Luận Văn Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Chính Sách Kinh Tế Và Chính Sách Xã Hội Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Nước Ta Hiện Nay đã chia sẻ đến cho các bạn học viên nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo mà các bạn không nên bỏ qua nhé! Nếu các bạn muốn tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Similar to Luận Văn Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Chính Sách Kinh Tế Và Chính Sách Xã Hội Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Nước Ta Hiện Nay (20)
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Luận Văn Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Chính Sách Kinh Tế Và Chính Sách Xã Hội Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Nước Ta Hiện Nay
1. LUẬN VĂN:
Mối quan hệ biện chứng giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở
nước ta hiện nay
NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
2. A. Đặt vấn đề
Kể từ sau đại chiến thế giới thứ hai, nền kinh tế thế giới có những
bước tiến vượt bậc. Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, nó thôi thúc
mọi quốc gia, mọi khu vực tham gia vào cuộc tranh đua quyết liệt vì sự
phát triển. Trong cuộc đua ấy, sự tụt hậu về kinh tế sẽ đẩy đất nước ra
khỏi quỹ đạo phát triển. Tuy nhiên không phải quỗc gia nào cũng được
chuẩn bị kỹ lưỡng để tham gia vào cuộc đua này, một số ít quốc gia sẽ
nhanh chóng vươn lên trở thành giàu có và kéo theo một bộ phận dân cư
cũng trở thành giàu có bỏ lại một số quốc gia tụt hậu đằng sau với đại bộ
phận dân cư phải sống trong nghèo khổ. Thực tế chứng minh , theo thống
kê Việt Nam năm 1996 , hơn 30 năm qua, nền kinh tế thế giới có tốc độ
tăng trưởng rất cao, GNP/người tăng 3 lần, GNP toàn thế giới tăng 6 lần
từ 4000 tỷ(năm 1960 ) lên 23000 tỷ (năm 1994 ). Tuy nhiên hố ngăn cách
giàu nghèo cũng có xu hướng gia tăng. Khoảng ba phần tư dân số của các
nước kém phát triển có mức thu nhập âm. Chênh lệch giữa các nước phát
triển và các nước thế giới thứ ba về thu nhập tăng hơn 3 lần. Thu nhập
của 20 % dân số nghèo nhất thế giới chiếm 1 ,4 % tổng thu nhập toàn thế
giới còn 20 % người giàu nhất lại chiếm tới 85 % thu nhập thế giới quả là
một sự chênh lệch quá lớn. Tuy nhiên vấn đề xã hội không chỉ nổi lên ở
các nước kém phát triển, đang phát triển mà các nước có nền kinh tế phát
triển, vấn đề xã hội cũng rất nan giải, đó là nạn thất nghiệp, thất học,tệ
nạn xã hội, sự bần cùng hoá, khoảng cách giầu nghèo, các mâu thuẫn xã
hội nổi lên khó kiểm soát. Đó chính là sự không hài hoà hay sự mâu thuẫn
giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Trong vài thập kỷ gần đây, các quốc gia nhận thấy vấn đề thực hiện
chính sách kinh tế để tăng trưởng kinh tế phải gắn với sự tiến bộ và công
bằng xã hội (thực hiện chính sách xã hội). Vấn đề đặt ra mang tính chất
toàn cầu bởi vấn đề này không chỉ cần thiết đối với các nước nghèo mà
3. còn đối với tất cả những nước phát triển. Đặc biệt đối với nước ta, giải
quyết bài toán phát triển kinh tế với bài toán chính sách xã hội rất cần
thiết, tất yếu phải giải quyết trong sự nghiệp cải cách, đổi mới kinh tế,
xoá bỏ sức ỳ và sự trì trệ xã hội, mâu thuẫn và hạn chế chính sách xã hội
do những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp ở nước
ta, đặc biệt trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay. Chính vì lý do trên em chọn đề tài tiểu luận: “ Mối quan hệ biện
chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta hiện nay
4. B. nội dung
I. những vấn đề lý luận cơ bản
1. . Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội
1.1. .Khái niệ m chính sách kinh tế, chính sách xã hội .
1.1.1. 1 .Khái niệm chính sách kinh tế .
Chính sách kinh tế là những chủ trương, chính sách cụ thể, những quy
định của nhà nước nhằm điều tiết nền kinh tế với mục đích tăng trưởng
kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tăng phúc lợi xã hội. Chính sách
kinh tế bao gồm một số loại chính sách chủ yếu: Chính sách kinh tế vĩ
mô, chính sách điều tiết hoạt động kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại
và chính sách phát triển kinh tế .
Các chính sách kinh tế đều nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng
trưởng kinh tế là sự gia tăng hay tăng thêm về sản lượng (thu nhập) tính
cho toàn bộ nền kinh tế hay bình quân đầu người trong một thời kỳ nhất
định.
1 .1 .2 Khái niệm chính sách xã hội .
Chính sách xã hội là những chủ trương, những chính sách cụ thể,
những quy định của nhà nước duy trì hoặc làm thay đổi những điều kiện
sống của các tầng lớp dân cư, hướng đến sự thịnh vượng của các tầng lớp
dân cư trong xã hội; biểu hiện cụ thể dưới dạng vốn con người và vốn xã
hội.
Chính sách kinh tế tốt là tiền đề cho sự tăng trưởng bền vững về các
tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục , sức khỏe và bảo vệ
môi trường vv...
Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện
tại mà không làm thương tổn khả năng đáp ứng các nhu cầu tương lai.
Có nhiều quan điểm trong chính sách phát triển kinh tế
Theo P.Todako: Chính sách phát triển kinh tế cần được hiểu như
một quá trình nhiều mặt có liên quan đến những thay đổi trong cơ cấu ,
5. trong thái độ và thể chế cũng như việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế ,
giảm bớt mức độ bất bình đẳng và xoá bỏ chế độ nghèo đói.
Chúng ta hiểu chính sách phát triển kinh tế là một quá trình tăng tiến
về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm sự gia tăng về sản lượng hay thu
nhập và những biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và xã hội.
1.2. . Các chỉ tiêu phản ánh.
1.2.1 .1 Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế thể hiện chính
sách kinh tế đúng dắn .
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP):
Tổng sản phẩm quốc nội là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới tạo ra trong
năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP):
Tổng sản phẩm quốc dân là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất
cả công dân một nước tạo ra và có thu nhập trong năm, không phân biệt
sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước .
- GDP/người:
+Theo phương pháp quy đổi ngoại tệ trực tiếp:
GDP(đô la)/ P P: quy mô dân số
GDP: quy mô thu nhập
+Theo ngang giá sức mua :
GDP thực tế bình quân đầu người đã được điều chỉnh theo ngang giá
sức mua(1 $ sẽ mua được bao nhiêu GDP của nước đó so với 1 $ sẽ mua
được bao nhiêu GDP tại Mĩ ) .
1.2.2 .2 Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển xã hội thể hiện chính sách
xã hội đúng đắn.
Để phản ánh sự đúng đắn của chính sách xã hội thể hiển ở sự phát
triển xã hội người ta sử dụng các chỉ tiêu như sau: tuổi thọ bình quân, tỉ
lệ biết chữ , tỉ lệ chết yểu, lượng tiêu dùng Calo/người /ngày, chi tiêu cho
giáo dục , % dân số được hưởng các phương tiện vệ sinh, hệ số Gini
v.v...
-Chỉ số phát triển con người ( HDI):
6. Là chỉ số để tính trung bình các thành tựu trong phát triển con
người, đó là những thành tựu về những năng lực cơ bản nhất của con
người.
Các bộ phận cấu thành bao gồm:
*Tuổi thọ bình quân.
*Trình độ văn hóa-giáo dục.
*Thu nhập thực tế bình quân đầu người tính theo ngang giá sức mua(PPP).
-Chỉ số nghèo khổ ( HPI).
Là thước đo để đánh giá nghèo đói đa chiều , chỉ số tổng hợp về sự
thiệt thòi của con người được đánh giá trên các khía cạnh : cuộc sống lâu
dài, khoẻ mạnh, tri thức , sự bảo đảm về kinh tế và sự hội nhập xã hội.
Các bộ phận cấu thành bao gồm:
+ Đối với những nước đang phát triển (HPI 1 ):
*Tỉ lệ người dự kiến không sống đến 40 tuổi.
*Tỉ lệ mù chữ .
*Tỉ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế , nước sạch.
*Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
+ Đối với những nước phát triển (HPI 2 ):
*Tỉ lệ người dự kiến không sống đến 60 tuổi.
* Tỉ lệ những người chưa đạt được yêu cầu chuẩn về đọc và viết.
* Chỉ số nghèo về thu nhập.
* Sự thiệt thòi trong hòa nhập xã hội.
1.3. . Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
nhằm nâng cao đời sống vật chất và phúc lợi xã hội .
1 .3 .1 Đặt vấn đề về sự hạn chế của chính sách kinh tế chú trọng tăng
trưởng .
Sau chiến tranh thế giới II vào 1960s các quốc gia đều nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của chính sách kinh tế hướng đến tăng trưởng kinh tế .
Họ cho rằng tăng trưởng kinh tế là mục tiêu cơ bản của mọi xã hội. Kết
quả là nhiều nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng sự tăng
7. trưởng cao đó mang lại rất ít lợi ích cho người nghèo . Thể hiện là mức
sống của hàng trăm triệu người ở châu Phi, châu á, Trung Đông dường
như không tăng thậm chí còn giảm đi; tỉ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp
tăng cả ở nông thôn và thành thị ; phân phối bất bình đẳng trong thu nhập
tăng dẫn đến tình trạng nghèo tuyệt đối còn phổ biến.
Những nguyên nhân đó là: Thứ nhất, trong một số trường hợp Chính
phủ muốn tăng thêm sức mạnh quân sự , hoặc danh tiếng của đất nước và
danh tiếng của các tập đoàn cai trị mà đã đầu tư vào hệ thống quân sự ,
hoặc các dự án to lớn trong rừng rậm, trên sa mạc , đây là những đầu tư
đưa lại ít ích lợi trực tiếp cho những người dân(tăng trưởng cao nhờ tăng
đầu tư vào những dự án quân sự như trường hợp của ấn Độ , Pakixtan ;
những dự án để xây dựng những thành phố hiện đại mang tính thí điểm
như thành phố Thượng Hải của Trung Quốc. Thứ hai, do các nguồn lực
khan hiếm để tạo ra sự tăng trưởng tiếp theo, do vậy một bộ phận lớn thu
nhập được dùng để tái đầu tư. Nếu quá trình này tiếp tục trong một thời
gian dài thì không những không nâng cao được đời sống nhân dân mà trái
lại còn làm cho mọi tiêu dùng giảm sút, mặc dù vẫn tạo ra được sự tăng
trưởng kinh tế . Thứ ba, khi thu nhập và tổng quỹ tiêu dùng tăng lên
nhưng những người giàu có lại nhận được toàn bộ hoặc phần lớn phần
tăng thêm này, dẫn đến tình trạng người giàu sẽ giàu thêm, còn người
nghèo lại nghèo đi. Điều đó thể hiện chính sách xã hội đã không được
quan tâm đúng mức.
1.3.2. 2 . Sự chuyển hướng trong nhận thức (sau năm 1970 )
- Những nước phát triển :
Nhấn mạnh trọng tâm vào chất lượng cuộc sống, đặc biệt quan
tâm đến môi trường.
- Những nước đang phát triển:
Mục tiêu chính của hoạt động kinh tế là xóa bỏ nạn nghèo đói
phổ biến và sự bất bình đẳng ngày càng tăng trong phân phối thu
nhập. Đây là những vấn đề cốt lõi của phát triển kinh tế .
8. 1.3.3. 3 . Quan hệ khách quan, biện chứng giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội .
Chính sách kinh tế và chính sách xã hội ngoài những mục tiêu riêng
còn có mục tiêu chung là nhằm phát triển con người , đảm bảo công bằng
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Chính sách kinh tế trước hết nhằm giúp tăng trưởng kinh tế là điều
kiện trước tiên để cải thiện chính sách xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội ,
khắc phục tình trạng đói nghèo của một quốc gia. Nguyên nhân đầu tiên
của đói nghèo là kinh tế không tăng trưởng . Trong các xã hội tiền Tư bản
chủ nghĩa, kinh tế tăng trưởng rất chậm, vì vậy tình trạng đói nghèo rất
phổ biến .
Chính sách xã hội tất yếu phải dựa trên sự phát triển kinh tế . Phát
triển kinh tế tạo ra cơ sở vật chất để giải quyết vấn đề phúc lợi và thực
hiện tốt các chính sách xã hội. Kinh tế phát triển sẽ nâng cao đời sống của
từng cá nhân và toàn xã hội , tạo điều kiện cho cá nhân tham gia tích cực
vào các hoạt động của cộng đồng, trong đó có hoạt động phúc lợi xã hội .
Kinh tế phát triển, Nhà nước sẽ có nguồn thu để thực hiện các chương
trình phúc lợi xã hội, thự hiện chính sách xã hội. Do đó , phát triển kinh
tế là điều kiện và tiền đề để phát triển và đa dạng hóa các hoạt động của
chính sách xã hội . Chính phủ các nước thường dành một tỉ lệ nhất định
của GNP để chi cho việc giải quyết các chính sách xã hội nên thu nhập
quốc dân càng lớn thì khả năng ngân sách chi cho chính sách xã hội càng
lớn. Nói cách khác , sự quan tâm và mức chi phí dành cho chính sách xã
hội tỉ lệ thuận với phát triển kinh tế . Điều đó có nghĩa là kinh tế phát
triển càng mạnh thì chi tiêu cho thực hiện chính sách xã hội càng tăng .
Chỉ khi tạo ra được một khối lượng vật chất đáng kể thì mới có thể thực
hiện và đáp ứng được các nhu cầu xã hội ngày một tăng và đa dạng, có thể
điều chỉnh , hoàn thiện và thay đổi các chính sách xã hội .
Thực tế cho thấy , về tổng thể , hệ thống chính sách xã hội, phúc lợi
xã hội của các nước có nền kinh tế phát triển tốt hơn hẳn so với hệ thống
chính sách xã hội, phúc lợi xã hội của các nước kinh tế kém phát triển .
9. Người ta có thể phê phán hệ thống chính sách xã hội, phúc lợi xã hộ i của
một nước kinh tế phát triển nhưng điều đó chỉ muốn nói là chính sách xã
hội của nước đó chưa tương xứng với tiềm lực kinh tế có thể đáp ứng
được . Ngược lại người ta thường khen hệ thống chính sách xã hội và
phúc lợi xã hội của một nước đang phát triển nào đó là muốn nói rằng
chính sách xã hội và phúc lợi xã hội của nước đó tốt so với điều kiện nền
kinh tế nước đó có thể đáp ứng. Một tỉ lệ nhỏ GNP của các nước giàu
cũng lớn hơn rất nhiều tỉ lệ cao GNP của các nước nghèo vì GNP của hai
nhóm nước quá chênh lệch. Không ai dám khẳng định rằng chính sách xã
hội và phúc lợi xã hội của một nước nghèo về tổng thể lại hơn được chính
sách xã hội và phúc lợi xã hội của một nước giàu mặc dù có thể phê phán
nước giàu hơn về mặt nào đó. Để phản ánh chính sách xã hội và phúc lợi
xã hội của một nước , bao giờ người ta cũng nhìn đến khả năng kinh tế
của nước đó rồi đưa ra những đánh giá mức độ tương xứng. Như vậy
chính sách kinh tế tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế là nhân tố khách
quan quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách xã hội và phúc lợi xã
hội .
Chính sách kinh tế hướng tới sự tăng trưởng kinh tế là một trong
những nhân tố quyết định nhất để đảm bảo phát triển và hoàn thiện các
chính sách xã hội và phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế tạo ra ngày càng
nhiều của cải vật chất cho xã hội, cơ sở để nâng cao mức sống người dân,
ổn định chính sách hiện tại, đảm bảo cuộc sống tương lai. Nhờ tăng
trưởng kinh tế, Nhà nước mới có điều kiện xây dựng những cơ sở phúc lợi
như nhà dưỡng lão, trại trẻ mồ côi, cơ sở phúc lợi danh cho người tàn tật,
các khu vui chơi giải trí, các bệnh viện mới và hiện đại, mở mang hệ
thống giáo dục, y tế ...
Nhưng phải chăng cứ có có chính sách kinh tế tốt, nền kinh tế phát
triển thì chính sách xã hội và phúc lợi xã hội sẽ được cải thiện? Tăng
trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được các vấn đề chính sách xã hội
và phúc lợi xã hội mặc dù Nhà nước vẫn chú ý đến việc giải quyết việc
giải quyết các vấn đề chính sách xã hội và phúc lợi xã hội như xây dựng
10. mạng lưới y tế đến tận cơ sở , phòng bệnh , chữa bệnh cho nhân dân,
chăm lo đời sống cho các gia đình bộ đội, thương binh , liệt sĩ, mở mang
giáo dục... nhằm ổn định xã hội.
Thực tế những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành một số chính
sách chính sách xã hội và phúc lợi xã hội trên tinh thần đổi mới và cố
gắng thực hiện đồng thời cả chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế và
chính sách xã hội . Các chính sách xã hội không tồn tại độc lập mà nằm
trong tổng thể hệ thống chính sách của Nhà nước nên Nhà nước có vai trò
to lớn trong việc quản lý, thực hiện các chính sách xã hội, tạo ra sự liên
kết , thống nhất giữa các chính sách kinh tế và chính sách xã hội để định
hướng và thúc đẩy phát triển kinh tế phục vụ các mục tiêu chính sách xã
hội và nâng cao phúc lợi xã hội , từ việc đảm bảo lợi ích của các tầng lớp
nhân dân đến việc phát triển con người và hoàn thiện cơ cấu xã hội .
2. . Một vài sự lựa chọn giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với
việc giải quyết chính sách xã hội trong quá trình phát triển kinh tế
của cácnước.
2.1. . Quan điể m tăng trưởng trước, bình đẳng sau.
Quan điểm này nhấn mạnh vào chính sách kinh tế thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, coi tăng trưởng kinh tế là đầu tàu để kéo theo sự biến đổi
về cơ cấu kinh tế và xã hội. Thực tế cho thấy, những nước theo quan điểm
này đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao , không ngừng tăng thu nhập cho
nền kinh tế song cũng cho thấy những hạn chế cơ bản của việc lựa chọn
này(nguồn tài nguyên bị kiệt quệ và môi trường sinh thái bị huỷ hoại nặng
nề, cùng với tăng trưởng là những bất bình đẳng về kinh tế và chính trị
xuất hiện tạo ra những mâu thuẫn và xung đột gay gắt, phá huỷ và hạ thấp
một số giá trị truyền thống tốt đẹp như nền giáo dục gia đình, các giá trị
tinh thần , thuần phong mĩ tục , các chuẩn mực dân tộc , sự tăng trưởng và
phát triển nhanh chóng đưa đến những diễn biến khó lường trước làm đời
sống kinh tế xã hội bị đảo lộn , mất ổn định, v.v...)
Điển hình theo quan điểm này là Braxin. Braxin phát triển nhanh
nhưng chính sách xã hội và phúc lợi xã hội với con người lại không được
11. giải quyết tốt. Braxin là một nước lớn, giàu tài nguyên và đã có những
tiến bộ đáng kể trong việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại. Một vài ngành
công nghiệp và thành phố có thể sánh được với các nước phát triển. Ngoài
sự nổi tiếng về một số ngành công nghiệp và đô thị , Braxin cũng tạo
được những tiến bộ quan trọng trong nông nghiệp , như sự phát triển của
đậu tương , một loại cây xuất khẩu chính bên cạnh cà phê và các sản phẩm
truyền thống khác. Nhưng sự tăng trưởng kinh tế của Braxin là không
vững chắc và không đồng đều. Tất cả những người dân Braxin ở phía Đông-
Bắc hầu như không được hưởng thụ lợi ích từ tăng trưởng . Ngay cả những
thành phố lớn , hiện đại ở phía Nam cũng có những khu ổ chuột đáng kinh
sợ , đôi khi liền kề ngay với những khu kiến trúc mới, xa hoa. Nguyên nhân là
ở Braxin quyền sở hữu tài sản được tập trung cao, không có cải cách ruộng
đất, giáo dục chịu tác động nhiều của các yếu tố kinh tế thị trường, trong
công nghiệp và nông nghiệp đều nhấn mạnh đến các cơ sở sản xuất có quy
mô lớn, khuyến khích công nghiệp sử dụng nhiều vốn. Kết quả là mức độ bất
bình đẳng của Braxin là rất cao và có ít tiến bộ trong việc giảm bớt nghèo
khổ mặc dù mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
2.2. .Quan điểm ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng .
2.2.1 .1 Phân phối trước , tăng trưởng sau.
Đây là quan điểm chủ đạo của các nước đi theo Chủ nghĩa xã hội
sau thế chiến thứ hai. Họ cho rằng , việc tập trung tài sản vào một nhóm
người là trở ngại cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình đẳng
không chỉ là sự tha hoá phát triển mà còn là trở ngại cho sự phát triển . Vì
vậy phân phối lại là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng , cụ thể là đoạt
từ người giàu chia cho người nghèo . Cơ chế phân phối được xác lập sao
cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao động . Tuy nhiên, nền
tảng của sự phân phối là chủ nghĩa bình quân . Do vậy mặc dù nó là
nguồn cổ vũ lớn lao với nhân dân nhưng nó đã không có cơ sở vững chắc
để tồn tại.
2.2.2 .2 Lấy con người làm trung tâm ( D.Korten) .
12. Theo ông , hầu hết các mô hình phát triển đều lấy chính sách kinh tế
tăng trưởng làm trọng tâm và ông phê phán các mô hình đó. Ông cho rằng,
phát triển lấy con người làm trung tâm là một t iến trình qua đó các thành
viên của xã hội tăng được khả năng của cá nhân và định chế của mình để
huy động và quản lí các nguồn lực nhằm tạo ra thành quả bền vững , cải
thiện chất lượng cuộc sống của họ sao cho phù hợp hơn. Ông khẳng định
quan điểm làm trung tâm, ủng hộ tính chất bền vững của cuộc sống và môi
trường hơn là chính sách kinh tế tăng sản lượng của nền kinh tế .
2.3. . Quan điểm chính sách kinh tế tăng trưởng đi liền với công
bằng xã hội (Thực hiện chính sách xã hội).
Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên. Quan điểm
này vừa nhấn mạnh về số lượng , vừa chú ý về chất lượng của sự phát
triển. Chính sách kinh tế phải gắn với việc giảm thiểu nghèo đói và công
bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế phải bền vững để phù hợp với các mục
tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo quan điểm này điển hình là Hàn Quốc. Hàn Quốc có mức độ
tăng trưởng kinh tế cao với những biện pháp rõ ràng để giảm bớt nghèo
khổ và thoả mãn những nhu cầu cơ bản. ở Hàn Quốc, tài sản đặc biệt là
đất đai đã được phân phối tương đối bình đẳng trước khi bắt đầu có sự
tăng trưởng nhanh. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh bắt đầu từ 1960s đã rất
quan tâm đến việc hiện đại hóa những công ty nhỏ và vừa. Quyền sở hữu
của người nước ngoài được hạn chế ở mức thấp nhất. Tăng nhanh sản xuất
để xuất khẩu đã thu hút nhiều lao động. Hệ thống giáo dục bảo đảm cho
tất cả trẻ em, trình độ phổ cập ngày được nâng cao và lựa chọn nghiêm
ngặt những người có khả năng tốt nhất để tiếp tục học tập ở mức cao hơn.
Do đó đã góp phần giảm bớt nhanh chóng sự nghèo khổ, đồng thời hỗ trợ
cho sự công bằng và tăng trưởng.
3. . Kinh nghiệ m rút ra từ một số nước.
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội giảm bất bình đẳng ở
Hàn Quốc , Malaixia cho ta một số kinh nghiệm như sau:
13. 3.1. .Chính sách kinh tế hướng tới sự tăng trưởng kinh tế nhanh
với phân phối công bằng, nâng cao mức sống cho mọi tầng lớp dân cư
đặc biệt là người nghèo nói chung và khu vực nông thôn nói riêng.
Chính đường lối phát triển đúng đắn đã đưa các nước này trở thành
các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (8 % / năm) được xếp vào
các quốc gia có tỉ lệ tiết kiệm/ GDP lớn . Các ngành công nghiệp cần sử
dụng nhiều lao động thu hút được lượng lao động nhàn rỗi ở khu vực nông
thôn, giải quyết được tình trạng thất nghiệp tràn lan khi tiến hành công
nghiệp hoá. Hơn nữa, tiền lương trung bình tăng rất cao (Malaixia
10 %/năm , Hàn Quốc 6 %/năm). Điều này đưa họ trở thành các nước có
thu nhập bình quân đầu người và tiền lương cao nhất khu vực, tỉ lệ thất
nghiệp thấp chứng tỏ họ thoát khỏi sự đói khổ , tiến tới tạo đủ việc làm có
thu nhập cao cho người lao động và dần xoá bỏ khoảng cách trong phân
phối thu nhập .
3.2. . Chú trọng phát triển nông nghiệp và đảm bảo chính sách xã
hội cho người dân.
Về cơ bản giải quyết bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn , giữa
vùng kém phát triển và vùng phát triển , không chỉ cần sự nỗ lực của
chính phủ mà phải có thời gian dài để đưa các vùng này vượt qua sự khác
biệt về kinh tế –xã hội , tập trung vốn đầu tư để ưu tiên phát triển kịp
thời các vùng kém phát triển . Sự đầu tư này có thể làm giảm tốc độ tăng
trưởng giai đoạn đầu nhưng nó tạo điều kiện tốt hơn cho các giai đoạn
tiếp theo, tránh hậu quả chênh lệch càng lớn và khó giải quyết cho quá
trình phát triển sau này .
Nhận thức vấn đề đó , do điều kiện thuận lợi Malaixia chú trọng phát
triển nông nghiệp ngay từ đầu và kết quả là trở thành nước lớn trên thế
giới về xuất khẩu dầu cọ , cao su , côca. Còn Hàn Quốc đã mở cửa thị
trường theo xu thế tự do hoá, cắt giảm các khoản mục thuế quan xuất nhập
khẩu do vậy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Sau một thời gian dài , hai
quốc gia này chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế bỏ qua công bằng xã
14. hội cho nên trong xã hội có sự xáo trộn, có sự bất công lớn trong phân
phối thu nhập như ở Malaixia tập trung vào người Mãlai....Do vậy , chính
phủ họ mới chú trọng đến phân phối thu nhập , đảm bảo công bằng cho
mọi người dân . Malaixia hỗ trợ cho người dân ở vùng xa xôi để họ có cơ
hội phát triển , có chỗ ở, được học tập , làm ăn. Hàn Quốc có các chính
sách rất cụ thể về bảo hiểm y tế phát triển con người , chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng , thành lập các chương trình an sinh xã hội , cứu trợ về xã hội
và chế độ hưu trí.
3.3. . Coi giáo dục là nền tảng .
Để tiến hành phân phối thu nhập bình đẳng để giảm một cách có hiệu
quả sự chênh lệch thu nhập, cải thiện sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân
cư thì việc tăng cường giáo dục là rất quan trọng . Chi tiêu cho giáo dục
hàng năm trong GDP của các nước là rất lớn như ở Malaixia chiếm 1 /3 chi
tiêu công cộng . Nếu tính theo HDI thì sự chênh lệch về mức độ phát triển
nguồn lực đã thu hẹp từ năm 1970 (Tại năm 1970 HDI của người Mãlai
chỉ bằng 70 % của người Hoa nhưng đến 1991 là 82 %). Việc chú trọng đầu
tư vào giáo dục , chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ xã hội khác đã làm cho
HDI của người Mãlai tăng 1 ,5 lần so với người Hoa. Do đầu tư mạnh vào
giáo dục, người lao động ở Malaixia có khả năng tiếp thu công nghệ mới,
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước. Với
Hàn Quốc, do chính phủ ý thức được sự cần thiết phải tạo ra các cơ hội
bình đẳng cho con em của mọi tầng lớp dân cư, vì vậy giáo dục ở Hàn Quốc luôn
luôn là nhân tố cơ bản, quan trọng trong việc tạo nguồn lực cần thiết cho phát triển kinh
tế và khoa học kỹ thuật . Hàn Quốc là nước có tỉ lệ người biết chữ cao nhất thế giới và
chính những người có trình độ học vấn cao đã là nhân tố cơ bản giúp Hàn Quốc vượt
bậc trong những năm gần đây. Như vậy , Hàn Quốc và Malaixia coi giáo dục là yếu tố
cơ bản cấu thành tăng trưởng.
4. . Quan điể m của Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa chính sách
kinh tế với việc thực hiện các chính sách xã hội nhằ m nâng cao đời
sống, đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân.
15. Đại hội X của Đảng ta đề ra mục tiêu : đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại .
Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là tập trung lực lượng , tranh thủ
thời cơ, vượt qua thử thách, đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế đa thành
phần. Quan điểm của Đảng ta là phát triển nhanh và bền vững , tăng
trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ , công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường. Cụ thể:
4.1. . Phát huy cao độ mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu
quả những sản phẩm , ngành , lĩnh vực mà ta có lợi thế , đáp ứng cơ bản
nhu cầu thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Các vùng kinh tế
trọng điểm có tốc độ tăng trưởng nhanh, cao hơn mức bình quân chung,
đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng của cả nước và lôi kéo , hỗ trợ các
vùng khác cùng phát triển . Tăng trưởng nhanh năng suất lao động xã
hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng .
4.2. . Thực hiện chính sách phát triển kinh tế, tăng trưởng nhanh năng
lực nội sinh về khoa học và công nghệ , đẩy mạnh giáo dục và đào tạo ,
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ tốt yêu cầu công
nghiệp hoá , hiện đại hoá và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức.
Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để
tạo bước nhảy vọt về kinh tế và công nghệ , tạo tốc độ tăng trưởng
vượt trội ở những sản phẩm chủ lực .
4.3. . Phát huy nhân tố con người , mở rộng cơ hội cho mọi người đều
có điều kiện phát huy tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và
thụ hưởng những thành quả phát triển; đồng thời có trách nhiệm góp sức
thực hiện dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh
, giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn , ở , đi lại , phòng và
chữa bệnh
, học tập , làm việc , tiếp nhận thông tin , sinh hoạt văn hoá.
16. 4.4. . Chính sách kinh tế , xã hội phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện
môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi
trường thiên nhiên và xã hội . Chủ động phòng tránh và khắc phục tác
động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và giải quyết hậu
quả chiến tranh còn để lại đối với môi trường sinh thái . Bảo vệ và
cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội ; tăng cường quản lí
Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức của mọi người dân.
II. Thực trạng việc thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở
Việt Nam
1. .Đánh giá thực trạng
1.1. .Thực trạng chính sách kinh tế .
Thời kỳ 1976 -1985 do ảnh hưởng chính sách kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp nên nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì
trệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm thấp (2 %) trong khi
tốc độ tăng dân số bình quân là 2 ,4 %, làm không đủ ăn , chủ yếu dựa vào
nước ngoài , phân phối thu nhập đầu người rất thấp.
Tại Đại hội VI Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế ,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế , cơ chế quản lý kinh tế xoá bỏ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp . Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế
đã có những chuyển biến rõ rệt .
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 91 -95 là 8 ,2 % , 96 -2000 là
6 ,7 %, hiện nay là hơn 8 % .Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi : nếu như năm
1990 tỉ trọng công nghiệp /GDP là 22,7 % , nông nghiệp là 38 ,7 % , dịch
vụ là 38 ,6 % thì đến năm 2000 lần lượt là 36 ,9 %, 24 ,2 % , 38 ,9 %, tuy nhiên
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm.
Trong nông nghiệp sản lượng lúa tăng nhanh và vững chắc. Năm
1998 đạt 29 ,1 triệu tấn , tăng 4 triệu tấn so với năm 1995 . Mức lương thực
đầu người từ 280 kg năm 1987 tăng lên 408 kg năm 1998 . Năm 1998 , sản
lượng lương thực cả nước đạt gần 34 ,25 triệu tấn , bảo đảm an ninh lương
thực tăng dự trữ và xuất khẩu. Năm 1999 , sản lượng lương thực bình
17. quân đầu người đạt 440 kg. Cùng với sản xuất lương thực , các mặt hàng
khác trong ngành trồng trọt , chăn nuôi đều có mức tăng trưởng khá.
Trong công nghiệp , tăng trưởng bình quân 5 ,9 % giai đoạn 86 -90
tăng lên 13 ,7 % những năm 91 -97 và 10 ,4 % năm 1999 . Các ngành thương
mại , dịch vụ , vận tải , y tế , giáo dục cũng có tốc độ tăng trưởng cao.
Đến nay chúng ta có thể khẳng định nền kinh tế nước ta đã có sự phát
triển mạnh mẽ, từng bước hội nhập thị trường quốc tế, đặc biệt sau một
năm gia nhập WTO, chúng đa đã đạt được hầu hết các chỉ tiêu mà nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra ( Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
X).
1.2. .Thực trạng thực hiện các chính sách xã hội .
1.2.1. 1 . Thực trạng về đói nghèo
Tổng số hộ đói nghèo năm 1998 là 2387050 hộ chiếm 15 ,7 % tổng số hộ
trên toàn quốc . Phần lớn số hộ nghèo sống ở vùng nông thôn (91 ,5 %)
trong đó tập trung đông nhất là ở khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh, đồng
bào dân tộc thiểu số.
Bảng 1 : Số hộ nghèo đói theo vùng
Vùng 1997 % 1998 %
1 .Miền núi phía Bắc. 638400 25,32 570445 22,39
2.Đồng bằng sông 302460 9 ,81 272160 8 ,38
Hồng. 544926 27,84 500225 24,62
3 .Bắc Trung Bộ 358260 22,44 291815 17,80
4 .Duyên hải miền Trung 180400 27,84 171915 25,65
5 .Cao nguyên Trung Bộ 103900 5 ,50 91400 4 ,75
6 .Đông Nam Bộ 493750 15,65 489090 15,37
7.Đồng bằng sông 262290 17,68 238705 15,70
CửuLong. 6 0
Cả nước
Nguồn : Bộ Lao động thương binh và xã hội.
18. Bảng 2 : Chỉ số phát triển theo vùng
Vùng Chỉ số
1 .Miền núi phía Bắc 89
2 .Đồng bằng sông Hồng 114
3 .Bắc Trung Bộ 88
4 .Duyên hải miền Trung 96
5 .Tây Nguyên 99
6 .Miền Đông Nam Bộ 128
7.Đồng bằng sông Cửu 93
Long
Chỉ số này cho thấy rõ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các
vùng miền núi xa xôi hẻo lánh và kém phát triển ở phía Bắc và Bắc Trung
Bộ so với vùng miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng trù phú.
Sự phân cực giàu nghèo ngày càng tăng. Theo kết quả điều tra mức
sống nhóm hộ có thu nhập cao so với nhóm hộ có thu nhập thấp chênh
nhau 7 ,3 lần năm 1996 và tăng lên 11,26 lần (năm 1998 ) . Hệ số chênh
lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn hiện nay khoảng 5 -7 lần.
Mức thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn hiện nay mới chỉ bằng
50 % thu nhập của dân cư thành thị.
Các chỉ tiêu về cải thiện đời sống còn rất thấp so với mục tiêu đề ra,
đặc biệt là các chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (năm 1998 số
trẻ suy dinh dưỡng còn 36 ,68 % , tỉ lệ phát triển dân số còn ở mức 1 ,7 %,
miền núi phía Bắc , Tây Nguyên còn rất cao 2 ,5 -3 % , tỉ lệ biết chữ ở các
vùng sâu , vùng xa chỉ vào khoảng 50% , ở nông thôn chỉ có 43 % số hộ
gia đình được dùng nước sạch ...)
19. . Tình trạng đói nghèo ở nông thôn và các vùng ở nông thôn và các
vùng bị thiên tai, rủi ro dẫn tới dòng người đi lang thang kiếm sống ở các
thành phố và khu công nghiệp tăng lên.
20. 1.2.2. 2 . Thực trạng về vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng
Vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng ở nước ta vẫn còn nhiều
bất cập và tiềm ẩn không ít nguy cơ. Sản lượng lương thực của chúng ta
tăng đều qua hàng năm, không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn dư hàng triệu tấn để xuất khẩu. Thế nhưng một bộ phận gia
đình nghèo, thu nhập thấp vẫn không có đủ lương thực để ăn. Tỉ lệ gia
đình bị thiếu ăn kinh niên vẫn còn cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn,
miền núi , vùng dân tộc ít người. Nhìn chung, bữa ăn của người việt Nam
hiện nay còn thiếu về số lượng( dưới ngưỡng cần thiết 2300
kcalo/người/ngày) và mất cân đối về chất lượng. Lượng tiêu thụ thức ăn
động vật rất thấp, lượng sữa, hoa quả chín không đáng kể.Tỉ lệ ăn gạo quá
cao và sự thiếu thực phẩm đa dạng trong bữa ăn dẫn đến thiếu đạm, thiếu
nhiều chất dinh dưỡng(vitamin A,sắt ,iốt...).Ngược lại, một bộ phận các
gia đình( chủ yếu là các đô thị ) bắt đầu giầu lên, có mức sống cao nhưng
do thiếu kiến thức dinh dưỡng cần thiết nên ăn theo những khẩu phần
không hợp lí . Tình hình vệ sinh thực phẩm ở nước ta đang ở mức báo
động. Việc sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật không theo đúng qui định
không những ảnh hưởng đến nền nông nghiệp phát triển bền vững mà còn
làm ô nhiễm nguồn nước và để lại dư lượng hoá chất độc hại trong lương
thực , thực phẩm. Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm tra
thú y . Việc sản xuất các loại thức ăn chế biến sẵn, sản xuất các loại bánh
kẹo , nước giải khát... bung ra không kiểm soát nổi về chất lượng.Các
quầy hàng ăn uống mọc lên khắp nơi nhưng không bảo đảm những tiêu
chuẩn vệ sinh tối thiểu.
1.2.3. 3 .Thực trạng về văn hoá-giáo dục
Có thể nói giáo dục - đào tạo là một mắt khâu quan trọng trong
chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, nó quyết định tốc độ và chiều
hướng phát triển trong việc thực hiện chiến lược ấy. Đánh giá về vai trò
của giáo dục -đào tạo, Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) khẳng định: “Giáo
dục đào tạo đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí , đào tạo đội ngũ
lao động có trình độ học vấn tiểu học , trung học và đội ngũ cán bộ đông
21. đảo phục vụ các nhu cầu KT-XH và an ninh, quốc phòng.” Qua 3 lần mở
chiến dịch chống nạn mù chữ : lần 1 (1945 -1954 ) có 10 triệu người được
xoá mù chữ, lần 2 (1955 -1959 ) ở miền Bắc đã xoá xong mù chữ,93 % dân
số từ 12 - 50 tuổi biết đọc , biết viết, lần 3 (1975 -1979 ), chủ yếu thực hiện
ở miền Nam đã có 85 % dân số trong độ tuổi biết chữ. Năm 1989 , giáo dục
phổ thông đã thống nhất trong cả nước bao gồm 12 năm. Một chương trình
quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được triển khai từ
năm 1990 .
Ngân sách dành cho giáo dục tăng từ 6 ,21 %(năm 1985 ) lên 9 ,4 %
(năm 1994 ) , 13 %(năm 1999 ), đào tạo được 273 ngành trong số 579 ngành
cần đào tạo sau đại học ; năm 1999 cả nước có hơn 9000 tiến sĩ và phó
tiến sĩ, hơn 900000 người có trình độ đại học , cao đẳng, gần 4 triệu cán
bộ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, có 4000 thợ bậc 7 .
Năm học 1997 -1998 có 47 tỉnh , thành phố trong cả nước đạt chuẩn quốc
giavề phổ cập giáo dục tiểu học; cả nước có 130 trường đại học , cao
đẳng, 244 trường trung học chuyên nghiệp ,174 trường dạy nghề chính
quy, hơn 500 trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp,
200 trường lớp dạy nghề dân lập , tư thục, 15 trường đại học dân lập với
hơn 50000 sinh viên chiếm6 ,5 % tổng số sinh viên cả nước. Trong vòng
hơn 10 năm(1986 -1998 ) số sinh viên các trường đại học tăng hơn 6 ,6 lần,
riêng quy mô đào tạo không tập trung tăng hơn 10 lần. Riêng năm 1999 ,
có 420000 học sinh tốt nghiệp PTTH, 100000 tốt nghiệp bổ túc văn hoá và
20000 thí sinh tự do thi vào đại học, cao đẳng. Năm học 1997 -1998 , cả
nước có khoảng 22 triệu học sinh, sinh viên từ mầm non đến đại học. Đội
ngũ cán bộ giảng dạy đại học , cao đẳng từ 10475 người (năm học1976 -
1977 ) đã tăng lên 23500 người (năm học1997 -1998 ). Năm 1998 , số học
sinh nghèo được miễn phí là 682999 người với 1692638 triệu đồng, số học
sinh được cấp sách giáo khoa là 352043 người với kinh phí 5782 triệu
đồng. Theo ước tính , hàng năm có khoảng 50 vạn sinh viên đại học , cao
đẳng , 10 vạn học sinh THCN và hơn 40 vạn học sinh học nghề ra trường,
mỗi năm cung cấp cho xã hội khoảng 1 triệu lao động qua đào tạo ...
22. Nước ta có thành tích xoá mù chữ, nhưng nếu vào năn 1989 tỉ lệ biết
chữ cả nước đối với nam là 93 %, nữ 84 % thì năm 1993 con số tương ứng
là 91 ,4 %, 82 ,41 %. Như vậy tỉ lệ mù chữ mấy năm nay không giảm mà lại
có chiều hướng tăng lên. Khi các chi phí cho việc học tập của con cái
tăng, sự bao cấp của Nhà nước giảm , nhiều gia đình không có tiền để
đóng góp lại đông con, nên phải cho con bỏ học , đặc biệt là các em gái.
Hiện tượng bỏ học thường ở những năm chuyển cấp. Theo niên giám
thống kê 1992 , số học sinh trong nước đã giảm từ 13 ,3 triệu(năm học
1986 -1987 ) xuống còn 12 ,2 triệu(năm học 1989 -1990 ), sau đó tăng lên
12 ,8 triệu(năm học 1991 -1992 ) trong khi dân số hàng năm tăng và số trẻ
em đến tuổi đi học các cấp đều tăng. Năm 1991 tỉ lệ bỏ học cấp I là
13 ,4 %, cấp II là 32 %. Các bậc cha mẹ cũng mong muốn con cái được học
tập, có trình độ văn hoá để có cuộc sống đỡ khổ nhưng “lực bất tòng
tâm”, họ không tạo được điều kiện, thời gian cho con cái học tập được vì
trình độ văn hóa bị hạn chế và bận làm ăn, do đó các con cái của họ học
kém , dốt, sẵn sàng bỏ học làm việc nhà .Như vậy, trình độ học vấn của
người dân nhìn chung kém đi so với sự gia tăng dân số. Mặc dù đến năm
2007 số hộ nghèo đã giảm nhờ chính sách xã hội của chúng ta thực hiện
tương đối tốt. Chúng ta đã phát động phòng trào ngày vì người nghèo,
phong trào xoá nhà dột nát …
1.2.4. 4 . Thực trạng vấn đề bất bình đẳng .
Thứ nhất , về bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn trên toàn
quốc. Với hơn 75 % dân số sống ở nông thôn , tỉ trọng nông nghiệp trong
GDP cao và tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng trong xuất
khẩu cao, Việt Nam là một nước nông nghiệp với mức bất bình đẳng ở
nông thôn thấp và thấp hơn ở thành thị. Sự chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn nhỏ , hệ số Gini của nông thôn và thành thị ước tính tương ứng
là 0 ,29 và 0 ,30 (năm 1998 ).
Thứ hai , bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế –sinh thái cho nhiều
điều đáng chú ý. Trước hết, sự chênh lệch giữa các vùng khá cao, từ 0 ,25
đến 0 ,37 đối với các vùng thuộc nông thôn và 0 ,25 đến 0 ,41 đối với các
23. vùng thuộc thành thị . Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh
tế , trong khi các yếu tố khác không đổi, những vùng kinh tế năng động ,
có nhiều thuận lợi trong tiếp cận và huy động các nguồn lực tăng trưởng.
2 . Đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội
nhằ m nâng cao đời sống vật chất và Phúc lợi XH ở nước ta.
2.1. . Những thành tựu đạt được .
2.1.1 .1 Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nền kinh tế đã đạt được mức
tăng trưởng khá cao nhờ đó đời sống của nhân dân nói chung được cải
thiện rõ rệt so với trước.
Về công tác xoá đói giảm nghèo .
Việc xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh (tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ
20 % năm 1995 còn 11 % năm 2000 ), đạt được mục tiêu đề ra và nước ta
được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỉ lệ
nghèo đói tốt nhất.
Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và ngay trong những năm
kinh tế giảm sút, chúng ta đã thực hiện mạnh mẽ hơn các chính sách bảo
đảm xã hội (nâng lương tối thiểu , tăng phụ cấp hưu trí ...), mức sống của
cán bộ viên chức , người về hưu, gia đình có công với cách mạng đã được
nâng lên một bước. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2 ,6
triệu đồng năm 1995 lên 4 ,3 triệu đồng năm 2000 . Mỗi năm tạo thêm 1 ,2 -
1 ,3 triệu việc làm mới . Tỉ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của nước ta) giảm
từ trên 30 % xuống 11%.
Về công tác y tế – sức khoẻ cộng đồng.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ , đặc biệt là
trong lĩnh vực y tế dự phòng. Các chỉ số sức khoẻ cộng đồng được nâng
lên .
Chúng ta đã giảm hẳn được tỉ lệ mắc các thể suy dinh dưỡng nặng như
suy dinh dưỡng thể phù , thể teo đét, bệnh khô mắt do thiếu vitamin A gây
mù loà....Các thể suy dinh dưỡng vừa và nhẹ cũng giảm rõ rệt . Tỉ lệ trẻ
24. em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 38 % (năm 1995 ) xuống 33 -34 %
(năm 2000 ). So với các nước như Thái Lan , Trung Quốc thì ta không
bằng nhưng so với nhiều nước Nam á (mà ấn Độ , Bănglađet là chính) thì
ta khá hơn.
Các bệnh bại liệt , uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán vào năm
2000 . Các bệnh sốt rét , bướu cổ năm 2000 đã giảm gần 60 % so với năm
1995 . Một số bệnh viện được nâng cấp , cải tạo hoặc xây dựng mới ; hầu
hết các xã đã có trạm y tế. Trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội và T.p Hồ
Chí Minh được hình thành bước đầu, trang thiết bị y tế đã được nâng cấp
ở các tuyến. Các chính sách về bảo hiểm y tế và chế độ thu một phần viện
phí đã góp phần khắc phục những khó khăn của ngành.
Về văn hóa-giáo dục.
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất
lượng , hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
Từ một nước có hơn 95 % số người mù chữ đến nay chỉ còn 9 % dân số
mù chữ. Đến hết năm 2000 có 100 tỉnh , thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập
giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực
hiện chương trình phổ cập THCS. Qua 3 lần cải cách giáo dục
(1950 ,1956 ,1979 ) đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân đã bao gồm đủ các
bậc học : tiền học đường , tiểu học , trung học, đại học và sau đại học.
Quy mô học sinh tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học , ngành học , đáp ứng
nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân . Phong trào học tập văn hoá,
khoa học kỹ thuật , nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ tăng nhanh đặc biệt là ở
những vùng trước đây chưa phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường
được nâng cấp , cải thiện. Hầu hết các xã , kể cả các xã vùng cao đã có
trường tiểu học, phần lớn các xã ở đồng bằng có trường THCS. Hệ thống
các trường dân tộc nội trú tỉnh, huyện được củng cố và mở rộng. Mạng
lưới các trường đại học , cao đẳng , các trường chuyên nghiệp , dạy nghề
đang từng bước được tổ chức , sắp xếp lại .
Chất lượng giáo dục-đào tạo có chuyển biến bước đầu. Số đông học sinh
, sinh viên có năng lực tiếp thu nhanh các kiến thức. Tỉ lệ giáo viên phổ
25. thông đạt tiêu chuẩn tăng lên. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng giáo dục được
cải tiến.
Tóm lại: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính
sách xã hội nhằm nâng cao đời sống xã hội đã làm giảm bớt bất bình đẳng
trong xã hội, sự tiến bộ của con người thể hiện một cách rõ rệt: năm 1996
chỉ số HDI của Việt Nam là 0 ,54 xếp thứ 121 /174 , nhưng đến năm 1999
chỉ số HDI là 0 ,664 đã tăng 11 bậc so với năm 1996 tức là đứng thứ
110/174 nước, trong khi đó chỉ số HDI của 3 nước đứng đầu và cuối là:
Canada 0,932
Nauy 0,927
Mỹ 0,927
Xiera 0,254
Nigie 0,298
Etiopia 0,298
Như vậy chỉ số HDI của Việt Nam là ở mức trung bình so với nước
xếp hạng.
2 .1 .2 .Chính sách hướng tăng trưởng kinh tế đã đi đôi với giải quyết vấn
đề phân phối thu nhập.
Theo kết quả khảo sát do Viện Xã hội học ( Trung tâm KHXH &
NVQG) tiến hành từ tháng 10 -1992 đến tháng 11 -1994 tại một số địa
phương thì tình hình phân phối thu nhập như sau:
26. Bảng3 : Hệ số Gini và thu nhập trung bình đầu người một tháng ở các địa
phương.
Địa phương Hệ số
Gini
Thu nhập
trungbình (đ)
Thành phố Hà Nội 0 ,44 224520
Thành phố Hồ Chí Minh 0 ,35 491390
Thành phố Cần Thơ 0 ,32 265580
Thành phố Đà Nẵng 0 ,29 148300
Thành phố Hải Dương 0 ,25 181900
Nông thôn Cần Thơ 0 ,40 188430
Nông thôn Hải Hưng 0 ,27 135370
Chỉ số chung 0 ,34
Với chỉ số Gini là 0 ,34 , mặc dù báo cáo khảo sát không nói rõ
phương pháp cụ thể để tính toán chỉ số này, nhưng cũng gần sát với kết
quả tính toán hệ số Gini toàn quốc theo Tổng điều tra mức sống của Tổng
cục thống kê là 0 ,36 ; có thể xem đây là mức chênh lệch tương đối thấp về
phân phối thu nhập. Kết quả này về cơ bản cũng phù hợp với báo cáo của
oxfam
2.2. . Những hạn chế và nguyên nhân:
2.2.1 .1 Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu vẫn còn những mặt yếu kém , bất cập ,
chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của
nhân dân và đất nước.
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây tuy có sự tăng trưởng
cao đặc biệt năm 2006 , 2007 . Tuy nhiên nền kinh tế còn kém hiệu quả và
sức cạnh tranh kém. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế và sức mua trong n ước
còn thấp , cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất
hợp lý. Xu hướng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Kinh tế vĩ mô còn những
yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống kế hoạch , tài chính, ngân hàng đổi mới
27. và phát triển chậm, chất lượng thấp , chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt các
thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Cơ chế , chính sách
phân phối còn nhiều mặt chưa hợp lý, chưa tạo được động lực thúc đẩy
tiết kiệm, đầu tư phát triển.
- Sự nghiệp giáo dục-đào tạo nước ta đang đứng trước những khó khăn ,
mất cân đối và mâu thuẫn cần khắc phục. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu
học của xã hội với khả năng đáp ứng của ngành , giữa nhu cầu phát triển
với kinh phí Nhà nước và sự huy động các nguồn lực cho giáo dục-đào tạo
, giữa cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư, giữa cơ cấu giáo dục và cơ cấu KT-
XH , giữa lý thuyết và thực hành, giữa đào tạo và sử dụng,....Trình độ học
vấn ở một số vùng còn quá thấp. Các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo
dục vẫn còn nhiều, nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn đến chất
lượng nguồn nhân lực.
Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa tuy có phát triển nhưng vẫn còn nhiều
khó khăn. Chi phí học tập còn cao so với khả năng thu nhập của dân cư,
quy chế đóng góp chưa rõ ràng, hợp lý là trở ngại lớn đối với học sinh,
nhất là các gia đình nghèo.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới ở mức dưới 20 % (so với 50 % trở lên ở
nhiều nước ) làm cho khả năng tiếp thu kỹ thuật , công nghệ mới gặp
nhiều khó khăn.
- Nhiều vấn đề xã hội đặt ra rất bức xúc. Lực lượng lao động tăng tự
nhiên mỗi năm khoảng 1 ,2 triệu người, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị còn ở mức 7 ,4 % ( khoảng 1 triệu người ) và tình trạng thiếu việc làm
nông thôn còn khá cao, đang trở thành vấn đề gay gắt , nổi cộm nhất hiện
nay. Bất bình đẳng trong thu nhập ở nông thôn và thành thị ngay càng cao
khá cao.
Đời sống của nhân dân ở một số vùng sâu , vùng xa, vùng thường bị
thiên tai còn rất khó khăn. Vấn đề dinh dưỡng hiện nay còn nhiều thách
thức: Một là các vấn đề sức khoẻ do thiếu dinh dưỡng và an toàn vệ sinh
thực phẩm như suy dinh dưỡng trẻ em, các bệnh do thiếu vi chất dinh
dưỡng (đặc biệt là thiếu vitamin A, iốt , sắt,...) ; hai là sự gia tăng nhanh
28. các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng như béo phì , đái
đường , một số bệnh tim mạch, một số bệnh trước đây chúng ta đã xoá nay
có nguy cơ trở lại cao như bệnh lao, sốt rét, bệnh suy giảm đường hô hấp,
thương hàn, tả... trong điều kiện nền kinh tế phát triển.
Tỷ lệ đói nghèo trong toàn quốc mấy năm gần đây tuy đã giảm mạnh
nhưng chưa vững chắc, nếu gặp thiên tai , mất mùa thì nhiều hộ vẫn có
thể rơi vào tình trạng đói nghèo trở lại.
Tình trạng buôn lậu , gian lận thương mại và tệ tham nhũng không
giảm. Các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nhất là nạn ma tuý, tiếp tục
tăng và lan rộng đang là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng lớn đến trật tự , an
toàn xã hội. Cuộc đấu tranh chống các thói hư , tật xấu , nọc độc văn hoá,
hủ tục mê tín dị đoan, thoái hoá đạo đức,... còn mang nhiều tính hình
thức, chậm đưa lại hiệu quả thiết thực.
Cơ sở vật chất của ngành y tế tuy có được cải thiện nhưng vẫn thiếu
thốn và lạc hậu, nhất là ở tuyến huyện , xã. Tình hình dịch bệnh cục bộ
vẫn xảy ra ở một số nơi, số người nhiễm HIV tiếp tục tăng. Việc khám
chữa bệnh cho người nghèo vẫn là vấn đề nổi cộm hiện nay.
Môi trường đô thị, khu công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn
bị ô nhiễm ngày càng nặng. Cơ chế chính sách về môi trường còn bất cập ,
nhận thức về bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư còn nhiều hạn chế.
2 .2 .2 . Nguyên nhân:
- Tiềm lực kinh tế còn yếu kém : Sau nhiều năm xây dựng và phát triển ,
nền kinh tế đã có bước tăng trưởng nhất định nhưng nhìn chung quy mô
còn nhỏ bé, thu nhập bình quân đầu người thấp. Cơ sở hạ tầng hiện có mới
chỉ ở mức trung bình của các nước đang phát triển , chỉ đáp ứng được một
phần yêu cầu hiện tại, chưa thể đáp ứng được cho tương lai. Cơ sở hạ tầng
cho nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa quan trọng nhưng lại bị hạn chế
rất nhiều. Các công trình thuỷ lợi kém về chất lượng , thiếu về số lượng
gây khó khăn cho bà con khi gặp bão lũ, năng lực tưới tiêu rất thấp.
Trong các doanh nghiệp trình độ máy móc, công nghệ còn lạc hậu nên
năng suất lao động và hiệu quả thấp, chưa tận dụng hết tiềm năng và công
29. suất. Việc huy động vốn là rất khó khăn do Nhà nước có rất nhiều khoản
chi khác, do vậy nguồn đầu tư phụ thuộc nhiều vào tích luỹ nội bộ và đầu
tư nước ngoài nhưng tích luỹ nội bộ thấp , đầu tư nước ngoài bị hạn chế.
- Hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp : Mặc dù có rất nhiều tiềm năng về
đất đai, tài nguyên và nguồn lao động nhưng việc sử dụng chúng đem lại
hiệu quả thấp. Trong tổng diện tích đất tự nhiên , đất trồng lúa chỉ chiếm
4 ,2 triệu ha. Đất gieo cấy trong năm chỉ có 153366 ha chiếm 3 ,6 % tổng
diện tích trồng lúa. Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng nhưng thời gian
qua do khai thác quá mức nên đất đai bị xói mòn ,canh tác không hiệu
quả. Lợi thế và tiềm năng của các vùng kinh tế chưa phát huy được là bao.
Các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động nhưng do nhiều lý do khác nhau
nên các khu công nghiệp chưa phát huy được tác dụng. Sự phát triển các
thành phần kinh tế , đa dạng hoá các hình thức sở hữu do triển khai thiếu
đồng bộ , không lành mạnh cho nên hiệu quả không cao. Kinh tế ngoài
quốc doanh tuy được khuyến khích nhưng lại tăng trưởng chậm, do ít vốn
, máy móc cũ kỹ , kinh nghiệm quản lý chưa cao, sức cạnh tranh thấp. Các
cơ quan Nhà nước vẫn còn mang nặng tư tưởng cũ bảo thủ gây khó khăn
cho các doanh nghiệp khi mở rộng quy mô sản xuất . Sức cạnh tranh hoạt
động kinh tế đối ngoại chưa tương xứng với khả năng . Kim ngạch xuất
khẩu tuy tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, nhập siêu cao, xuất
khẩu vẫn là xuất khẩu sản phẩm thô và qua sơ chế nên khả năng thu lời
không cao. Hiệu quả kinh tế của các ngành , lĩnh vực then chốt như vậy
làm năng suất lao động xã hội không cao, tích luỹ bị hạn chế về quy mô
và trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế .
- Những bất cập về con người : Nền kinh tế chuyển dịch chậm, cơ chế
quản lý chưa theo kịp tiến trình đổi mới , năng suất lao động thấp và hiệu
quả kinh tế thấp , tệ nạn xã hội gia tăng đều có nguyên nhân là do sự hiểu
biết kém của con người . Do xuất phát điểm thấp , những năm dài ở cơ
chế tập trung để lại hậu quả nặng nề cho đội ngũ cán bộ , công nhân ỷ lại
, cường quyền , chậm đổi mới , không chịu học hỏi . Hiện nay đang thiếu
những chuyên gia kinh tế và đội ngũ quản lý giỏi , đội ngũ công nhân có
30. tay nghề . Mặc dù ta đã tiến hành cải cách bộ máy quản lý hành chính
nhưng chưa có hiệu quả . Công cụ quan trọng để phát triển kinh tế là kế
hoạch định hướng nhưng các kế hoạch hiện nay vạch ra chỉ mang tính cân
đối hiện vật , các chỉ tiêu được xây dựng trên tư duy chủ quan . Trình độ
tay nghề của người lao động ở mức thấp , chủ yếu là lao động phổ thông ,
số người qua đào tạo là ít . Trong kinh tế thị trường mở cửa người lao
động không biết nghề thì rất khó cho họ khi tìm việc làm và nền kinh tế
khó phát triển nhanh. Như vậy, thiếu hụt về nhân tố con người đang là trở
ngại lớn cho phát triển kinh tế .
III. Phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất,
PLXH ở nước ta trong giai đoạn quá độ.
1. .Phương hướng và mục tiêu phát triển KT-XH Việt Nam trong
kế hoạch 2006 -2010.
1.1. . Các mục tiêu chính sách kinh tế .
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm ít nhất là 7 ,5 -8 % và
phấn đấu trên 8 % . Năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
.Phấn đấu đến 2010 :
Tổng sản phẩm GDP năm 2010 gấp 2 ,1 lần năm 2000
Thu nhập bình quân tính theo đầu người 1050 -1100 USD
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến :
- Tỷ trọng nông , lâm, ngư nghiệp 15 -16%.
- Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 43 -44 %.
- Tỷ trọng các ngành dịch vụ 40 -41 %.
Huy động GDP vào ngân sách 21 -22 %
1.2. . Các mục tiêu chính sách xã hội .
- Tỉ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80 %, tỉ lệ học
sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 40 % vào năm 2010 .
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục giáo dục trung học cơ sở.
31. - Giảm tỉ lệ sinh bình quân hàng năm 0,4 -0 ,5 ‰ ; tốc độ phát triển dân
số vào năm 2010 khoảng 1 ,23%.
- Tạo việc làm , giải quyết thêm việc làm cho 7 ,5 -8 ,0 triệu lao động,
bình quân 1 ,5 -1 ,6 triệu lao động /năm ; nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên
30 % vào năm 2010 .
- Cơ bản xoá hộ đói , giảm t ỉ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn hiện nay
của Việt Nam) xuống dưới 5 % vào năm 2010 .
- Đáp ứng 40 % nhu cầu thuốc chữa bệnh sản xuất trong nước, giảm tỉ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 20-25 % vào năm 2010 . Nâng tuổi thọ
bình quân vào năm 2010 lên 72 tuổi.
- Cung cấp nước sạch cho 80 -90 % dân số nông thôn.
2. . Các giải pháp thực hiện
2.1. . Phương hướng để giải quyết tốt mối quan hệ.
Một là , thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội. Phát triển kinh tế với tốc độ cao là điều kiện cần thiết
để đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội, ngược lại giải quyết tốt các
vấn đề thuộc chính sách xã hội sẽ tạo nên sự ổn định và tạo động lực cho
phát triển kinh tế, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của xã
hội .
Cần khắc phục quan niệm hẹp hòi cho rằng chính sách xã hội chỉ là
hoạt động cứu tế, bảo hộ, trợ cấp , giúp đỡ cho những người khó khăn.
Thực tế các yêu cầu chính sách xã hội sẽ chi phối cân bằng cung , cầu xã
hội , chi phối các kế hoạch phát triển kinh tế . Hiện tại các vấn đề xã hội
ở nước ta chưa được xem xét toàn diện, đồng thời với các vấn đề kinh tế ,
nhất là trong các dự án đầu tư. Bên cạnh các biện pháp nhằm đổi mới
nhận thức, cần có một hệ thống chính sách , các quy chế của Nhà n ước để
khắc phục tình trạng này.
Hai là , thực hiện tốt việc xã hội hoá các vấn đề chính sách xã hội và
phúc lợi xã hội. Trước đây trong thời kỳ bao cấp , chúng ta cho rằng Nhà
nước phải đứng ra chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng thực tế ở
nước ta, cũng như kinh nghiệm của nhiều nước khác cho thấy Nhà nước
32. không đủ sức bao sân , mà việc thực hiện tốt chính sách xã hội phải là sự
nghiệp của cả nước, cộng đồng , gia đình và cá nhân cùng tham gia đóng
góp , xây dựng. Nhà nước phải có quỹ phúc lợi xã hội dồi dào, phân phối
công bằng , hợp lý. Vấn đề bộ máy và quản lý là rất quan trọng. Bộ máy
phải có hiệu lực và hiệu quả cao, cán bộ có tài , có đức được nhân dân nể
trọng.
Ba là , đa dạng hình thức và phong phú về loại hình nhưng mục tiêu
phải thống nhất: các hoạt động của chính sách xã hội đều là hoạt động
phi lợi nhuận,đều phấn đấu cho chất lượng, hiệu quả phục vụ cao. Cần
phải khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường vào các lĩnh
vực xã hội , nhất là khuynh hướng thương mại hóa thuần tuý trong tổ chức
các hoạt động chính sách xã hội .
Bốn là , cần có chiến lược, cơ chế , chính sách để giải quyết mối quan
hệ giữa chính sách phát triển kinh tế và mở rộng thực hiện chính sách xã
hội. Chỉ có trên cơ sở phát triển kinh tế mạnh mẽ và vững chắc mới có
điều kiện để thực hiện mở rộng và nâng cao chất lượng phúc lợi xã hội,
thực hiện tốt chính sách xã hội .
Chiến lược phát triển chính sách xã hội phải toàn diện , có bước đi
thích hợp và tương thích với phát triển kinh tế . Trên phạm vi toàn xã hội
cũng như trong từng phương án đầu tư, phải quán triệt quan điểm hiệu quả
kinh tế xã hội để có tỷ lệ hợp lý cho đầu tư giải quyết các vấn đề xã hội
cũng như các vấn đề kinh tế . Khuyến khích các khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh tham gia cung cấp các dịch vụ y tế , văn hóa, giáo dục , thể
dục thể thao, giới thiệu việc làm và đa dạng hoá các hình thức hoạt động
trong các lĩnh vực đó .
Năm là , tăng cường quản lý Nhà nước đối với công tác thực hiện
chính sách xã hội và phúc lợi xã hội . Cần đưa ra chiến lược quy hoạch
tổng thể phát triển các lĩnh vực phúc lợi, các văn bản pháp quy, hệ thống
cơ chế chính sách , những quy định và công tác kiểm tra , kiểm
soát....Ngoài chức năng định hướng , kiểm soát , Nhà nước có vai trò rất
33. quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động chính sách xã hội cụ thể ở
từng lĩnh vực và địa điểm cụ thể.
Sáu là , tổ chức tốt việc đào tạo bồi dưỡng toàn diện cho cán bộ làm
công tác chính sách xã hội. Chương trình đào tạo phải triển khai trên cả 2
mặt : rèn luyện đạo đức nghề nghiệp và học tập chuyên môn. Thường
xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ , học tập kinh nghiệm của các nước
khác trên thế giới đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng chiến lược, kế hoạch
giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và mở rộng, nâng cao chất
lượng của chính sách xã hội , xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách , lựa
chọn và phát triển các hình thức tổ chức thuwc hiện chính sách xã hội .
2.2. . Các giải pháp chủ yếu .
2.2.1. Giải pháp thực hiện các chính sách kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Đối với khu vực thành thị:
Khu vực thành thị bao gồm các trung tâm đô thị, thị trấn và các khu
công nghiệp , do có nền tảng phát triển nên cơ chế đầu tư chủ yếu là huy
động từ cộng đồng và vốn vay, tạo nên thị trường nội địa vùng làm đầu
mối giao lưu giữa các vùng trong toàn quốc . Trong thời gian tới tiếp tục
thực hiện các chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn nhất là
ở các địa bàn có điều kiện lập khu chế xuất , khu công nghiệp tập trung .
Từng bước cải thiện cơ chế pháp lý để các doanh nghiệp trong và ngoài
nước tích cực tham gia vào các khu công nghiệp . Phát triển các tập đoàn
sản xuất mạnh của Nhà nước ở các vùng hoặc trên quy mô cả nước. Nếu
như kinh tế ở khu vực này tăng trưởng mạnh sẽ tạo tiền đề cho việc phát
triển kinh tế ở nông thôn.Kêu gọi và có chính sách đầu tư đúng đắn, huy
động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển kinh tế
- Đối với khu vực nông thôn:
Khu vực này bao gồm các vùng đệm ở giữa các đô thị , vùng sâu, vùng
xa. Đây là khu vực tập trung đại bộ phận dân cư đói nghèo có thu nhập
thấp. Để tránh sự tụt hậu cần nâng cao trình độ dân trí , tiến tới xoá đói
giảm nghèo đưa nền kinh tế dần tăng trưởng mới hy vọng giảm thiểu
khoảng cách .
34. 2.2.2. 2 . Giải pháp về phân phối thu nhập ,việc làm , giảm nghèo đói.
2 .2 .2 .1 . Về phân phối thu nhập .
Phân phối lại thu nhập trong các tầng lớp dân cư.Thực hiện chính sách
phát triển kinh tế luôn gắn với công bằng xã hội là chủ trương của ta.
Công bằng xã hội thể hiện ở cả phân phối tư liệu sản xuất hợp lý lẫn kết
quả sản xuất cũng như việc tạo điều kiện phát triển toàn năng của mọi
thành viên. Thực hiện nhiều hình thức phân phối , lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời phân phối dựa trên
mức đóng góp các nguồn lực khác như vốn , tài sản , tri thức, sáng kiến
kỹ thuật vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua chính
sách xã hội đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi người
lao động. Nhà nước thông qua các sắc thuế đặc biệt là thuế thu nhập để
giảm bớt chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và huy động sự
đóng góp của người có thu nhập cao vào sự phát triển xã hội .
2 .2 .2 .2 . Về vấn đề việc làm .
Đẩy mạnh các biện pháp giải quyết việc làm vừa mang tính chiến
lược vừa mang tính cấp thiết trong giai đoạn tới . Cần tổ chức lại toàn bộ
lao động xã hội để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế .Kết
hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ là chính với việc phân bố lại lao
động theo vùng lãnh thổ, xúc tiến hợp tác lao động với nước ngoài , tổ
chức “đào tạo” lại đội ngũ lao động hiện có và phổ cập nghề nghiệp cho
lao động xã hội (thanh niên ) nhằm hình thành đội ngũ lao động có cơ cấu
, số lượng và chất lượng phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và đòi hỏi
của thị trường , coi trọng và khuyến khích các hình thức thu hút nhiều lao
động và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.2.2.3. .3 . Về công tác xoá đói giảm
nghèo . 2 .2 .2 .3 .1 . Hỗ trợ trực tiếp hộ
nghèo đói
Hỗ trợ tín dụng cho khoảng 2 ,65 triệu hộ nghèo đói vay với mức
bình quân 2 triệu đồng /hộ, lãi suất thấp , không cần thế chấp .
Hướng dẫn cách làm ăn và chuyển giao kỹ thuật cho người nghèo,
tạo cho họ kiến thức và kinh nghiệm sản xuất , tiêu thụ sản phẩm .
35. Hỗ trợ cho 375000 hộ đói nghèo thiếu đất hoặc không có đất sản
xuất ở nông thôn do cầm cố , chuyển nhượng , ...có lại đất để sản xuất
thông qua các biện pháp : cấp mới , giao đất giao rừng , chuộc lại đất
v.v...
Hỗ trợ người nghèo trong dạy nghề , tạo việc làm(gắn với chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn ), trong các chính sách về giáo dục , y tế
như miễn giảm học phí , cấp học bổng , sách , vở học tập cho gần 2 triệu
học sinh con em các hộ nghèo đói , ...
Hỗ trợ lương thực , thực phẩm , thuốc chữa bệnh ... cho 15 vạn đồng
bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn và gần 1 ,1 triệu người trong diện
vận động định canh, định cư các điều kiện sản xuất ổn định và nâng cao
mức sống.
2.2.2.3.2. .2 . Hỗ trợ trực tiếp xã nghèo .
Gồm hỗ trợ đầu tư 7 công trình cơ sở , hạ tầng thiết yếu : điện ,
đường ô tô, trường học , bệnh xá, chợ , nước sạch, trên nguyên tắc Nhà
nước và nhân dân cùng làm . Trong đó tập trung ưu tiên hỗ trợ cho 1000
xã nghèo nhất thuộc khu vực miền núi , biên giới , hải đảo.
2.2.2.3.3. .3 . Tạo nguồn lực.
Các hình thức huy động vốn cho chương trình quốc gia xoá đói giảm
nghèo cần được đa dạng hóa , từ nhiều nguồn khác nhau, gồm : vốn trích
từ ngân sách trung ương và địa phương; vốn huy động cộng đồng và các
tổ chức kinh tế –xã hội thông qua Ngân hàng phục vụ người nghèo và các
quỹ xoá đói giảm nghèo, đồng thời Bộ lao động – Thương binh – Xã hội
phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu việc phát hành trái phiếu xoá đói
giảm nghèo ; vốn từ lao động công ích của nhân dân và có thể thu hút sự
tham gia của lực lượng vũ trang trên địa bàn ; vốn lồng ghép với các
chương trình mục tiêu khác và nguồn vốn từ hợp tác quốc tế(chính phủ và
phi chính phủ), trong đó có nguồn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới .
2.2.2.3.4. .4 . Một số giải pháp khác.
Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy chỉ đạo thực hiện
chương trình xoá đói giảm nghèo từ trung ương đến phường , xã . Xây
36. dựng quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo chương trình ở các cấp . Phối
hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức , đoàn thể
thành viên trong việc lập danh sách, huy động nguồn lực , vận động xây
dựng phong trào v.v...đồng thời , phải phân công cụ thể , phát huy vai trò
của tất cả các cấp , các ngành có liên quan đến công tác xoá đói giảm
nghèo.Duy trì các chương trình Ngày vì người nghèo, phong trào xoá nhà
dột nát, chương trình tương thân tương ái khác để giải quyeet tốt các vân
đề xã hội, giải quyết các mặt trái của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ
quá độ.
Tăng cường đào tạo , tập huấn nâng cao trình độ , năng lực của đội
ngũ cán bộ chuyên trách xoá đói giảm nghèo các cấp , đặc biệt là cán bộ
xã , phường.
Tổ chức lồng ghép có hiệu quả xoá đói giảm nghèo với các chương
trình mục tiêu khác có nội dung liên quan đến xoá đói giảm nghèo như:
chương trình 135 , 327 , chương trình việc làm , nước sạch và vệ sinh môi
trường v.v....nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp , tiết kiệm nguồn lực , nâng
cao hiệu quả đầu tư đối với mỗi chương trình.
2 .2 .2 . Giải pháp liên quan đến các lĩnh vực xã hội .
2 .2 .2 .1 . Phát triển giáo dục - đào tạo
Nếu muốn xoá bỏ bất bình đẳng ở nông thôn thì không thể bỏ qua vấn
đề giáo dục - đào tạo . Cụ thể có các chính sách hỗ trợ con em dân tộc ,
gia đình nghèo có điều kiện đi học , phát triển hơn nữa các trường nội trú
, bán trú, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên bằng các chính sách đãi
ngộ khuyến khích , mở rộng hơn nữa các trường dạy nghề ở địa phương,
tăng nhanh tỷ trọng dạy nghề dưới đại học, phát triển các trường đại học,
cao đẳng ở địa phương để đáp ứng nhu cầu học tập và phát huy nguồn
nhân lực tại chỗ,…Thực hiện tốt chính sách xã hội hoá trong học tập, đào
tạo, thí điểm cổ phần hoá một số trường Đại học…
Đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhằm huy động được tối đa số
lượng người tham gia học tập, mở rộng các cơ hội học tập cho mọi người .
37. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, nâng dần chất lượng để
khắc phục tình trạng thiếu giáo viên ở tất cả các cấp đặc biệt là dạy nghề .
Tuyển chọn , bồi dưỡng , sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục -
đào tạo . Tăng cường thanh tra, kiểm tra để đảm bảo tính công bằng , dân
chủ .
2.2.2.2. .2 .Tăng cường công tác kế hoạch hoá gia đình.
Một trong những nguyên nhân của nghèo đói là dân số tăng nhanh,
mọi nhu cầu chăm sóc phụ nữ , trẻ em không được đáp ứng nhất là với gia
đình đông con. Vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta phải thực hiện tốt công
tác dân số , giảm tỉ lệ tăng dân số thì chính sách kinh tế mới đạt hiệu quả
cao.
2.2.2.3. .3 .Giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.
Thực hiện phương châm bảo đảm trẻ em sinh ra khoẻ mạnh , đủ cân ,
được chăm sóc để không bị suy dinh dưỡng là chính .Do đó các hoạt động
cần tập trung vào chăm sóc người mẹ có thai để giảm nguy cơ trẻ sinh ra
bị thiêú cân , thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý.
Thực hiện tích cực một nhóm các hoạt động chăm sóc tối thiểu tại hộ
gia đình cho các đối tượng bà mẹ có thai và cho con bú , trẻ em dưới 2
tuổi (nuôi con bằng sữa mẹ, uống vitamin A….)
Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thông nhằm nâng cao nhận thức
chung của cộng đồng về vấn đề này, đồng thời với việc hướng dẫn các
hành vi cụ thể thích hợp với các đối tượng, các vùng sinh thái khác nhau.
Củng cố màng lưới giám sát dinh dưỡng ở các cấp , coi các chỉ tiêu về tình trạng
dinh dưỡng trẻ em nằm trong yếu tố các chỉ tiêu cơ bản về phát triển kinh tế –xã hội .
Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng đòi hỏi phải được xã hội
hoá cao.
2.2.2.4. .4 . Về môi trường.
Phải gắn chặt chính sách kinh tế với chính sách bảo vệ môi trường,
huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp dân cư , của các doanh nghiệp và
các tổ chức xã hội vào lĩnh vực bảo vệ môi trường , tổ chức thực hiện các
38. quy định pháp luật về môi trường , các chính sách môi trường thích hợp ,
nhất là chính sách thuế , phí môi trường , các loại quỹ môi trường….
2.2.2.5. .5 . Chống tham nhũng, buôn lậu.
Đây là các hoạt động có ảnh hưởng tiêu cực đến công bằng xã hội góp
phần tăng nhanh sự phân hoá giàu nghèo .Nhiều người giàu lên nhờ làm
ăn bất chính . Sự giàu lên này gắn với ngân sách thất thoát do đó các
khoản đầu tư vào các dịch vụ công cộng bị giảm , xói mòn kỷ cương.Đó là
mặt trái của cơ chế thị trường. Nếu không có biện pháp sẽ tạo căng thẳng
trong xã hội , mọi chính sách kinh tế bị vô hiệu hoá , lòng tin của người
dân giảm sút.
2.2.2.6. .6 . Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết
mối quan hệ.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ ở
khu vực nông thôn như y tế , giáo dục , xây dựng cơ sở hạ
tầngv.v…Những dịch vụ này khi đến với người có nhu cầu sẽ làm tăng lợi
ích cho xã hội . Hơn nữa các hộ gia đình nhiều khi không bảo vệ được
mình trong rủi ro như thiên tai , ốm đau…Vì vậy Nhà nước cần giữ vai trò
quan trọng trong việc tạo ra mạng lưới bảo hiểm để bảo vệ họ trước rủi
ro. Việc cung cấp các dịch vụ này một cách bình đẳng vừa đem lại công
bằng xã hội vừa đem lại hiệu quả rất thiết thực, nó đóng góp vào mục đích
tăng trưởng lâu bền và giảm đói nghèo .Chỉ có chính phủ mới thực hiện
các dịch vụ này một cách có hiệu quả vì tư nhân khó có thể làm được.Do
vậy chính phủ phải đứng ra thực hiện các hoạt động này nhưng do ngân
sách hạn hẹp vì vậy cách tốt nhất để thực hiện là chính phủ và nhân dân
cùng làm. Nếu như các hoạt động này được thực hiện tốt nó sẽ đóng góp
rất lớn vào quá trình thực hiện giảm bất bình đẳng ở khu vực nông thôn.
39.
40. c. Kết luận
Tóm lại , chính sách kinh tế hướng tới tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời
sống vật chất và chính sách xã hội hướng tới nâng cao phúc lợi xã hôi là một trong
những mối quan hệ cơ bản , điển hình nhất của quá trình phát triển . Có thể nói
thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là chính sách tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện công bằng xã hội . Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết , quan
trọng nhất của sự phát triển nhưng nó chưa đưa tới sự phát triển . Phát triển chỉ có
được khi tăng trưởng tạo ra được những chuyển biến trong cơ cấu kinh tế và cấu
trúc xã hội mà ở đó mỗi người dân đều được hưởng những thành quả của tăng
trưởng và có thể phát triển cá nhân mình. Công bằng xã hội chỉ có thể đạt được
trong điều kiện ở đó mỗi cá nhân có đầy đủ các điều kiện như tham gia vào các
hoạt động cộng đồng.
Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nền kinh tế đã đạt được mức tăng trưởng khá
cao làm thay đổi hẳn diện mạo kinh tế so với giai đoạn suy thoái và khủng hoảng
của thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhờ kinh tế tăng trưởng, đời sống của
nhân dân nói chung được cải thiện rõ rệt hơn so với trước , tuy rằng vẫn còn là một
trong những nước có thu nhập tính theo đầu người thấp và mức độ chênh lệch về
thu nhập tính theo chỉ số Gini tương đối thấp. Tuy nhiên , đó mới là tình hình của
hiện tại . Còn tương lai , liệu rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân
phối thu nhập của Việt Nam sẽ vận động theo hướng nào và chế độ phân phối thu
nhập hiện tại có đóng được vai trò là một trong những động lực căn bản cho sự
tăng trưởng kinh tế cao liên tục và bền vững hay không, chắc hẳn còn phụ thuộc
vào việc giải quyết không ít những vấn đề đã, đang và sẽ còn phát sinh trong quá
trình chuyển đổi cơ chế vận hành nền kinh tế đặc biệt nền kinh tế thị trường trong
thời kỳ quá độ tiên lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Giải quyết bài toán giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội không đơn
giản, nhưng chúng ta tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với
bản chất và cốt cách con người Việt Nam chúng ta sẽ đạt được mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
41. d. Danh mục tài liệu tham khảo
1. . Giáo trình triết học.
2. . Giáo trình Kinh tế phát
triển. 3 . Giáo trình kinh tế
chính trị.
4 . Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, Đại hội IX, Đại hội X.
5 . Tạp chí Cộng sản năm 2000 - 2006 -2007 .
6. . Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế. 7 . Thời báo kinh tế Việt
Nam.
Đề cương chi tiết
A. Đặt vấn đề
B. Nội dung
I. Những vấn đề lí luận cơ bản
1. . Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội.
1.1. . Khái niệm chính sách kinh tế, chính sách xã hội, thời kỳ
quá độ tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. . Các chỉ tiêu phản ánh.
42. 1.3. . Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và PLXH .
2. . Một vài sự lựa chọn giữa chính sách kinh tế tăng trưởngg
với giải quyết chính sách xã hội trong quá trình phát triển kinh
tế của các nước.
2.1. . Quan điểm tăng trưởng trước , bình đẳng sau.
2 .2 . Quan điểm ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng .
2 .3 . Quan điểm chính sách kinh tế tăng trưởng đi liền với công
bằng xã hội (Thực hiện chính sách xã hội).
3. . Kinh nghiệ m rút ra từ một số nước .
3.1. Chính sách kinh tế hướng tới sự tăng trưởng kinh tế nhanh với phân
phối công bằng, nâng cao mức sống cho mọi tầng lớp dân cư đặc biệt là
người nghèo nói chung và khu vực nông thôn nói riêng.
3.2. Chú trọng phát triển nông nghiệp và đảm bảo chính sách xã hội cho
người dân.
3.3. Coi giáo dục là nền tảng .
4. .Quan điể m của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa
chính sách kinh tế với việc thực hiện các chính sách xã hội
II. .Thực trạng việc thực hiện chính sách kinh tế và thực
hiện chính sách xã hội Việt Na m.
1. . Đánh giá thực trạng .
1.1. . Thực trạng chính sách kinh tế.
1.2. . Thực trạng thực hiện các chính sách xã hội.
2. . Đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với
chính sách xã hội nhằ m nâng cao đời sống vật chất và phúc lợi
xã hội ở nước ta.
2.1. . Những thành tựu đạt được .
2.2. . Những hạn chế và nguyên nhân.
III. Phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ biện
chứng giứa chính sách kinh tế và chính sách xã hội nhằ m không
43. ngừng nâng cao đời sống vật chất , PLXH ở nước ta trong thời
kỳ quá độ.
1. . Phương hướng và mục tiêu phát triển KT-XH Việt Nam
trong kế hoạch 2006 -2010 .
1.1. . Các mục tiêu chính sách kinh
tế. 1 .2 . Các mục tiêu chính sách xã
hội . 2 . Các giải pháp thực hiện
2 .1 . Phương hướng để giải quyết tốt mối quan hệ .
2 .2 . Các giải pháp chủ yếu.
C. Kết luận .
D. Danh mục tài liệu tha m khảo