SlideShare a Scribd company logo
1 of 3
Vào thời đại phong kiến, nhiều ngành võ thuật chiến đấu thịnh hành trong giới Samurai
ở Nhật, chẳng hạn Cung đạo, Kiếm đạo, thuật cưỡi ngựa, cách dùng giáo mác và những
món binh khí khác. Những ngành võ thuật này không nhiều thì ít cũng đã quen thuộc
đối với các nước Tây phương, được người Tây phương tập luyện và sử dụng rất tinh
phục, tuy rằng phương pháp và hình thức không giống hẳn ở Nhật. Nhưng sự khéo léo
đặc biệt đạt thắng lợi bằng cách khuất phục trước sức mạnh của địch thủ thì thật là
môn võ đặc thù của Nhật Bản, không hề có một môn võ nào tương tự như thế ở Tây
phương được biết đến, hay ít nhất được người ta tập luyện và sử dụng
Dù người ta có để ý khảo cứu các ngành võ thuật thời xưa ở Âu Châu và tìm một điểm
tương đồng với môn Jujitsu Nhật Bản, cũng không thể nào tìm thấy. Có người nói rằng
môn đánh vật có thể đem so sánh với môn Jujitsu, nhưng hai môn thật ra khác nhau
một trời một vực ; môn đánh vật nhắm chiến thắng địch thủ bằng sức mạnh của chính
mình trong khi Jujitsu chiến thắng bằng cách khuất phục trước sức mạnh của địch thủ.
Thật vậy, chữ Jujitsu có nghĩa là Nhu thuật, dùng sự khéo léo, uyển chuyển, dịu dàng
của cơ thể để chế ngự sức mạnh. Jujitsu là cái tên được biết nhiều nhất ở Nhật để nói
đến môn võ ấy, tuy nhiên những tên khác như Yawura, Taijitsu, Hakuda, Kogusoku,
Torite và bao nhiêu tên khác đôi khi cũng được dùng để chỉ những ngành võ thuật
tương tự.
KHÔNG PHẢI VÕ TRUNG HOA
Mặc dù nguồn gốc đích thực của môn Jujistu không rõ ràng, và không có một ngày
tháng nào nhất định được chứng minh là ngày đầu tiên xuất hiện của môn võ, nhưng
chắc chắn đó là một môn võ thuần túy Nhật Bản và hoàn toàn không có chuyện xuất
phát từ Trung Hoa như một số người đã tưởng. Biết bao nhiêu người, ngay cả một vài
người thận trọng, cũng đã cho rằng một nhà sư Trung Hoa, tên là Trần Nguyên Tán,
mang môn Kempo, môn “đá và đánh” tới Nhật Bản dạy cho ba chàng Hiệp sĩ lang thang
tên là Fukuno, Isogai, và Miura. Những người này, sau khi chính mình nghiên cứu kỹ
lưỡng, lập ra ba chi phái Jujitsu độc lập với nhau. Thật ra, cũng có nhà sư Trung Hoa
nói trên trốn thoát những hỗn loạn xảy ra vào cuối triều Minh bên Trung Hoa đã đến
Nhật khoảng năm 1659 (năm thứ hai đời Manji), năm triều đại này kết thúc. Trần
Nguyên Tán nổi tiếng mấy năm ở tỉnh Owari nơi ông thường làm thơ với một nhà thơ
người Nhật, rồi qua đời năm 1671 (năm thứ 11 đời Kanbun), cùng trong tỉnh đó. Mộ
thạch của ông nằm trong nghĩa địa Kenchuj tại Nagoya. Không có gì chắc chắn là ông
biết ít nhiều về môn Kempo và kích thích sự tiến bộ của môn Jujitsu Nhật Bản. Lại càng
hoàn toàn không thể tin được rằng ông là người đầu tiên đem môn Jujitsu vào Nhật
Bản, bởi vì môn Kempo của Trung Hoa,được người ta nói là do ông du nhập, hoàn toàn
khác biệtvới môn Jujitsu Nhật Bản và bởi vì một vài môn giống môn Jujitsu có thể tìm
thấy ở Nhật trước thời Trần Nguyên Tán. Hơn nữa, có thể vì nền văn minh Trung Hoa
lúc bấy giờ được ưa chuộng như nền văn minh Tây phương ngày nay, cho nên nguồn
gốc của môn Jujitsu được gán cho Trung Hoa với mục đích dễ phổ biến trong quần
chúng. Ta có thể thấy nhiều trường hợp tương tự trong những môn võ và những sáng
tạo khác cũng bị gán cho cái nguồn gốc Trung Hoa, mặc dù chúng hoàn toàn của Nhật
Bản trong sự phát sinh cùng phát triển.
Các sách vở có liên quan đến lịch sử môn Jujitsu rất hiếm và không xác thực. Mặc dầu
có nhiều bản thảo của các chi phái khác nhau của môn võ, chúng bị các võ sư dấu kín
và chỉ cho các môn sinh có trình độ đặc biệt cao xem mà thôi với lời thề sẽ không bao
giờ tiết lộ những điều ghi chép trong đó. Những thủ bản ấy không giá trị lắm như người
ta thường tưởng, bởi vì chúng thường mâu thuẫn nhau và nhiều khi lố bịch nữa dù rằng
khảo cứu chúng kỹ lưỡng đem lại rất nhiều thích thú và làm sáng tỏ phần nào lịch sử
môn võ.
Hiện giờ, người ta không thể kể hết các chi phái (Ryu) của môn Jujitsu, và chỉ có thể đề
cập đến một ít chi phái được coi là siêu việt nhất. Trong số một trăm chi phái ra đời,
phái cổ nhất là Taken Ouchi Riu, có người nói rằng do Takenou Hisamori, một người ở
Sakushu, sáng lập năm 1532 (năm đầu triều đại Tenbun). Mặc dù con số này không
đáng tin cậy lắm và mặc dù chi phái này dạy môn Kogusoku, hay là thuật dùng tay bắt
lấy địch thủ, có đôi phần khác biệt với môn Jujitsu thuần chất, người ta cũng không thể
nghi ngờ về điểm nó được thiết lập một thời gian trước khi Trần Nguyên Tán đến Nhật
và nó có thể được xem như chi phái đầu tiên dạy một môn võ tương tự môn Jujitsu.
Tiếp đến là một chi phái gọi là Kito-Ryu, do ông Fukuno Shichiro-Emon, quê quán ở
Tamba, sáng lập vào khoảng giữa thế kỷ 17 (Kanyei). Liên quan mật thiết với chi phái
này là chi phái Jikishin Ryu, sáng Tổ là ông Terada Kan Emon, quê ở Unshu, người đồng
thời với Fukuno. Có nhiều mâu thuẫn về sự liên hệ giữa hai người này. Một vài bản thảo
viết rằng Fukuno là sư phụ của Terada, trong khi những tài liệu khác bảo ngược lại. Mặc
dù không thể quyết định về điểm mâu thuẫn này, chúng ta cũng có thể quả quyết rằng
cả hai người, Fukuno và Terada, sống vào giữa thế kỷ 17, có liên hệ mật thiết với nhau,
và đã lập ra hai chi phái Jujitsu khác biệt, mấy năm trước thời Trần Nguyên Tán. Có thể
họ đã thấy và nghe nhà sư này, và nhờ đó biết ít nhiều về môn Kempo của Trung Hoa.
Dù sao đi nữa, hai phái này vẫn được coi là những chi phái cổ nhất của môn Jujitsu
chính thống. Chi phái Kiushin Ryu được thiết lập bởi InugamiNagakatsu, quê ở Omi.
Mặc dù thời gian sáng lập của nó không mấy chắc chắn, nhưng có một vài lý do khiến
ta tin rằng chi phái ấy lại là một nhánh của chi phái Kito Ryu nói trên. Inugami Gunpei,
cháu của vị sáng Tổ, công phu trác tuyệt đến nỗi ông thường được xem là vị sáng Tổ
đích thực của môn phái này. Chi phái Sekiguchi Ryu, do Sekiguchi Jushin thiết lập, và
chi phái Shibukawa Ryu, do Shibukawa Bangoro, là hai chi phái nổi tiếng khác. Hai chi
phái cũng có liên hệ với nhau vì vị sáng Tổ của hai phái sau thụ giáo người con của vị
sáng Tổ hai phái trước. Đời thứ chín của chi phái này và đời thứ tám của chi phái kia
hiện nay dạy Jujitsu tại Đông Kinh.
Chi phái Yoshin Ryu hay Miura Ryu và chi phái Tenjin Shinyo Ryu cũng là những chi
phái tuyệt luân. Đây là hai chi phái phổ thông nhất nước Nhật, được truyền bá rộng rãi
khắp xứ, bởi vì phương pháp truyền dạy của họ rất đơn giản và bình dân, và bởi vì hai
nhân vật nổi tiếng nhất thuộc hai chi phái này sinh trưởng tại Đông Kinh cùng lúc với
cuộc Cách mạng cuối cùng, trong khi những chi phái khác ẩn dật trong vòng mấy tỉnh,
mặc dầu những điều họ đem ra truyền dạy rất hay. Totsuko Hikosuke, thuộc chi phái
Yoshin Ryu, là một trong những khuôn mặt nổi danh nhất có liên hệ đến môn Jujitsu.
Một bậc thầy danh tiếng khác quen thuộc nhất và được thế hệ hiện tại nhớ đến nhất là
ông Iso Mata-Emon. Đầu tiên, ông thụ giáo cho phái Yoshin Ryu và thiết lập chi phái
độc lập Tanjin Shinyo Ryu tại Otamagaike, Đông Kinh. Danh tiếng của ông vang dội
khắp xứ và ông được xem là người tài giỏi nhất môn phái đã được đào tạo từ trước đến
giờ. Có điều lạ lùng là hầu hết những chi phái này không phát sinh từ phía đông cũng
như phía tây, mà là từ trung phần Nhật Bản…
Các đòn thế của môn Jujitsu nói chung thường rất hiểm ác, những đòn tấn công hoặc
phản công quyết nhắm đến việc giết địch thủ trong nháy mắc, hoặc làm gãy tay, gãy
chân, đui mù, á khẩu, tê liệt tàn phế cả cuộc đời. Một số các đòn của Jujitsu thật ra
cũng bắt nguồn từ các môn quyền thuật Trung Hoa, Thiếu Lâm, Võ Đang và Thái
CựcQuyền.
- Jujitsu – Nhu thuật – gồm những loại đòn ném, vật, khóa chân, khóa tay, khóa cổ,
siết họng và các đòn về quan tiết (các khớp xương).
Tất cả những đòn này đều căn cứ trên hai nguyên lý sau đây:
1. Nhượng bộ sức mạnh để thắng sức mạnh bằng cách lợi dụng đòn của đối phương.
2. Tạo cho địch cái thế mất thăng bằng để quật ngã địch.

More Related Content

Viewers also liked

Aquis Search Presentation
Aquis Search PresentationAquis Search Presentation
Aquis Search PresentationJoanna Wong
 
Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ
Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ
Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ 1lykspartis
 
Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.
Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.
Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.Action
 
η δυναμη του ερωτα
η δυναμη του ερωταη δυναμη του ερωτα
η δυναμη του ερωτα4lykeiotrip
 
Προικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄Γυμνασίου
Προικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄ΓυμνασίουΠροικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄Γυμνασίου
Προικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄ΓυμνασίουΕύα Ζαρκογιάννη
 

Viewers also liked (9)

Aquis Search Presentation
Aquis Search PresentationAquis Search Presentation
Aquis Search Presentation
 
Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ
Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ
Η ΔΥΝΑΜΗ ΤΟΥ ΕΡΩΤΑ
 
Vashe User manual
Vashe User manualVashe User manual
Vashe User manual
 
Programma synedriou
Programma synedriouProgramma synedriou
Programma synedriou
 
Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.
Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.
Todo lo que un gerente debe saber mercadeo digital.
 
η δυναμη του ερωτα
η δυναμη του ερωταη δυναμη του ερωτα
η δυναμη του ερωτα
 
μεθωνη
μεθωνημεθωνη
μεθωνη
 
ροδος
ροδοςροδος
ροδος
 
Προικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄Γυμνασίου
Προικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄ΓυμνασίουΠροικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄Γυμνασίου
Προικοσύμφωνα - Διαθεματικές εργασίες Ιστορία Γ΄Γυμνασίου
 

Nhu thuật jujitsu

  • 1. Vào thời đại phong kiến, nhiều ngành võ thuật chiến đấu thịnh hành trong giới Samurai ở Nhật, chẳng hạn Cung đạo, Kiếm đạo, thuật cưỡi ngựa, cách dùng giáo mác và những món binh khí khác. Những ngành võ thuật này không nhiều thì ít cũng đã quen thuộc đối với các nước Tây phương, được người Tây phương tập luyện và sử dụng rất tinh phục, tuy rằng phương pháp và hình thức không giống hẳn ở Nhật. Nhưng sự khéo léo đặc biệt đạt thắng lợi bằng cách khuất phục trước sức mạnh của địch thủ thì thật là môn võ đặc thù của Nhật Bản, không hề có một môn võ nào tương tự như thế ở Tây phương được biết đến, hay ít nhất được người ta tập luyện và sử dụng Dù người ta có để ý khảo cứu các ngành võ thuật thời xưa ở Âu Châu và tìm một điểm tương đồng với môn Jujitsu Nhật Bản, cũng không thể nào tìm thấy. Có người nói rằng môn đánh vật có thể đem so sánh với môn Jujitsu, nhưng hai môn thật ra khác nhau một trời một vực ; môn đánh vật nhắm chiến thắng địch thủ bằng sức mạnh của chính mình trong khi Jujitsu chiến thắng bằng cách khuất phục trước sức mạnh của địch thủ. Thật vậy, chữ Jujitsu có nghĩa là Nhu thuật, dùng sự khéo léo, uyển chuyển, dịu dàng của cơ thể để chế ngự sức mạnh. Jujitsu là cái tên được biết nhiều nhất ở Nhật để nói đến môn võ ấy, tuy nhiên những tên khác như Yawura, Taijitsu, Hakuda, Kogusoku, Torite và bao nhiêu tên khác đôi khi cũng được dùng để chỉ những ngành võ thuật tương tự. KHÔNG PHẢI VÕ TRUNG HOA Mặc dù nguồn gốc đích thực của môn Jujistu không rõ ràng, và không có một ngày tháng nào nhất định được chứng minh là ngày đầu tiên xuất hiện của môn võ, nhưng chắc chắn đó là một môn võ thuần túy Nhật Bản và hoàn toàn không có chuyện xuất phát từ Trung Hoa như một số người đã tưởng. Biết bao nhiêu người, ngay cả một vài người thận trọng, cũng đã cho rằng một nhà sư Trung Hoa, tên là Trần Nguyên Tán, mang môn Kempo, môn “đá và đánh” tới Nhật Bản dạy cho ba chàng Hiệp sĩ lang thang tên là Fukuno, Isogai, và Miura. Những người này, sau khi chính mình nghiên cứu kỹ lưỡng, lập ra ba chi phái Jujitsu độc lập với nhau. Thật ra, cũng có nhà sư Trung Hoa nói trên trốn thoát những hỗn loạn xảy ra vào cuối triều Minh bên Trung Hoa đã đến Nhật khoảng năm 1659 (năm thứ hai đời Manji), năm triều đại này kết thúc. Trần Nguyên Tán nổi tiếng mấy năm ở tỉnh Owari nơi ông thường làm thơ với một nhà thơ người Nhật, rồi qua đời năm 1671 (năm thứ 11 đời Kanbun), cùng trong tỉnh đó. Mộ thạch của ông nằm trong nghĩa địa Kenchuj tại Nagoya. Không có gì chắc chắn là ông biết ít nhiều về môn Kempo và kích thích sự tiến bộ của môn Jujitsu Nhật Bản. Lại càng hoàn toàn không thể tin được rằng ông là người đầu tiên đem môn Jujitsu vào Nhật Bản, bởi vì môn Kempo của Trung Hoa,được người ta nói là do ông du nhập, hoàn toàn khác biệtvới môn Jujitsu Nhật Bản và bởi vì một vài môn giống môn Jujitsu có thể tìm thấy ở Nhật trước thời Trần Nguyên Tán. Hơn nữa, có thể vì nền văn minh Trung Hoa lúc bấy giờ được ưa chuộng như nền văn minh Tây phương ngày nay, cho nên nguồn
  • 2. gốc của môn Jujitsu được gán cho Trung Hoa với mục đích dễ phổ biến trong quần chúng. Ta có thể thấy nhiều trường hợp tương tự trong những môn võ và những sáng tạo khác cũng bị gán cho cái nguồn gốc Trung Hoa, mặc dù chúng hoàn toàn của Nhật Bản trong sự phát sinh cùng phát triển. Các sách vở có liên quan đến lịch sử môn Jujitsu rất hiếm và không xác thực. Mặc dầu có nhiều bản thảo của các chi phái khác nhau của môn võ, chúng bị các võ sư dấu kín và chỉ cho các môn sinh có trình độ đặc biệt cao xem mà thôi với lời thề sẽ không bao giờ tiết lộ những điều ghi chép trong đó. Những thủ bản ấy không giá trị lắm như người ta thường tưởng, bởi vì chúng thường mâu thuẫn nhau và nhiều khi lố bịch nữa dù rằng khảo cứu chúng kỹ lưỡng đem lại rất nhiều thích thú và làm sáng tỏ phần nào lịch sử môn võ. Hiện giờ, người ta không thể kể hết các chi phái (Ryu) của môn Jujitsu, và chỉ có thể đề cập đến một ít chi phái được coi là siêu việt nhất. Trong số một trăm chi phái ra đời, phái cổ nhất là Taken Ouchi Riu, có người nói rằng do Takenou Hisamori, một người ở Sakushu, sáng lập năm 1532 (năm đầu triều đại Tenbun). Mặc dù con số này không đáng tin cậy lắm và mặc dù chi phái này dạy môn Kogusoku, hay là thuật dùng tay bắt lấy địch thủ, có đôi phần khác biệt với môn Jujitsu thuần chất, người ta cũng không thể nghi ngờ về điểm nó được thiết lập một thời gian trước khi Trần Nguyên Tán đến Nhật và nó có thể được xem như chi phái đầu tiên dạy một môn võ tương tự môn Jujitsu. Tiếp đến là một chi phái gọi là Kito-Ryu, do ông Fukuno Shichiro-Emon, quê quán ở Tamba, sáng lập vào khoảng giữa thế kỷ 17 (Kanyei). Liên quan mật thiết với chi phái này là chi phái Jikishin Ryu, sáng Tổ là ông Terada Kan Emon, quê ở Unshu, người đồng thời với Fukuno. Có nhiều mâu thuẫn về sự liên hệ giữa hai người này. Một vài bản thảo viết rằng Fukuno là sư phụ của Terada, trong khi những tài liệu khác bảo ngược lại. Mặc dù không thể quyết định về điểm mâu thuẫn này, chúng ta cũng có thể quả quyết rằng cả hai người, Fukuno và Terada, sống vào giữa thế kỷ 17, có liên hệ mật thiết với nhau, và đã lập ra hai chi phái Jujitsu khác biệt, mấy năm trước thời Trần Nguyên Tán. Có thể họ đã thấy và nghe nhà sư này, và nhờ đó biết ít nhiều về môn Kempo của Trung Hoa. Dù sao đi nữa, hai phái này vẫn được coi là những chi phái cổ nhất của môn Jujitsu chính thống. Chi phái Kiushin Ryu được thiết lập bởi InugamiNagakatsu, quê ở Omi. Mặc dù thời gian sáng lập của nó không mấy chắc chắn, nhưng có một vài lý do khiến ta tin rằng chi phái ấy lại là một nhánh của chi phái Kito Ryu nói trên. Inugami Gunpei, cháu của vị sáng Tổ, công phu trác tuyệt đến nỗi ông thường được xem là vị sáng Tổ đích thực của môn phái này. Chi phái Sekiguchi Ryu, do Sekiguchi Jushin thiết lập, và chi phái Shibukawa Ryu, do Shibukawa Bangoro, là hai chi phái nổi tiếng khác. Hai chi phái cũng có liên hệ với nhau vì vị sáng Tổ của hai phái sau thụ giáo người con của vị sáng Tổ hai phái trước. Đời thứ chín của chi phái này và đời thứ tám của chi phái kia hiện nay dạy Jujitsu tại Đông Kinh.
  • 3. Chi phái Yoshin Ryu hay Miura Ryu và chi phái Tenjin Shinyo Ryu cũng là những chi phái tuyệt luân. Đây là hai chi phái phổ thông nhất nước Nhật, được truyền bá rộng rãi khắp xứ, bởi vì phương pháp truyền dạy của họ rất đơn giản và bình dân, và bởi vì hai nhân vật nổi tiếng nhất thuộc hai chi phái này sinh trưởng tại Đông Kinh cùng lúc với cuộc Cách mạng cuối cùng, trong khi những chi phái khác ẩn dật trong vòng mấy tỉnh, mặc dầu những điều họ đem ra truyền dạy rất hay. Totsuko Hikosuke, thuộc chi phái Yoshin Ryu, là một trong những khuôn mặt nổi danh nhất có liên hệ đến môn Jujitsu. Một bậc thầy danh tiếng khác quen thuộc nhất và được thế hệ hiện tại nhớ đến nhất là ông Iso Mata-Emon. Đầu tiên, ông thụ giáo cho phái Yoshin Ryu và thiết lập chi phái độc lập Tanjin Shinyo Ryu tại Otamagaike, Đông Kinh. Danh tiếng của ông vang dội khắp xứ và ông được xem là người tài giỏi nhất môn phái đã được đào tạo từ trước đến giờ. Có điều lạ lùng là hầu hết những chi phái này không phát sinh từ phía đông cũng như phía tây, mà là từ trung phần Nhật Bản… Các đòn thế của môn Jujitsu nói chung thường rất hiểm ác, những đòn tấn công hoặc phản công quyết nhắm đến việc giết địch thủ trong nháy mắc, hoặc làm gãy tay, gãy chân, đui mù, á khẩu, tê liệt tàn phế cả cuộc đời. Một số các đòn của Jujitsu thật ra cũng bắt nguồn từ các môn quyền thuật Trung Hoa, Thiếu Lâm, Võ Đang và Thái CựcQuyền. - Jujitsu – Nhu thuật – gồm những loại đòn ném, vật, khóa chân, khóa tay, khóa cổ, siết họng và các đòn về quan tiết (các khớp xương). Tất cả những đòn này đều căn cứ trên hai nguyên lý sau đây: 1. Nhượng bộ sức mạnh để thắng sức mạnh bằng cách lợi dụng đòn của đối phương. 2. Tạo cho địch cái thế mất thăng bằng để quật ngã địch.