1. Phan Đức Xuyên
GIẢI QUYẾT BÀI TẬP LUẬT LAO ĐỘNG.
Chương IV: Thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi.
Tình huống 2:
Ông A là người làm việc theo hợp đồng lao động tại Doanh nghiệp Z.Ông có quá
trình công tác như sau:
- Từ 1/1/1980 đến 31/12/1992 : làm việc tại Xí nghiệp quốc doanh X;
- Từ 1/1/1992 đến 31/12/1999 : làm việc tại Doanh nghiệp tư nhân Y;
- Từ 1/1/2000 trở đi : làm việc tại Doanh nghiệp Z.
Hãy xác định số ngày nghỉ phép của ông A trong năm 2020.
Biết rằng:
- Ông A làm việc trong điều kiện lao động bình thường;
- Trong năm 2020, ông đã nghỉ ốm 4 tháng.
Bài làm
Trả lời: Để xác định số ngày nghỉ phép của ông A trong năm 2020, ta cần biết số
ngày nghỉ phép của ông từ năm 2000 đến năm 2020.
Theo quy định của pháp luật lao động, số ngày nghỉ phép hàng năm của người lao
động là 12 ngày trong trường hợp đã làm việc đủ 12 tháng hoặc làm việc đủ 12 tháng trong
kỳ tính nghỉ phép (theo điều 114 Bộ luật Lao động 2012).
Vì vậy, số ngày phép của ông A tính từ năm 2000 đến năm 2020 là 12 x 20 = 240
ngày.
Tuy nhiên, ông A đã nghỉ ốm 4 tháng trong năm 2020. 1 tháng có 30 ngày nên số
ngày nghỉ ốm của ông A là 4 x 30 = 120 ngày.
Vậy số ngày nghỉ phép của ông A trong năm 2020 là 240 - 120 = 120 ngày.
Cho nên, khi tính số ngày nghỉ phép của ông A trong năm 2020:
Ta chỉ cần tính số ngày nghỉ phép ông A được hưởng tại Doanh nghiệp Z, vì đó là
nơi ông A hiện đang làm việc và được áp dụng chế độ nghỉ phép theo quy định của Luật
lao động Việt Nam. Số ngày nghỉ phép tại Xí nghiệp quốc doanh X và Doanh nghiệp tư
nhân Y không ảnh hưởng đến số ngày nghỉ phép của ông A trong năm 2020.
Chương V: Tiền lương
Tình huống 3:
Ông Bùi Quang là chuyên viên công tác tại Công ty TNHH G (viết tắt là Công ty
G) theo HĐLĐ số 30VP-HĐLĐ ngày 18/6/2012. Ban điều hành Công ty G gồm hai thành
viên là ông Lee Dong C (đại diện bên nước ngoài) được Hội đồng thành viên bổ nhiệm làm
Tổng giám đốc; ông Bùi Quang (đại diện bên Việt Nam) được Hội đồng thành viên bổ
nhiệm làm Phó tổng giám đốc. Ngày 17/02/2014 Hội đồng thành viên Công ty G ra Nghị
quyết số 07/HĐTV..., thống nhất tại mục 4 ghi: “Lương, phụ cấp và các chế độ của Phó
tổng giám đốc như sau: mức lương 2.850 USD/tháng; tiền thưởng 500USD/tháng; hoàn
thành công việc được giao 300USD/tháng; tiền thưởng quí (3 tháng) 1.500 USD/quí,...”.
Ông Lee Dong C tự ý ban hành nhiều văn bản, chỉ thị không trả lương cho ông Bùi
Quang từ tháng 9/2014. Đồng thời ông Lee Dong C - Tổng giám đốc buộc ông Quang là
Phó Tổng giám đốc phải ký HĐLĐ với Tổng giám đốc và chỉ thị thu hồi tiền lương của
2. Phan Đức Xuyên
ông Quang đã nhận từ tháng 3/2014 đến tháng 8/2014. Ông Quang khởi kiện yêu cầu Công
ty G thực hiện việc trả lương từ tháng 9/2014 đến ngày xét xử sơ thẩm (20/5/2015) và các
khoản tiền thưởng tháng, quý.
Đại diện bị đơn đã xác nhận từ khi Công ty hoạt động cho đến nay Hội đồng thành
viên chưa có tổ chức cuộc họp hoặc lập biên bản đánh giá về việc hoàn thành tốt công việc
của Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, nhưng hàng năm Tổng giám đốc, Phó tổng giám
đốc (trừ ông Quang) cũng vẫn được nhận đầy đủ các khoản thưởng hàng tháng, quý và Tết
Dương lịch; Trước khi xảy ra vụ việc, ông Quang vẫn làm việc bình thường.
Tại Điều 7, 8, 9 Điều lệ Công ty quy định: “Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc do
Hội đồng thành viên bổ nhiệm và bãi nhiệm. Tiền thù lao, phúc lợi và các phụ cấp khác
của Tổng giám đốc; Phó tổng giám đốc cùng các điều khoản và điều kiện lao động khác
do Hội đồng thành viên quy định phù hợp với luật pháp Việt Nam”. Hội đồng thành viên
và Ban điều hành của Công ty chưa có bất kỳ Quyết định nào việc thay đổi Chế độ tiền
lương, thưởng, phụ cấp và các chế độ khác của mọi người lao động trong Công ty.
Từ khi Công ty không trả tiền lương, thưởng cho ông Quang đến nay thì Phó Tổng
giám đốc người nước ngoài vẫn được chi trả tiền thưởng bình thường”; tình hình kinh
doanh của Công ty K rất tốt.
Hỏi, theo quy định hiện hành:
1. Yêu cầu của ông Quang về việc buộc Công ty G thực hiện việc trả lương từ
tháng 9/2014 đến ngày xét xử sơ thẩm (20/5/2015) có được chấp nhận hay không? Vì
sao?
2. Yêu cầu trả các khoản tiền thưởng tháng, quý của ông Quang được chấp
nhậnhay không? Vì sao?
Bài làm
1. Yêu cầu của ông Quang về việc buộc Công ty G thực hiện việc trả lương từ
tháng 9/2014 đến ngày xét xử sơ thẩm (20/5/2015) có được chấp nhận hay không? Vì
sao?
Yêu cầu của ông Quang về việc buộc Công ty G thực hiện việc trả lương từ tháng
9/2014 đến ngày xét xử sơ thẩm (20/5/2015) được chấp nhận:
Xét thấy, theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 11 hợp đồng liên doanh sửa đổi
năm 2010 và tại khoản 1 Điều 7 và Điều 9 Điều lệ sửa đổi năm 2010 của Công ty thì “tiền
thù lao, phúc lợi và cả phụ cấp khác của Phó tổng giám đốc Bùi Quang T cùng các điều
khoản, điều kiện lao động khác sẽ do Hội đồng thành viên quy định phù hợp với pháp luật
Việt Nam".
Như vậy, chỉ có Hội đồng thành viên của Công ty mới có quyền quyết định về lương
cũng như các vấn để khác về lao động của Phó tổng giám đốc Bùi Quang T. Nếu ông T vi
phạm nội quy lao động của Công ty thì Tổng giám đốc chỉ có thể kiến nghị đến Hội đồng
thành viên của Công ty để Hội đồng thành viên quyết định. Việc Tổng giám đốc Công ty
chi thị cho bảo vệ chấm công ông T Phó Tổng giám đốc để tính ra thời gian ông T vắng
mặt tạiCông ty làm căn cứ trừ tiền lương từ tháng 9/2014 đến ngày 15/7/2015 và yêu cầu
trả lạitiền lương đã nhận từ ngày 01/3/2014 đến 31/8/2014 là không có căn cứ, không đúng
thẩm quyền, trái quy định tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật lao động năm 2019.
3. Phan Đức Xuyên
Căn cứ theo khoản 2 và khoản Điều 97 BLLĐ 2019 quy định về Kỳ hạn trả lương:
"2. Người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa
tháng một lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ẩn định vào một
thời điểm có tính chu kỳ. 4. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động
đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm
quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền
bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo
lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động
mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương."Do trước khi
xảy ra vụ việc, ông Quang vẫn làm việc bình thường, ngoài ra, không ghi nhận bất kỳ
trưởng hợp nào ông Quang tự ý nghỉ việc hay vi phạm quy định của công ty, cho nên ông
Quang vẫn được hưởng tiền lương theo đúng quy định của khoản 2.
Vậy, yêu cầu của ông Quang về việc buộc Công ty G thực hiện việc trả lương từ
tháng 9/2014 đến ngày xét xử sơ thẩm (20/5/2015) được chấp nhận.
2. Yêu cầu trả các khoản tiền thưởng tháng, quý của ông Quang được chấp
nhận hay không? Vì sao?
Yêu cầu trả các khoản tiền thưởng tháng, quý của ông Quang được chấp nhận. Theo
Khoản 2 Điều 104 BLLĐ 2019: “Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định
và công bố công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người
lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở”. Hội đồng thành
viên Công ty G ra Nghị quyết số 07/HĐTV..., thống nhất tại mục 4 về các khoản lương,
thưởng, phụ cấp.
Và tại Điều 7, 8, 9 Điều lệ Công Ty cũng quy định “Tiền thù lao, phúc lợi và các
phụ cấp khác của Tổng giám đốc; Phó tổng giám đốc cùng các điều khoản và điều kiện
lao động khác do Hội đồng thành viên quy định phù hợp với luật pháp Việt Nam”. Đồng
thời cũng nói rõ “ Hội đồng thành viên và Ban điều hành của Công ty chưa có bất kỳ Quyết
định nào việc thay đổi Chế độ tiền lương, thưởng, phụ cấpvà các chế độ khác của mọi
người lao động trong Công ty”.
Trong tình huống trên cũng đã nêu rõ rằng từ khi công ty không trả tiền lương,
thưởngcho ông Quang đến nay thì Phó Tổng giám đốc người nước ngoài vẫn được chi trả
tiền thưởng bình thường, và tình hình kinh doanh của Công ty G rất tốt.
Vì ông Lee Dong C tự ý ban hành văn bản, chỉ thị không trả lương cho ông Bùi
Quang mà Hội đồng thành viên và Ban điều hành Công ty chưa hề có bất kỳ Quyết định
nào về việc thay đổi chế độ lương, thưởng, phụ cấp của mọi người lao động trong Công ty,
và cũng không có dẫn chứng nào nói đến lý do ông Quang không được nhận các khoản
tiền thưởng. Trước khi xảy ra vụ việc, ông Quang vẫn làm việc bình thường. Biết rằng từ
khi Công ty hoạt động cho đến nay Hội đồng thành viên chưa có tổ chức cuộc họp hoặc
lập biên bản đánh giá về việc hoàn thành tốt công việc của Tổng giám đốc, Phó tổng giám
đốc và hội đồng thành viên nắm được việc chi trả tiền thưởng cho Phó tổng giám đốc nên
có thể nhận định rằng Phó tổng giám đốc đã hoàn thành tốt công việc. Nên việc Công ty
vẫn trả tiền lương, thưởng cho Phó tổng giám đốc người nước ngoài mà không trả cho ông
4. Phan Đức Xuyên
Bùi Quang là hành vi trái với Nghị quyết, Điều lệ Công ty, trái với quy định của
phápluật Việt Nam.
Vì vậy, ông Quang yêu cầu trả các khoản tiền thưởng tháng, quý là được chấp nhận.