
lại còn tạo nên sự mới lạ trong cách thể hiện. Về mặt ngữ nghĩa, hình ảnh con chim 
thanh bình và hoa trên đồng xanh này gần giống như trạng thái ban sơ khi bước vào 
cuộc đời. Khi va vấp, trải nghiệm nhiều với đời, con người ta lớn dần lên trong suy 
nghĩ. Đến một mức độ nào đó, khi niềm đau quá lớn tới mức tưởng như vượt 
ngưỡng chịu đựng của con người thì thường xảy ra hai xu hướng: một là tàn lụi hoàn 
toàn, hai là nhận ra hướng giải thoát mới. Bằng một trái tim thương cảm với đời, dù 
trải qua bao nhiêu khốn khó, thăng trầm, Trịnh Công Sơn vẫn giữ cho mình một 
niềm tin yêu cuộc sống, nên cuối cùng tác giả vẫn tìm được một hướng đi riêng.
Không bon chen với đời, không còn bị những mưu lợi vật chất, danh vọng ở đời 
quấy nhiễu, quay về với bản ngã thực thụ của con người. Thích tự do, thích yên bình 
như con chim thanh bình mơ được sống hồn nhiên, như hoa trên đồng xanh nở 
những đóa hoa tươi đẹp cho cuộc đời. Hai hình ảnh so sánh xuất hiện liên tiếp tạo 
nên một sự liên tưởng rộng, từ đó làm sáng tỏ nghĩa cho hình tượng nhân vật tôi. 
Đến đây, ta thấy hình ảnh này có điểm tương ứng với hình ảnh con chim nhỏ mở đầu 
bài hát, giống như sau mỗi kết thúc là một khởi đầu. 
Từ những nét chấm phá bằng hình ảnh so sánh tu từ của mình, tác giả đã vẽ nên hình 
tượng nhân vật trữ tình tôi, ta và em một cách trọn vẹn và tinh tế. Ta có thể nhận 
thấy, khi nói về nhân vật em tác giả thường chọn những hình ảnh đẹp nhưng dễ tan 
biến và khó nắm bắt như: mây, nắng, mưa, gió, sương, … từ đó cho ta thấy trên thực 
tế em cũng vốn dĩ không thuộc về ta. Ngược lại, khi nói về mình tác giả thường sử 
dụng những hình ảnh có thể tri nhận bằng mắt, bằng tay nhưng đa số đều mang theo 
một nỗi buồn hoặc sự suy tư. Hình ảnh và cảm xúc của các nhân vật trữ tình được 
hiện lên rõ nét qua cách thể hiện cấu trúc so sánh tu từ và cách lựa chọn hình ảnh 
độc đáo. 
3.2. So sánh tu từ thể hiện những chiêm nghi ệm về tình yêu 
Tình yêu là một trong ba chủ đề chính trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông 
đã từng nói rằng: một lần yêu thương/ một đời bão nổi, nhưng dù có thế nào thì con 
người ta cũng vẫn không chối bỏ nó, người nhạc sĩ ấy vẫn tìm đến nó và từ đó trở 
thành niềm cảm hứng lớn cho cuộc đời sáng tác của mình. 
Tình yêu mật ngọt 
Mật ngọt trên môi 
Tình yêu mật đắng 
Mật đắng trong đời 
Tình yêu như biển 
Biển rộng hai vai 
Biển rộng hai vai 
Tình yêu như biển
Biển hẹp ta người 
Biển hẹp tay người lạc lối 
(Lặng l ẽ nơi này) 
Tác giả đã so sánh tình yêu với mật ngọt nhưng lại là mật ngọt từ đôi môi. Đó là cảm 
giác trong tình yêu mà ai cũng trải qua dù ít hay nhiều. Nhưng khi tan vỡ nó lại trở 
thành mật đắng trong đời. Hai hình ảnh trái ngược nhưng lại được đặt cạnh nhau tạo 
nên sự hòa phối trái nghĩa, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của nhau. Thay vì nói: tình yêu 
ngọt ngào như mật ngọt trên môi, tình yêu cay đắng như mật đắng ở trong đời, tác 
giả đã giấu cơ sở so sánh và từ so sánh đi để chỉ còn lại hai vế so sánh nhưng người 
đọc vẫn hiểu ông muốn nói gì, chính vì vậy mà hình ảnh trở nên cô đọng hơn. Hơn 
nữa, tác giả không nói thẳng tình yêu ngọt và đắng như điều gì trong cùng một câu 
mà tách nó làm hai câu riêng biệt, muốn hiểu rõ hơn hình thì phải đọc tiếp câu tiếp 
theo. Cách thể hiện này gần giống như lối vắt dòng trong thơ hiện đại, câu đầu liên 
quan chặt chẽ đến câu sau. Hai hình ảnh mật ngọt, mật đắng được tác giả lặp lại hai 
lần, một là để kết nối hai câu, hai là để nhấn mạnh tính chất ngàn đời của tình yêu. 
Với hình thức so sánh tu từ lược bỏ cơ sở so sánh và từ so sánh này, người đọc sẽ 
gặp phải chút khó khăn trong việc tìm ra mối liên hệ giữa hai hình ảnh so sánh. Tuy 
nhiên, bằng sự tài tình trong cách lựa chọn hình ảnh, Trịnh Công Sơn đã định hướng 
rõ cho người đọc con đường tìm đến tâm hồn ông. Hơn nữa, cấu trúc này khi bớt từ 
so sánh đi, người đọc sẽ không bị gò bó trong việc xác định hai hình ảnh tương quan 
với nhau theo sự tương tự (như, tựa như, dường như, …) hay ngang bằng (bằng, là). 
Từ đó, nghĩa của câu sẽ được mở rộng ra hơn tùy vào khả năng cảm thụ của mỗi 
người. 
Nếu như đầu bài hát tác giả đã dùng hình ảnh so sánh để chỉ ra tình chất chung của 
tình yêu, thì đến với những câu tiếp theo tình yêu được so sánh với biển như vẽ lên 
một cuộc tình cụ thể. 
Tình yêu như biển 
Biển rộng hai vai 
Biển rộng hai vai 
Tình yêu như biển
Biển hẹp tay người 
Biển hẹp tay người lạc lối 
(Lặng l ẽ nơi này) 
Đối chiếu với hai cặp câu đầu: “tình yêu mật ngọt/ mật ngọt trên môi/ tình yêu mật đắng/ 
mật đắng trong đời”, hai câu diễn tả hai cảm xúc khác nhau của tình yêu. Đến cặp so sánh 
tu từ này, nó cũng sẽ diễn đạt hai trạng thái tương tự. “Tình yêu như biển/ biển rộng hai vai/ 
biển rộng hai vai”, hình ảnh hai vai đó là sự ngọt ngào khi hai người còn ở bên nhau, mọi 
cảnh vật đều trở nên tươi đẹp, và biển cũng thêm rộng lớn. Nhưng đến câu thứ hai: “tình 
yêu như biển/ biển hẹp tay người/ biển hẹp tay người lạc lối” thì nỗi đau đã xuất hiện, tình 
yêu đã không còn nguyên vẹn. Hình ảnh biển hẹp tay người là một hình ảnh lạ, được lặp lại 
hai lần thể hiện sự đau đáu, da diết không nguôi. Khi ta ở bên người, biển bao la rộng lớn. 
Khi ta không còn người, biển cũng hẹp vô cùng. Tác giả đã nhìn nhận điều này từ con mắt 
của cảm xúc. Biển rộng lớn vô cùng khi nhìn bằng con mắt yêu đời, hạnh phúc, nhưng khi 
nhìn từ đôi mắt u buồn, biển trở nên hẹp lại, hẹp lại như bàn tay của một người quay lưng. 
Bàn tay ấy không còn đủ chỗ để nắm lấy bàn tay mình, không còn đủ chỗ để cầm giữ 
những yêu thương. Trần Đăng Khoa cũng từng đặt biển và em vào hai phía: 
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng 
Biển một bên và em một bên 
(Thơ tình người lính bi ển – Trần Đăng Khoa) 
Câu thơ hiện lên hình ảnh biển và em đều quan trọng như nhau, rộng lớn như nhau, đều là 
những gì anh yêu quý. Nhưng khi đi vào ca từ Trịnh Công Sơn, cũng là biển, cũng là em 
nhưng lại thu hẹp đến lạ. Hình thức so sánh này giúp hai hình ảnh kết hợp với nhau trong 
một thế hẹp, khiến cho người đọc như cũng đứng trước biển, như cũng chứng kiến tay 
người lạc lối. Làm cho tâm hồn người thưởng thức lắng xuống, và chiêm nghiệm. Ở hai 
hình ảnh so sánh tu từ này, tác giả cũng sử dụng hình thức lặp từ để tạo sự kết nối và bổ 
nghĩa cho câu trước. Trong cấu trúc A – tss – B này, cơ sở so sánh đã được giấu đi, muốn 
hiểu mối liên hệ giữa hai hình ảnh tình yêu và biển thì bắt buộc phải đọc tiếp câu sau. Đó 
cũng là một nét đặc biệt trong sử dụng so sánh tu từ của Trịnh Công Sơn. 
Vì trải qua nhiều lần rung động nhưng không lần nào trọn vẹn, người nhạc sĩ ấy đã nhìn 
tình yêu bằng một cảm nhận riêng:
Tình yêu như vết cháy 
Trên da thịt người 
Tình xa như trời 
Tình gần như khói mây 
Tình trầm như bóng cây 
Tình reo vui như nắng 
Tình sầu làm cơn say 
(Tình sầu) 
Cũng giống như một vết thương, hình ảnh vết cháy trên da thịt người luôn gợi cho người 
đọc một hình ảnh vết tì, khó phai mờ. Vết cháy là dấu vết còn lại của một vết thương đã 
lành trên bề mặt. Tuy nhiên, nó vẫn không bị phai mờ theo năm tháng, dấu vết của niềm 
đau vẫn còn có thể nhận rõ trên da thịt. Tác giả đã nói về tình yêu như vậy, khi tình vui 
người ta hạnh phúc, khi tình sầu người ta đau. Vết thương lòng do tình yêu để lại cũng 
giống như vết cháy trên da thịt, có thể mờ nhưng không thể xóa hết hoàn toàn. 
Từ những lần “từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ” hay những khi đạp xe 
sau lưng một cô gái dù người đó không biết, ông đã cảm nhận tình yêu bằng năm cung bậc: 
xa, gần, trầm, reo vui, sầu. Có khi ông cảm nhận tình yêu rất xa như bầu trời, mà bầu trời 
thì cao quá làm sao với. Cũng có khi ông lại thấy tình yêu thật gần, tưởng như có thể chạm 
vào được nhưng nó cũng giống như khói mây, nhìn thì gần thế nhưng cũng xa vời lắm. Ở 
dưới chân núi nhìn lên đỉnh cao ta thấy mây trắng bao quanh, tưởng lên đó có thể chạm vào 
được. Nhưng đến khi lên tới nơi, tất cả những áng mây kia đều là sợi khói, chạm vào lại vội 
tan. Thường thì khi diễn tả khoảng cách gần của một điều gì đó, người ta sẽ so sánh với 
những thứ có thể nhìn thấy được, có thể chạm vào được. Nhưng bằng đôi mắt của một 
người không trọn vẹn tình duyên, ông cảm nhận tình yêu gần cũng như xa. Rồi tình yêu 
cũng có những khoảng lặng trầm lắng, ông đã cảm nhận cung trầm của tình yêu như những 
bóng cây bên đường. Chiếc bóng từ cây mà ra dưới sự chiếu sáng của mặt trời, âm thầm và 
lặng lẽ bên cạnh cây. Nhưng chiếc bóng cũng bị mờ nhạt và không là gì cả. Nếu tình đó là 
tình cảm của một người dành cho một người thì đó là sự cao cả và được hiểu theo nghĩa 
đầu tiên. Ngược lại, nếu đó là trạng thái tình cảm thì nó ẩn chứa một nỗi buồn và được hiểu 
theo nghĩa thứ hai. Ở hai câu đầu, ta đã thấy tác giả thể hiện cảm nhận về sự xa - gần của
tình yêu, thì hai câu sau cũng sẽ là một cặp tương ứng. Do phía sau tác giả thể hiện cảm xúc 
reo vui nên trên đây sẽ là sự trái ngược, vì thế trầm như bóng cây sẽ được hiểu theo nghĩa 
nỗi buồn. Đến trạng thái reo vui, tác giả đã thể hiện bằng hình ảnh tươi mới của nắng. Động 
ngữ reo vui kết hợp với danh từ nắng tạo nên sự lan tỏa trong hình ảnh, người thưởng thức 
như thấy nắng đang lên trước mắt mình. Tuy nhiên, Trịnh từng nói: nắng buồn hơn mưa, 
nên có khi nói nắng đó nhưng vẫn ẩn chứa nỗi buồn. Nhìn lại, ta thấy tất cả những hình ảnh 
so sánh gắn với các cung bậc: xa, gần, trầm, reo vui đều là những sự vật, hiện tượng cho ta 
cảm giác xa vời và dễ tan biến. Trời thì xa, chỉ có thể nhìn thấy chứ không chạm vào được. 
Khói mây cũng vậy, tưởng là gần đấy nhưng chạm vào sẽ tan và thực tế nó không có hình 
thù. Bóng cây có thể dùng thị giác để cảm nhận nhưng không thể cầm nắm, và nó cũng sẽ 
biến mất khi ánh sáng không còn. Nắng cũng thế, ta có thể cảm nhận đang đi trong nắng 
nhưng không thể thấy hình thù của nắng, và nắng cũng có lúc nhạt, phai, rồi tắt để nhường 
chỗ cho đêm. Vì thế, những hình ảnh ấy đã được tác giả hòa phối tương đồng về ngữ nghĩa 
theo một gam màu buồn, mong manh. Từ đó, dù diễn tả nhiều trạng thái khác nhau của tình 
yêu nhưng người tiếp nhận vẫn cảm thấy ẩn sâu trong đó là một nỗi buồn. Cả bốn câu đều 
sử dụng cấu trúc A – x – tss – B, một sự điệp cấu trúc không những không gây nhàm chán 
mà còn liên tiếp dẫn người đọc đi từ cảm giác này đến cảm giác khác. Các lớp cảm xúc cứ 
xếp chồng lên rồi quy tụ lại ở nỗi sầu – tình sầu làm cơn say, làm người đọc không khỏi 
lặng lòng. 
Sớm giác ngộ triết lí của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Trịnh Công Sơn luôn nhìn nhận mọi 
thứ ở hai mặt: “trong trừng giọng nói có màu tàn phai”: 
Cuộc tình lên cao vút 
Như chim mỏi cánh rồi 
Như chim xa lìa bầy 
Như chim xa lìa trời 
Như chim bỏ đường bay 
(Tình sầu) 
Tác giả đã so sánh cuộc tình lên cao vút với nhiều hình ảnh khác nhau để làm sáng tỏ hơn 
sự chiêm nghiệm của mình. Cuộc tình lên cao vút – đó là trạng thái cao nhất của tình yêu, 
lẽ ra người ta phải thấy vui và hạnh phúc. Nhưng không, tác giả đã nhận ra khi một sự vật,
sự việc đạt đến độ cao nhất của nó thì cũng là lúc chuẩn bị tàn lụi. Trái cây chín để trên cây 
rồi sẽ rụng và rữa. Trăng tròn rồi sẽ khuyết. Có lẽ vì vậy, Nguyễn Tuân nói rằng trăng 14 
đẹp hơn trăng rằm: “Trăng mười bốn bao giờ cũng khéo hơn trăng rằm. Ngày mười bốn là 
ngày vừng trăng đi tới chỗ toàn thịnh. Ngắm vừng trăng rằm, người tinh ý sẽ nhận thấy cái 
vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn khai trong có một thì” (Thả thơ – Nguyễn Tuân). Bởi thế, 
khi tình cảm đã lên đến đỉnh cao, vị nhạc sĩ nhạy cảm với đời ấy lại thấy buồn và đã đem 
cuộc tình so sánh với sự vật, sự việc đang đi vào tàn lụi. Chim mỏi cánh – hình ảnh gợi lên 
sự mệt nhoài; chim xa lìa bầy – đó là sự đơn độc; chim xa lìa trời – cánh chim luôn gắn bó 
với bầu trời, nhưng đến khi cả bầu trời cũng không còn níu được cánh chim cũng là lúc 
xuất hiện sự tàn lụi; chim bỏ đường bay – sự kết thúc cho một hành trình. Tác giả đã sử 
dụng cấu trúc A – tss – B cho một loạt hình ảnh so sánh này, nhưng sáng tạo hơn bằng cách 
đem một sự vật, hiện tượng này so sánh với nhiều sự vật, hiện tượng khác. Các hình ảnh so 
sánh liên tục xuất hiện theo hình thức tăng tiến khiến nỗi sầu bật ra mỗi lúc một da diết 
hơn. Từ đó, thấm sâu vào lòng người tiếp nhận những nỗi niềm. 
Bằng trái tim yêu nhạy cảm của mình, tác giả cũng nhận ra sự mong manh của tình yêu: 
Tình mong manh như nắng 
Tình còn đầy không em 
(Tình sầu) 
Có chút tình thoảng như gió vội 
Tôi chợt nhận ra tôi 
(Như một l ời chia tay) 
Có thể nhận ra rằng hình ảnh thiên nhiên xuất hiện rất nhiều trong so sánh tu từ của ông. 
Bằng sự tinh tế của mình, ông nhận ra nắng, mưa, gió cũng có những trạng thái u buồn và 
mỏng manh. Từ đó, mượn những hình ảnh ấy để diễn tả trạng thái của tình yêu. Ta có thể 
nhìn nhận nắng bằng mắt dựa vào màu sắc của nó. Có khi nắng lên đầy trải ra một màu 
vàng tươi, khi vàng nghệ, khi lại nhàn nhạt một màu, có lẽ vì thế tác giả thấy nắng cũng 
mong manh lắm. Tình yêu cũng có những lúc vơi, lúc đầy, khi thắm thiết, khi nhạt nhòa, từ 
đó tác giả thấy sự tương đồng giữa hai hình ảnh. Bởi thế, khi nhận định tình mong manh 
như nắng, người nghệ sĩ ấy đã xoáy một câu hỏi xót xa vào lòng người tiếp nhận: tình còn
đầy không em?. Ở ví dụ sau, ta lại thấy sự mong manh ấy được gắn liền với hình ảnh gió. 
Cụm động từ có chút tình giữ vai trò làm yếu tố được so sánh, từ chút đã gợi nên sự ít ỏi 
của cuộc tình. Càng ít ỏi, mong manh hơn khi tác giả so sánh chút tình thoảng như gió vội. 
Từ thoảng đóng vai trò là yếu tố phương diện so sánh, tuy nhiên chính bản thân tính từ này 
cũng gợi nên sự mong manh. Tính chất càng được nhân đôi khi yếu tố so sánh là hình ảnh 
gió vội. Gió vốn dĩ đã không có hình thù nên không thể cầm nắm được, nhưng đây lại là 
hình ảnh một cơn gió vội. Chút, thoảng, vội, cả ba từ đều gợi nên sự mong manh, ít ỏi được 
rải đều đều từ yếu tố được so sánh, yếu tố phương diện so sánh đến yếu tố so sánh tạo hiệu 
hứng lan tỏa, tràn ngập ra cả câu. Từ đó, nhấn mạnh tính chất mong manh, vô định của tình 
yêu. 
Cảm xúc là điều khó đoán biết vì nó không hẳn tự thân mình ra mà còn do bên ngoài tác 
động, có khi đang vui lại trở nên u buồn. Trịnh Công Sơn đã cảm nhận rõ sự thay đổi thất 
thường đó qua hình ảnh chiếc lá: 
Tình như lá bỗng vàng bỗng xanh 
(Tạ ơn) 
Chiếc lá nay còn xanh đó, mai có thể vàng rồi. Tình cảm cũng vậy, nay hạnh phúc biết mai 
có còn được thế. Từ bỗng đi kèm càng nhấn mạnh trạng thái thất thường đó. Cấu trúc A – x 
– tss – B đã được đảo trật tự. Cơ sở so sánh bỗng vàng bỗng xanh đã được tác giả đặt xuống 
cuối câu để nhấn mạnh sự thay đổi nhanh chóng, sự không ngờ của cuộc tình. Hình thức thể 
hiện này cũng được tác giả sử dụng nhiều trong các ca khúc của mình. 
Cảm nhận được sự thay đổi thất thường của tình yêu, tác giả cũng cảm nhận được sự thay 
đổi nhanh chóng của nó: 
Tình như nắng vội tắt chiều hôm 
(Như một l ời chia tay) 
Tác giả đã ví tình yêu như nắng, bởi như ta đã nói nắng sẽ có lúc đậm, lúc phai thì tình yêu 
cũng vậy. Theo quy luật của tạo hóa, nắng sẽ tắt khi chiều về để nhường chỗ cho đêm. Tình 
yêu có lúc đi lên cũng có lúc đi xuống. Bản thân từ vội đã gợi nên sự nhanh chóng, đi kèm 
với từ tắt càng tạo nên sự dứt khoát, nhanh chóng hơn. Hơn nữa, động ngữ vội tắt chiều 
hôm được đặt ở cuối câu càng nhấn mạnh tính chất nhanh chóng phai tàn.
Cùng nói về sự thay đổi của tình yêu, khi thì tác giả ví tình như chiếc lá bỗng vàng bỗn 
xanh để nói về sự thất thường, khi mượn hình ảnh nắng vội tắt chiều hôm để nói về sự 
nhanh chóng, nhưng cũng có khi lại mượn hình ảnh bể dâu để nói về sự đổi thay như là một 
quy luật: 
Tình bỗng là bể dâu 
Tay vẫy chào lạnh lẽo 
Đời sẽ buồn như một vết thương 
(Như một vết thương) 
Bể dâu thường xuất hiện nhiều trong văn học trung đại, nguyên văn của nó là thương hải 
tang điền, tức biển xanh ruộng dâu. Theo sách Tầm Nguyên, có một ông lão sống đủ một 
trăm tuổi thường nói với con cháu rằng: Ta đã sống đủ một trăm tuổi. Trong đời ta, ta đã 
thấy biết bao lần có sự thay đổi trong vũ trụ như biển cả sóng vỗ muôn trùng rồi biến thành 
nơi đất bồi để người ta đem dâu ra trồng. Rồi có nơi ruộng dâu lại biến thành biển cả, nước 
xanh sóng vỗ”. Các thi sĩ thời xưa thường mượn hình điển cố này để nói về sự thay đổi của 
mọi vật trong vũ trụ. Trịnh Công Sơn cũng sử dụng hình ảnh này để nói về sự thay đổi của 
tình yêu. Từ bỗng xuất hiện kết hợp với từ là chứng tỏ trước đó tình không như vậy. Từ đó, 
nhấn mạnh sự nhanh chóng, thất thường của trạng thái tình yêu. Nếu như không có từ bỗng, 
câu sẽ được viết lại như sau: 
Tình là bể dâu 
Như vậy, hình ảnh so sánh tu từ đó mang tính chất so sánh để nhận định. Nhưng khi thêm 
từ bỗng vào, sự đột ngột thay đổi tạo nên cảm xúc ngỡ ngàng, tăng giá trị biểu cảm hơn. 
Đôi khi, sự đổi thay nhanh chóng không kịp nhận ra vẫn chưa thật sự đau khổ bằng nhìn 
thấy cuộc tình chìm mau mà không cách nào cứu vãn nổi: 
Một người về đỉnh cao 
Một người về vực sâu 
Để cuộc tình chìm mau 
Như bóng chim cuối đèo 
(Tình nhớ) 
Hai người đi về hai hướng khác biệt: một đỉnh cao, một vực sâu, hai tính chất đối nghịch 
nhau. Đỉnh cao là nơi cao nhất, quan niệm chung của mọi người đó là nơi có ánh sáng chói
lòa của thiên đường hạnh phúc. Ngược lại, vực sâu là nơi thấp nhất nên dễ gợi cho người ta 
suy nghĩ: ở nơi đó con người chỉ còn lại niềm đau, cô đơn và tuyệt vọng. Như vậy, người 
về đỉnh cao sẽ không bị cuộc tình đã qua ám ảnh nhiều, nhưng người về vực sâu thì lại luôn 
đau đáu. Và càng đau khổ hơn khi thấy cuộc tình đang đi vào kết thúc mà không làm gì 
được. Tác giả đã so sánh hình ảnh cuộc tình chìm mau với bóng chim cuối đèo. Cánh chim 
cứ bay và khuất xa dần trong tâm trí, dù yêu thương thế nào, dù muốn níu kéo thế nào cũng 
không làm gì được. Hai cụm từ được đem ra so sánh với nhau, từ đó bổ nghĩa cho nhau và 
đạt hiệu quả diễn đạt cao. 
Đối với người nghệ sĩ tài hoa này, mọi liên tưởng đều tạo nên sự mới lạ: 
Tình yêu như trái phá 
Con tim mù lòa 
(Tình sầu) 
Tình yêu như cơn bão 
Đi qua địa cầu 
(Tình sầu) 
Trái phá là đạn đại bác có sức công phá rất lớn và được sử dụng trong chiến tranh. Nhưng 
nhờ Trịnh Công Sơn, ta biết được nó cũng có thể đi vào ngôn ngữ âm nhạc và lại là một 
hình ảnh đắt giá. Tác giả đã lấy sức công phá lớn của nó để làm cơ sở so sánh cho trái phá 
và tình yêu. Nếu như trái phá hủy hoại mọi sự vật, hiện tượng hiện hữu thì tình yêu cũng có 
sức công phá tâm hồn, trái tim của con người. Nhưng ở đây, con tim đã trở nên mù lòa rồi 
mà còn phải chịu thêm sự hủy hoại của trái phá nữa. Điều đó cũng thể hiện, tình yêu làm 
con người ta hạnh phúc, cũng có thể khiến người ta đau khổ tột cùng. Nếu như ví dụ đầu 
tình yêu được so sánh với vật thể nhân tạo (trái phá) thì ở ví dụ sau, tình yêu lại được so 
sánh với sức tàn phá của thiên nhiên. Bão đi đến nơi đâu nơi đó đều trở nên điêu tàn, xơ 
xác. Hình ảnh cơn bão đi qua địa cầu không những nói nên sức tàn phá mà còn thể hiện một 
sức mạnh khó cưỡng. Cơn bão đi qua địa cầu không trừ một vùng đất nào, tình yêu cũng 
vậy. “Có người yêu thì hạnh phúc, có người yêu thì đau khổ, nhưng dù đau khổ hay hạnh 
phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại, con người không thể sống mà
không yêu”[,]. Trong cả hai câu, từ so sánh như kéo hai hình ảnh tưởng chừng như khập 
khiễng lại với nhau theo nghĩa tương đồng, tạo cảm giác sức mạnh ghê gớm của tình yêu 
như đang lan ra cả câu chữ. Tuy yếu tố phương diện so sánh đã được giấu đi nhưng cấu trúc 
A – tss – B vẫn đảm bảo ngữ nghĩa để người đọc hiểu được sự tương quan giữa hai hình 
ảnh. 
Tuy nhiên, cũng có lúc tình yêu trong thế giới ca từ Trịnh Công Sơn lại ánh lên một niềm 
tin yêu, tươi mới dù không nhiều: 
Tình yêu như đốt sáng 
Con tim tật nguyền 
Tình lên êm đềm 
Vội vàng nhưng chóng quên 
Rộn ràng nhưng biến nhanh 
Tình cho nhau môi ấm 
Một lần là trăm năm 
(Tình sầu) 
Mọi vật luôn có hai mặt, tình yêu không ngoại lệ. Nó cũng làm ta vui tươi, hạnh phúc, yêu 
đời. Khi trái tim đã quá đau thương bởi tật nguyền vì những sự trong đời, tình yêu mới đến 
như mang ánh sáng hy vọng đến, giúp người ta lạc quan hơn. Dù có thể “Tình lên êm đềm/ 
Vội vàng nhưng chóng quên/ Rộn ràng nhưng biến nhanh” thì nó cũng đã từng mang cho ta 
niềm vui. Thà trải qua niềm hạnh phúc dù sau đó có đau khổ người ta vẫn cảm thấy xứng 
đáng vì ít ra mình đã nếm được vị đời. Vui cũng là kỷ niệm, buồn cũng là kỷ niệm, từ đó 
tình yêu làm con người ta lớn. Bởi thế, ta mới có câu tình cho nhau môi ấm/ một lần là 
trăm năm. Người ta sẵn sàng đánh đổi niềm đau để một lần nếm trải vị ngọt trong đời. Cụm 
từ chỉ số lượng một lần được đặt trong thế so sánh ngang bằng với cụm từ chỉ thời gian 
trăm năm, chính sự kết nối của từ so sánh là đã làm cho hai cụm từ xóa nhòa ranh giới, từ 
đối cực trở thành ngang bằng. 
Với …/197 câu so sánh tu từ, chủ đề tình yêu đã thật sự để lại cho vị nhạc sĩ tài hoa này 
nhiều cảm xúc. Ông từng nói: "Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài quy luật cả. 
Nhưng tình yêu hình như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người 
nhưng cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những người quá lạc quan khi nói
về tình yêu bằng thể khẳng định. Người ta có thể tin rằng mình được yêu và cũng có thể 
hiểu nhầm mình không được yêu" (Trích: - Cuộc Sống Không Thể Thiếu Tình Yêu - 
(T.C.S)). Hạnh phúc cũng là kỷ niệm, đau thương cũng là kỷ niệm, dù sao cũng nên cảm 
thấy may mắn vì đã được nếm được vị đời. Có lẽ vì thế, ta mới có được những dòng chiêm 
nghiệm sâu sắc, nhiều hình ảnh mới lạ, những cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu 
thông qua hình thức so sánh tu từ. Từ đó, cho ta một cách nhìn tổng thể hơn về khối tình 
muôn thuở này. 
3.3. So sánh tu từ thể hiện những chiêm nghi ệm về cuộc đời, thân phận 
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, lại thêm gắn bó với xứ Huế cổ 
kính với những lăng tẩm, đền đài, Trịnh Công Sơn cũng đã ảnh hưởng khá nhiều 
giáo lí nhà Phật. Ông sớm nhận ra quy luật của tạo hóa diễn ra trong bốn thời kì: 
sinh – trụ – dị – diệt. Trong quá trình sáng tác, ông cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều 
bởi thuyết tứ diệu đế này. Hơn ai hết, ông ý thức rất rõ tính chất vô thường và sự 
hữu hạn của đời người. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hàng loạt các hình ảnh so 
sánh tu từ trong ca khúc của ông: 
Ôm lòng đêm 
Nhìn vầng trăng mới về nhớ chân giang hồ 
Ôi phù du 
Từng tuổi xuân đã già một ngày kia đến bờ 
Đời người như gió qua 
(Phôi pha) 
Nếu như hình ảnh có chút tình thoảng như gió vội biểu hiện sự mong manh, vô định 
của tình yêu thì hình ảnh gió qua này diễn tả sự mong manh, ngắn ngủi của đời 
người. Gió qua là một làn gió thoảng nhẹ, thổi phớt qua một cách nhẹ nhàng và nó 
cũng nhanh chóng bay đi. Đời người cũng không khác gì cơn gió, nay còn nói cười 
mai có thể đã về bên kia núi. Yếu tố phương diện so sánh đã được ẩn, chỉ còn lại hai 
cụm danh từ giữ vai trò làm yếu tố được so sánh và yếu tố so sánh được kết nối bởi 
từ so sánh như nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra tác giả đang nói đến sự nhanh 
chóng, ngắn ngủi của đời người. Thanh điệu chủ yếu của câu là thanh bằng, điều đó 
làm cho câu thêm nhẹ nhàng như một sự giác ngộ và chấp nhận quy luật tuần hoàn.
Luôn chịu sự ám ảnh về cuộc sống và cái chết, tác giả rất nhạy cảm với sự im vắng 
trong cuộc đời: 
Đời sao im vắng 
Như đồng lúa gặt xong 
Như rừng núi bỏ hoang 
(Ru ta ngậm ngùi) 
Khi đang trong mùa vụ, ai nấy cũng đều nhộn nhịp nào gieo hạt giống, cấy lúa non, 
nhổ cỏ, vãi phân,… đến mùa gặt thì tất bật người gặt, người cột, người vận 
chuyển,… cánh đồng luôn rộn những tiếng người. Nhưng đến khi xong mùa màng, 
ai ai cũng đều tranh thủ nghỉ ngơi để chuẩn bị cho mùa vụ tới, cánh đồng chỉ còn trơ 
gốc rạ, không kiếm nổi một bóng người. Rừng núi bỏ hoang cũng vậy, cũng vắng vẻ, 
quạnh hiu. Từ như kết nối giữa các hình ảnh với nhau tạo nên sự tương tự giữa im 
vắng với đồng lúa gặt xong, rừng núi bỏ hoang. Những hình ảnh ấy xuất hiện liên 
tiếp, gắn kết với nhau tạo nên sự hòa phối tương đồng về ngữ nghĩa, làm cho cả câu 
đều toát lên một sự im lặng và người tiếp nhận cảm thấy mình cũng đang đi trong 
thế giới im vắng ấy. Đây cũng là một trong nhiều câu tác giả sử dụng lối so sánh một 
sự vật hiện tượng với nhiều sự vật hiện tượng, và sử dụng một thuộc tính được coi là 
chung nhất của cả yếu tố được so sánh và yếu tố so sánh để làm cơ sở. Những yếu tố 
so sánh liên tiếp xuất hiện tạo nên sự tăng tiến trong nhịp điệu và hình ảnh, từ đó 
nhấn mạnh cho yếu tố được so sánh và làm cho nó trở nên cụ thể hơn. 
Không chỉ nhạy cảm với sự im vắng của cuộc đời, ông còn nhận ra sự rộng thênh 
của cuộc đời: 
Đời nửa đêm có khi nghe lời trăn trối 
Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô 
Đời trần gian có tim người có tay chờ 
Một ngày kia ôi thân thế vu vơ 
(Từng ngày qua) 
Người ta thường cảm nhận sự rộng lớn của một sự vật hữu hình nhưng ở đây Trịnh 
Công Sơn lại cảm nhận sự rộng thênh của một sự vật mang tính trừu tượng – cuộc 
đời. Hơn nữa, người ta thường dùng thị giác để nhìn nhận sự rộng lớn nhưng người
nghệ sĩ tài hoa này đã cảm nhận cái vô hình ấy bằng âm thanh. Đời rộng thênh như 
im vắng tiếng rơi khô, lấy không để giải thích cho có. Không có một tiếng động nào, 
một âm thanh nào của cuộc sống kể cả một tiếng rơi dù chỉ là khô thôi cũng không 
xuất hiện. Trong vế này, tác giả đã sử dụng cho xuất hiện một hình ảnh động – tiếng 
rơi khô, nhưng sau đó lại dùng một từ gợi hình ảnh tĩnh – im vắng để phủ định hình 
ảnh động đó, tạo nên một hiệu ứng lặng: không có âm thanh, không có sự vận động. 
Thường thì ta không nghe được tiếng động khi nơi đó thật sự yên vắng, hoặc nơi đó 
vẫn tồn tại một chút âm thanh nhỏ nhưng dã bị không gian rộng lớn nuốt chửng. 
Trên cơ sở đó, hai hình ảnh đời và im vắng tiếng rơi khô được gắn kết với nhau bởi 
sự rộng thênh. Sự im vắng làm cho không gian thêm rộng ra, lời trăn trối của cái 
chết cận kề phát ra từ nửa đêm càng khiến cho cuộc đời rộng thênh một cách đáng 
sợ, con người sống trong đó càng trở nên nhỏ bé. Từ đó, ta thấy được sự tài tình 
trong lựa chọn hình ảnh và ngôn từ trong so sánh tu từ của ông. 
Bằng sự tinh tế trong cảm nhận và sự mới lạ trong suy nghĩ, nỗi buồn của cuộc đời 
trong ca từ Trịnh Công Sơn cũng được thể hiện theo một cách khác: 
Đã có nghìn trùng trên môi người tình 
Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng 
Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn 
Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn 
Đời sẽ buồn như một vết thương 
Tình sẽ buồn như loài nấm hoang 
Ôi hiu quạnh với nến tàn. 
Trên nỗi lòng vắng lạnh 
Đời sẽ buồn như một chiều nao 
Hôn nhau lần cuối, hôn nhau lần đầu 
Tình bỗng là bể râu 
Tay vẫn chào lạnh lẽo 
Đời sẽ buồn 
Như một vết thương 
(Như một vết thương)
Nỗi buồn đã được tác giả diễn giải bằng một vết thương, bằng một chiều nao hôn 
nhau lần cuối hôn nhau lần đầu. Ông đã sử dụng những hình ảnh gợi lên cả một câu 
chuyện, một quá trình cụ thể để diễn đạt về nỗi buồn của một cái vốn vô hình. 
Không cần nói đời buồn đến mức nào, chỉ cần những hình ảnh cụ thể hiện ra người 
dọc sẽ tự suy ngẫm và tự cảm nhận được mức độ nỗi buồn ấy. Nói đến vết thương là 
nói đến niềm đau. Ai trong đời cũng từng ít nhất một lần trải qua một vết thương dù 
nó có thể nhìn thấy trên thịt da hay ẩn sâu trong tận đáy lòng. Vết thương trên thịt da 
trước hết nó sẽ gây cho chúng ta sự đau đớn và tùy vào mức độ. Theo thời gian nó 
có thể lành nhưng dù ít dù nhiều vẫn để lại sẹo hay dấu hằn. Tuy vậy, nỗi đau thân 
xác vẫn không để lại sự ám ảnh sâu sắc và lâu dài như vết thương lòng. Bằng sự 
nhạy cảm của mình, ông luôn nhận thức được mọi sự vật, sự việc khi bắt đầu hay 
đang tốt đẹp đều ẩn chứa sự tàn lụi, chia phôi: đã có nghìn trùng trên môi người 
tình, đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng, có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn, có 
thoáng gập ghềnh trên con đường mòn. Chính vì nhận thức rõ nét như thế nên vết 
thương trong lòng càng trở nên rõ nét hơn, u buồn hơn, đau đớn hơn. So với vết 
thương trên da thịt, vết thương lòng sẽ khó lành hơn và âm ỉ hơn. Đến khi nó lành thì 
cũng để lại một vết tì, nhưng khi chịu sự tác động nào đó nó có thể sẽ oằn lên một 
cách dữ dội, như chưa từng quên vậy. Từ đó, đời và một vết thương có sự gắn kết 
tương đồng bởi nỗi buồn. Đến với hình ảnh một chiều nao hôn nhau lần cuối hôn 
nhau lần đầu, cũng là hình ảnh có sức gợi mở cả một quá trình. Tác giả đã diễn tả 
cảm giác của một cái vô hình bằng một hành động có thể tri nhận bằng mắt. Nỗi 
buồn thuộc về cảm giác, nụ hôn thuộc về hành động. Khi ta nói hôn nhau lần cuối 
thì cuộc tình đó đã hoặc đang đi vào kết thúc. Sự chia ly, tàn lụi có thể do nhiều lí do 
nhưng đa phần đều gây cho người ta sự hối tiếc, đau buồn. Tuy nhiên khi sang hình 
ảnh hôn nhau lần đầu, người tiếp nhận không khỏi khó hiểu vì nó vốn dĩ biểu trưng 
cho sự bắt đầu, hà cớ gì phải buồn? Thật ra, hai hình ảnh ấy xuất hiện có thể hiểu 
theo nghĩa một đoạn phim chiếu ngược. Khi đứng trước sự kết thúc, người ta hay 
hoài niệm, nuối tiếc nhớ về sự bắt đầu. Thời gian bên nhau càng nhiều, kỷ niệm càng 
nhiều thì niềm đau càng lớn. Cả một quá trình hiện ra sẽ gây nhiều cảm xúc hơn lát 
cắt của một đoạn kết. Tuy nhiên, nếu tác giả đặt hình ảnh hôn nhau lần đầu rồi mới
tới hôn nhau lần cuối thì sẽ không hiệu quả bằng cách sắp xếp ngược lại. Bởi một sự 
vật, hiện tượng nào khi bắt đầu cũng dẫn đến một kết quả, trong trường hợp này từ 
người yêu có thể trở thành người trong gia đình, nhưng cũng có khi giống như 
đường cong parabol có lên ắt có xuống, từ yêu thương trở thành xa lạ. Nếu theo một 
trình tự như thế thì kết quả có thể đoán trước được, mọi việc diễn ra và nếu có chia 
phôi thì người ta cũng được chấp nhận từ từ. Vì thế cảm giác sẽ không mạnh bằng 
đặt vào đầu tiên một đoạn kết của cuộc tình. Từ đó đi dật lùi về những chuỗi ngày 
hạnh phúc kia và đến điểm khởi đầu. "Ừ, kỳ lạ vậy, khi đang yêu nhau, nghĩa là 
đang mải yêu, đang đắm say với hạnh phúc, chỉ đến khi mất mát, còn lại một mình, 
tôi mới tự đối diện với mình và nhận ra nhiều điều mà trước nay tôi không thể nhìn 
thấy. Cũng không phải là gặm nhấm nỗi đau, mà là nhận diện nỗi đau…" (Trích: - 
Một Cõi Riêng Thuần Khiết Cùng Cuộc Đời). Người nhạc sĩ ấy cũng đã từng nói về 
điều này như thế. Thật vậy, khi nhìn lại cả một quá trình người ta sẽ thấy đau hơn, 
da diết hơn. Cũng như hình ảnh một vết thương, hình ảnh hôn nhau lần cuối hôn 
nhau lần đầu cũng được liên hệ theo mức độ tương đồng với cuộc đời bằng nỗi 
buồn. Tác giả đã mượn cảm xúc của sự vật, sự việc này để diễn tả cảm xúc của sự 
vật, sự việc kia. Như vậy, sức gợi mở sẽ phát huy tác dụng cao hơn khi sử dụng một 
từ chỉ mức độ hạn hữu nào đó. 
Những ví dụ trên đều là những câu so sánh tu từ có đầy đủ bốn yếu tố A – x – tss – 
B. Như đã nói, đây là cấu trúc so sánh tu từ lí tưởng để dễ dàng thể hiện những suy 
nghĩ, chiêm nghiệm, tình cảm của mình. Hình thức này cho phép người sử dụng tiếp 
cận nhiều trường liên tưởng để thể hiện, không chỉ so sánh người với người, người 
với vật, vật với người mà còn có thể so sánh sự vật với trạng thái, sự vật với hành 
động,… Tác giả đã sử dụng hình thức so sánh này một cách nhuần nhuyễn cùng với 
những trường liên tưởng mới lạ, đầy triết lý đã tạo nên giá trị biểu cảm cao. Sự vật, 
hiện tượng được đưa ra so sánh trở nên sáng tỏ và sinh động hơn, người tiếp nhận 
cũng dễ dàng hiểu được tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm.
Không chỉ có sự mới lạ trong cách cảm nhận về sự im vắng, rộng thênh, nỗi buồn 
của cuộc đời mà ông còn có suy nghĩ khác lạ trong những chiêm nghiệm về cuộc 
đời: 
Chiều nay em ra phố về 
Thấy đời mình là những chuyến xe 
Còn đây âm vang não nề 
Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ 
… 
Chiều nay em ra phố về 
Thấy đời mình là những quán không 
Bàn im hơi bên ghế ngồi 
Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người 
(Nghe những tàn phai) 
Hình ảnh những chuyến xe vẽ lên một không gian xô bồ, nhộn nhạo với đủ lớp người 
và đủ chuyến xe đi về. Cuộc đời ta cũng vậy, cũng có khi hỗn loạn đủ muôn vàn ý 
nghĩ, muôn vàn tiếng nói riêng để hợp lại không có gì rõ ràng cả, chỉ là một mớ hỗn 
độn, mơ hồ. Tuy nhiên, “đám đông và sự ồn ào không phải luôn luôn là đại diện của 
sự sống..." (Trích: - Đò đưa 5 (1 - 2000) ). Từ là kết nối hai vế tạo nên hình ảnh đời 
và những chuyến xe xích lại gần nhau trong quan hệ ngang bằng. Từ đó, sự hỗn loạn 
và xô bồ lan đều sang hai vế làm cho chúng ta có cảm tưởng hình ảnh đó đang diễn 
ra trước mắt mình, và từ từ lan ra. Ngược lại với hình ảnh trên, cũng trong một bài 
hát nhưng đến khổ sau tác giả lại ví cuộc đời như những quán không. Quán không 
gợi lên sự vắng vẻ, tẻ nhạt, ế ẩm, nếu kéo dài một thời gian sẽ không trụ lại được. Ta 
có thể thấy hai vế so sánh được gắn kết với nhau bởi sự trống rỗng, tẻ nhạt. Và một 
khi quán vắng người quán sẽ không thành quán, đời trống rỗng đời sẽ không là đời. 
Từ đó, sự vô vị, vô định hiện lên rõ nét và trở thành nỗi ám ảnh. Hai hình so sánh tu 
từ trên một bên diễn tả âm thanh nhưng mơ hồ, xáo trộn và một bên diễn tả sự trống 
rỗng, vô vị nhưng đều tạo ra nét nghĩa không tồn tại một điều gì rõ ràng cả. 
Tuy luôn bị tri phối bởi nỗi ám ảnh về cái chết nhưng cũng có đôi lúc lời ca ấy ánh 
lên một hình ảnh tươi vui về cuộc đời:
Đời ta có khi là lá cỏ 
Ngồi hát ca rất tự do 
… 
Một hôm bước chân về giữa chợ 
Chợt thấy vui như trẻ thơ 
Đời ta có khi là đốm lửa 
Một hôm nhóm trong vườn khuya 
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở 
Đời tôi có ai vừa qua 
(Đêm thấy ta là thác đổ) 
Tác giả đã ví đời mình như lá cỏ bởi sức sống của lá cỏ rất bền bỉ và nó có thể mọc 
được ở bất cứ nơi đâu. Hơn nữa, lá cỏ mọc càng nhiều ở những nơi không có hoặc ít 
người sinh sống, tạo nên một khoảng không rộng lớn kèm theo sự tự do tự tại. Tác 
giả đã gieo vần “o” trong hai hình ảnh lá cỏ, tự do để tạo sự liên kết và vần điệu. 
điều đáng nói ở đây tác giả đã sử dụng nguyên âm “o” để tạo vần. Khi phát âm, các 
nguyên âm không bị răng, môi, lưỡi cản trở luồng hơi đi ra như các phụ âm. Chính 
điều đó làm cho sự tự do, tự tại trong câu hát được tăng lên. Có một khoảng thời 
gian Trịnh Công Sơn bị chính quyền đương thời kiểm soát gắt gao vì một số lí do tế 
nhị, nên hình ảnh đời ta có khi là lá cỏ/ ngồi hát ca rất tự do cho ta thấy niềm mong 
muốn được mọi người hiểu đúng mình và niềm khát khao được hát lên những tâm 
tư, tình cảm, rung động từ tận trái tim mình. Ông đã từng nói rằng: "tôi vốn viết nhạc 
cũng như thở vậy. Có điều khi thở tôi chọn cái không khí trong lành để cho lá phổi 
không than phiền và cái sự hô hấp cũng bớt đi phần gian nan. Một bài hát cũng vậy. 
Hát để thăng hoa đồng thời cũng để an ủi. Sản phẩm văn nghệ chỉ đẹp khi có khả 
năng xoá đi những nỗi giận hờn. Nó có bao giờ muốn đèo bòng một thứ khác để tự 
hủy diệt nó đâu..." (Trích: - Viết Và Thở - (T.C.S)). Và như thế, ông vẫn giữ cho 
mình được một niềm lạc quan riêng, sự ung dung tự tại riêng trong sáng tác. Đến 
đoạn sau, hình ảnh đốm lửa xuất hiện dù nhỏ nhoi nhưng cũng đủ le lói trong vườn 
khuya, có thể làm ấm hơn tâm hồn của một con người. Tuy nhỏ bé giữa mênh mông
bóng tối, tuy có thể bị tắt lúc nào nhưng nó vẫn ánh lên một niềm tin yêu, lạc quan 
cho câu hát. 
Với cấu trúc A – tss – B này, cơ sở so sánh đã được giấu đi nhưng người đọc vẫn có 
thể cảm nhận rõ mối liên hệ giữa hai vế thông qua hai hình ảnh đầy tính chất gợi tả. 
Đó là những chiêm nghiệm của ông về cuộc đời, điểm cuối của cuộc đời theo phạm 
vi con người sẽ là điểm khởi đầu của “cuộc sống mới” – cõi vĩnh hằng. Để chỉ thời 
gian lâu dài, cuộc sống của thế giới thứ hai người ta thường sử dụng từ thiên thu. Đó 
vốn là một hình ảnh trừu tượng, nhưng dưới góc nhìn của mình Trịnh Công Sơn đã 
cho ta đi vào thế giới trừu tượng ấy: 
Về chân núi thăm nấm mồ 
Giữa đường trưa có tôi bơ phờ 
Chợt tôi thấy thiên thu là 
Một đường không bến bờ 
(Lời thiên thu gọi) 
Tiếng gọi thiên thu luôn ám ảnh ông, nó càng trở nên mạnh mẽ hơn khi một lần về chân núi 
thăm nấm mồ, con người ấy đã trở nên bơ phờ giữa đường trưa khi nghĩ về cõi vĩnh hằng. 
Ai tồn tại rồi cũng sẽ ra đi vĩnh viễn, từng chứng kiến nhiều cuộc chia ly lớn trong đời đã 
khiến ông nghĩ rằng thiên thu là một đường không bến bờ. Nó không có khởi đầu cũng 
không có kết thúc, cũng không loại trừ ai. Lần lượt từng người rời bỏ cõi tạm để đi vào nó 
– một con đường dài tít tắp và cũng thật mênh mông. Từ chợt xuất hiện chứng tỏ trước đây 
ông không nhận ra điều này cho tới khi về chân núi thăm nấm mồ. Nó cũng gợi nên sự 
thảng thốt cho câu hát. Trịnh Công Sơn đã cảm nhận cái khái niệm vô hình ấy bằng cách 
đem ra so sánh trực tiếp với một cái hữu hình – con đường. Tuy nhiên, con đường này 
tưởng chừng như tồn tại như bao con đường khác nhưng lại không có bến bờ ranh giới, 
không thể nhìn bằng mắt mà chỉ có thể cảm nhận. Từ là kết nối hai hình ảnh vô hình này lại 
với nhau tạo nên một sự ngang bằng, chính sự ngang bằng trong phép so sánh này đã khiến 
cho câu hát như tràn ngập sắc màu vô hình. Sự vô hạn của con đường thiên thu ấy như 
được mở rộng thêm ra, càng trở nên không bến bờ hơn và chạm vào lòng người tiếp nhận. 
Những chiêm nghiệm về thân phận của chính tác giả thông qua hình thức thể hiện này đã 
lan tỏa sang tâm hồn người thưởng thức, khiến họ không khỏi suy nghĩ.
Chịu sự chi phối bởi những cuộc chia li lớn, ông càng nhận thấy sống chết trong cõi 
đời thường rất mong manh: 
Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm 
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non 
(Gi ọt l ệ thiên thu) 
Sự sống thì nhỏ nhoi, cõi chết thì rộng lớn, hai thứ tưởng chừng như tách rời nhưng 
thực tế lại hiện hữu cùng nhau. Trong tác phẩm Rừng Na Uy, nhà văn Murakami 
Haruki đã để cho nhân vật Wantanabe nói những suy nghĩ của mình về cái chết đến 
hai lần: “Chết không phải là đối nghịch của sống. Nó đã đang ở đây rồi, ngay bên 
trong tôi, nó đã luôn luôn ở đây, và không có gì có thể cho phép tôi quên được điều 
đó”. Sự sống và cái chết là một nên ranh giới giữa chúng cũng rất mong manh. Tuy 
nói những thân cỏ hèn mọc đầy núi non có sức sống mãnh liệt nhưng nó cũng không 
kém phần mong manh. Giữa trời đất bao la, nó trở nên nhỏ bé. Giữa thiên nhiên 
khắc nghiệt, nó trở nên mong manh cũng như con người ta sống nhưng không thể 
đoán biết ngày nào thần Chết sẽ đưa ta đi. Hình ảnh so sánh này kết hợp với câu 
“Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm” tạo nên sự hòa phối 
tương đồng về nghĩa. Thanh điệu chủ đạo trong hai câu là thanh bằng và cuối câu 
thường là những từ có âm vực thấp. Từ đó, câu hát như lặng xuống hơn, cái mong 
manh của cuộc sống càng trở nên rõ ràng và ám ảnh. 
Sự sống không những mong manh mà còn rất ngắn ngủi: 
Người đi quanh thân thế của người 
Một trăm năm như tiếng thở dài 
(Như ti ến thở dài) 
Tiếng thở dài vừa gợi nên một hình ảnh buồn, vừa gợi nên sự ngắn ngủi. Một trăm 
năm tương ứng với một đời người, nhưng lại được so sánh với số lượng một (tiếng 
thở dài). Chỉ qua cách so sánh số lượng thôi ta đã thấy được sự ngắn ngủi. Và càng 
ngắn ngủi hơn khi hình ảnh so sánh lại là một tiếng thở dài, thấm thoát trôi nhanh 
mà còn vương lại nỗi niềm. Hai hình ảnh đối lập nhau: một biểu trưng cho sự lâu 
dài, một thể hiện cho sự ngắn ngủi nhưng lại được tác giả đặt trong sự tương ứng để 
thấy được sự vô thường của cuộc đời.
Có thể thấy, khi mượn so sánh tu từ để nói lên những chiêm nghiệm về thân phận, 
cuôc đời, Trịnh Công Sơn thường sử dụng cấu trúc A – x – tss – B (đầy đủ bốn yếu 
tố) và cấu trúc A – tss – B (lược cơ sở so sánh). Các cấu trúc còn lại: A – x – B, A – 
B, phối cấu trúc không được tác giả sử dụng. Sở dĩ như vậy vì cuộc đời, thiên thu,... 
vốn là những khái niệm mang tính trừu tượng, nếu sử dụng cấu trúc đầy đủ bốn yếu 
tố thì sẽ dễ dàng để người viết thể hiện suy nghĩ và người đọc cũng dễ dàng cảm 
nhận. Nếu sử dụng cấu trúc lược bỏ cơ sở so sánh, người đọc vẫn có thể hiểu được 
mối tương quan về ngữ nghĩa giữa hai vế so sánh nhờ vào hai hình ảnh so sánh. Khi 
đó, từ so sánh đóng vai trò rất quan trọng vì nó là điểm kết nối trực tiếp giữa hai vế 
so sánh. Tùy vào khả năng cảm nhận của mỗi người mà cơ sở so sánh có thể được 
phát triển lên nhiều lớp liên tưởng hay, làm giàu nghĩa cho hình ảnh so sánh. Nhưng 
nếu ta sử dụng cấu trúc lược bỏ từ so sánh, ta hãy thử làm một ví dụ sau: 
Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô 
(Từng ngày qua) 
Nếu ta lược bỏ từ so sánh, câu trên sẽ được viết lại như thế này: 
Đời rộng thênh im vắng tiếng rơi khô 
Như vậy, ví dụ trên đã không còn rõ nghĩa và cũng không còn được xếp vào câu so 
sánh tu từ. 
Có thể nói, Trịnh Công Sơn luôn bị ám ảnh bởi cái chết: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo 
đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự 
sống và cái chết trở thành một vấn đề lớn trong đời sống tinh thần của tôi. Có lẽ suy 
cho cùng từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cu ộc sống, sợ mất nó. Mất 
mát một cái gì đó mà mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm 
thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất 
mát và cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất đời tôi” (Văn xuôi Trịnh Công Sơn (2004), 
Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ (trả lời phỏng vấn VCH), in trong “Một cõi TCS”, 
NXB Thuận Hóa.TTVHNNĐT. ( tr523)). Từ niềm yêu thương cuộc sống đó, ông trở 
nên rất nhạy cảm đối với cuộc đời. Bằng góc nhìn của mình, cuộc đời, thiên thu, 
sống và chết đều hiện lên vừa rõ ràng vừa mờ ảo và gợi cho người tiếp nhận nhiều 
cảm giác, suy ngẫm. Những hình ảnh so sánh đều được ông chọn lọc và đều toát lên
vẻ đặc biệt rất riêng, nó lạ hơn với lối suy nghĩ chung của mọi người nhưng nó đúng. 
Cách lựa chọn cấu trúc so sánh tu từ hợp lí đi kèm với hình ảnh đẹp, giàu sức gợi đã 
tạo nên một phong cách rất riêng của ông. 
3.4. So sánh tu từ thể hiện những sự vật, hi ện tượng gần gũi trong đời sống 
Bằng sự quan sát tinh tế và một trái tim yêu thương cuộc đời, ông đã thổi vào các sự vật, 
hiện tượng gần gũi trong đời sống những cảm xúc rất thật. Trong thế giới ngôn từ diệu kì 
của ông, mọi sự vật, hiện tượng đều có tâm tình riêng của nó. Từ những sự vật, hiện tượng 
thuộc thế giới tự nhiên (nắng, mưa, lá,…) cho đến những vật chất do con người tạo ra 
(thành phố, mặt đường,…) đều trở nên có hồn, có cảm xúc như con người thật. 
Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi 
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời 
Tôi chọn nắng đầy chọn cơn mưa tới 
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay 
(Mỗi ngày tôi chọn một ni ềm vui) 
Trong giai điệu vui tươi, yêu đời, thiên nhiên xuất hiện cũng trở nên hiền hòa, tươi mát. Gió 
thổi liên tiếp từng cơn làm lá lúa lay động nhanh nhìn vui mắt như một người đang reo 
mừng. Tác giả đã lồng vào đây biện pháp tu từ nhân hóa để diễn tả nhịp độ lay động nhanh 
của lá. Nhìn từ xa, những chiếc lá lúa dập dờn chuyển động theo hướng gió nhìn giống như 
bàn tay của con người đang vẫy. Từ đó, ta có phép liên tưởng thú vị này. Hình ảnh để lúa 
reo mừng tựa vẫy tay được tác giả thể hiện trong cấu trúc so sánh tu từ A – tss – B. Lấy một 
cụm chủ vị so sánh với một cụm động từ, cả hai vế đều có những từ gợi nên hình ảnh động 
tạo nên cảm giác lúa vẫn đang reo mừng trước mắt, cảnh vật trở nên sinh động hơn. 
Trịnh Công Sơn cũng thường lồng biện pháp khác vào một vế trong so sánh tu từ của mình 
để sự vật trở nên có hồn hơn. Mọi vật sống trong thế giới ca từ của ông đều có những trạng 
thái, hành động giống như con người thực thụ: 
Em còn nhớ hay em đã quên 
Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió 
Lá hát như mưa suốt con đường đi 
Có mặt đường vàng hoa như gấm 
Có không gian màu áo bay lên 
(Em còn nhớ hay em đã quên)
Gió thổi những chiếc lá va vào nhau tạo thành những âm thanh vui tai khiến tác giả liên 
tưởng lá cũng như một con người thực thụ đang cất lên tiếng hát yêu đời. Nhờ thế, chiếc lá 
trở nên có hồn hơn. Tác giả đã đặt biện pháp nhân hóa vào hình ảnh lá hát, từ đó so sánh 
chúng với mưa. Lá hát như mưa suốt con đường đi, không chỉ dừng lại ở việc gợi hình (lá 
hát), tác giả còn đem những âm thanh vui tai ấy so sánh với tiếng mưa rơi suốt con đường 
đi. Đến đây, ta có thể hiểu theo nghĩa những chiếc lá va vào nhau tạo thành âm thanh râm 
ran như tiếng mưa rơi nhẹ, hay hình ảnh những chiếc lá rơi giống như làn mưa. Sài Gòn 
thường trồng rất nhiều me hai bên đường, bởi thế ta có bài hát Con đường có lá me bay. 
Những chiếc lá me li ti lách tách va vào nhau, lách tách rơi nhẹ trên con đường khiến tác 
giả liên tưởng đến những giọt mưa. Dù hiểu theo giả thiết nào thì cấu trúc so sánh tu từ này 
cũng đã gợi nên một không gian lãng mạn, yên bình giữa lòng thành phố xô bồ. Hình ảnh 
có mặt đường vàng hoa như gấm cũng được tác giả lồng vào đó biện pháp tu từ khác. 
Trước tiên, từ vàng hoa đã được tác giả đảo ngữ, ta có thể viết lại như sau: 
Có mặt đường hoa vàng như gấm 
Nếu viết theo đúng trật tự như thế thì hình ảnh hoa vàng không tạo được điểm nhấn cho câu 
hát bằng việc đảo trật tự của nó. Sắc vàng được nhấn mạnh hơn, thu hút sự chú ý của người 
tiếp nhận. Điều đáng nói hơn cả, ngay trong hình ảnh này đã xuất hiện biện pháp tu từ ẩn 
dụ. Nếu ta nói con đường thì nó bao gồm cả phần lòng đường cho phương tiện giao thông 
di chuyển và cả vỉa hè giành cho người đi bộ. Ở đó sẽ có những bồn đất để trồng cây, hình 
ảnh hoa vàng xuất hiện trên con đường là điều hợp lí. Tuy nhiên, tác giả đang nói đến mặt 
đường, hơn nữa lại là mặt đường của một thành phố phồn hoa – Sài Gòn. Tất nhiên, mặt 
đường ấy phải phải tương xứng với sự phát triển văn minh của loài người, không thể là 
những con đường đất, nó phải được hình thành từ xi măng, bê tông, nhựa đường,… Vì thế, 
hình ảnh những bông hoa màu vàng xuất hiện trên đó là điều không thể. Tuy nhiên, Trịnh 
Công Sơn không bao giờ sử dụng hình ảnh một cách dư thừa mà luôn có dụng ý. Hình ảnh 
hoa vàng ở đây chính là nắng. Nắng chiếu trên trên những hàng cây làm tán cây đổ bóng 
xuống mặt đường, nắng xuyên qua từng kẽ lá tạo thành những đốm vàng nhỏ trên mặt 
đường. Những chỗ không có bóng cây, nắng đổ vàng rực rỡ trên mặt đường. Hình ảnh 
những đốm nắng li ti và những mảng vàng rực rỡ lấp loáng trên mặt đường khiến tác giả 
liên tưởng đến những bông hoa. Nhạc sĩ Vũ Văn Hà cũng từng gọi nắng là hoa:
Và ngày mới nắng buông hoa cười 
Rồi lại thấy bóng em tóc trần 
Nụ cười xinh em như chiều gió hương 
Lòng lại thấy nắng như đang cười 
Chợt như ai đó đến bên cùng sánh đôi 
(Hoa nắng – Vũ Văn Hà) 
Trịnh Công Sơn không dừng lại ở việc miêu tả nắng là hoa, mà từ một liên tưởng này lại 
dẫn sang một liên tưởng khác. Ẩn dụ nắng là những đóa hoa vàng lấp lánh trên mặt đường, 
từ đó so sánh nó với gấm. Gấm vốn dĩ là một loại vải, chất liệu trong may mặc được con 
người dệt thành. Nó có nhiều màu sắc và có rất nhiều họa tiết hoa lá, đó là điểm tương đồng 
giữa mặt đường đầy hoa nắng và màu sắc, họa tiết tươi đẹp của gấm. Việc sử dụng cùng 
một lúc hai hay nhiều biện pháp tu từ lồng vào nhau tạo cho hình ảnh nhiều lớp liên tưởng 
phong phú, độc đáo. Trong câu này, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ, kết hợp với hình 
ảnh ẩn dụ hoa nắng được đặt trong một cấu trúc so sánh tu từ. Tác giả đã liên tiếp đưa 
người đọc đi từ thế giới tưởng tưởng này sang thế giới tưởng tượng khác mà hình ảnh nào 
cũng đẹp, cũng trữ tình tạo hiệu ứng lan tỏa cho câu hát. So sánh tu từ trong ca từ Trịnh 
Công Sơn vì thế cũng trở nên khác biệt. 
Nếu như nắng rực rỡ được ví như gấm hoa thì mưa đi vào ca từ của ông cũng trở nên dạt 
dào cảm xúc: 
Mưa mùa mưa Sài Gòn mưa 
Em đứng bên hiên nhà chờ mưa qua 
Mưa xa mờ mịt áo em phai nhòa 
Không gian còn lại chút hương nhân từ 
Mưa như từng giọt rượu hờ 
Đêm trong thành phố ai chờ chờ ai 
Mưa thưa tựa áo lụa trời 
Ôm quanh da thịt chân người người qua 
(Mưa mùa hạ)
Chương 3
Chương 3
Chương 3
Chương 3

More Related Content

What's hot

Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01
Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01
Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01Hồng Nguyễn
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013 1
De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013   1De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013   1
De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013 1adminseo
 
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy KhuêTác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy KhuêNguyễn Hương Thảo
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...
Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...
Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...phamnhakb
 
De thi thu dh khoi d 2013 van
De thi thu dh khoi d 2013   vanDe thi thu dh khoi d 2013   van
De thi thu dh khoi d 2013 vanadminseo
 
Màu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ caMàu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ calechi55
 
Chiều tối (1)
Chiều tối (1)Chiều tối (1)
Chiều tối (1)Nhái Kurl
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngChamcham239
 
Sang thu
Sang thuSang thu
Sang thutttran
 
đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9
đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9
đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9bepiglet
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
đề Thi văn đh vinh
đề Thi văn đh vinhđề Thi văn đh vinh
đề Thi văn đh vinhmcbooksjsc
 
Mã giám sinh mua kiều
Mã giám sinh mua kiềuMã giám sinh mua kiều
Mã giám sinh mua kiềuNgoc Ha Pham
 

What's hot (20)

Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01
Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01
Dethituyensinhvao10 nguvan-hanoi-06-07-140622004542-phpapp01
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013 1
De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013   1De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013   1
De thi thu vao lop 10 mon van nam 2013 1
 
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy KhuêTác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...
Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...
Đề thi Đề thi Tuyển Sinh vào 10 THPT - Môn Ngữ Văn - Nam Định - Năm học 2013 ...
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
De thi thu dh khoi d 2013 van
De thi thu dh khoi d 2013   vanDe thi thu dh khoi d 2013   van
De thi thu dh khoi d 2013 van
 
Tràng giang
Tràng giangTràng giang
Tràng giang
 
Màu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ caMàu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ ca
 
Chiều tối (1)
Chiều tối (1)Chiều tối (1)
Chiều tối (1)
 
Vội vàng.pdf
Vội vàng.pdfVội vàng.pdf
Vội vàng.pdf
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chương
 
Sang thu
Sang thuSang thu
Sang thu
 
đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9
đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9
đề Thi hsg vòng thị xã môn ngữ văn khới 9
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
Hhhhh1
Hhhhh1Hhhhh1
Hhhhh1
 
đề Thi văn đh vinh
đề Thi văn đh vinhđề Thi văn đh vinh
đề Thi văn đh vinh
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
 
Mã giám sinh mua kiều
Mã giám sinh mua kiềuMã giám sinh mua kiều
Mã giám sinh mua kiều
 

Similar to Chương 3

BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...
BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...
BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdfve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdfThoNguyn154572
 
Tuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptTuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptthao299200
 
jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...
jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...
jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...nhongyen991
 
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docxCẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx16LChungKin
 
Song xuan quynh
Song  xuan quynhSong  xuan quynh
Song xuan quynhQuan Thang
 
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân DiệuBài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệuhongchau206306
 
CHIỀU TỐI (1).pptx
CHIỀU TỐI (1).pptxCHIỀU TỐI (1).pptx
CHIỀU TỐI (1).pptxKhnhKhnh63
 
MÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.pptMÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.pptThyHong43096
 
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....nqh21102005z
 
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.pptBai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.pptssuser7f9f6a
 
4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx
4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx
4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docxThanhTng391
 
Bai-12-Anh-trang.pptx
Bai-12-Anh-trang.pptxBai-12-Anh-trang.pptx
Bai-12-Anh-trang.pptxThinNhn38
 
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10Nguyễn Hậu
 

Similar to Chương 3 (20)

BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...
BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...
BỘ ĐỀ THEO CHUYÊN ĐỀ + LUYỆN ĐỀ TỔNG HỢP + MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN HAY BỒI DƯỠNG...
 
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdfve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
 
Tuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptTuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.ppt
 
jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...
jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...
jdfhwehfhdjkscnfjehrfuehru4hruhfhrfndhfhhfhhhfhejehhhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfhfh...
 
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docxCẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
 
Song xuan quynh
Song  xuan quynhSong  xuan quynh
Song xuan quynh
 
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân DiệuBài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
 
CHIỀU TỐI (1).pptx
CHIỀU TỐI (1).pptxCHIỀU TỐI (1).pptx
CHIỀU TỐI (1).pptx
 
MÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.pptMÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
 
Sóng.pdf
Sóng.pdfSóng.pdf
Sóng.pdf
 
Vội vàng
Vội vàngVội vàng
Vội vàng
 
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
 
Ánh trăng
Ánh trăngÁnh trăng
Ánh trăng
 
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
 
Ai đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sôngAi đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sông
 
Ai đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sôngAi đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sông
 
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.pptBai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
 
4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx
4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx
4-ĐỀ-ÔN-LUYỆN-THI-GIỮA-KÌ-2-NH-22-23 (1).docx
 
Bai-12-Anh-trang.pptx
Bai-12-Anh-trang.pptxBai-12-Anh-trang.pptx
Bai-12-Anh-trang.pptx
 
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - ngữ văn lớp 10
 

Chương 3

  • 1. CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG SO SÁNH TU TỪ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN Từ lâu, so sánh tu từ đã xuất hiện nhiều trong ca dao, tục ngữ: “Thân em như tấm lụa đào/ phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”, “lòng sung cũng như lòng vả”,… Các nhà văn, nhà thơ cũng sử dụng hình thức này trong tác phẩm của mình như một biện pháp nghệ thuật đắc dụng nhằm tăng hiệu quả biểu cảm và giá trị thẩm mĩ. Tùy vào khả năng liên tưởng và phong cách ngôn ngữ của mỗi tác giả mà chúng ta có những hình ảnh so sánh khác nhau. Đến với thơ Nguyễn Bính, ta bắt gặp những hình ảnh bình dị, thân quen như: “Lòng anh như chiếc lá khoai/ Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu”, “Mẹ em như bóng nắng về chiều/ Sống được bao nhiêu biết bấy nhiêu”. Nhưng khi đi vào hồn thơ Xuân Diệu, ta lại được chạm vào những hình ảnh tươi mới, say sưa: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Có thể nói, nghệ thuật sử dụng so sánh tu từ đã góp phần tạo nên những dấu ấn riêng của các tác giả. Trịnh Công Sơn cũng vậy, bằng những quan sát tinh tế và sự chiêm nghiệm về tình yêu, quê hương, thân phận của mình, người nhạc sĩ tài hoa ấy đã thổi vào ca từ những tiếng nói riêng. Để đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này, người viết sẽ phân tích các câu so sánh tu từ dựa trên bốn nhóm nghĩa: so sánh tu từ vẽ lên hình tượng nhân vật trữ tình; so sánh tu từ thể hiện những chiêm nghiệm về tình yêu; so sánh tu từ thể hiện những chiêm nghiệm về thân phận, cuộc đời; so sánh tu từ thể hiện những sự vật, hiện tượng gần gũi trong đời sống. Từ đó, nghệ thuật sử dụng so sánh tu từ trong ca khúc của ông sẽ được làm sáng tỏ hơn. 3.1. So sánh tu từ vẽ lên hình tượng nhân vật trữ tình Trong tuyển tập ca khúc Những bài ca không năm tháng, nhân vật trữ tình chủ yếu là hai chủ thể: tôi, ta và em – người tình. Tác giả không bao giờ sử dụng đại từ nhân xưng anh để chỉ về mình. Có thể nói hình ảnh người tình là một trong những nguồn cảm hứng bất tận trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn. Dù có trực diện gọi tên như Diễm trong Diễm xưa, Nguyệt trong Nguyệt ca, Quỳnh Hương trong Quỳnh hương,… hay chỉ thể hiện là nhân vật em thì tác giả vẫn luôn giành những hình ảnh tốt đẹp để nói về họ: Em đến bên đời hoa vàng một đóa Một thoáng hương bay trên trời phố hạ (Hoa vàng mấy độ)
  • 2. Tác giả đã dùng vẻ đẹp của rực rỡ tươi trẻ của một đóa hoa vàng, một mùi hương thoang thoảng bay trên trời phố hạ để diễn tả vẻ đẹp của những người con gái ấy. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn không chỉ dừng lại ở việc miêu tả vẻ đẹp mà còn miêu tả thêm ý nghĩa của việc em đã đến nơi này. Cuộc đời tôi bình dị, em đến và như một đóa hoa rực rỡ ngát hương tô điểm cho cuộc đời bình dị ấy trở nên nhiều màu sắc, nhiều hương vị. Em trở thành điểm nhấn cho cuộc đời tôi, cho một trời phố hạ oi nồng. Hình thức thể hiện ẩn từ so sánh và yếu tố phương diện so sánh đã giúp cho trí tưởng tượng của người tiếp nhận không bị bó hẹp, vẻ đẹp của em cũng không bó hẹp trong khuôn khổ bằng hay tương tự với vẻ đẹp thiên nhiên. Nó giúp cho hai hình ảnh ấy xóa nhòa ranh giới và hòa quyện vào nhau, sáng bừng cả câu chữ. Tác giả đã so sánh một sự vật, sự việc với nhiều sự vật, sự việc từ đó nhấn mạnh yếu tố được so sánh. Trong câu này, hình ảnh em đến bên đời đã được nhấn mạnh bằng cách đem so sánh với hoa vàng rực rỡ, một thoáng hương bay trên trời phố hạ. Đây cũng là hình thức thường xuất hiện trong cách sử dụng biện pháp so sánh tu từ trong ca khúc của ông. Hơn nữa, khi nói về việc một người con gái vô tình xuất hiện trong cuộc đời mình, ông luôn dùng những hình ảnh vui tươi, yêu đời để diễn tả: Em đã đến nơi này tựa như cánh én (Vẫn có em bên đời) Một ngày tình cờ biết em Là ngày lạ lùng biết trần gian (Còn thấy mặt người) Trong hình ảnh đầu, từ tựa như đặt ở giữa hai vế đảm nhận nhiệm vụ kết nối hình ảnh em và cánh én trở nên gắn kết với nhau theo quan hệ tương tự, khiến hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau không những không chênh chao mà lại còn rất có tình. Cánh én xuất hiện báo hiệu một mùa xuân đang đến, mang niềm vui và niềm hy vọng những điều tốt cho mọi người. Em đã đến bên cuộc đời anh tựa như cánh én mang mùa xuân về, cho anh một hơi thở mới, một niềm tin yêu mới. Cuộc đời anh trở nên ấm áp khi được yêu thương, dù có thể một ngày nào đó em như chim bay. Và từ đó, ngày tình cờ biết em trở thành ngày lạ lùng biết trần gian. Nếu không có một ngày tình cờ biết em, có lẽ có một người vẫn nghĩ cuộc đời là những ngày từ từ trôi, trôi trong công việc, cô độc và im lặng. Nhưng em đã đến và đã cho một người biết đời không chỉ là như thế, và cuộc đời cũng chẳng còn đơn độc. Em đã dắt một người đi vào những cung bậc cảm xúc của tình yêu, vui tươi, giận hờn,… những cảm
  • 3. xúc rất thật của cuộc đời. Con người ấy như thấy mình bây giờ mới thực sự sống, thực sự biết trần gian. Tác giả đã dùng từ là kết nối hai vế so sánh là các cụm danh từ lại với nhau theo nghĩa ngang bằng khiến cho hai hình ảnh như xóa nhòa ranh giới và làm sáng tỏ hơn ý nghĩa của một ngày tình cờ biết em. Cấu trúc A – tss – B (ẩn yếu tố phương diện so sánh) được tác giả sử dụng một cách nhuần nhuyễn. Dù qua mỗi cuộc tình lòng ông lại mang thêm một nỗi niềm, nhưng tác giả luôn dùng những hình ảnh đẹp để chỉ những người con gái trong cuộc đời mình: Nắng có hồng bằng đôi môi em Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Như cánh vạc bay) Nắng, mưa là hai hình ảnh đẹp. Tác giả đã lấy sự hồng hào, ấm áp của nắng để tôn lên vẻ đẹp của đôi môi em, lấy nỗi buồn của mưa để chỉ sự đa sầu đa cảm của đôi mắt. Những đôi mắt buồn thường là những đôi mắt đẹp. Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên so sánh với vẻ đẹp của con người đã là một điều ưu ái, nhưng không dừng lại ở đó, tác giả còn lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là một nét độc đáo. Trước đây, đại thi hào Nguyễn Du cũng từng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên so sánh với vẻ đẹp nàng Kiều: Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (Truyện Ki ều – Nguyễn Du) Nếu trước đây, vẻ đẹp của nàng Kiều đã khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn để từ đó “hồng nhan bạc mệnh” thì giờ đây, nhân vật em của Trịnh cũng được so sánh tương tự nhưng thiên nhiên ôn hòa, không ghanh ghét. Vả lại, tranh giành hơn kém về nỗi buồn cũng để làm gì. Cấu trúc A – x – tss – B đã được tác giả sáng tạo trong sự thể hiện, đôi khi làm cho người đọc lầm tưởng. Thoạt đầu, ta thấy nó giống như một câu hỏi tu từ, nhưng thực chất nó lại là so sánh tu từ được thể hiện dưới dạng một câu hỏi tu từ. Giống câu hỏi tu từ bởi lẽ nó mang tính chất là một câu nghi vấn nhưng lại hàm chứa được câu trả lời. Tuy nhiên, trong hai ví dụ trên đều có hai vế A – B rõ rệt. Vả lại, có từ “hồng”, “buồn” nêu lên tính chất chung cho cả hai yếu tố được so sánh lẫn yếu tố so sánh, từ đó làm cơ sở cho phép so sánh này. Thêm vào đó, từ “bằng” xuất hiện làm cầu nối cho hai vế, đóng vai trò từ so sánh trong câu. Có thể thấy, nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành biện pháp so sánh tu từ. Hơn nữa, trong hai câu này người tiếp nhận không thể chỉ dựa vào nghĩa của từ “bằng” làm câu trả lời, mà nó đã thể hiện một nghĩa khác – sự so sánh hơn kém. Tác giả đã khéo léo thể hiện cấu trúc so sánh tu từ dướ hình thức câu hỏi tu từ để nhấn mạnh rằng: nắng không hồng bằng đôi môi em, mưa không buồn bằng đôi mắt em. Cấu trúc so sánh tu từ lí tưởng A
  • 4. – x – tss - B đã được tác giả thể hiện trong sự sáng tạo. Đó là một trong những cái hay trong cách sử dụng biện pháp so sánh tu từ của Trịnh Công Sơn. Hình ảnh đôi môi thường xuất hiện nhiều trong phép so sánh tu từ của ông, có khi môi hồng hào, ấm áp như nắng, khi lại thiêu đốt, cuồng nhiệt như đốm lửa: Ngủ đi em đôi môi lửa cháy (Em hãy ngủ đi) Môi em là đốm lửa Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình) Hình ảnh lửa cháy gợi lên cho ta sự nóng bỏng, cuồng nhiệt, khát khao nhưng cũng không kém phần phần duyên dáng. Đốm lửa cũng thế, nhưng nhẹ nhàng mời mọc và quyến rũ hơn. Cả hai hình ảnh đều là sự vật gợi lên sức nóng, mà những vật như thế thường toát lên vẻ quyến rũ khó cưỡng. Trong Sử thi Đăm Săn, nữ thần Mặt trời là vị thần của ánh sáng, quyền lực và sự quyến rũ đến cả Đăm Săn cũng muốn chinh phục. Lửa cũng như vậy, trong Thần thoại Hy Lạp, lửa cũng là một vị thần. Vì thế, ngoài sự quyến rũ ra, đôi môi ấy còn toát ra một sức mạnh quyền lực khiến ai cũng tôn trọng. Tác giả đã thể hiện hai cấu trúc: A – B và A – tss – B để thể hiện vẻ đẹp của đôi môi em. Cả hai phép so sánh đều vắng mặt yếu tố phương diện so sánh, như vậy sợi dây liên tưởng giữa hai hình ảnh đôi môi – lửa sẽ dễ dàng được người tiếp nhận nhân rộng hơn nhờ không bị bó hẹp bởi một từ cụ thể. Tác giả luôn vận dụng nhiều cấu trúc thể hiện biện pháp so sánh tu từ và làm mới các hình ảnh trong ca khúc của mình. Ngoài hình ảnh đôi môi, mái tóc của nhân vật em cũng thường xuất hiện trong các ca khúc của Trịnh: Ôi tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa) Đêm là đơn vị thời gian, nhưng tác giả đã sáng tạo dùng đêm làm đơn vị đo cho độ dài, tuy nhiên đêm ở đây lại là đêm thần thoại. Từ thần thoại gợi cho ta nghĩ đến những gì rất xưa, sự hoài cổ và thần thánh. Tóc của em cũng dài và đẹp như vậy, cũng lung linh, có chút gì đó cổ kính và huyền ảo. Trong hình thức A – x – B này, từ so sánh đã được giấu đi, không gặp sự gò bó của từ so sánh nào nên mái tóc em dài được tự do tiếp nối với đơn vị đo đêm
  • 5. thần thoại làm cho mái tóc ấy như dài thêm, huyền ảo thêm, đẹp như một vị thần. Cả câu chữ đều toát lên sự lung linh huyền hoặc tạo điểm nhấn cho ca khúc. Không chỉ là “đêm thần thoại”, mái tóc của em còn được tác giả ví như “trời xưa”, khi lại là “dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn”: Tóc em như trời xưa Đã đi qua ngàn năm (Ru em từng ngón xuân nồng) Tóc người như dòng sông xưa ấy đã phai Đã lênh đênh biển khơi (Có một dòng sông đã qua đời) Sợi tóc em bồng trôi nhanh trôi nhanh Như dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn (Tuổi đá buồn) Hình ảnh trời xưa gợi lên một không gian của hoài niệm, của quá khứ. Dòng sông xưa ấy cũng là hình ảnh của hoài niệm. Trong một lần vô tình nhìn thấy người yêu cũ đi với người yêu bên cạnh dòng sông Hương, tác giả cảm thấy con sông dường như đã qua đời. Vì thế, tóc người cũng được ví như dòng sông đã phai, đã lênh đênh biển khơi, không còn thuộc về tôi nữa. Hình ảnh dòng nước hiền ngày chủ nhật buồn cũng thế, cũng là một con sông nhưng dòng chảy của mỗi ngày có bao giờ giống mọi ngày. Tất cả các hình ảnh ấy đều thuộc về sự hoài niệm của quá khứ và đều là những gì đã xa, không thể nắm bắt được. Mái tóc dài là biểu tượng của người con gái, sử dụng những hình ảnh thể hiện sự khó nắm bắt để miêu tả mái tóc giúp ta ngầm hiểu cô gái đó không thuộc về nhân vật tôi, từ đó, thể hiện một nỗi buồn. Những người con gái đi qua đời ông hầu hết đều là những người có vóc dáng “mình hạc sương mai”, có lẽ vì thế nên tác giả luôn sử dụng những hình ảnh nhẹ nhàng để diễn ta bờ vai ấy: Ngủ đi em đôi vai lụa mát (Em hãy ngủ đi)
  • 6. Bờ vai như giấy mới Sợ nghiêng hết tình tôi (Thương một người) Vai em gầy guộc nhỏ Như cánh vạc về chốn xa xôi (Như cánh vạc bay) Hình ảnh đôi vai lụa mát gợi lên sự mềm mại, tươi mát. Bờ vai như giấy mới gợi lên sự trong trắng, ngây thơ, bởi thế nên tôi sợ nghiêng hết tình tôi. Đặc biệt, hình ảnh như cánh vạc về chốn xa xôi gợi cho ta nhiều nỗi niềm. Theo nhạc sĩ Trần Long Ẩn thì “nhân vật của Như cánh vạc bay là một cô gái Huế đã định cư ở nơi xa. Không được ở bên nhau, sống với nhau, anh vẫn luôn mong người ấy hạnh phúc, dù anh âm thầm đau khổ”. Trước ngày cưới, cô gái đã tìm về Việt Nam để gặp tác giả một lần rồi chạy đi và khóc rất nhiều, bởi thế mà ta có hình ảnh: tóc em từng sợi nhỏ/ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh. Yếu tố được so sánh: vai em kết hợp với từ chỉ hình dáng gầy guộc nhỏ đã tạo nên sự mỏng manh, yếu đuối cho bờ vai ấy. Thế nhưng tác giả lại đem so sánh đôi vai mỏng manh ấy với cánh vạc về chốn xa xôi. Trịnh Công Sơn lớn lên ở Huế, ông cũng chịu sự ảnh hưởng ít nhiều về văn hóa dân gian. Hình ảnh con cò, con vạc thường xuất hiện trong ca dao, những câu hát than thân thể hiện sự chịu thương chịu khó, cam chịu. Khi nói vai em gầy guộc nhỏ/ như cánh vạc về chốn xa xôi, đôi vai ấy không chỉ là sự mỏng manh, yếu đuối mà còn là sự cam chịu và đơn độc. Một mình cánh vạc bay về chốn xa xôi, một mình em về nơi đất khách quê người. Từ gầy guộc nhỏ kết hợp với hình ảnh cánh vạc bay về chốn xa xôi càng làm cho nhân vật em thêm gầy guộc, mỏng manh, xa dần, nhỏ dần và mất hút. Trong ca khúc của mình, Trịnh Công Sơn thường so sánh một cụm từ với một cụm từ. Khi yếu tố được so sánh hay yếu tố so sánh là cả một cụm từ thì sẽ giúp hình ảnh rõ nét hơn, sinh động hơn. Đó cũng là một trong những điều tạo nên nét mới lạ trong so sánh tu từ của Trịnh Công Sơn. Nói về tình cảm của những nhân vật trữ tình em, nếu như nhạc sĩ Văn Cao đã từng viết: Thôi tình em đấy Như mùa thu chết rơi theo lá vàng
  • 7. (Buồn tàn thu – Văn Cao) thì khi đi sâu vào miêu tả tình em, ta lại thấy hình ảnh chiếc lá xuất hiện trong ca khúc của Trịnh: Ru em tình như lá trăm năm vẫn quay về (Ru tình) Tình em của nhạc sĩ Văn Cao được thể hiện như mùa thu rơi vào niềm tuyệt vọng bởi sự rụng rơi héo úa của những chiếc lá vàng vì tháng ngày chờ đợi mòn mỏi. Tình em của Trịnh Công Sơn cũng là hình ảnh chiếc những chiếc lá nhưng là chiếc lá trăm năm vẫn quay về. Sự rụng rơi là biểu hiện của sự kết thúc, từ đó, nỗi buồn được dấy lên tuy không xót xa như mùa thu chết rơi theo lá vàng nhưng nó lại da diết không nguôi. Tuy nhiên, lá bao đời vẫn rơi về cội, tình em cũng vậy, cũng một lòng thủy chung và yêu như một qui luật của tạo hóa. Hình ảnh ấy vừa gợi lên một nỗi buồn nhưng đồng thời cũng gợi lên niềm thanh thản. Trong cấu trúc so sánh này, Trịnh Công Sơn đã đảo trật tự của yếu tố phương diện so sánh xuống cuối câu, từ đó nhấn mạnh tình em bao đời vẫn thế, vẫn một lòng không đổi và vì thế nên cũng buồn. “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”, những cuộc tình cứ đến rồi đi, những người con gái cứ đến rồi đi, người nhạc sĩ ấy cảm thấy em xa vời quá, không thể nắm bắt được: Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi (Hoa vàng mấy độ) Tác giả đã so sánh nhân vật em với hình ảnh cơn gió. Cuộc đời vị nhạc sĩ họ Trịnh này từng có nhiều lần rung động, nhưng có khi người ta không biết đến tình cảm của ông, có khi cũng không đi đến đâu. Vì thế, những nhân vật em xuất hiện trong cuộc đời ông cuối cùng cũng đều không thuộc về ông. Hình ảnh cơn gió đã tượng trưng cho sự không cố định, khó nắm bắt rồi, nhưng cơn gió này còn được đặt trong trạng thái cứ mãi bay đi, càng nhấn mạnh sự khó nắm bắt của nhân vật em. Trong kiểu cấu trúc này, vị trí của các yếu tố so sánh đã được thay đổi: từ so sánh được đặt ở đầu câu, tiếp theo là yếu tố so sánh, yếu tố được so sánh và cơ sở so sánh. Với việc đảo trật tự cấu trúc này, tác giả muốn nhấn mạnh đến yếu tố so sánh bằng cách đưa nó lên trước yếu tố được so sánh. Hơn nữa, việc đặt cơ sở so sánh ở cuối câu cũng là một dụng ý. Xét về mặt ngữ nghĩa, “còn cứ mãi bay đi” chỉ tính chất luôn di chuyển,
  • 8. và khi nó được đặt ở cuối câu không gặp bất cứ trở ngại của thành tố nào thì nó sẽ dễ dàng tạo hiệu ứng lan tỏa – bay đi. Sau khi em đi, niềm đau luôn ùa về dằn vặt, cào xé con tinh yêu thương của tác giả, để rồi người tự thốt ra những chiêm nghiệm về sự tồn tại: Từ đó em là sương Rụng mát trong bình minh Từ đó ta là đêm Nở đóa hoa vô thường (Đóa hoa vô thường) Dù thế nào thì em cũng đã ra đi. Khi đến, em trong sáng và long lanh như những giọt sương. Nhưng em cũng mong manh và dễ tan biến như giọt sương kia vậy – em đi. Trịnh Công Sơn thường ví người tình của mình là sương, bởi sương thường có khi đêm về, đó cũng là lúc tâm hồn con người trở nên yếu đuối với quá khứ nhất. Con người dễ rơi vào trạng thái cô độc, và nhất là khi hình ảnh em tìm về khi rõ ràng, khi lại mờ ảo như sương. Tưởng chừng có thể cầm nắm được nhưng chạm vào lại vội vàng tan biến. Em đến rồi đi như một quy luật tuần hoàn của tạo hóa giành cho sương, sương sẽ tan khi trời sáng. Hình ảnh rụng mát trong bình minh gợi nên cảm giác nhẹ nhàng, thản nhiên không chút vướng bận. Từ đó, tác giả thấy mình là đêm bởi chính ông cũng đã thức cùng đêm, hòa vào đêm. Trong đêm, gam màu đen dày đặc khỏa lấp từng ngõ ngách yêu thương. Đêm im vắng, mênh mông vô cùng cũng như lòng tác giả vậy. Trạng ngữ chỉ thời gian từ đó xuất hiện cho ta thấy trước đây ta và em đều không là sương, là đêm cho đến khi gót hồng em muốn quay về. Từ đó ta là đêm hay nói đúng hơn từ đó ta chẳng còn gì cả ngoài một mảng tối u buồn. Nhưng có một điều đặc biệt trong hình ảnh so sánh này là sương tồn tại trong đêm, hay nói cách khác đêm ôm lấy sương. Trên thực tế, đã có rất nhiều người tình đến rồi đi và để lại cho tác giả nhiều nỗi buồn. Tuy nhiên, ta không hề thấy một lời oán trách nào trong ca từ của ông cả. Chỉ có những tình cảm đáng trân trọng hiện hữu. Dù có thấy mình trở thành đêm, ông vẫn muốn được yêu nhân vật em ấy đến trọn lòng. Hình ảnh so sánh giàu sức gợi hình, giàu sức biểu cảm được gắn kết bởi từ là
  • 9. theo nghĩa ngang bằng đã làm cho tâm tư của tác giả được bộc lộ rõ rệt, mãnh liệt, ta và màn đêm như hòa chung vào một. Có lẽ vì luôn chịu ám ảnh bởi cái chết và nỗi buồn của tình yêu, nên hình ảnh nhân vật tôi, ta xuất hiện cũng buồn không kém. Tuy nhiên, vẫn có những lúc tác giả thể hiện niềm vui của mình: Một hôm bước chân về giữa chợ Chợt thấy vui như trẻ thơ (Đêm thấy ta là thác đổ) Niềm vui được tác giả diễn tả trong sự ngây thơ, trong sáng của trẻ thơ và sự tự do, yêu đời của một cánh diều vui. Ở ví dụ đầu, tác giả đã sử dụng cấu trúc A – x – tss – B nhưng A đã được ẩn đi. Hành động bước chân về giữa chợ và thể hiện cảm xúc vui như trẻ thơ thì chỉ có thể là hành động của con người. Hơn nữa, trong suốt bài Đêm thấy ta là thác đổ, hình tượng nhân vật tôi, ta xuất hiện xuyên suốt nên yếu tố được so sánh ở đây chính là cảm xúc của nhân vật tôi. Ta có thể khôi phục lại câu một cách đầy đủ như sau: Một hôm tôi bước chân về giữa chợ Chợt tôi thấy (tâm hồn) vui như trẻ thơ Tác giả đã so sánh tâm hồn vui tươi của mình với trẻ thơ, bởi trẻ thơ thường thể hiện cảm xúc một cách thật nhất, thoải mái nhất và vô tư nhất. Khi so sánh như vậy, niềm vui như được vỡ òa và được lan ra một cách không giới hạn. Hình thức thể hiện yếu tố được so sánh một cách gián tiếp như thế này giúp cho hình ảnh cô đọng hơn. Tác giả cũng sử dụng hình thức này nhiều và tạo đã nên một phong cách riêng, nét đẹp riêng cho hình ảnh so sánh tu từ của ông. Tuy có lúc vui tươi nhưng cảm xúc chủ đạo trong so sánh tu từ nói riêng và cảm xúc ca từ nói chung vẫn quy lại ở chữ buồn. Và nỗi buồn cũng được ông thể hiện theo một cách khác: Tình yêu vô tội Để lại cho ai Buồn như giọt máu Lặng lẽ nơi này (Lặng l ẽ nơi này)
  • 10. Một mai thức dậy Chuyện trò với lá cây Rồi buồn như lá bay (Tình sầu) Nỗi buồn trở nên lặng lẽ, cô quạnh như giọt máu hay thậm chí là chiếc lá xa rời sự sống. Hình ảnh biểu trưng giọt máu gợi cho chúng ta nhiều điều, nhưng sâu sắc nhất vẫn là sức gợi về sự sống. Người ra đi để lại nỗi buồn bủa kín nơi này, sự sống của một con người trở nên lặng lẽ và cô độc. Hình ảnh so sánh tu từ buồn như gọt máu khi rõ rệt, khi không thể định hình tạo sự đau đáu khôn nguôi trong lòng người người tiếp nhận. Đây cũng là điểm đặc biệt trong cách sử dụng hình ảnh của ông. Ở đây, tác giả cũng sử dụng cấu trúc so sánh tu từ A – x – tss – B nhưng A đã được thể hiện một cách gián tiếp. Trong bài Lặng lẽ nơi này, nhân vật em xuất hiện với vai trò khách thể, nhân vật tôi đóng vai trò chủ thể. Vì thế, buồn là trạng thái cảm xúc của nhân vật tôi. Ta có thể khôi phục lại câu đầy đủ như sau: Tình yêu vô tội Để lại cho ai Tôi buồn như giọt máu Lặng lẽ nơi này (Lặng l ẽ nơi này) Khi tôi được ẩn đi, trong câu chỉ còn thể hiện cảm xúc, lúc này buồn đóng vai trò là yếu tố phương diện so sánh đã được tập trung mọi ánh nhìn. Từ đó, cảm xúc buồn được nhấn mạnh hơn và lan tỏa hơn. Cũng nói về sự sống đang đi vào tàn lụi, hình ảnh lá bay gợi trong lòng mọi người một nỗi buồn dai dẳng, da diết kèm theo sự tiếc nuối. Nỗi buồn được diễn tả cùng với sự sống, khi người ta vui cuộc sống tràn đầy, khi người ta buồn cuộc sống như muốn tắt đi, như chiếc lá kết thúc một cuộc đời. Tuy nhiên, hình ảnh đó gợi nỗi buồn nhưng không gây cảm giác lụy, nó vẫn rỉ rích buồn nhưng lại có chút nhẹ nhàng như chiếc lá bay, gợi trong lòng người đọc cảm giác man mác. Đó cũng là tâm trạng
  • 11. chung của rất nhiều người và cũng là những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của con người. Cũng diễn tả nỗi buồn, ta hãy thử xem nhà thơ Nguyên Sa nói gì: Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm Như con mèo ngái ngủ trên tay anh Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình (Nga – Nguyên Sa) Nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh cụ thể, thân thuộc với đời sống thường ngày của con người tuy nhiên những hai hình ảnh con chó, đôi mắt cá ươn không hẳn đã đem lại hiệu quả tốt cho phép so sánh này. Tuy có thể hiểu được tác giả muốn nói nhân vật Nga khi buồn im lặng, ngoan ngoãn trong tay nhân vật anh và cũng có thể nói đây là hai hình ảnh đặc biệt và táo bạo khi đưa vào thi ca. Nhưng dù thế nào thì hai hình ảnh ấy vẫn chưa hẳn là đẹp, từ đó làm giảm đi xúc cảm thẩm mĩ trong lòng người đọc. Ngược lại, hình ảnh so sánh Trịnh Công Sơn sử dụng cũng là những điều quen thuộc với con người, ai trong đời cũng từng trải qua cho và vẫn gợi nên giá trị thẩm mĩ nên dễ nhận được sự đồng cảm của người tiếp nhận. Cùng sử dụng so sánh tu từ để thể hiện nhân vật tôi, nhưng trước mỗi tình huống, sự việc và hoàn cảnh khác nhau, các hình ảnh ấy lại có sự khác biệt: Ngày xưa khi còn bé Tôi mơ có cuộc tình Như mơ ước được gần Với những nụ hồng Nhưng hôm nay không còn trẻ nhỏ như xưa Tôi thấy tôi là chiếc bóng phai mờ Nhưng hôm nay không còn một hồn bao la Tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe (Ngày nay không còn bé) Hai đoạn trên hiện lên hai mốc thời gian khác nhau và hình ảnh nhân vật trữ tình vì thế cũng khác. Khi còn bé, chưa nếm trải nhiều nỗi đau của cuộc đời, cũng chưa va vấp nhiều với cuộc đời nên ước mơ cũng ngọt ngào, hồn nhiên. “Mơ có cuộc tình
  • 12. như mơ ước được gần với những nụ hồng”, một ước mơ tưởng chừng như đơn giản nhưng sự thật lại không hề dễ. Nụ hồng tượng trưng cho một tình yêu đẹp, gần nụ hồng không phải là điều khó khăn gì nhưng gặp được một tình yêu đẹp mới là điều khó, sự thật ấy tất nhiên khi còn bé người ta không thể ý thức được. Đến đoạn thứ hai, thời gian hiện lên là thời điểm không còn trẻ nhỏ nữa và cũng chẳng còn một hồn bao la như xưa nữa, lúc đó nhân vật trữ tình đã có nhiều trải nghiệm. Vì thế, nhân vật tôi đã thấy mình là chiếc bóng phai mờ, chút vết mực nhòe. Cả hai đều là những hình ảnh gợi lên sự nhạt nhòa. Chiếc bóng chỉ xuất hiện khi có ánh sáng chiếu vào một người, một vật nào đó và độ to nhỏ sẽ tùy thuộc vào góc chiếu, nó cũng sẽ mất đi khi ánh sáng không còn. Chính bản thân chiếc bóng đã tạo nên sự mờ nhạt bởi vì nó không thể tự sinh ra mà bị phụ thuộc vào vật khác. Thế nhưng, tác giả lại cho chiếc bóng kết hợp với tính từ phai mờ càng tô đậm thêm sự mờ nhạt của nó. Hình ảnh chút vết mực nhòe cũng vậy, từ vết mực kết hợp với từ chút đứng đầu đã cho ta thấy nó rất ít ỏi và nhỏ bé, và càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với từ nhòe ở cuối câu. Cả hai từ chút và nhòe một đứng đầu một đứng cuối đóng vị trí hai đầu nút lại là những từ chỉ lượng và chất – ít ỏi và nhạt nhòa đã khiến cho hình ảnh vết mực trở nên mờ nhạt hơn. Từ đó, nhân vật tôi xuất hiện trong tư thế rỗng. Khi đã nếm trải nhiều sự thật ở đời, con người ta lớn lên và nhận ra rằng đời không như những gì ngày xưa mình nghĩ. Khi nỗi đau quá nhiều, một lúc nào đó con người ta sẽ nhận ra mình là một vật thể bé nhỏ, mờ nhạt trong cuộc đời. Hai hình ảnh về nhân vật tôi hiện lên trong hai khoảng thời gia khác nhau, điều đó cho ta thấy trạng từ chỉ thời gian trở nên rất đắc dụng trong câu. Trước mỗi hình ảnh so sánh tu từ, tác giả đều cho một trạng từ chỉ thời gian xuất hiện, các trạng từ này tạo ra một không gian cụ thể để so sánh tu từ có thể thăng hoa cả về cảm xúc lẫn nghĩa, từ đó đạt được hiệu quả cao. Ta cũng có thể thường bắt gặp những trạng từ chỉ thời gian này trong các ca khúc của ông. Trong một ca khúc của mình, tác giả đã ví mình thành hình ảnh tám chú chim khác nhau trong tám đoạn: Tôi như con chim nhỏ Bay về rất ngẩn ngơ
  • 13. Trên nhân gian chia lìa Lòng đầy những oán thù Tôi như chim xa lạ Đứng nhìn những ngày qua Trong tim tôi bất ngờ Một lời than rất nhỏ Tôi như con chim buồn Bay về lúc chiều hôm Thôi quên đi thiên đường Một đời tôi mãi tìm Tôi như con chim bệnh Thiếu hạnh phúc trần gian Có những tháng mùa đông Ngồi khóc rất âm thầm Tôi như chim ưu phiền Bay về cuối dòng sông Con sông mang tin buồn Nằm chờ những đóa hồng Tôi con chim vô vọng Linh hồn rất mong manh Trong tôi có một lần Một mùa ôi rất lạnh Tôi như con chim chiều Mang đầy nắng quạnh hiu
  • 14. Trên đôi vai u sầu Tìm về nơi cuối đèo Tôi con chim thanh bình Mơ được sống hồn nhiên Như hoa trên đồng xanh Một sớm kia rất hồng (Như chim ưu phi ền) Hình ảnh so sánh xuất hiện dày đặc trong cùng một ca khúc thế này không phải là một điều hiếm hoi trong các ca khúc của ông. Nhưng tất cả các hình ảnh so sánh đều là những con chim thì là một điều đặc biệt. Những con chim lớn dần theo mạch cảm xúc của tác giả: từ con chim nhỏ đến chim xa lạ, con chim buồn, con chim bệnh đến chim ưu phiền, rồi trở thành con chim vô vọng, con chim chiều và cuối cùng là chim thanh bình. Thoạt nhìn, có thể ta sẽ thấy các hình ảnh không ăn nhập gì với nhau nhưng ngẫm kĩ lại đó lại là một quá trình dài của hành trình cuộc sống. Trong những tháng năm khốc liệt của chiến tranh, tác giả đã ví mình là con chim nhỏ bay về rất ngẩn ngơ không biết đi đâu, về đâu giữa chốn nhân gian đầy rẫy sự chia lìa và oán thù. Khi đã chứng kiến bao thăng trầm, sự tàn khốc và nếm trải trái đắng của cuộc đời, người nghệ sĩ ấy lại thấy mình giống như con chim xa lạ. Bởi vì nhận ra cuộc đời quá khác biệt với suy nghĩ của “ngày xưa khi còn bé”, nên người ta dễ rơi vào trạng thái xa lạ với cuộc đời, sống giữa đời mà như khác biệt. Từ chuyện nhận ra những mặt khác nhau của con người, cuộc đời như thế nên nhân vật tôi ấy mới u buồn và ví mình thành một con chim buồn/ bay về lúc chiều hôm. Từ đó dặn lòng mình thôi quên đi thiên đường/ một đời tôi mãi tìm, vì cuộc đời vốn dĩ không phải là những giấc mơ. Tiếp theo là một loạt những hình ảnh: tôi như con chim bệnh, tôi như chim ưu phiền, tôi con chim vô vọng, tôi như con chim chiều, đó là hàng loạt những trạng thái cảm xúc cứ mỗi lúc một đầy lên theo nỗi buồn. Nhưng đoạn kết lại là hình ảnh của một con chim thanh bình/ mơ được sống hồn nhiên/ như hoa trên đồng xanh/ một sớm kia rất hồng. Hình ảnh so sánh tu từ này khác với tất cả những hình ảnh trước về mặt cấu trúc. Những hình ảnh trước được thể hiện chủ yếu theo
  • 15. cấu trúc A – tss – B và A – B, vế được so sánh là một từ và vế so sánh là một cụm từ. Nhưng ở câu cuối này, tác giả đã so sánh một nhân vật trữ tình (tôi) với nhiều sự vật, hiện tượng và cả hai hình ảnh đều ẩn đi yếu tố phương diện so sánh. Tuy nhiên, ở yếu tố so sánh đầu: con chim thanh bình mơ được sống hồn nhiên, tác giả không sử dụng từ so sánh làm điểm kết nối. Nhưng đến hình ảnh: hoa trên đồng xanh/ một sớm kia rất hồng lại xuất hiện từ so sánh như, sử dụng từ so sánh ở đó tạo nên sự liền mạch cho câu. Nếu như cả hai hình ảnh ta đều sử dụng từ so sánh để kết nối hai vế lại với nhau thì điều đó hoàn toàn được chấp nhận và tác giả vẫn thường sử dụng hình thức đó trong so sánh tu từ của mình. Nhưng nếu không sử dụng từ so sánh thì câu trên sẽ được viết lại như thế này: Tôi con chim thanh bình Mơ được sống hồn nhiên Hoa trên đồng xanh Một sớm kia rất hồng Hoặc nếu ta sử dụng từ so sánh mà đặt ở trước vế so sánh đầu: Tôi như con chim thanh bình Mơ được sống hồn nhiên Hoa trên đồng xanh Một sớm kia rất hồng Như vậy, hình ảnh hoa trên đồng xanh/ một sớm kia rất hồng sẽ trở nên vô nghĩa và trở thành yếu tố thừa, bởi trước nó không có sợi dây liên kết nào với hình ảnh tôi và còn bị ngăn cách bởi một hình ảnh so sánh khác. Vì thế, từ như xuất hiện rất đắt mà lại còn tạo nên sự mới lạ trong cách thể hiện. Về mặt ngữ nghĩa, hình ảnh con chim thanh bình và hoa trên đồng xanh này gần giống như trạng thái ban sơ khi bước vào cuộc đời. Khi va vấp, trải nghiệm nhiều với đời, con người ta lớn dần lên trong suy nghĩ. Đến một mức độ nào đó, khi niềm đau quá lớn tới mức tưởng như vượt ngưỡng chịu đựng của con người thì thường xảy ra hai xu hướng: một là tàn lụi hoàn toàn, hai là nhận ra hướng giải thoát mới. Bằng một trái tim thương cảm với đời, dù trải qua bao nhiêu khốn khó, thăng trầm, Trịnh Công Sơn vẫn giữ cho mình một niềm tin yêu cuộc sống, nên cuối cùng tác giả vẫn tìm được một hướng đi riêng.
  • 16. Không bon chen với đời, không còn bị những mưu lợi vật chất, danh vọng ở đời quấy nhiễu, quay về với bản ngã thực thụ của con người. Thích tự do, thích yên bình như con chim thanh bình mơ được sống hồn nhiên, như hoa trên đồng xanh nở những đóa hoa tươi đẹp cho cuộc đời. Hai hình ảnh so sánh xuất hiện liên tiếp tạo nên một sự liên tưởng rộng, từ đó làm sáng tỏ nghĩa cho hình tượng nhân vật tôi. Đến đây, ta thấy hình ảnh này có điểm tương ứng với hình ảnh con chim nhỏ mở đầu bài hát, giống như sau mỗi kết thúc là một khởi đầu. Từ những nét chấm phá bằng hình ảnh so sánh tu từ của mình, tác giả đã vẽ nên hình tượng nhân vật trữ tình tôi, ta và em một cách trọn vẹn và tinh tế. Ta có thể nhận thấy, khi nói về nhân vật em tác giả thường chọn những hình ảnh đẹp nhưng dễ tan biến và khó nắm bắt như: mây, nắng, mưa, gió, sương, … từ đó cho ta thấy trên thực tế em cũng vốn dĩ không thuộc về ta. Ngược lại, khi nói về mình tác giả thường sử dụng những hình ảnh có thể tri nhận bằng mắt, bằng tay nhưng đa số đều mang theo một nỗi buồn hoặc sự suy tư. Hình ảnh và cảm xúc của các nhân vật trữ tình được hiện lên rõ nét qua cách thể hiện cấu trúc so sánh tu từ và cách lựa chọn hình ảnh độc đáo. 3.2. So sánh tu từ thể hiện những chiêm nghi ệm về tình yêu Tình yêu là một trong ba chủ đề chính trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông đã từng nói rằng: một lần yêu thương/ một đời bão nổi, nhưng dù có thế nào thì con người ta cũng vẫn không chối bỏ nó, người nhạc sĩ ấy vẫn tìm đến nó và từ đó trở thành niềm cảm hứng lớn cho cuộc đời sáng tác của mình. Tình yêu mật ngọt Mật ngọt trên môi Tình yêu mật đắng Mật đắng trong đời Tình yêu như biển Biển rộng hai vai Biển rộng hai vai Tình yêu như biển
  • 17. Biển hẹp ta người Biển hẹp tay người lạc lối (Lặng l ẽ nơi này) Tác giả đã so sánh tình yêu với mật ngọt nhưng lại là mật ngọt từ đôi môi. Đó là cảm giác trong tình yêu mà ai cũng trải qua dù ít hay nhiều. Nhưng khi tan vỡ nó lại trở thành mật đắng trong đời. Hai hình ảnh trái ngược nhưng lại được đặt cạnh nhau tạo nên sự hòa phối trái nghĩa, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của nhau. Thay vì nói: tình yêu ngọt ngào như mật ngọt trên môi, tình yêu cay đắng như mật đắng ở trong đời, tác giả đã giấu cơ sở so sánh và từ so sánh đi để chỉ còn lại hai vế so sánh nhưng người đọc vẫn hiểu ông muốn nói gì, chính vì vậy mà hình ảnh trở nên cô đọng hơn. Hơn nữa, tác giả không nói thẳng tình yêu ngọt và đắng như điều gì trong cùng một câu mà tách nó làm hai câu riêng biệt, muốn hiểu rõ hơn hình thì phải đọc tiếp câu tiếp theo. Cách thể hiện này gần giống như lối vắt dòng trong thơ hiện đại, câu đầu liên quan chặt chẽ đến câu sau. Hai hình ảnh mật ngọt, mật đắng được tác giả lặp lại hai lần, một là để kết nối hai câu, hai là để nhấn mạnh tính chất ngàn đời của tình yêu. Với hình thức so sánh tu từ lược bỏ cơ sở so sánh và từ so sánh này, người đọc sẽ gặp phải chút khó khăn trong việc tìm ra mối liên hệ giữa hai hình ảnh so sánh. Tuy nhiên, bằng sự tài tình trong cách lựa chọn hình ảnh, Trịnh Công Sơn đã định hướng rõ cho người đọc con đường tìm đến tâm hồn ông. Hơn nữa, cấu trúc này khi bớt từ so sánh đi, người đọc sẽ không bị gò bó trong việc xác định hai hình ảnh tương quan với nhau theo sự tương tự (như, tựa như, dường như, …) hay ngang bằng (bằng, là). Từ đó, nghĩa của câu sẽ được mở rộng ra hơn tùy vào khả năng cảm thụ của mỗi người. Nếu như đầu bài hát tác giả đã dùng hình ảnh so sánh để chỉ ra tình chất chung của tình yêu, thì đến với những câu tiếp theo tình yêu được so sánh với biển như vẽ lên một cuộc tình cụ thể. Tình yêu như biển Biển rộng hai vai Biển rộng hai vai Tình yêu như biển
  • 18. Biển hẹp tay người Biển hẹp tay người lạc lối (Lặng l ẽ nơi này) Đối chiếu với hai cặp câu đầu: “tình yêu mật ngọt/ mật ngọt trên môi/ tình yêu mật đắng/ mật đắng trong đời”, hai câu diễn tả hai cảm xúc khác nhau của tình yêu. Đến cặp so sánh tu từ này, nó cũng sẽ diễn đạt hai trạng thái tương tự. “Tình yêu như biển/ biển rộng hai vai/ biển rộng hai vai”, hình ảnh hai vai đó là sự ngọt ngào khi hai người còn ở bên nhau, mọi cảnh vật đều trở nên tươi đẹp, và biển cũng thêm rộng lớn. Nhưng đến câu thứ hai: “tình yêu như biển/ biển hẹp tay người/ biển hẹp tay người lạc lối” thì nỗi đau đã xuất hiện, tình yêu đã không còn nguyên vẹn. Hình ảnh biển hẹp tay người là một hình ảnh lạ, được lặp lại hai lần thể hiện sự đau đáu, da diết không nguôi. Khi ta ở bên người, biển bao la rộng lớn. Khi ta không còn người, biển cũng hẹp vô cùng. Tác giả đã nhìn nhận điều này từ con mắt của cảm xúc. Biển rộng lớn vô cùng khi nhìn bằng con mắt yêu đời, hạnh phúc, nhưng khi nhìn từ đôi mắt u buồn, biển trở nên hẹp lại, hẹp lại như bàn tay của một người quay lưng. Bàn tay ấy không còn đủ chỗ để nắm lấy bàn tay mình, không còn đủ chỗ để cầm giữ những yêu thương. Trần Đăng Khoa cũng từng đặt biển và em vào hai phía: Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng Biển một bên và em một bên (Thơ tình người lính bi ển – Trần Đăng Khoa) Câu thơ hiện lên hình ảnh biển và em đều quan trọng như nhau, rộng lớn như nhau, đều là những gì anh yêu quý. Nhưng khi đi vào ca từ Trịnh Công Sơn, cũng là biển, cũng là em nhưng lại thu hẹp đến lạ. Hình thức so sánh này giúp hai hình ảnh kết hợp với nhau trong một thế hẹp, khiến cho người đọc như cũng đứng trước biển, như cũng chứng kiến tay người lạc lối. Làm cho tâm hồn người thưởng thức lắng xuống, và chiêm nghiệm. Ở hai hình ảnh so sánh tu từ này, tác giả cũng sử dụng hình thức lặp từ để tạo sự kết nối và bổ nghĩa cho câu trước. Trong cấu trúc A – tss – B này, cơ sở so sánh đã được giấu đi, muốn hiểu mối liên hệ giữa hai hình ảnh tình yêu và biển thì bắt buộc phải đọc tiếp câu sau. Đó cũng là một nét đặc biệt trong sử dụng so sánh tu từ của Trịnh Công Sơn. Vì trải qua nhiều lần rung động nhưng không lần nào trọn vẹn, người nhạc sĩ ấy đã nhìn tình yêu bằng một cảm nhận riêng:
  • 19. Tình yêu như vết cháy Trên da thịt người Tình xa như trời Tình gần như khói mây Tình trầm như bóng cây Tình reo vui như nắng Tình sầu làm cơn say (Tình sầu) Cũng giống như một vết thương, hình ảnh vết cháy trên da thịt người luôn gợi cho người đọc một hình ảnh vết tì, khó phai mờ. Vết cháy là dấu vết còn lại của một vết thương đã lành trên bề mặt. Tuy nhiên, nó vẫn không bị phai mờ theo năm tháng, dấu vết của niềm đau vẫn còn có thể nhận rõ trên da thịt. Tác giả đã nói về tình yêu như vậy, khi tình vui người ta hạnh phúc, khi tình sầu người ta đau. Vết thương lòng do tình yêu để lại cũng giống như vết cháy trên da thịt, có thể mờ nhưng không thể xóa hết hoàn toàn. Từ những lần “từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ” hay những khi đạp xe sau lưng một cô gái dù người đó không biết, ông đã cảm nhận tình yêu bằng năm cung bậc: xa, gần, trầm, reo vui, sầu. Có khi ông cảm nhận tình yêu rất xa như bầu trời, mà bầu trời thì cao quá làm sao với. Cũng có khi ông lại thấy tình yêu thật gần, tưởng như có thể chạm vào được nhưng nó cũng giống như khói mây, nhìn thì gần thế nhưng cũng xa vời lắm. Ở dưới chân núi nhìn lên đỉnh cao ta thấy mây trắng bao quanh, tưởng lên đó có thể chạm vào được. Nhưng đến khi lên tới nơi, tất cả những áng mây kia đều là sợi khói, chạm vào lại vội tan. Thường thì khi diễn tả khoảng cách gần của một điều gì đó, người ta sẽ so sánh với những thứ có thể nhìn thấy được, có thể chạm vào được. Nhưng bằng đôi mắt của một người không trọn vẹn tình duyên, ông cảm nhận tình yêu gần cũng như xa. Rồi tình yêu cũng có những khoảng lặng trầm lắng, ông đã cảm nhận cung trầm của tình yêu như những bóng cây bên đường. Chiếc bóng từ cây mà ra dưới sự chiếu sáng của mặt trời, âm thầm và lặng lẽ bên cạnh cây. Nhưng chiếc bóng cũng bị mờ nhạt và không là gì cả. Nếu tình đó là tình cảm của một người dành cho một người thì đó là sự cao cả và được hiểu theo nghĩa đầu tiên. Ngược lại, nếu đó là trạng thái tình cảm thì nó ẩn chứa một nỗi buồn và được hiểu theo nghĩa thứ hai. Ở hai câu đầu, ta đã thấy tác giả thể hiện cảm nhận về sự xa - gần của
  • 20. tình yêu, thì hai câu sau cũng sẽ là một cặp tương ứng. Do phía sau tác giả thể hiện cảm xúc reo vui nên trên đây sẽ là sự trái ngược, vì thế trầm như bóng cây sẽ được hiểu theo nghĩa nỗi buồn. Đến trạng thái reo vui, tác giả đã thể hiện bằng hình ảnh tươi mới của nắng. Động ngữ reo vui kết hợp với danh từ nắng tạo nên sự lan tỏa trong hình ảnh, người thưởng thức như thấy nắng đang lên trước mắt mình. Tuy nhiên, Trịnh từng nói: nắng buồn hơn mưa, nên có khi nói nắng đó nhưng vẫn ẩn chứa nỗi buồn. Nhìn lại, ta thấy tất cả những hình ảnh so sánh gắn với các cung bậc: xa, gần, trầm, reo vui đều là những sự vật, hiện tượng cho ta cảm giác xa vời và dễ tan biến. Trời thì xa, chỉ có thể nhìn thấy chứ không chạm vào được. Khói mây cũng vậy, tưởng là gần đấy nhưng chạm vào sẽ tan và thực tế nó không có hình thù. Bóng cây có thể dùng thị giác để cảm nhận nhưng không thể cầm nắm, và nó cũng sẽ biến mất khi ánh sáng không còn. Nắng cũng thế, ta có thể cảm nhận đang đi trong nắng nhưng không thể thấy hình thù của nắng, và nắng cũng có lúc nhạt, phai, rồi tắt để nhường chỗ cho đêm. Vì thế, những hình ảnh ấy đã được tác giả hòa phối tương đồng về ngữ nghĩa theo một gam màu buồn, mong manh. Từ đó, dù diễn tả nhiều trạng thái khác nhau của tình yêu nhưng người tiếp nhận vẫn cảm thấy ẩn sâu trong đó là một nỗi buồn. Cả bốn câu đều sử dụng cấu trúc A – x – tss – B, một sự điệp cấu trúc không những không gây nhàm chán mà còn liên tiếp dẫn người đọc đi từ cảm giác này đến cảm giác khác. Các lớp cảm xúc cứ xếp chồng lên rồi quy tụ lại ở nỗi sầu – tình sầu làm cơn say, làm người đọc không khỏi lặng lòng. Sớm giác ngộ triết lí của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Trịnh Công Sơn luôn nhìn nhận mọi thứ ở hai mặt: “trong trừng giọng nói có màu tàn phai”: Cuộc tình lên cao vút Như chim mỏi cánh rồi Như chim xa lìa bầy Như chim xa lìa trời Như chim bỏ đường bay (Tình sầu) Tác giả đã so sánh cuộc tình lên cao vút với nhiều hình ảnh khác nhau để làm sáng tỏ hơn sự chiêm nghiệm của mình. Cuộc tình lên cao vút – đó là trạng thái cao nhất của tình yêu, lẽ ra người ta phải thấy vui và hạnh phúc. Nhưng không, tác giả đã nhận ra khi một sự vật,
  • 21. sự việc đạt đến độ cao nhất của nó thì cũng là lúc chuẩn bị tàn lụi. Trái cây chín để trên cây rồi sẽ rụng và rữa. Trăng tròn rồi sẽ khuyết. Có lẽ vì vậy, Nguyễn Tuân nói rằng trăng 14 đẹp hơn trăng rằm: “Trăng mười bốn bao giờ cũng khéo hơn trăng rằm. Ngày mười bốn là ngày vừng trăng đi tới chỗ toàn thịnh. Ngắm vừng trăng rằm, người tinh ý sẽ nhận thấy cái vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn khai trong có một thì” (Thả thơ – Nguyễn Tuân). Bởi thế, khi tình cảm đã lên đến đỉnh cao, vị nhạc sĩ nhạy cảm với đời ấy lại thấy buồn và đã đem cuộc tình so sánh với sự vật, sự việc đang đi vào tàn lụi. Chim mỏi cánh – hình ảnh gợi lên sự mệt nhoài; chim xa lìa bầy – đó là sự đơn độc; chim xa lìa trời – cánh chim luôn gắn bó với bầu trời, nhưng đến khi cả bầu trời cũng không còn níu được cánh chim cũng là lúc xuất hiện sự tàn lụi; chim bỏ đường bay – sự kết thúc cho một hành trình. Tác giả đã sử dụng cấu trúc A – tss – B cho một loạt hình ảnh so sánh này, nhưng sáng tạo hơn bằng cách đem một sự vật, hiện tượng này so sánh với nhiều sự vật, hiện tượng khác. Các hình ảnh so sánh liên tục xuất hiện theo hình thức tăng tiến khiến nỗi sầu bật ra mỗi lúc một da diết hơn. Từ đó, thấm sâu vào lòng người tiếp nhận những nỗi niềm. Bằng trái tim yêu nhạy cảm của mình, tác giả cũng nhận ra sự mong manh của tình yêu: Tình mong manh như nắng Tình còn đầy không em (Tình sầu) Có chút tình thoảng như gió vội Tôi chợt nhận ra tôi (Như một l ời chia tay) Có thể nhận ra rằng hình ảnh thiên nhiên xuất hiện rất nhiều trong so sánh tu từ của ông. Bằng sự tinh tế của mình, ông nhận ra nắng, mưa, gió cũng có những trạng thái u buồn và mỏng manh. Từ đó, mượn những hình ảnh ấy để diễn tả trạng thái của tình yêu. Ta có thể nhìn nhận nắng bằng mắt dựa vào màu sắc của nó. Có khi nắng lên đầy trải ra một màu vàng tươi, khi vàng nghệ, khi lại nhàn nhạt một màu, có lẽ vì thế tác giả thấy nắng cũng mong manh lắm. Tình yêu cũng có những lúc vơi, lúc đầy, khi thắm thiết, khi nhạt nhòa, từ đó tác giả thấy sự tương đồng giữa hai hình ảnh. Bởi thế, khi nhận định tình mong manh như nắng, người nghệ sĩ ấy đã xoáy một câu hỏi xót xa vào lòng người tiếp nhận: tình còn
  • 22. đầy không em?. Ở ví dụ sau, ta lại thấy sự mong manh ấy được gắn liền với hình ảnh gió. Cụm động từ có chút tình giữ vai trò làm yếu tố được so sánh, từ chút đã gợi nên sự ít ỏi của cuộc tình. Càng ít ỏi, mong manh hơn khi tác giả so sánh chút tình thoảng như gió vội. Từ thoảng đóng vai trò là yếu tố phương diện so sánh, tuy nhiên chính bản thân tính từ này cũng gợi nên sự mong manh. Tính chất càng được nhân đôi khi yếu tố so sánh là hình ảnh gió vội. Gió vốn dĩ đã không có hình thù nên không thể cầm nắm được, nhưng đây lại là hình ảnh một cơn gió vội. Chút, thoảng, vội, cả ba từ đều gợi nên sự mong manh, ít ỏi được rải đều đều từ yếu tố được so sánh, yếu tố phương diện so sánh đến yếu tố so sánh tạo hiệu hứng lan tỏa, tràn ngập ra cả câu. Từ đó, nhấn mạnh tính chất mong manh, vô định của tình yêu. Cảm xúc là điều khó đoán biết vì nó không hẳn tự thân mình ra mà còn do bên ngoài tác động, có khi đang vui lại trở nên u buồn. Trịnh Công Sơn đã cảm nhận rõ sự thay đổi thất thường đó qua hình ảnh chiếc lá: Tình như lá bỗng vàng bỗng xanh (Tạ ơn) Chiếc lá nay còn xanh đó, mai có thể vàng rồi. Tình cảm cũng vậy, nay hạnh phúc biết mai có còn được thế. Từ bỗng đi kèm càng nhấn mạnh trạng thái thất thường đó. Cấu trúc A – x – tss – B đã được đảo trật tự. Cơ sở so sánh bỗng vàng bỗng xanh đã được tác giả đặt xuống cuối câu để nhấn mạnh sự thay đổi nhanh chóng, sự không ngờ của cuộc tình. Hình thức thể hiện này cũng được tác giả sử dụng nhiều trong các ca khúc của mình. Cảm nhận được sự thay đổi thất thường của tình yêu, tác giả cũng cảm nhận được sự thay đổi nhanh chóng của nó: Tình như nắng vội tắt chiều hôm (Như một l ời chia tay) Tác giả đã ví tình yêu như nắng, bởi như ta đã nói nắng sẽ có lúc đậm, lúc phai thì tình yêu cũng vậy. Theo quy luật của tạo hóa, nắng sẽ tắt khi chiều về để nhường chỗ cho đêm. Tình yêu có lúc đi lên cũng có lúc đi xuống. Bản thân từ vội đã gợi nên sự nhanh chóng, đi kèm với từ tắt càng tạo nên sự dứt khoát, nhanh chóng hơn. Hơn nữa, động ngữ vội tắt chiều hôm được đặt ở cuối câu càng nhấn mạnh tính chất nhanh chóng phai tàn.
  • 23. Cùng nói về sự thay đổi của tình yêu, khi thì tác giả ví tình như chiếc lá bỗng vàng bỗn xanh để nói về sự thất thường, khi mượn hình ảnh nắng vội tắt chiều hôm để nói về sự nhanh chóng, nhưng cũng có khi lại mượn hình ảnh bể dâu để nói về sự đổi thay như là một quy luật: Tình bỗng là bể dâu Tay vẫy chào lạnh lẽo Đời sẽ buồn như một vết thương (Như một vết thương) Bể dâu thường xuất hiện nhiều trong văn học trung đại, nguyên văn của nó là thương hải tang điền, tức biển xanh ruộng dâu. Theo sách Tầm Nguyên, có một ông lão sống đủ một trăm tuổi thường nói với con cháu rằng: Ta đã sống đủ một trăm tuổi. Trong đời ta, ta đã thấy biết bao lần có sự thay đổi trong vũ trụ như biển cả sóng vỗ muôn trùng rồi biến thành nơi đất bồi để người ta đem dâu ra trồng. Rồi có nơi ruộng dâu lại biến thành biển cả, nước xanh sóng vỗ”. Các thi sĩ thời xưa thường mượn hình điển cố này để nói về sự thay đổi của mọi vật trong vũ trụ. Trịnh Công Sơn cũng sử dụng hình ảnh này để nói về sự thay đổi của tình yêu. Từ bỗng xuất hiện kết hợp với từ là chứng tỏ trước đó tình không như vậy. Từ đó, nhấn mạnh sự nhanh chóng, thất thường của trạng thái tình yêu. Nếu như không có từ bỗng, câu sẽ được viết lại như sau: Tình là bể dâu Như vậy, hình ảnh so sánh tu từ đó mang tính chất so sánh để nhận định. Nhưng khi thêm từ bỗng vào, sự đột ngột thay đổi tạo nên cảm xúc ngỡ ngàng, tăng giá trị biểu cảm hơn. Đôi khi, sự đổi thay nhanh chóng không kịp nhận ra vẫn chưa thật sự đau khổ bằng nhìn thấy cuộc tình chìm mau mà không cách nào cứu vãn nổi: Một người về đỉnh cao Một người về vực sâu Để cuộc tình chìm mau Như bóng chim cuối đèo (Tình nhớ) Hai người đi về hai hướng khác biệt: một đỉnh cao, một vực sâu, hai tính chất đối nghịch nhau. Đỉnh cao là nơi cao nhất, quan niệm chung của mọi người đó là nơi có ánh sáng chói
  • 24. lòa của thiên đường hạnh phúc. Ngược lại, vực sâu là nơi thấp nhất nên dễ gợi cho người ta suy nghĩ: ở nơi đó con người chỉ còn lại niềm đau, cô đơn và tuyệt vọng. Như vậy, người về đỉnh cao sẽ không bị cuộc tình đã qua ám ảnh nhiều, nhưng người về vực sâu thì lại luôn đau đáu. Và càng đau khổ hơn khi thấy cuộc tình đang đi vào kết thúc mà không làm gì được. Tác giả đã so sánh hình ảnh cuộc tình chìm mau với bóng chim cuối đèo. Cánh chim cứ bay và khuất xa dần trong tâm trí, dù yêu thương thế nào, dù muốn níu kéo thế nào cũng không làm gì được. Hai cụm từ được đem ra so sánh với nhau, từ đó bổ nghĩa cho nhau và đạt hiệu quả diễn đạt cao. Đối với người nghệ sĩ tài hoa này, mọi liên tưởng đều tạo nên sự mới lạ: Tình yêu như trái phá Con tim mù lòa (Tình sầu) Tình yêu như cơn bão Đi qua địa cầu (Tình sầu) Trái phá là đạn đại bác có sức công phá rất lớn và được sử dụng trong chiến tranh. Nhưng nhờ Trịnh Công Sơn, ta biết được nó cũng có thể đi vào ngôn ngữ âm nhạc và lại là một hình ảnh đắt giá. Tác giả đã lấy sức công phá lớn của nó để làm cơ sở so sánh cho trái phá và tình yêu. Nếu như trái phá hủy hoại mọi sự vật, hiện tượng hiện hữu thì tình yêu cũng có sức công phá tâm hồn, trái tim của con người. Nhưng ở đây, con tim đã trở nên mù lòa rồi mà còn phải chịu thêm sự hủy hoại của trái phá nữa. Điều đó cũng thể hiện, tình yêu làm con người ta hạnh phúc, cũng có thể khiến người ta đau khổ tột cùng. Nếu như ví dụ đầu tình yêu được so sánh với vật thể nhân tạo (trái phá) thì ở ví dụ sau, tình yêu lại được so sánh với sức tàn phá của thiên nhiên. Bão đi đến nơi đâu nơi đó đều trở nên điêu tàn, xơ xác. Hình ảnh cơn bão đi qua địa cầu không những nói nên sức tàn phá mà còn thể hiện một sức mạnh khó cưỡng. Cơn bão đi qua địa cầu không trừ một vùng đất nào, tình yêu cũng vậy. “Có người yêu thì hạnh phúc, có người yêu thì đau khổ, nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại, con người không thể sống mà
  • 25. không yêu”[,]. Trong cả hai câu, từ so sánh như kéo hai hình ảnh tưởng chừng như khập khiễng lại với nhau theo nghĩa tương đồng, tạo cảm giác sức mạnh ghê gớm của tình yêu như đang lan ra cả câu chữ. Tuy yếu tố phương diện so sánh đã được giấu đi nhưng cấu trúc A – tss – B vẫn đảm bảo ngữ nghĩa để người đọc hiểu được sự tương quan giữa hai hình ảnh. Tuy nhiên, cũng có lúc tình yêu trong thế giới ca từ Trịnh Công Sơn lại ánh lên một niềm tin yêu, tươi mới dù không nhiều: Tình yêu như đốt sáng Con tim tật nguyền Tình lên êm đềm Vội vàng nhưng chóng quên Rộn ràng nhưng biến nhanh Tình cho nhau môi ấm Một lần là trăm năm (Tình sầu) Mọi vật luôn có hai mặt, tình yêu không ngoại lệ. Nó cũng làm ta vui tươi, hạnh phúc, yêu đời. Khi trái tim đã quá đau thương bởi tật nguyền vì những sự trong đời, tình yêu mới đến như mang ánh sáng hy vọng đến, giúp người ta lạc quan hơn. Dù có thể “Tình lên êm đềm/ Vội vàng nhưng chóng quên/ Rộn ràng nhưng biến nhanh” thì nó cũng đã từng mang cho ta niềm vui. Thà trải qua niềm hạnh phúc dù sau đó có đau khổ người ta vẫn cảm thấy xứng đáng vì ít ra mình đã nếm được vị đời. Vui cũng là kỷ niệm, buồn cũng là kỷ niệm, từ đó tình yêu làm con người ta lớn. Bởi thế, ta mới có câu tình cho nhau môi ấm/ một lần là trăm năm. Người ta sẵn sàng đánh đổi niềm đau để một lần nếm trải vị ngọt trong đời. Cụm từ chỉ số lượng một lần được đặt trong thế so sánh ngang bằng với cụm từ chỉ thời gian trăm năm, chính sự kết nối của từ so sánh là đã làm cho hai cụm từ xóa nhòa ranh giới, từ đối cực trở thành ngang bằng. Với …/197 câu so sánh tu từ, chủ đề tình yêu đã thật sự để lại cho vị nhạc sĩ tài hoa này nhiều cảm xúc. Ông từng nói: "Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài quy luật cả. Nhưng tình yêu hình như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những người quá lạc quan khi nói
  • 26. về tình yêu bằng thể khẳng định. Người ta có thể tin rằng mình được yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không được yêu" (Trích: - Cuộc Sống Không Thể Thiếu Tình Yêu - (T.C.S)). Hạnh phúc cũng là kỷ niệm, đau thương cũng là kỷ niệm, dù sao cũng nên cảm thấy may mắn vì đã được nếm được vị đời. Có lẽ vì thế, ta mới có được những dòng chiêm nghiệm sâu sắc, nhiều hình ảnh mới lạ, những cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu thông qua hình thức so sánh tu từ. Từ đó, cho ta một cách nhìn tổng thể hơn về khối tình muôn thuở này. 3.3. So sánh tu từ thể hiện những chiêm nghi ệm về cuộc đời, thân phận Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, lại thêm gắn bó với xứ Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài, Trịnh Công Sơn cũng đã ảnh hưởng khá nhiều giáo lí nhà Phật. Ông sớm nhận ra quy luật của tạo hóa diễn ra trong bốn thời kì: sinh – trụ – dị – diệt. Trong quá trình sáng tác, ông cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi thuyết tứ diệu đế này. Hơn ai hết, ông ý thức rất rõ tính chất vô thường và sự hữu hạn của đời người. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hàng loạt các hình ảnh so sánh tu từ trong ca khúc của ông: Ôm lòng đêm Nhìn vầng trăng mới về nhớ chân giang hồ Ôi phù du Từng tuổi xuân đã già một ngày kia đến bờ Đời người như gió qua (Phôi pha) Nếu như hình ảnh có chút tình thoảng như gió vội biểu hiện sự mong manh, vô định của tình yêu thì hình ảnh gió qua này diễn tả sự mong manh, ngắn ngủi của đời người. Gió qua là một làn gió thoảng nhẹ, thổi phớt qua một cách nhẹ nhàng và nó cũng nhanh chóng bay đi. Đời người cũng không khác gì cơn gió, nay còn nói cười mai có thể đã về bên kia núi. Yếu tố phương diện so sánh đã được ẩn, chỉ còn lại hai cụm danh từ giữ vai trò làm yếu tố được so sánh và yếu tố so sánh được kết nối bởi từ so sánh như nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra tác giả đang nói đến sự nhanh chóng, ngắn ngủi của đời người. Thanh điệu chủ yếu của câu là thanh bằng, điều đó làm cho câu thêm nhẹ nhàng như một sự giác ngộ và chấp nhận quy luật tuần hoàn.
  • 27. Luôn chịu sự ám ảnh về cuộc sống và cái chết, tác giả rất nhạy cảm với sự im vắng trong cuộc đời: Đời sao im vắng Như đồng lúa gặt xong Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi) Khi đang trong mùa vụ, ai nấy cũng đều nhộn nhịp nào gieo hạt giống, cấy lúa non, nhổ cỏ, vãi phân,… đến mùa gặt thì tất bật người gặt, người cột, người vận chuyển,… cánh đồng luôn rộn những tiếng người. Nhưng đến khi xong mùa màng, ai ai cũng đều tranh thủ nghỉ ngơi để chuẩn bị cho mùa vụ tới, cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ, không kiếm nổi một bóng người. Rừng núi bỏ hoang cũng vậy, cũng vắng vẻ, quạnh hiu. Từ như kết nối giữa các hình ảnh với nhau tạo nên sự tương tự giữa im vắng với đồng lúa gặt xong, rừng núi bỏ hoang. Những hình ảnh ấy xuất hiện liên tiếp, gắn kết với nhau tạo nên sự hòa phối tương đồng về ngữ nghĩa, làm cho cả câu đều toát lên một sự im lặng và người tiếp nhận cảm thấy mình cũng đang đi trong thế giới im vắng ấy. Đây cũng là một trong nhiều câu tác giả sử dụng lối so sánh một sự vật hiện tượng với nhiều sự vật hiện tượng, và sử dụng một thuộc tính được coi là chung nhất của cả yếu tố được so sánh và yếu tố so sánh để làm cơ sở. Những yếu tố so sánh liên tiếp xuất hiện tạo nên sự tăng tiến trong nhịp điệu và hình ảnh, từ đó nhấn mạnh cho yếu tố được so sánh và làm cho nó trở nên cụ thể hơn. Không chỉ nhạy cảm với sự im vắng của cuộc đời, ông còn nhận ra sự rộng thênh của cuộc đời: Đời nửa đêm có khi nghe lời trăn trối Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô Đời trần gian có tim người có tay chờ Một ngày kia ôi thân thế vu vơ (Từng ngày qua) Người ta thường cảm nhận sự rộng lớn của một sự vật hữu hình nhưng ở đây Trịnh Công Sơn lại cảm nhận sự rộng thênh của một sự vật mang tính trừu tượng – cuộc đời. Hơn nữa, người ta thường dùng thị giác để nhìn nhận sự rộng lớn nhưng người
  • 28. nghệ sĩ tài hoa này đã cảm nhận cái vô hình ấy bằng âm thanh. Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô, lấy không để giải thích cho có. Không có một tiếng động nào, một âm thanh nào của cuộc sống kể cả một tiếng rơi dù chỉ là khô thôi cũng không xuất hiện. Trong vế này, tác giả đã sử dụng cho xuất hiện một hình ảnh động – tiếng rơi khô, nhưng sau đó lại dùng một từ gợi hình ảnh tĩnh – im vắng để phủ định hình ảnh động đó, tạo nên một hiệu ứng lặng: không có âm thanh, không có sự vận động. Thường thì ta không nghe được tiếng động khi nơi đó thật sự yên vắng, hoặc nơi đó vẫn tồn tại một chút âm thanh nhỏ nhưng dã bị không gian rộng lớn nuốt chửng. Trên cơ sở đó, hai hình ảnh đời và im vắng tiếng rơi khô được gắn kết với nhau bởi sự rộng thênh. Sự im vắng làm cho không gian thêm rộng ra, lời trăn trối của cái chết cận kề phát ra từ nửa đêm càng khiến cho cuộc đời rộng thênh một cách đáng sợ, con người sống trong đó càng trở nên nhỏ bé. Từ đó, ta thấy được sự tài tình trong lựa chọn hình ảnh và ngôn từ trong so sánh tu từ của ông. Bằng sự tinh tế trong cảm nhận và sự mới lạ trong suy nghĩ, nỗi buồn của cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn cũng được thể hiện theo một cách khác: Đã có nghìn trùng trên môi người tình Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn Đời sẽ buồn như một vết thương Tình sẽ buồn như loài nấm hoang Ôi hiu quạnh với nến tàn. Trên nỗi lòng vắng lạnh Đời sẽ buồn như một chiều nao Hôn nhau lần cuối, hôn nhau lần đầu Tình bỗng là bể râu Tay vẫn chào lạnh lẽo Đời sẽ buồn Như một vết thương (Như một vết thương)
  • 29. Nỗi buồn đã được tác giả diễn giải bằng một vết thương, bằng một chiều nao hôn nhau lần cuối hôn nhau lần đầu. Ông đã sử dụng những hình ảnh gợi lên cả một câu chuyện, một quá trình cụ thể để diễn đạt về nỗi buồn của một cái vốn vô hình. Không cần nói đời buồn đến mức nào, chỉ cần những hình ảnh cụ thể hiện ra người dọc sẽ tự suy ngẫm và tự cảm nhận được mức độ nỗi buồn ấy. Nói đến vết thương là nói đến niềm đau. Ai trong đời cũng từng ít nhất một lần trải qua một vết thương dù nó có thể nhìn thấy trên thịt da hay ẩn sâu trong tận đáy lòng. Vết thương trên thịt da trước hết nó sẽ gây cho chúng ta sự đau đớn và tùy vào mức độ. Theo thời gian nó có thể lành nhưng dù ít dù nhiều vẫn để lại sẹo hay dấu hằn. Tuy vậy, nỗi đau thân xác vẫn không để lại sự ám ảnh sâu sắc và lâu dài như vết thương lòng. Bằng sự nhạy cảm của mình, ông luôn nhận thức được mọi sự vật, sự việc khi bắt đầu hay đang tốt đẹp đều ẩn chứa sự tàn lụi, chia phôi: đã có nghìn trùng trên môi người tình, đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng, có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn, có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn. Chính vì nhận thức rõ nét như thế nên vết thương trong lòng càng trở nên rõ nét hơn, u buồn hơn, đau đớn hơn. So với vết thương trên da thịt, vết thương lòng sẽ khó lành hơn và âm ỉ hơn. Đến khi nó lành thì cũng để lại một vết tì, nhưng khi chịu sự tác động nào đó nó có thể sẽ oằn lên một cách dữ dội, như chưa từng quên vậy. Từ đó, đời và một vết thương có sự gắn kết tương đồng bởi nỗi buồn. Đến với hình ảnh một chiều nao hôn nhau lần cuối hôn nhau lần đầu, cũng là hình ảnh có sức gợi mở cả một quá trình. Tác giả đã diễn tả cảm giác của một cái vô hình bằng một hành động có thể tri nhận bằng mắt. Nỗi buồn thuộc về cảm giác, nụ hôn thuộc về hành động. Khi ta nói hôn nhau lần cuối thì cuộc tình đó đã hoặc đang đi vào kết thúc. Sự chia ly, tàn lụi có thể do nhiều lí do nhưng đa phần đều gây cho người ta sự hối tiếc, đau buồn. Tuy nhiên khi sang hình ảnh hôn nhau lần đầu, người tiếp nhận không khỏi khó hiểu vì nó vốn dĩ biểu trưng cho sự bắt đầu, hà cớ gì phải buồn? Thật ra, hai hình ảnh ấy xuất hiện có thể hiểu theo nghĩa một đoạn phim chiếu ngược. Khi đứng trước sự kết thúc, người ta hay hoài niệm, nuối tiếc nhớ về sự bắt đầu. Thời gian bên nhau càng nhiều, kỷ niệm càng nhiều thì niềm đau càng lớn. Cả một quá trình hiện ra sẽ gây nhiều cảm xúc hơn lát cắt của một đoạn kết. Tuy nhiên, nếu tác giả đặt hình ảnh hôn nhau lần đầu rồi mới
  • 30. tới hôn nhau lần cuối thì sẽ không hiệu quả bằng cách sắp xếp ngược lại. Bởi một sự vật, hiện tượng nào khi bắt đầu cũng dẫn đến một kết quả, trong trường hợp này từ người yêu có thể trở thành người trong gia đình, nhưng cũng có khi giống như đường cong parabol có lên ắt có xuống, từ yêu thương trở thành xa lạ. Nếu theo một trình tự như thế thì kết quả có thể đoán trước được, mọi việc diễn ra và nếu có chia phôi thì người ta cũng được chấp nhận từ từ. Vì thế cảm giác sẽ không mạnh bằng đặt vào đầu tiên một đoạn kết của cuộc tình. Từ đó đi dật lùi về những chuỗi ngày hạnh phúc kia và đến điểm khởi đầu. "Ừ, kỳ lạ vậy, khi đang yêu nhau, nghĩa là đang mải yêu, đang đắm say với hạnh phúc, chỉ đến khi mất mát, còn lại một mình, tôi mới tự đối diện với mình và nhận ra nhiều điều mà trước nay tôi không thể nhìn thấy. Cũng không phải là gặm nhấm nỗi đau, mà là nhận diện nỗi đau…" (Trích: - Một Cõi Riêng Thuần Khiết Cùng Cuộc Đời). Người nhạc sĩ ấy cũng đã từng nói về điều này như thế. Thật vậy, khi nhìn lại cả một quá trình người ta sẽ thấy đau hơn, da diết hơn. Cũng như hình ảnh một vết thương, hình ảnh hôn nhau lần cuối hôn nhau lần đầu cũng được liên hệ theo mức độ tương đồng với cuộc đời bằng nỗi buồn. Tác giả đã mượn cảm xúc của sự vật, sự việc này để diễn tả cảm xúc của sự vật, sự việc kia. Như vậy, sức gợi mở sẽ phát huy tác dụng cao hơn khi sử dụng một từ chỉ mức độ hạn hữu nào đó. Những ví dụ trên đều là những câu so sánh tu từ có đầy đủ bốn yếu tố A – x – tss – B. Như đã nói, đây là cấu trúc so sánh tu từ lí tưởng để dễ dàng thể hiện những suy nghĩ, chiêm nghiệm, tình cảm của mình. Hình thức này cho phép người sử dụng tiếp cận nhiều trường liên tưởng để thể hiện, không chỉ so sánh người với người, người với vật, vật với người mà còn có thể so sánh sự vật với trạng thái, sự vật với hành động,… Tác giả đã sử dụng hình thức so sánh này một cách nhuần nhuyễn cùng với những trường liên tưởng mới lạ, đầy triết lý đã tạo nên giá trị biểu cảm cao. Sự vật, hiện tượng được đưa ra so sánh trở nên sáng tỏ và sinh động hơn, người tiếp nhận cũng dễ dàng hiểu được tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm.
  • 31. Không chỉ có sự mới lạ trong cách cảm nhận về sự im vắng, rộng thênh, nỗi buồn của cuộc đời mà ông còn có suy nghĩ khác lạ trong những chiêm nghiệm về cuộc đời: Chiều nay em ra phố về Thấy đời mình là những chuyến xe Còn đây âm vang não nề Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ … Chiều nay em ra phố về Thấy đời mình là những quán không Bàn im hơi bên ghế ngồi Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người (Nghe những tàn phai) Hình ảnh những chuyến xe vẽ lên một không gian xô bồ, nhộn nhạo với đủ lớp người và đủ chuyến xe đi về. Cuộc đời ta cũng vậy, cũng có khi hỗn loạn đủ muôn vàn ý nghĩ, muôn vàn tiếng nói riêng để hợp lại không có gì rõ ràng cả, chỉ là một mớ hỗn độn, mơ hồ. Tuy nhiên, “đám đông và sự ồn ào không phải luôn luôn là đại diện của sự sống..." (Trích: - Đò đưa 5 (1 - 2000) ). Từ là kết nối hai vế tạo nên hình ảnh đời và những chuyến xe xích lại gần nhau trong quan hệ ngang bằng. Từ đó, sự hỗn loạn và xô bồ lan đều sang hai vế làm cho chúng ta có cảm tưởng hình ảnh đó đang diễn ra trước mắt mình, và từ từ lan ra. Ngược lại với hình ảnh trên, cũng trong một bài hát nhưng đến khổ sau tác giả lại ví cuộc đời như những quán không. Quán không gợi lên sự vắng vẻ, tẻ nhạt, ế ẩm, nếu kéo dài một thời gian sẽ không trụ lại được. Ta có thể thấy hai vế so sánh được gắn kết với nhau bởi sự trống rỗng, tẻ nhạt. Và một khi quán vắng người quán sẽ không thành quán, đời trống rỗng đời sẽ không là đời. Từ đó, sự vô vị, vô định hiện lên rõ nét và trở thành nỗi ám ảnh. Hai hình so sánh tu từ trên một bên diễn tả âm thanh nhưng mơ hồ, xáo trộn và một bên diễn tả sự trống rỗng, vô vị nhưng đều tạo ra nét nghĩa không tồn tại một điều gì rõ ràng cả. Tuy luôn bị tri phối bởi nỗi ám ảnh về cái chết nhưng cũng có đôi lúc lời ca ấy ánh lên một hình ảnh tươi vui về cuộc đời:
  • 32. Đời ta có khi là lá cỏ Ngồi hát ca rất tự do … Một hôm bước chân về giữa chợ Chợt thấy vui như trẻ thơ Đời ta có khi là đốm lửa Một hôm nhóm trong vườn khuya Vườn khuya đóa hoa nào mới nở Đời tôi có ai vừa qua (Đêm thấy ta là thác đổ) Tác giả đã ví đời mình như lá cỏ bởi sức sống của lá cỏ rất bền bỉ và nó có thể mọc được ở bất cứ nơi đâu. Hơn nữa, lá cỏ mọc càng nhiều ở những nơi không có hoặc ít người sinh sống, tạo nên một khoảng không rộng lớn kèm theo sự tự do tự tại. Tác giả đã gieo vần “o” trong hai hình ảnh lá cỏ, tự do để tạo sự liên kết và vần điệu. điều đáng nói ở đây tác giả đã sử dụng nguyên âm “o” để tạo vần. Khi phát âm, các nguyên âm không bị răng, môi, lưỡi cản trở luồng hơi đi ra như các phụ âm. Chính điều đó làm cho sự tự do, tự tại trong câu hát được tăng lên. Có một khoảng thời gian Trịnh Công Sơn bị chính quyền đương thời kiểm soát gắt gao vì một số lí do tế nhị, nên hình ảnh đời ta có khi là lá cỏ/ ngồi hát ca rất tự do cho ta thấy niềm mong muốn được mọi người hiểu đúng mình và niềm khát khao được hát lên những tâm tư, tình cảm, rung động từ tận trái tim mình. Ông đã từng nói rằng: "tôi vốn viết nhạc cũng như thở vậy. Có điều khi thở tôi chọn cái không khí trong lành để cho lá phổi không than phiền và cái sự hô hấp cũng bớt đi phần gian nan. Một bài hát cũng vậy. Hát để thăng hoa đồng thời cũng để an ủi. Sản phẩm văn nghệ chỉ đẹp khi có khả năng xoá đi những nỗi giận hờn. Nó có bao giờ muốn đèo bòng một thứ khác để tự hủy diệt nó đâu..." (Trích: - Viết Và Thở - (T.C.S)). Và như thế, ông vẫn giữ cho mình được một niềm lạc quan riêng, sự ung dung tự tại riêng trong sáng tác. Đến đoạn sau, hình ảnh đốm lửa xuất hiện dù nhỏ nhoi nhưng cũng đủ le lói trong vườn khuya, có thể làm ấm hơn tâm hồn của một con người. Tuy nhỏ bé giữa mênh mông
  • 33. bóng tối, tuy có thể bị tắt lúc nào nhưng nó vẫn ánh lên một niềm tin yêu, lạc quan cho câu hát. Với cấu trúc A – tss – B này, cơ sở so sánh đã được giấu đi nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận rõ mối liên hệ giữa hai vế thông qua hai hình ảnh đầy tính chất gợi tả. Đó là những chiêm nghiệm của ông về cuộc đời, điểm cuối của cuộc đời theo phạm vi con người sẽ là điểm khởi đầu của “cuộc sống mới” – cõi vĩnh hằng. Để chỉ thời gian lâu dài, cuộc sống của thế giới thứ hai người ta thường sử dụng từ thiên thu. Đó vốn là một hình ảnh trừu tượng, nhưng dưới góc nhìn của mình Trịnh Công Sơn đã cho ta đi vào thế giới trừu tượng ấy: Về chân núi thăm nấm mồ Giữa đường trưa có tôi bơ phờ Chợt tôi thấy thiên thu là Một đường không bến bờ (Lời thiên thu gọi) Tiếng gọi thiên thu luôn ám ảnh ông, nó càng trở nên mạnh mẽ hơn khi một lần về chân núi thăm nấm mồ, con người ấy đã trở nên bơ phờ giữa đường trưa khi nghĩ về cõi vĩnh hằng. Ai tồn tại rồi cũng sẽ ra đi vĩnh viễn, từng chứng kiến nhiều cuộc chia ly lớn trong đời đã khiến ông nghĩ rằng thiên thu là một đường không bến bờ. Nó không có khởi đầu cũng không có kết thúc, cũng không loại trừ ai. Lần lượt từng người rời bỏ cõi tạm để đi vào nó – một con đường dài tít tắp và cũng thật mênh mông. Từ chợt xuất hiện chứng tỏ trước đây ông không nhận ra điều này cho tới khi về chân núi thăm nấm mồ. Nó cũng gợi nên sự thảng thốt cho câu hát. Trịnh Công Sơn đã cảm nhận cái khái niệm vô hình ấy bằng cách đem ra so sánh trực tiếp với một cái hữu hình – con đường. Tuy nhiên, con đường này tưởng chừng như tồn tại như bao con đường khác nhưng lại không có bến bờ ranh giới, không thể nhìn bằng mắt mà chỉ có thể cảm nhận. Từ là kết nối hai hình ảnh vô hình này lại với nhau tạo nên một sự ngang bằng, chính sự ngang bằng trong phép so sánh này đã khiến cho câu hát như tràn ngập sắc màu vô hình. Sự vô hạn của con đường thiên thu ấy như được mở rộng thêm ra, càng trở nên không bến bờ hơn và chạm vào lòng người tiếp nhận. Những chiêm nghiệm về thân phận của chính tác giả thông qua hình thức thể hiện này đã lan tỏa sang tâm hồn người thưởng thức, khiến họ không khỏi suy nghĩ.
  • 34. Chịu sự chi phối bởi những cuộc chia li lớn, ông càng nhận thấy sống chết trong cõi đời thường rất mong manh: Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non (Gi ọt l ệ thiên thu) Sự sống thì nhỏ nhoi, cõi chết thì rộng lớn, hai thứ tưởng chừng như tách rời nhưng thực tế lại hiện hữu cùng nhau. Trong tác phẩm Rừng Na Uy, nhà văn Murakami Haruki đã để cho nhân vật Wantanabe nói những suy nghĩ của mình về cái chết đến hai lần: “Chết không phải là đối nghịch của sống. Nó đã đang ở đây rồi, ngay bên trong tôi, nó đã luôn luôn ở đây, và không có gì có thể cho phép tôi quên được điều đó”. Sự sống và cái chết là một nên ranh giới giữa chúng cũng rất mong manh. Tuy nói những thân cỏ hèn mọc đầy núi non có sức sống mãnh liệt nhưng nó cũng không kém phần mong manh. Giữa trời đất bao la, nó trở nên nhỏ bé. Giữa thiên nhiên khắc nghiệt, nó trở nên mong manh cũng như con người ta sống nhưng không thể đoán biết ngày nào thần Chết sẽ đưa ta đi. Hình ảnh so sánh này kết hợp với câu “Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm” tạo nên sự hòa phối tương đồng về nghĩa. Thanh điệu chủ đạo trong hai câu là thanh bằng và cuối câu thường là những từ có âm vực thấp. Từ đó, câu hát như lặng xuống hơn, cái mong manh của cuộc sống càng trở nên rõ ràng và ám ảnh. Sự sống không những mong manh mà còn rất ngắn ngủi: Người đi quanh thân thế của người Một trăm năm như tiếng thở dài (Như ti ến thở dài) Tiếng thở dài vừa gợi nên một hình ảnh buồn, vừa gợi nên sự ngắn ngủi. Một trăm năm tương ứng với một đời người, nhưng lại được so sánh với số lượng một (tiếng thở dài). Chỉ qua cách so sánh số lượng thôi ta đã thấy được sự ngắn ngủi. Và càng ngắn ngủi hơn khi hình ảnh so sánh lại là một tiếng thở dài, thấm thoát trôi nhanh mà còn vương lại nỗi niềm. Hai hình ảnh đối lập nhau: một biểu trưng cho sự lâu dài, một thể hiện cho sự ngắn ngủi nhưng lại được tác giả đặt trong sự tương ứng để thấy được sự vô thường của cuộc đời.
  • 35. Có thể thấy, khi mượn so sánh tu từ để nói lên những chiêm nghiệm về thân phận, cuôc đời, Trịnh Công Sơn thường sử dụng cấu trúc A – x – tss – B (đầy đủ bốn yếu tố) và cấu trúc A – tss – B (lược cơ sở so sánh). Các cấu trúc còn lại: A – x – B, A – B, phối cấu trúc không được tác giả sử dụng. Sở dĩ như vậy vì cuộc đời, thiên thu,... vốn là những khái niệm mang tính trừu tượng, nếu sử dụng cấu trúc đầy đủ bốn yếu tố thì sẽ dễ dàng để người viết thể hiện suy nghĩ và người đọc cũng dễ dàng cảm nhận. Nếu sử dụng cấu trúc lược bỏ cơ sở so sánh, người đọc vẫn có thể hiểu được mối tương quan về ngữ nghĩa giữa hai vế so sánh nhờ vào hai hình ảnh so sánh. Khi đó, từ so sánh đóng vai trò rất quan trọng vì nó là điểm kết nối trực tiếp giữa hai vế so sánh. Tùy vào khả năng cảm nhận của mỗi người mà cơ sở so sánh có thể được phát triển lên nhiều lớp liên tưởng hay, làm giàu nghĩa cho hình ảnh so sánh. Nhưng nếu ta sử dụng cấu trúc lược bỏ từ so sánh, ta hãy thử làm một ví dụ sau: Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô (Từng ngày qua) Nếu ta lược bỏ từ so sánh, câu trên sẽ được viết lại như thế này: Đời rộng thênh im vắng tiếng rơi khô Như vậy, ví dụ trên đã không còn rõ nghĩa và cũng không còn được xếp vào câu so sánh tu từ. Có thể nói, Trịnh Công Sơn luôn bị ám ảnh bởi cái chết: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và cái chết trở thành một vấn đề lớn trong đời sống tinh thần của tôi. Có lẽ suy cho cùng từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cu ộc sống, sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất đời tôi” (Văn xuôi Trịnh Công Sơn (2004), Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ (trả lời phỏng vấn VCH), in trong “Một cõi TCS”, NXB Thuận Hóa.TTVHNNĐT. ( tr523)). Từ niềm yêu thương cuộc sống đó, ông trở nên rất nhạy cảm đối với cuộc đời. Bằng góc nhìn của mình, cuộc đời, thiên thu, sống và chết đều hiện lên vừa rõ ràng vừa mờ ảo và gợi cho người tiếp nhận nhiều cảm giác, suy ngẫm. Những hình ảnh so sánh đều được ông chọn lọc và đều toát lên
  • 36. vẻ đặc biệt rất riêng, nó lạ hơn với lối suy nghĩ chung của mọi người nhưng nó đúng. Cách lựa chọn cấu trúc so sánh tu từ hợp lí đi kèm với hình ảnh đẹp, giàu sức gợi đã tạo nên một phong cách rất riêng của ông. 3.4. So sánh tu từ thể hiện những sự vật, hi ện tượng gần gũi trong đời sống Bằng sự quan sát tinh tế và một trái tim yêu thương cuộc đời, ông đã thổi vào các sự vật, hiện tượng gần gũi trong đời sống những cảm xúc rất thật. Trong thế giới ngôn từ diệu kì của ông, mọi sự vật, hiện tượng đều có tâm tình riêng của nó. Từ những sự vật, hiện tượng thuộc thế giới tự nhiên (nắng, mưa, lá,…) cho đến những vật chất do con người tạo ra (thành phố, mặt đường,…) đều trở nên có hồn, có cảm xúc như con người thật. Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời Tôi chọn nắng đầy chọn cơn mưa tới Để lúa reo mừng tựa vẫy tay (Mỗi ngày tôi chọn một ni ềm vui) Trong giai điệu vui tươi, yêu đời, thiên nhiên xuất hiện cũng trở nên hiền hòa, tươi mát. Gió thổi liên tiếp từng cơn làm lá lúa lay động nhanh nhìn vui mắt như một người đang reo mừng. Tác giả đã lồng vào đây biện pháp tu từ nhân hóa để diễn tả nhịp độ lay động nhanh của lá. Nhìn từ xa, những chiếc lá lúa dập dờn chuyển động theo hướng gió nhìn giống như bàn tay của con người đang vẫy. Từ đó, ta có phép liên tưởng thú vị này. Hình ảnh để lúa reo mừng tựa vẫy tay được tác giả thể hiện trong cấu trúc so sánh tu từ A – tss – B. Lấy một cụm chủ vị so sánh với một cụm động từ, cả hai vế đều có những từ gợi nên hình ảnh động tạo nên cảm giác lúa vẫn đang reo mừng trước mắt, cảnh vật trở nên sinh động hơn. Trịnh Công Sơn cũng thường lồng biện pháp khác vào một vế trong so sánh tu từ của mình để sự vật trở nên có hồn hơn. Mọi vật sống trong thế giới ca từ của ông đều có những trạng thái, hành động giống như con người thực thụ: Em còn nhớ hay em đã quên Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió Lá hát như mưa suốt con đường đi Có mặt đường vàng hoa như gấm Có không gian màu áo bay lên (Em còn nhớ hay em đã quên)
  • 37. Gió thổi những chiếc lá va vào nhau tạo thành những âm thanh vui tai khiến tác giả liên tưởng lá cũng như một con người thực thụ đang cất lên tiếng hát yêu đời. Nhờ thế, chiếc lá trở nên có hồn hơn. Tác giả đã đặt biện pháp nhân hóa vào hình ảnh lá hát, từ đó so sánh chúng với mưa. Lá hát như mưa suốt con đường đi, không chỉ dừng lại ở việc gợi hình (lá hát), tác giả còn đem những âm thanh vui tai ấy so sánh với tiếng mưa rơi suốt con đường đi. Đến đây, ta có thể hiểu theo nghĩa những chiếc lá va vào nhau tạo thành âm thanh râm ran như tiếng mưa rơi nhẹ, hay hình ảnh những chiếc lá rơi giống như làn mưa. Sài Gòn thường trồng rất nhiều me hai bên đường, bởi thế ta có bài hát Con đường có lá me bay. Những chiếc lá me li ti lách tách va vào nhau, lách tách rơi nhẹ trên con đường khiến tác giả liên tưởng đến những giọt mưa. Dù hiểu theo giả thiết nào thì cấu trúc so sánh tu từ này cũng đã gợi nên một không gian lãng mạn, yên bình giữa lòng thành phố xô bồ. Hình ảnh có mặt đường vàng hoa như gấm cũng được tác giả lồng vào đó biện pháp tu từ khác. Trước tiên, từ vàng hoa đã được tác giả đảo ngữ, ta có thể viết lại như sau: Có mặt đường hoa vàng như gấm Nếu viết theo đúng trật tự như thế thì hình ảnh hoa vàng không tạo được điểm nhấn cho câu hát bằng việc đảo trật tự của nó. Sắc vàng được nhấn mạnh hơn, thu hút sự chú ý của người tiếp nhận. Điều đáng nói hơn cả, ngay trong hình ảnh này đã xuất hiện biện pháp tu từ ẩn dụ. Nếu ta nói con đường thì nó bao gồm cả phần lòng đường cho phương tiện giao thông di chuyển và cả vỉa hè giành cho người đi bộ. Ở đó sẽ có những bồn đất để trồng cây, hình ảnh hoa vàng xuất hiện trên con đường là điều hợp lí. Tuy nhiên, tác giả đang nói đến mặt đường, hơn nữa lại là mặt đường của một thành phố phồn hoa – Sài Gòn. Tất nhiên, mặt đường ấy phải phải tương xứng với sự phát triển văn minh của loài người, không thể là những con đường đất, nó phải được hình thành từ xi măng, bê tông, nhựa đường,… Vì thế, hình ảnh những bông hoa màu vàng xuất hiện trên đó là điều không thể. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn không bao giờ sử dụng hình ảnh một cách dư thừa mà luôn có dụng ý. Hình ảnh hoa vàng ở đây chính là nắng. Nắng chiếu trên trên những hàng cây làm tán cây đổ bóng xuống mặt đường, nắng xuyên qua từng kẽ lá tạo thành những đốm vàng nhỏ trên mặt đường. Những chỗ không có bóng cây, nắng đổ vàng rực rỡ trên mặt đường. Hình ảnh những đốm nắng li ti và những mảng vàng rực rỡ lấp loáng trên mặt đường khiến tác giả liên tưởng đến những bông hoa. Nhạc sĩ Vũ Văn Hà cũng từng gọi nắng là hoa:
  • 38. Và ngày mới nắng buông hoa cười Rồi lại thấy bóng em tóc trần Nụ cười xinh em như chiều gió hương Lòng lại thấy nắng như đang cười Chợt như ai đó đến bên cùng sánh đôi (Hoa nắng – Vũ Văn Hà) Trịnh Công Sơn không dừng lại ở việc miêu tả nắng là hoa, mà từ một liên tưởng này lại dẫn sang một liên tưởng khác. Ẩn dụ nắng là những đóa hoa vàng lấp lánh trên mặt đường, từ đó so sánh nó với gấm. Gấm vốn dĩ là một loại vải, chất liệu trong may mặc được con người dệt thành. Nó có nhiều màu sắc và có rất nhiều họa tiết hoa lá, đó là điểm tương đồng giữa mặt đường đầy hoa nắng và màu sắc, họa tiết tươi đẹp của gấm. Việc sử dụng cùng một lúc hai hay nhiều biện pháp tu từ lồng vào nhau tạo cho hình ảnh nhiều lớp liên tưởng phong phú, độc đáo. Trong câu này, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ, kết hợp với hình ảnh ẩn dụ hoa nắng được đặt trong một cấu trúc so sánh tu từ. Tác giả đã liên tiếp đưa người đọc đi từ thế giới tưởng tưởng này sang thế giới tưởng tượng khác mà hình ảnh nào cũng đẹp, cũng trữ tình tạo hiệu ứng lan tỏa cho câu hát. So sánh tu từ trong ca từ Trịnh Công Sơn vì thế cũng trở nên khác biệt. Nếu như nắng rực rỡ được ví như gấm hoa thì mưa đi vào ca từ của ông cũng trở nên dạt dào cảm xúc: Mưa mùa mưa Sài Gòn mưa Em đứng bên hiên nhà chờ mưa qua Mưa xa mờ mịt áo em phai nhòa Không gian còn lại chút hương nhân từ Mưa như từng giọt rượu hờ Đêm trong thành phố ai chờ chờ ai Mưa thưa tựa áo lụa trời Ôm quanh da thịt chân người người qua (Mưa mùa hạ)