SlideShare a Scribd company logo
1 of 54
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
HẠ TH TH NH HÀ
U N NI VỀ I Đ
TR NG HI H ẠT H NH VI T N
HU ỂN THỂ TỪ T H VĂN HỌ
(GI I Đ ẠN – 2015)
LUẬN VĂN THẠ SĨ
ậ , Đ ả -T ề
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
HẠ TH TH NH HÀ
U N NI VỀ I Đ
TR NG HI H ẠT H NH VI T N
HU ỂN THỂ TỪ T H VĂN HỌ
GI I Đ ẠN – 2015)
Luậ ă t ạ ậ , - Đ ả T ề
Mã số: 60210231
N ƣờ ƣớng dẫn khoa họ TS H G
Chủ t ch Hộ đồng chấm luậ ă GS TS ạm Gia Lâm
Hà Nội – 2016
ỜI Đ N
Tôi xin cam đoan rằng luận văn Quan niệm về cái Đẹp trong các phim
hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 – 2015)
là đề tài nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tư liệu, kết quả
nghiên cứu của luận văn chưa được công bố ở bất kỳ tài liệu nào khác. Các
nhận định, tài liệu tham khảo và trích dẫn được sử dụng trong luận văn này
đều nêu rõ xuất xứ tác giả và được ghi trong mục Tài liệu tham khảo ở cuối
luận văn.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam đoan trên.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả Luận văn
ạ T T H
LỜI CẢ ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới giảng
viên hướng dẫn: TS. Hoàng C m Giang - người đã luôn tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài và làm luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy Trần Hinh người đã truyền cảm
hứng cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn Nghệ thuật học và
khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã trang bị cho
tôi những kiến thức quý giá trong thời gian học tập tại trường.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân tới các nghệ sĩ hoạt hình lão thành,
những đồng nghiệp đang công tác tại Hãng phim hoạt hình Việt Nam đã nhiệt
tình chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức nghề để giúp tôi hoàn thành đề tài
nghiên cứu này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Học viên
Phạm Thị Thanh Hà
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 3
1. Lý do chọ đề tài ..................................................................................... 3
2. L ch s vấ đề.......................................................................................... 5
3 Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................13
4. Mụ đí ứu..........................................................15
5 ƣơ p áp ứu......................................................................16
6. Cấu trúc của luậ ă ...........................................................................16
HƢƠNG 1: PHẠ TRÙ I Đ P VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ
TÁC PH VĂN HƢƠNG ĐẾN TÁC PH ĐI N ẢNH...................17
1.1. Những vấ đề lý luận về Mỹ học - á Đẹp ....................................17
1.1.1. Mỹ học, cái Đẹp qua các thời kỳ ...................................................17
1.1.2. Cái Đẹp trong nghệ thuật điện ảnh ................................................21
1.1.3. Cái Đẹp trong phim hoạt hình........................................................22
1.2. Một số vấ đề về chuyển thể tác ph ă ọc sang hoạt hình....23
1.2.1. Khái niệm chuyển thể, các hình thức chuyển thể và một số vấn đề
chuyển thể từ văn học sang điện ảnh........................................................23
1.2.2. Vấn đề chuyển thể trong điện ảnh hoạt hình Việt Nam.................27
HƢƠNG : QUAN NI M VỀ I Đ P VÀ H GIÁ TR TRONG
PHIM HOẠT HÌNH VI T NAM................................................................32
2.1. Sự phục dựng quan ni m về á Đẹp qua các thành tố của phim
hoạt hình Vi t Nam....................................................................................32
2.1.1. Hệ thống đề tài...............................................................................32
2.1.2. Hình tượng nhân vật.......................................................................38
2.1.3. Câu chuyện, cốt truyện ..................................................................42
2.1.4. Phương thức tự sự.........................................................................44
2
2.2. Quan ni m th m mỹ ơ ản trong phim hoạt hình Vi t Nam.......47
2.2.1. Cái Đẹp nằm trong giá trị giáo dục và luân lý...............................48
2.2.2. Cái Đẹp gắn liền với sự nâng cao tri thức về tự nhiên và xã hội…49
2.2.3. Cái Đẹp đi cùng phương thức tự sự chân phương, giản dị............50
HƢƠNG 3: HẠ TRÙ I Đ U H NH THỨ VÀ THỂ ẠI
HI H ẠT H NH VI T N .................................................................53
3 1 á Đẹp thể hi n trong hình thức phim ...........................................53
3.1.1. Cái Đẹp thể hiện qua tạo hình........................................................53
3.1.2. Cái Đẹp qua diễn xuất, động tác....................................................61
3.1.3. Cái Đẹp qua việc vận dụng các yếu tố kỹ thuật và công nghệ ......69
3 á Đẹp thể hi n trong thể loại phim ...............................................76
3.2.1. Cái Đẹp trong phim hoạt hoạ 2D...................................................77
3.2.2. Cái Đẹp trong phim cắt giấy..........................................................82
3.2.3. Cái Đẹp trong phim 3D..................................................................86
3.2.4. Cái Đẹp trong các thể loại tổng hợp ..............................................91
KẾT LUẬN ...................................................................................................94
TƢ I U THAM KHẢO.............................................................................96
3
Ở ĐẦU
1. d ọ đề t
Ra đời vào tháng 11 năm 1959, trải qua hơn 55 năm phát triển và
trưởng thành, phim hoạt hình Việt Nam (HHVN) chính thức trở thành một bộ
phận quan trọng của nền điện ảnh nước ta. Suốt chặng đường lịch sử này,
HHVN luôn gắn liền với sự đổi thay của đất nước: thời kỳ từ 1960 đến 1975 -
vừa xây dựng cơ sở, đào tạo đội ngũ vừa sáng tác trong điều kiện chiến tranh
ác liệt; từ 1975 đến hết những năm 1986 là quãng thời gian hoạt động ổn định
trong cơ chế bao cấp của nhà nước; những năm từ 1986 đến 2000, HHVN vật
lộn trước những thăng trầm trong giai đoạn đổi mới cơ chế sản xuất cũng như
phong cách sáng tác; kể từ năm 2000 đến nay, HHVN dần định hình cơ chế
sản xuất mới và đạt được những thành quả đáng khích lệ.
Mặc dù vậy, toàn bộ phim HHVN sản xuất từ trước tới nay mới chỉ
dừng lại con số hơn 500 bộ phim. So với các nước có nền công nghiệp hoạt
hình với doanh thu và lợi nhuận khổng lồ như Mỹ, Nhận Bản, Hàn Quốc…
thì HHVN còn quá ít về số lượng, chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu
xem phim của khán giả. Về chất lượng, việc giành được một số giải thưởng
trong nước và quốc tế là điều đáng khích lệ với HHVN, song trên thực tế,
phim của chúng ta còn một khoảng cách khá xa so với các nền hoạt hình trong
khu vực và trên thế giới. Có thể nói, HHVN thiếu về số lượng, yếu về chất
lượng, hạn chế về tư duy nghệ thuật và công nghệ sản xuất là thực trạng đáng
phải suy nghĩ. Một thể loại vô cùng hấp dẫn của điện ảnh, luôn có một lượng
khán giả khổng lồ không giới hạn ở nhóm đối tượng trẻ em mà cả người lớn
sẵn sàng chờ đợi, đón nhận, tại sao phim HHVN vẫn dậm chân tại chỗ? Điều
này thôi thúc chúng ta cần tìm hiểu căn nguyên, cội rễ xem trong thời gian
qua, phim HHVN đã hướng đến một hệ giá trị thẩm mỹ như thế nào? Hệ giá
4
trị ấy có gì tương thích hoặc khác biệt so với phim hoạt hình thế giới. Hệ giá
trị này thể hiện quan niệm của các nhà làm phim HHVN như thế nào về cái
Đẹp, về lý tưởng thẩm mỹ, nhất là khi đối tượng khán giả đầu tiên mà phim
hoạt hình hướng đến là thiếu nhi? Và thông qua các tác phẩm hoạt hình
chuyển thể từ nguồn văn học, chúng ta cũng có thể nhìn nhận lại: xem văn
học có vị trí và tác động như thế nào trong việc định hình cái Đẹp trong quan
niệm thẩm mỹ của các nhà làm phim HHVN.
Lựa chọn khảo sát các bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn
học trong giai đoạn từ năm 2000 - 2015, chúng tôi xác định tầm quan trọng
cũng như vai trò của văn học đối với sự phát triển của hoạt hình. Là mảnh đất
màu mỡ để khai thác, văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt hình. Từ
khi ra đời đến nay, HHVN có nhiều bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm
văn học nổi tiếng như Mèo con (1965) chuyển thể từ truyện Cái Tết của Mèo
con của nhà văn Nguyễn Đình Thi; Dế Mèn (1979) chuyển thể từ truyện Dế
Mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài; Chuyện Ông Gióng (1970) hay Sơn
Tinh Thuỷ Tinh (1972) chuyển thể từ kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam.
Trong thời điểm hiện tại, các nhà làm phim HHVN vẫn tiếp tục khai thác nhiều
tác phẩm văn học để làm phim hoạt hình. Nhiều nhà làm phim cho rằng, phim
HHVN luôn coi trọng yếu tố giáo dục nên việc kế thừa và phát huy những giá
trị đã được đúc kết, thẩm định và được công chúng đón nhận qua các tác phẩm
văn học sẽ là một lợi thế khi xây dựng một bộ phim hoạt hình.
Để có một nền hoạt hình phát triển và phù hợp với các tiêu chí của nền
điện ảnh đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời hòa nhập được với điện ảnh hoạt
hình thế giới, các nhà làm phim cần tìm ra hướng phát triển thích hợp. Đặc
biệt, trong xu thế nền hoạt hình thế giới không chỉ giới hạn trong việc phục vụ
nhóm đối tượng thiếu nhi mà còn phục vụ cả người lớn, chúng ta cần nâng
cao chất lượng phim, mở rộng nội dung đề tài phản ánh, cải tiến công nghệ
5
làm phim để phim HHVN đáp ứng được nhiều hơn nữa kỳ vọng và tầm đón
đợi của khán giả. Với mong muốn như trên, đề tài nghiên cứu Quan niệm về
cái Đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn
học (Giai đoạn 2000 – 2015) hướng tới mục tiêu xác định được quan niệm
chung về cái Đẹp trong các phim HHVN, để góp thêm một tài liệu mang tính
lý luận giúp cho nhà làm phim có thêm kiến thức về nghề, nâng cao nghệ
thuật sáng tác và quan điểm mỹ học, xây dựng định hướng trong hoạt động
sáng tác phim HHVN thời gian tới.
2. ấ đề
Là một thể loại đặc biệt thuộc loại hình nghệ thuật điện ảnh, có ngôn ngữ
biểu hiện giàu sức truyền cảm, có khả năng đi vào đời sống sinh hoạt và tinh
thần của khán giả, phim hoạt hình có sức sống vững bền và cách thế tồn tại khác
lạ. Trong xã hội hiện đại, nhu cầu thưởng thức phim hoạt hình như một món ăn
hàng ngày, một thói quen dần được khẳng định, đặc biệt với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ công nghệ thông tin, hoạt hình càng có cơ hội
thúc đẩy phát triển. Có thể nói, đây là giai đoạn có nhiều yếu tố thuận lợi để hoạt
hình phát triển hơn cả. Và thực tế, từ trước đến nay, chưa bao giờ việc sản xuất
phim hoạt hình rở rộ như hiện tại: sản xuất phim hoạt hình tại hãng phim của nhà
nước, ở các công ty tư nhân, các nhóm làm phim độc lập, thậm chí các cá nhân,
sinh viên và học sinh… đều có thể làm được phim hoạt hình.
Mặc dù thực tế sáng tác khá sôi động song ở mảng lý luận, lý thuyết về
phim hoạt hình (nền móng, là cái gốc để phát triển, định hướng sáng tác) thì lại
khá trầm lắng. Có thể nói, so với vai trò và tầm vóc của một môn nghệ thuật
quan trọng, nền lý luận của HHVN khá nghèo nàn và chưa tương xứng với yêu
cầu sáng tác. Với mong muốn hệ thống lại toàn bộ những tài liệu mang tính lý
luận cơ bản của HHVN phục vụ đề tài nghiên cứu về Quan niệm về cái Đẹp
trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai
6
đoạn 2000 - 2015) chúng tôi tiếp cận các tư liệu này theo các hướng dưới đây.
2.1. Phim hoạt hình nhìn từ góc độ tổng thể hình thức, nội dung, phong cách
Trong khi nền điện ảnh hoạt hình của các nước phát triển như Mỹ,
Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và đặc biệt là nước Nga - Xô Viết, chiếc nôi
đào tạo ra những nhà làm phim HHVN đều có một bề dày lý luận và nhiều
công trình nghiên cứu lớn thì ở Việt Nam các công trình nghiên cứu còn rất
hạn chế. Cuốn sách của tác giả Ngô Mạnh Lân: Hoạt hình nghệ thuật thứ tám
(1997) là một trong số ít các công trình đặt HHVN như một đối tượng nghiên
cứu dưới góc độ tổng thể về cả nội dung, hình thức và phong cách. Nghiên
cứu về bản chất nghệ thuật của hoạt hình, tác giả đã chỉ ra những đặc trưng cơ
bản của hoạt hình là “cuộc trình chiếu hình tượng nghe - nhìn cực kỳ ngoạn
mục” [14, tr.9], sử dụng những hình vẽ chuyển động dưới tác động của các
phương tiện kỹ thuật tạo ra hiệu quả nghệ thuật đặc biệt. Tác giả nhấn mạnh
vào nét riêng biệt của chuyển động trong hoạt hình khác với chuyển động
được quay lại trong điện ảnh. Nếu như “hình” trong điện ảnh nói chung là
“bức ảnh thật” thì “hình” trong hoạt hình là những nét vẽ do họa sĩ sáng tạo
nên, có thể gần gũi, hoặc giống như thật nhưng cũng có thể cường điệu, biến
dạng, trừu tượng… tuỳ thuộc sức tưởng tượng và khả năng sáng tạo của họa
sĩ. Do vậy, sự “chuyển động” của hoạt hình sẽ không bị bó buộc hoặc bắt
chước hoặc chính là sự ghi chép lại các chuyển động thật tuân theo qui luật tự
nhiên của chuỗi các bức ảnh thật ghép nối với nhau mà nó có thể linh hoạt, bỏ
qua các bước chuyển động hoặc kéo dài các bước chuyển động tạo nên tính
ước lệ, giả định. Với cách biểu đạt giàu sáng tạo, giàu cảm xúc như vậy, hoạt
hình đã tạo cho mình một thứ ngôn ngữ riêng, hình thành một loại nghệ thuật
mới mẻ mà tác giả gọi là “nghệ thuật thứ tám” [14, tr 54]. Cũng trong cuốn
sách, tác giả đã trình bày các nghiên cứu xoay quanh các vấn đề cơ bản của
hoạt hình: về kịch bản, về công tác đạo diễn, về tạo hình, về âm nhạc… Ngoài
7
việc đưa ra những suy nghĩ và luận bàn phân tích một cách khá hệ thống các
yếu tố về cả hình thức và nội dung, cuốn sách còn cung cấp cho độc giả
những đánh giá tổng quan về sự phát triển của hoạt hình cả về mặt chất lẫn
lượng, sự trưởng thành về mặt thể loại, phong cách sáng tác, tư duy nghệ
thuật... Phác thảo những chân dung nghệ sĩ hoạt hình lớn trên thế giới, đưa ra
những so sánh, cung cấp cho độc giả những hiểu biết rộng hơn về HHVN và
thế giới, cuốn sách giống như cuốn cẩm nang cung cấp những lý luận nền
tảng cùng những kiến thức chuyên môn, là tài liệu có giá trị đối với bộ môn
nghệ thuật hoạt hình.
Ngoài công trình nói trên, có thể kể đến các nghiên cứu của nhóm tác
giả trong các cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam (tập 1, 2, nhiều tác giả 2003,
2005) với phần trình bày tổng quan và những nhận định chung về các bước
phát triển về mặt nội dung, hình thức, phong cách của HHVN qua các thời kỳ
lịch sử. Qua những nghiên cứu này, người đọc được cung cấp các kiến thức
về hoạt hình như một thể loại riêng, sánh vai cùng các thể loại phim truyện
nhựa, phim tài liệu trong bộ môn nghệ thuật điện ảnh. Bên cạnh những công
trình nghiên cứu có qui mô kể trên, nhiều bài báo, bài nghiên cứu, bài phê
bình, đánh giá, nhìn nhận phim hoạt hình dưới góc độ tổng thể cũng đã được
xuất bản như: tập hợp các bài viết trong cuốn sách 30 năm nghệ thuật điện
ảnh (nhiều tác giả, 1983); Điện ảnh và bản sắc dân tộc (nhiều tác giả,
1994)… Nhiều bài phê bình, nghiên cứu, lý luận đăng trên các ấn phẩm báo
chí như: Một nền nghệ thuật trưởng thành trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu
(Hà Xuân Trường, Tạp chí Điện ảnh số 1/1997); Điều chủ yếu trong phim
hoạt họa (Võ Quảng, Báo Văn nghệ số 558, 1974), Yêu hoạt họa, nghĩ về
hoạt họa (Phạm Hổ, Báo Văn nghệ số 554, 1974), Bàn chuyện hoạt họa (Tô
Hoài, Báo Văn nghệ số 363, 1973)… Trong những bài báo này, nhiều nhận
định mang tính khái quát cao về HHVN đã được tập hợp trong cuốn Lịch sử
8
Điện ảnh Việt Nam, có thể kể ra như: nhà thơ Võ Quảng đã chỉ ra những tồn
tại của HHVN – “chưa mang được đầy đủ phong cách riêng biệt của Việt
Nam” [21, tr.333] và cần tiếp thu, hấp thụ nhiều tinh hoa trong các ngành
nghệ thuật liên quan để hình thành “phong cách độc đáo có đầy đủ giá trị
Việt” [21, tr.334]; hay như nhà báo Chính Yên với đánh giá phim HHVN đã
“mạnh dạn góp phần cho điện ảnh một phong cách làm phim hoạt họa búp bê
riêng của Việt Nam” [213, tr.333]… Từ những công trình nghiên cứu có qui
mô lớn đến những bài lý luận phê bình đăng tải trên các ấn phẩm báo chí,
chúng tôi có được những nguồn tư liệu vô cùng quí giá, là nền tảng lý luận
chính trong quá trình khảo sát, nghiên cứu đề tài luận văn.
2.2. Phim hoạt hình trong dòng chảy lịch sử điện ảnh Việt Nam
Phim hoạt hình được xem là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nền
điện ảnh Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp, đánh giá vai
trò và vị thế của phim hoạt hình trong suốt quá trình hình thành và phát triển.
Đầu tiên, phải kể đến phần trình bày về sự phát triển và trưởng thành của
HHVN từ buổi đầu sơ khai đến những năm gần đây trong hai cuốn Lịch sử
Điện ảnh Việt Nam (tập1, 2, nhiều tác giả 2003, 2005). Phản ánh một cách
trực tiếp và sâu sát quá trình phát triển và trưởng thành của HHVN, các nhà
làm phim HHVN giai đoạn đầu đã xuất bản các cuốn sách: Phim hoạt hình
những nốt thăng, nốt trầm (Ngô Mạnh Lân, 2011); Chặng đường phim hoạt
hình (Ngô Mạnh Lân, 2009); Hoạt hình Việt Nam đỉnh cao mơ ước (Trương
Qua, 2006). Như cuốn hồi ký ghi lại những tháng ngày gắn bó với hoạt hình
từ buổi đầu sơ khai cho đến thời điểm viết cuốn sách, tác giả cuốn sách
Chặng đường phim hoạt hình đã cung cấp cho độc giả những tư liệu quí giá
về sự hình thành và phát triển cả về tầm vóc và qui mô của HHVN qua từng
giai đoạn, sự thay đổi về công nghệ sản xuất, tư duy nghệ thuật, những kinh
nghiệm chuyên môn, khát vọng, trăn trở với nghề. Tiếng nói của người nghệ
9
sĩ gắn bó với nghề suốt từ khi hoạt hình ra đời đã phần nào cho chúng ta thấy
những vấn đề bản chất nhất của HHVN. Một số cuốn sách khác cũng góp một
phần vào nguồn tư liệu quí giá cho HHVN như: Phim hoạt họa Việt Nam
(Ngô Mạnh Lân, Trần Ngọc Thanh, 1997); Danh mục phim hoạt hình Việt
Nam (nhiều tác giả 1993); Kỷ yếu Hãng phim hoạt hình Việt Nam (nhiều tác
giả 1999;) Các nhà Điện ảnh Hà Nội (nhiều tác giả, 2000)… Nhiều bài viết
đăng trên tạp chí hoặc được xuất bản online cũng góp thêm tiếng nói cho
HHVN trong dòng chảy của lịch sử điện ảnh như: Phim hoạt hình Việt Nam:
Mùa xuân trẻ mãi (Ngô Mạnh Lân - Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 3-2013
Hoạt hình Việt Nam: Đợi chờ một tương lai tươi sáng (Nguyễn Hữu Phần,
http://www.tinmoi.vn.”; Phim hoạt hình Việt, khoảng trống khó lấp đầy (Nam
Phương, http://suckhoedoisong.vn/phim-hoat-hinh-viet-khoang-trong-kho-
lap-day-n102624.html); Hoạt hình Việt Nam gặt hái những thành công (Hãng
phim Hoạt hình Việt Nam, http://hoathinh.org.vn/hang-phim-hoat-hinh-viet-
nam-gat-hai-thanh-cong-mua-giai-canh-dieu-2015); Hoạt hình trong đổi mới
giáo dục (Hãng phim hoạt hình Việt Nam, http://hoathinh.org.vn/hoi-thao-
phim-hoat-hinh-trong-doi-moi-giao-duc); Chỗ đứng nào cho hoạt hình Việt,
(Khánh An, http://petrotimes.vn/cho-dung-nao-cho-phim-hoat-hinh-viet-
342641.html)..
2.3. Phim hoạt hình như một thể loại đặc biệt
Với những đặc trưng riêng biệt, phim hoạt hình có một ngôn ngữ biểu
cảm riêng, nó được xem là lĩnh vực hấp dẫn và mới mẻ luôn tạo được sự
cuốn hút với công chúng yêu điện ảnh nói chung và giới chuyên môn nói
riêng. Chính vì vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu, những bài viết, phê
bình xem xét phim hoạt hình như một thể loại đặc biệt. Tiêu biểu là cuốn
Hoạt hình Việt Nam (nhiều tác giả, 1997), cuốn sách tập hợp gần 50 bài viết
của các tác giả phân tích về HHVN theo từng thể loại: phim hoạt họa, phim
10
cắt giấy, phim búp bê… Cuốn sách đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt, thế
mạnh của từng loại phim, rút ra những kinh nghiệm về chuyên môn áp dụng
trong từng thể loại và từng bộ phim. Hoạt hình Việt Nam trở thành cuốn sách
tập hợp những bài phân tích phim có giá trị nhất, bao quát phần lớn quá trình
phát triển của HHVN. Cũng qua những bài viết này, hàng loạt những chân
dung của các nhà làm phim được giới thiệu tới công chúng thông qua các tác
phẩm hoạt hình. Cuốn sách cũng đã hệ thống và phân tích phần lớn các tác
phẩm có giá trị của các nhà làm phim, qua đó khẳng định phong cách cũng
như thế mạnh của một số nghệ sĩ hoạt hình tiêu biểu. Từ phong cách và thế
mạnh này có thể nhận rõ những nét riêng góp phần đưa hoạt hình trở thành
một thể loại đặc biệt: thể loại phim hoạt họa - gắn liền với các tên tuổi như
NSND Ngô Mạnh Lân, NSND Trương Qua, NSƯT Mai Long…; phim cắt
giấy với NSND Hà Bắc, NSND Phương Hoa…; phim búp bê với NSƯT Bảo
Quang, NSƯT Nguyễn Thị Hằng…
Trong những năm gần đây, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông
tin, phim hoạt hình đã áp dụng những công nghệ cao trong sản xuất, cho ra đời
các thể loại phim hoạt họa vi tính, phim 3D, phim cắt giấy vi tính, phim tổng
hợp các thể loại trên… Chính sự ra đời các thể loại phim mới trên cơ sở áp
dụng kỹ thuật máy tính trong các công đoạn sản xuất, những nét đặc trưng để
chứng minh hoạt hình như một thể loại đặc biệt càng trở nên rõ nét. Hàng loạt
các bài viết phân tích về HHVN đăng trên tạp chí và xuất bản online đã khẳng
định thêm về thế mạnh, những nét riêng biệt của hoạt hình so với các thể loại
khác như: Hoạt hình trong cánh diều (Minh Trí – Tạp chí Thế giới điện ảnh,
tháng 4-2013); Hoạt hình Việt Nam vẫn thiếu chất hài hước (Phương Hoa -
Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 10-2013); Hoạt hình Việt Nam còn yếu về tư
duy nghệ thuật (Kim Anh, Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 7-2013), Hoạt hình
minh họa - hướng đi hay giải pháp (Trần Thanh Việt, Tạp chí Thế giới điện
11
ảnh, tháng 10 – 2013); Phim hoạt hình chưa có nhiều đột phá (Kim Anh, Tạp
chí Thế giới điện ảnh, tháng 4/2016); Phim hoạt hình Việt Nam: Cần thay đổi
hướng tiếp cận khán giả (Tường Phạm, http://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-
hoa/Can-thay-doi-huong-tiep-can-khan-gia-355291/); Để tìm ra nhân vật phim
hoạt hình Việt Nam!?(Vương Tâm, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-
hoa/318671/de-tim-ra-nhan-vat-phim-hoat-hinh-viet-nam); Phim hoạt hình -
giáo dục trẻ thơ bằng nghệ thuật (Cao Sơn,
http://tintuc.wada.vn/e/3851231/Phim-hoat-hinh-giao-duc-tre-tho-bang-nghe-
thuat); Sức mạnh vô địch của hoạt hình (Văn Trầm http://hoathinh.org.vn/suc-
manh-vo-dich-cua-dien-anh-va-phim-hoat-hinh)
2.4. Các tác phẩm hoạt hình
Tiếp cận HHVN từ các tác phẩm hoạt hình là cách phổ biến nhất trong
nguồn tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được. Với gần 50 bài phân tích về các bộ
phim hoạt hình cụ thể, cuốn sách Phim hoạt hình Việt Nam đã tổng hợp được
hầu hết thành tựu và những tác phẩm đáng nhớ của HHVN qua các bài viết:
Cái duyên thầm của bộ phim Đáng đời thằng Cáo; Từ Phù đổng Thiên vương
đến phim Chuyện Ông Gióng (Trương Qua – Hoạt hình Việt Nam, 1997; Mèo
Con (Trần Anh Trung, Hoạt hình Việt Nam, 1997); Dế mèn phiêu lưu ký (Cao
Thuỵ, Hoạt hình Việt Nam, 1997); Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Mỹ Linh, Hoạt hình
Việt Nam, 1997)… Nhiều bài viết được tập hợp trong các cuốn sách khác
như: Đi tìm bản sắc dân tộc Ê – đê trong phim hoạt họa Đam San (Trương
Qua - Điện ảnh và bản sắc văn hoá dân tộc trong phim hoạt họa Đam San,
1994); Từ những kịch bản của tôi (Tô Hoài - Điện ảnh và bản sắc văn hoá dân
tộc, 1994)…
Thời gian gần đây, nhiều bài nghiên cứu, bài phê bình đăng tải trên báo
và các trang mạng internet đã kịp thời đưa tin và giới thiệu đến khán giả
những tác phẩm hoạt hình cũng như hoạt động sáng tác của HHVN: Để hoạt
12
hình trong Cánh diều hàng năm bay cao mãi (Minh Trí – Tạp chí Thế giới
điện ảnh, tháng 3-2015); 3D - Xu hướng mới cho hoạt hình Việt Nam (Phan
Anh, http://dantri.com.vn/giai-tri/3d-xu-huong-moi-cho-hoat-hinh-viet-
1322384759.htm), Cậu bé cờ lau - Khởi đầu bản hùng ca, (Thanh Xuân,
http://anninhthudo.vn/hau-truong/khoi-dau-ban-hung-ca/560851.antd; Trần
Khánh Duyên: Niềm vui chú Bò Vàng (Nguyễn Mai Trang,
http://hoathinh.org.vn/tran-khanh-duyen-niem-vui-chu-bo-vang); Xe đạp và
những kịch bản hoạt hình xuất sắc, (Ngô Minh Nguyệt,
http://hoathinh.org.vn/xe-dap-va-nhung-kich-ban-hoat-hinh-xuat-sac); Người
con của rồng - Duyên phận giữa phim 3D và Thái tổ Lý Công Uẩn, (Công Lê,
http://www.thegioidienanh.vn/index.php?option=com_content&id=1057:ngu
oi-con-cua-rong---duyen-phan-giua-phim-3d-va-thai-to-ly-cong-
uan&Itemid=34; Phim hoạt hình 3D về Vua Lý Công Uẩn "níu" chân khán
giả đến phút cuối (Tuyết Minh, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-
hoa/373596/phim-hoat-hinh-3d-ve-vua-ly-cong-uan-niu-chan-khan-gia-den-
phut-cuoi)... Các bài viết này đã đưa khán giả đến gần hơi với HHVN và góp
thêm những đánh giá khách quan về HHVN qua góc nhìn từ các tác phẩm.
2.5. Một số nhận định sơ lược qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu,
bài viết, bài lý luận phê bình về phim hoạt hình
Có thể nói, đa số các công trình nghiên cứu, các bài viết đã đề cập tới
phim hoạt hình ở nhiều góc độ cả về hình thức, nội dung và có nhiều thành
tựu, đóng góp cho việc nghiên cứu và thực tiễn sáng tác. Tuy nhiên, có thể
nhận thấy, các nghiên cứu này vẫn còn hạn chế, chưa đi sâu khai thác phim
HHVN dưới góc độ mỹ học.
Chúng tôi nhận thấy, một đặc điểm đáng nói trong của phim HHVN, đó
là: phần lớn các bộ phim được sáng tác dựa trên việc chuyển thể từ tác phẩm văn
13
học dành cho thiếu nhi và kho tàng văn học dân gian - lại chưa được các nhà
nghiên cứu quan tâm, lý giải tương xứng với mức độ ảnh hưởng trong thực tế.
Chúng tôi hy vọng, đề tài này sẽ có những đóng góp mang tính lý luận
về khía cạnh mỹ học trong phim hoạt hình. Chính xác hơn, thông qua tất cả các
yếu tố nghệ thuật của các bộ phim, chúng tôi muốn “phục dựng” và phác họa
nên những nội dung cơ bản về quan niệm mỹ học của các nhà làm phim
HHVN đương đại: Thế nào là Đẹp? Một bộ phim hoạt hình nên kể về chuyện
gì và kể như thế nào thì được coi là hấp dẫn, là chuẩn mực? Hệ giá trị được tạo
lập nên đằng sau những thước phim đó là gì? Những đóng góp về giá trị thẩm
mỹ của tác phẩm văn học gốc trong phim HHVN được thể hiện như thế nào?
3. Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1. Thông qua việc khảo sát và tìm hiểu các tư liệu, đặc biệt là nguồn tư
liệu với cách tiếp cận hoạt hình thông qua các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy: có
nhiều nghiên cứu, bài viết phân tích, đánh giá sâu về những nét đẹp trong phim
HHVN song để hệ thống lại, sắp xếp và xem xét chúng dưới góc độ mỹ học thì
dường như ít nghiên cứu đề cập tới. Với mong muốn đưa ra một cái nhìn, một
cách đánh giá tổng quát, gắn liền với những lý luận cơ bản về thẩm mỹ, về cái
Đẹp - đối tượng nghiên cứu của luận văn không chỉ hướng vào việc phân tích
cái Đẹp của hoạt hình mà muốn đi sâu vào phân tích Cách thể hiện cái Đẹp
trong phim hoạt hình, bởi trong thực tế sáng tác, cách thể hiện cái Đẹp của các
nhà làm phim là minh chứng rõ nét nhất cho quan niệm về cái Đẹp của họ.
2. Trên cơ sở nghiên cứu một số bộ phim hoạt hình để chỉ ra cách thể
hiện về cái Đẹp của các nhà làm phim HHVN, chúng tôi giới hạn phạm vi
nghiên cứu trong các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học trong
giai đoạn 2000-2015. Ở đây, cần phải chỉ rõ, các tác phẩm văn học chuyển thể
gồm tác phẩm văn học viết và văn học dân gian. Đối với các tác phẩm chuyển
thể từ văn học dân gian - các nhà làm phim dựa trên các câu chuyện cổ tích,
14
sự tích, truyền thuyết, huyền thoại… để xây dựng kịch bản triển khai làm
phim. Ở mảng văn học viết, các nhà biên kịch có thể chuyển thể những sáng
tác mới của các nhà văn thành kịch bản điện ảnh hoặc dùng các tác phẩm văn
học do các nhà văn sáng tác dựa trên nguồn gốc hoặc lấy cảm hứng từ các
truyện dân gian.
3. Các bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học được lựa
chọn để nghiên cứu:
Các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học dân gian:
- Sự tích cái nhà sàn (2001), đạo diễn Hà Bắc, chuyển thể từ truyện
cổ Việt Nam.
- Tiếng nhạc ve (2003), đạo diễn Lý Thu Hà, chuyển thể từ truyện ngụ
ngôn thế giới.
- Sự tích Đảo bà (2010), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ
truyện cổ Việt Nam.
- Giấc mơ Loa Thành (2010), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ
truyện cổ Việt Nam.
- Truyền thuyết Hoa hướng dương (2012), đạo diễn Bùi Mạnh Quang,
chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam.
- Bay về phía bầu trời, (2013), đạo diễn Nguyễn Hồng Linh, chuyển thể
từ truyện ngụ ngôn thế giới.
- Mỵ Châu, Trọng Thuỷ (2014), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể
từ truyện cổ Việt Nam.
- Đeo lục lạc cho mèo (2014), đạo diễn Lê Bình, chuyển thể từ truyện
ngụ ngôn thế giới.
- Theo dấu chân hươu (2015), đạo diễn Hồng Sơn, chuyển thể từ truyện
cổ Việt Nam.
Các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học viết:
15
- Chiếc nôi trên vách đá (2003), đạo diễn Phan Trung, chuyển thể từ
truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông.
- Chiếc áo tàng hình (2003), đạo diễn Trần Dương Phấn, chuyển thể từ
truyện ngắn Cánh bướm kỳ diệu của nhà văn Viết Linh.
- Ve vàng và Dế lửa (2007), đạo diễn Phùng Văn Hà, chuyển thể từ
truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lê Trường Đại.
- Càng to, càng nhỏ (2011), đạo diễn Trịnh Lâm Tùng, chuyển thể từ
truyện ngắn Đôi càng của cua con của Đỗ Hoà.
- Hào khí Thăng Long (2012), đạo diễn Nguyễn Nhân Lập, Trần Dương
Phấn, Phùng Văn Hà, chuyển thể từ tiểu thuyết lịch sử Thăng Long nổi giận
của nhà văn Hoàng Quốc Hải.
- Thủ Lĩnh vây lửa (2013), đạo diễn Trần Khánh Duyên, chuyển thể từ
truyện ngắn Thủ lĩnh Chì gộc của nhà văn Trần Quốc Tuấn.
- Anh chàng số 9 (2013), đạo diễn Phùng Văn Hà, chuyển thể từ truyện
ngắn cùng tên của nhà văn Trần Ninh Hồ.
- Bước qua hai thế giới (2015), đạo diễn Bảo Quang, chuyển thể từ
truyện ngắn Vương quốc tàn lụi của nhà văn Trần Đức Tiến.
4. Mụ đí ứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Thông qua việc phân tích cách thể hiện cái Đẹp trong phim HHVN,
luận văn hướng tới mục tiêu xác định được quan niệm chung về cái Đẹp trong
các phim HHVN giai đoạn đương đại.
- Luận văn đưa ra những kết quả nghiên cứu góp phần làm dày dặn
thêm nền tảng lý luận sáng tác sẵn có của môn nghệ thuật hoạt hình, tạo điều
kiện cho các nhà làm phim có thêm cơ hội nghiên cứu để nâng cao kiến thức
về nghề, về quan điểm mỹ học và nghệ thuật sáng tác.
16
- Tiếp cận, phân tích và dự đoán các xu hướng mới, xây dựng định
hướng trong hoạt động sáng tác phim HHVN giai đoạn tiếp theo.
4.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.2.1. Về lý luận: Luận văn là kết quả của đề tài nghiên cứu, hệ thống các quan
điểm về cái Đẹp thông qua việc phân tích đánh giá các phim HHVN được chuyển
thể từ tác phẩm văn học. Từ những kết quả nghiên cứu, những quan điểm chung
của các nhà làm phim được tập hợp, sắp xếp hệ thống nhằm trở thành lý luận cơ
bản, lý thuyết sáng tác cho một thể loại đặc biệt của nghệ thuật điện ảnh.
4.2.2 Về thực tiễn: Trong điều kiện thực tế các nguồn tài liệu về hoạt hình
khá là khan hiếm và tản mạn thì luận văn là nguồn tham khảo giúp cho những
người quan tâm nghiên cứu, đội ngũ sáng tác và khán giả phim hoạt hình có
thể tiếp cận với HHVN một cách toàn diện, từ góc độ khái quát, tổng thể.
5. ƣơ p áp ứu
Trên nền tảng hướng tiếp cận mỹ học, liên văn bản và trần thuật học,
luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành; phương pháp lịch
sử, phương pháp hệ thống; phương pháp tiếp cận văn hóa học để tiến hành
nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã sử dụng một số thao tác để
hoàn thành các yêu cầu đề ra như: Thao tác phân tích và tổng hợp; thao tác so
sánh, đối chiếu; thao tác thống kê…
6. Cấu trúc của luậ ă
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
ƣơ 1: Phạm trù cái Đẹp và vấn đề chuyển thể từ tác phẩm văn chương
đến tác phẩm điện ảnh
ƣơ : Quan niệm về cái Đẹp và hệ giá trị trong phim hoạt hình Việt Nam
ƣơ 3: Phạm trù cái Đẹp qua hình thức và thể loại phim hoạt hình Việt Nam
17
HƢƠNG 1: PHẠM TRÙ I Đ P VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ
TÁC PH VĂN HƢƠNG ĐẾN TÁC PH ĐI N ẢNH
1.1. Những vấ đề lý luận về Mỹ học - á Đẹp
1.1.1. Mỹ học, cái Đẹp qua các thời kỳ
Mỹ học là một khoa học hợp thành khoa học triết học, có đối tượng
nghiên cứu là các dạng biểu hiện của cái thẩm mỹ. Mỹ học giúp chúng ta
nhận thức được cái Đẹp. Có thể nói, mỹ học chính là khoa học nghiên cứu sự
cảm thụ cái Đẹp.
Nghiên cứu lịch sử mỹ học qua các thời kỳ: Mỹ học Hy Lạp cổ đại, Mỹ
học thời kỳ Trung cổ phong kiến; Mỹ học thời kỳ Phục hưng; Mỹ học thời
khai sáng; Mỹ học thời kỳ cổ điển… Chúng ta nhận thấy tư tưởng mỹ học
trước Marx có ba khuynh hướng cơ bản để tiếp cận cái Đẹp là: khuynh hướng
duy vật tiếp cận cái Đẹp trước Marx; khuynh hướng duy tâm khách quan
trong việc tiếp cận cái Đẹp trong lịch sử mỹ học; khuynh hướng duy tâm chủ
quan trong việc tiếp cận cái Đẹp trong lịch sử triết học.
1.1.1.1. Khuynh hướng duy vật tiếp cận cái Đẹp trước Marx có ba thời kỳ
phát triển mà đặc điểm chủ yếu đều coi cái Đẹp tồn tại khách quan, là thuộc
tính của cuộc sống
Quan niệm về cái Đẹp của mỹ học duy vật thời cổ đại với “các nhà
mỹ học duy vật đầu tiên như Democrit và Aristote đều cho rằng, cái Đẹp có
các thuộc tính như: sự cân xứng, sự hài hoà, trật tự, số lượng, chất lượng,
sự tiến bộ, sự phát triển, cái Đẹp gắn với cái có ích, cái thiện…” [10, tr.46].
Theo quan điểm này, cái Đẹp phải được biểu hiện ở cái khác biệt được
thống nhất trong đa dạng: “sự vật đẹp phải có một kích thước và một tỷ lệ
nhất định”; “nó là các khoái cảm của con người gắn liền với độ”; “cái Đẹp
tuy thống nhất trong đa dạng, là trật tự, tỷ lệ và kích thước, là phạm trù
18
trong khoái cảm, nhưng chúng có tính chất tương đối, không có một cái
Đẹp nào tuyệt đối”; “cái Đẹp phải là cái có ích, là cái tốt”. [7, tr.74]
Quan niệm về cái Đẹp của các nhà duy vật thế kỷ XVII – XVIII, tiêu biểu
là Edmund Burke và Denis Dideros. Burke tỉ mỉ chỉ ra bảy dấu hiệu khách quan
về cái Đẹp là tính nhỏ nhắn, tính tương đối, sự mịn màng của bề mặt, sự đa dạng
trong tình trạng các bộ phận phân phối, quan hệ các bộ phận không cứng nhắc,
cơ cấu uyển chuyển, màu này cùng với màu khác trong cùng sự vật đẹp là không
quá nổi bật. Còn Dideros cho rằng cái Đẹp phải là cái thật, cái tốt và chúng có
quan hệ khăng khít với nhau. Ông khẳng định có hai cái Đẹp – cái Đẹp thực tại
và cái Đẹp ta nhìn thấy. Cái Đẹp là tồn tại khách quan trong tự nhiên. Tự nhiên
là ngọn nguồn cái Đẹp. Cái Đẹp và cái thật là một.
Quan niệm về cái Đẹp của các nhà duy vật nhân bản thế kỷ XIX tiêu
biểu là Nikolay Chernyshevsky. Theo ông “cái Đẹp là cuộc sống, một thực
thể đẹp là thực thể trong đó ta nhìn thấy được cuộc sống đúng như quan niệm
của chúng ta, một đối tượng đẹp là một đối tượng trong đó cuộc sống được
thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ tới cuộc sống” [7. tr. 74]
1.1.1.2. Khuynh hướng duy tâm khách quan trong việc tiếp cận cái Đẹp đối
lập với cách tiếp cận cái Đẹp của mỹ học duy vật. Mỹ học duy tâm cho rằng
cái Đẹp không phải thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là tư tưởng của Hegel. Mặc dù thừa nhận
có cái Đẹp của tự nhiên song ông cho rằng cái Đẹp tự nhiên “nghèo nàn”,
“thấp hơn rất nhiều so với cái Đẹp của nghệ thuật” và “nó cũng nằm trong
tinh thần”. Còn Plato cho rằng cái Đẹp không thể là một sự vật nào đó, “cái
Đẹp là một ý niệm”. Cái Đẹp - ý niệm là một thứ tiên nghiệm, sẵn có, chính
nó làm nên cái Đẹp của vạn vật, soi sáng cái Đẹp của tâm hồn; nó tồn tại
vĩnh cửu, không bị hủy diệt…
19
1.1.1.3. Khuynh hướng duy tâm chủ quan trong việc tiếp cận cái Đẹp coi mỹ
học là khoa học nghiên cứu các phán đoán thị hiếu. Các nhà mỹ học duy tâm
chủ quan cho rằng vấn đề chủ yếu không phải là cái Đẹp là gì mà là sự phán
đoán về cái Đẹp là gì”. Phán đoán ở đây không phải theo logic mà phán đoán
tình cảm, chủ quan, có tính thưởng ngoạn… “Hume quả quyết rằng: cái Đẹp
không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong
tâm linh người quan sát nó. Còn Kant thì nói một cách hình tượng rằng: cái
Đẹp không ở trên đôi má hồng của cô thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si
tình” [7, tr.73]
Trong lịch sử mỹ học, ba khuynh hướng này luôn đứng trên tư thế đối
lập, đấu tranh lẫn nhau, song cũng đồng thời đối thoại, bù đắp cho nhau, cùng
làm hoàn thiện dần những quan điểm về cái Đẹp trong hệ thống mỹ học
Marx-Lenin.
Mỹ học Marx-Lenin là thành quả phát triển của mỹ học nhân loại. Mỹ
học Marx-Lenin là một bộ phận hợp thành của triết học Mac- Lênin, dựa trên
cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nghiên cứu sự vận động của các quan
hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, trong đó cái Đẹp là trung tâm, hình
tượng là khâu cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất, hay nói cách
khác, mỹ học Marx-Lenin nghiên cứu sự vận động của cái Đẹp và các hình
thức khác nhau của cái Đẹp.
Sử dụng cách tiếp cận “duy vật biện chứng” về cái Đẹp, mỹ học Marx-
Lenin phê phán những hạn chế của ba cách tiếp cận cái Đẹp trước Marx, đồng
thời đưa ra hệ thống quan điểm mới về cái Đẹp. Mỹ học Marx-Lenin coi cái
Đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ
thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, bao chứa các quan hệ chân - thiện -
ích, xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cân xứng
20
hài hoà, gây được khoái cảm thẩm mỹ tích cực đối với chủ thể xã hội.
Phân biệt cái Đẹp với cái thẩm mỹ, coi cái Đẹp là một bộ phận hợp
thành của cái thẩm mỹ chứ không phải là bản thân cái thẩm mỹ, chúng ta
nhận thấy cái Đẹp và cái thẩm mỹ đều mang tố chất chung là yếu tố tinh thần
và yếu tố tình cảm sâu sắc. Yếu tố xúc cảm là yếu tố đặc trưng của quan hệ
thẩm mỹ và là yếu tố điển hình của cái Đẹp. Mỹ học Marx-Lenin cho rằng cái
Đẹp ra đời từ lao động, gắn bó chặt chẽ với cái thật, cái tốt và cái hữu ích.
Bản chất của cái Đẹp gắn liền với lao động, chưa có con người và chưa có lao
động thì chưa có hiện tượng thẩm mỹ, chưa có cái Đẹp. Như vậy, mỹ học
Marx-Lenin nghiên cứu sự vận động lịch sử của cái Đẹp trong quá trình lao
động sáng tạo và chiến đấu của con người. Xem xét cái Đẹp gắn với hoạt
động thực tiễn, quan điểm Mỹ học Marx-Lenin còn chỉ ra rằng cái Đẹp có
mối quan hệ gắn bó không chỉ trong lao động mà còn cả trong đấu tranh xã
hội. Những hoạt động xã hội nhằm cải thiện, nâng cao, vun đắp quan hệ xã
hội cho phù hợp khát vọng ước mơ, gây được hứng thú thẩm mỹ đều chứa
đựng cái Đẹp. Do vậy, cái Đẹp còn mang bản chất xã hội. Do cái Đẹp có sự
vận động và không ngừng sáng tạo, được khám phá mà cái Đẹp luôn biểu
hiện cho tính xã hội của nó. Cái Đẹp gắn với cái thật, cái có ích, cái thiện.
Nếu xa rời những yếu tố kể trên, cái Đẹp sẽ trở nên thiếu vắng nội dung,
thiếu sự hài hoà, mất đi yếu tố toàn vẹn.
Có thể nhận thấy, cái Đẹp là nhu cầu sống của con người, của dân tộc,
của nhân loại. Cái Đẹp đi vào đời sống với mục tiêu đẩy lùi cái xấu, mang đến
cho con người cảm giác thoả mãn và hạnh phúc. Cái Đẹp là lĩnh vực đa dạng
và phức tạp. Cái Đẹp liên quan đến niềm tin, chân lý và trình độ nhận thức,
khả năng sáng tạo của mỗi con người, mỗi dẫn tộc.
Thể hiện vai trò của mình trong cuộc sống, cái Đẹp gây được khoái
cảm tích cực và gắn với sự hài hoà thẩm mỹ nên nó có thể điều hoà các mối
21
quan hệ; làm phong phú đời sống tâm hồn và tình cảm của con người, định
hướng sự phát triển hài hoà của xã hội, mở ra năng lực sáng tạo nhiều chiều,
nhiều lớp, ngăn chặn sự phản thẩm mỹ. Như vậy, cái Đẹp trong cuộc sống là
tất cả những gì mang tính hữu ích, tốt, thật. Cái Đẹp phải đảm bảo ba yêu cầu:
đúng đắn, chân thực của cuộc sống; mang tính nhân bản và nhân văn; là một
sự hoàn thiện và hoàn mỹ.
“Cái Đẹp trong nghệ thuật có vấn đề thống nhất biện chứng giữa nội
dung đẹp và và hình thức đẹp” [7, tr.58]. Không phong phú và đa dạng như
cái Đẹp trong tự nhiên song cái Đẹp trong nghệ thuật khẳng định được chiều
sâu nhân văn và triết lý. Cái Đẹp trong nghệ thuật là tổng hợp của giá trị mỹ
học với đạo đức, chính trị, khoa học… Nó tạo nên một một chỉnh thể tinh
thần trọn vẹn bao gồm Chân – Thiện - Mỹ, hòa quyện tình cảm, khát vọng, trí
tuệ, ý chí của con người.
1.1.2. Cái Đẹp trong nghệ thuật điện ảnh
Điện ảnh là loại hình sáng tạo nghệ thuật tổng hợp, kết hợp các kỹ
thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành những khung
hình chuyển động.
Là môn nghệ thuật lấy hình ảnh làm ngôn ngữ thể hiện nên đặc trưng rõ
nét nhất cũng là linh hồn của điện ảnh không gì khác chính là hình ảnh. Dựa
trên đặc trưng cơ bản nhất là hình ảnh, ngôn ngữ thể hiện của điện ảnh bao
hàm các yếu tố: tính sát thực, tính hình ảnh, tính không gian và thời gian, tính
tổng hợp. Một bộ phim hay phải là bộ phim thể hiện rõ nhất những đặc trưng
của điện ảnh, hay nói cách khác là bộ phim có “tính điện ảnh” cao.
Dựa trên những yêu cầu, đòi hỏi và cả sự mong chờ, kỳ vọng của các
nhà làm phim và công chúng quan tâm đến điện ảnh, chúng ta có thể nhận
thấy quan điểm về thẩm mỹ, về cái Đẹp trong điện ảnh. Như vậy, cái Đẹp
trong điện ảnh chính là sự thể hiện cao nhất những nét đặc trưng của điện ảnh
22
để tạo nên hứng thú, sự mến mộ và mong ước của khán giả.
Một bộ phim được cho là đẹp phải thật sự đẹp trong hình ảnh - tức là
trong ngôn ngữ thể hiện. Có nhiều yếu tố kết hợp để làm nên vẻ đẹp trong
hình ảnh. Đó là hình ảnh phải chân thực, phải hấp dẫn người xem bằng tính
chân thực như bản thân cuộc sống hiện thực. Hình ảnh phải có linh hồn - được
tạo nên từ sự chuyển động, từ âm thanh, từ tư duy, ý đồ toát lên từ mỗi khuôn
hình. Cái Đẹp trong điện ảnh còn thể hiện ở nhiều yếu tố khác như sự đa
chiều, linh hoạt trong không gian, thời gian sự sáng tạo không gian hư cấu, sự
đa dạng trong thời gian và sự cấu thành thời gian tâm lý… Và đặc biệt, cái
Đẹp của nghệ thuật điện ảnh còn nằm trong cách thể hiện, trong ý đồ của hình
ảnh khi sử dụng các kỹ thuật montage - ghép nối để tăng thêm sự thông minh,
đa nghĩa, giàu biểu tượng của các hình ảnh. Mặc dù là môn nghệ thuật độc lập
song điện ảnh là môn nghệ thuật có tính tổng hợp. Chính vì vậy, cái Đẹp của
nghệ thuật điện ảnh còn bao gồm sự hài hoà, kết hợp các yếu tố của các loại
hình nghệ thuật khác tạo hành một chỉnh thể vừa mới mẻ, vừa có sự tương
đồng với các loại hình nghệ thuật khác, tạo nên sức hấp dẫn, quyến rũ của loại
nghệ thuật đặc biệt này.
1.1.3. Cái Đẹp trong phim hoạt hình
Hoạt hình là một thể loại đặc thù của loại hình nghệ thuật điện ảnh.
Hoạt hình sử dụng phương tiện của điện ảnh để tạo ra các hiệu quả riêng biệt:
sử dụng hình vẽ dưới tác động của các phương tiện kỹ thuật để tạo ra sự
chuyển động. Như vậy, bản chất của hoạt hình chính là “hình vẽ và tạo hình
chuyển động” [14, tr.18]. Sự khác biệt của hoạt hình trước tiên nằm ở yếu tố
“hình” – bởi hình trong hoạt hình được tạo nên từ nét vẽ, là sự sáng tạo của
người họa sĩ chứ không phải sự sao chép hay chính là bức ảnh của những hình
ảnh thật. “Hình” trong hoạt hình vì thế mang tính giả định, đậm chất ước lệ,
tượng trưng, tính hình tượng. Dưới sự hỗ trợ của kỹ thuật, các chuỗi hình tĩnh
23
ghép lại với nhau tạo thành sự chuyển động. Bởi có mối quan hệ chặt chẽ giữa
hình và chuyển động nên cũng giống với hình, sự chuyển động của hoạt hình
không phải là sự mô phỏng sự chuyển động trong tự nhiên mà là kết quả của
sự kết hợp chuỗi hình tĩnh mang tính ước lệ, tượng trưng. Sự chuyển động
trong hoạt hình vì thế cũng mang tính giả định. Chính những sự chuyển động,
những động tác này tạo cho hình ảnh trở thành hình tượng của hoạt hình.
Có thể nói, hoạt hình là thể loại “sử dụng hệ thống phương tiện mang
tính giả định cao” [14, tr.35]. Tính giả định nằm trong phương pháp tư duy và
ngôn ngữ của hoạt hình bao gồm - giả định trong tạo hình, trong xây dựng
hình tượng về mặt thị giác, giả định trong cách sáng tạo đạo cụ, bối cảnh, xử
lý khuôn hình, ánh sáng và màu sắc, tính giả định chỉ đạo diễn xuất, trong âm
thanh, âm nhạc… Tóm lại, hoạt hình được sản sinh ra từ thế giới tưởng tượng
và sự hư cấu, sáng tạo của con người, được truyền vào những hình tượng sống
động có khả năng khơi gợi cảm hứng, truyền cảm xúc cho người xem.
Từ những đặc trưng cơ bản trên, có thể thấy được, cái Đẹp của bộ phim
hoạt hình chính là cách thể hiện tốt nhất, hoàn mỹ nhất, xuất sắc nhất những đặc
trưng cơ bản của hoạt hình để thoả mãn kỳ vọng của người xem. Cái Đẹp trong
nghệ thuật hoạt hình là sự thể hiện được tính bay bổng, sự lãng mạn cho phép
bởi sự khoa trương, ước lệ, tính khái quát, giả định của ngôn ngữ hoạt hình. Một
bộ phim hoạt hình được coi là “Đẹp” cần phải đạt được những chuẩn mực của
cái Đẹp trong hoạt hình ở các mặt: cách tư duy, cách nghĩ, cách kể câu chuyện;
trong ngôn ngữ thể hiện - tạo hình, diễn xuất, nhạc, động, thoại… tạo nên những
xúc cảm mới mẻ và thúc đẩy trí tưởng tưởng không có biên giới của con người.
1.2. Một số vấ đề về chuyển thể tác ph ă ọc sang hoạt hình
1.2.1. Khái niệm chuyển thể, các hình thức chuyển thể và một số vấn đề
chuyển thể từ văn học sang điện ảnh
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam do Hội đồng Quốc gia chỉ
24
đạo biên soạn thì “Chuyển thể là chuyển một tác phẩm nghệ thuật từ thể loại
này sang thể loại khác. Trong điện ảnh, là dùng phương tiện, ngôn ngữ điện
ảnh chuyển một tác phẩm thuộc một thể loại nghệ thuật khác (văn, thơ, kịch,
balê, opera…) thành tác phẩm điện ảnh”.
Thực chất, chuyển thể cũng là một quá trình sáng tạo nghệ thuật, sử
dụng các phương tiện của một loại hình nghệ thuật để cải biến nội dung tác
phẩm nghệ thuật gốc cho phù hợp với mục đích của người chuyển thể. Trong
trường hợp này chúng ta nghiên cứu việc chuyển thể từ tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh. Văn học và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật khác
nhau về phương thức biểu hiện. Công cụ thể hiện của văn học là con chữ, là
ngôn từ thì phương tiện thể hiện của điện ảnh là hình ảnh. Như vậy việc
chuyển thể từ tác phẩm văn học sang điện ảnh chính là việc thể hiện nội dung
tác phẩm bằng một loại ngôn ngữ khác - ở đây chính là hình ảnh để thể hiện.
Và để tác phẩm mới hình thành phù hợp và đạt được hiệu quả của loại hình
nghệ thuật điện ảnh, người nghệ sĩ phải sử dụng công cụ hình ảnh này thể
hiện tác phẩm sao cho đạt được những yêu cầu mà loại hình nghệ thuật điện
ảnh hướng tới như cách kể chuyện mang tính điện ảnh, các xung đột, kịch
tính, nhân vật, màu sắc, bối cảnh… tác động trực tiếp vào thị giác người xem.
Bởi thế, mặc dù là mô phỏng một tác phẩm gốc nhưng trên thực tế chuyển thể
là cả một quá trình sáng tạo của nhà biên kịch.
Chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh thường được
thực hiện theo hai kiểu: chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát
nguyên bản.
Chuyển thể sát nguyên bản, là cách mà nhà biên kịch điện ảnh bám sát
tác phẩm văn học gốc, tôn trọng tối đa tác phẩm văn học. Để thực hiện điều
này, tác phẩm văn học cần có chứa đựng chất điện ảnh tiềm tàng bao gồm
nhiều yếu tố cần thiết cho kịch bản phim như cốt truyện, tình huống, nhân vật,
25
hành động, tư tưởng chủ đề, ngôn ngữ… giàu chất điện ảnh. Như vậy, toàn bộ
quá trình chuyển thể này là phụ thuộc hoàn toàn vào chất liệu văn học, ít sự
sáng tạo ngoài những yếu tố sẵn có trong tác phẩm văn học. Vì vậy, việc tìm
kiếm được tác phẩm văn học gốc có đủ tiêu chí để chuyển thể sát nguyên bản
là điều vô cùng quan trọng. Thuận lợi của chuyển thể sát nguyên bản rất rõ
ràng tuy nhiên, những khó khăn do sử dụng kiểu chuyển thể này cũng không
đơn giản. Khi thành công của tác phẩm văn học gốc được khẳng định, được
độc giả đón nhận, thì chuyển mã sang một ngôn ngữ khác chưa hẳn đã thành
công như trong nguyên gốc. Và chính sự so sánh giữa hai tác phẩm có cùng
nội dung chỉ khác cách thể hiện nhiều khi làm giảm đi cảm hứng của khán giả
đối với sản phẩm nghệ thuật ra đời muộn hơn.
Chuyển thể không sát nguyên bản, là hình thức chuyển thể tự do đòi hỏi
sự sáng tạo cao hơn của nhà biên kịch. Đối với kiểu chuyển thể này, nhà biên
kịch coi tác phẩm văn học như một cái cớ, thậm chí tác phẩm văn học gốc chỉ
cung cấp ý tứ, gợi cảm hứng để xây dựng một kịch bản phim mới. Chuyển thể
không sát nguyên bản mặc dù không mô phỏng lại tác phẩm gốc như kiểu
chuyển thể sát nguyên bản song cũng không hẳn là sẽ sáng tạo lại toàn bộ từ
cốt truyện, hành động, nhân vật, tình tiết, không gian… Nhà biên kịch sẽ tiếp
nhận một cách chọn lọc các yếu tố của tác phẩm gốc, đặc biệt là phải giữ
được chủ đề tư tưởng, một số nhân vật, sự kiện chính… để tác phẩm mới ra
đời vẫn mang tinh thần, dáng dấp của tác phẩm gốc, nếu không sẽ không còn
là sự chuyển thể mà là một sáng tác mới. Với kiểu chuyển thể không sát
nguyên bản này, tác phẩm mới sẽ cuốn hút công chúng bởi sự mới mẻ, sáng
tạo, gây cảm giác kích thích người xem hơn.
Cùng là chuyển thể, song chọn lựa kiểu chuyển thể sát nguyên bản và
chuyển thể không sát nguyên bản là phụ thuộc vào tác phẩm văn học gốc có
đủ yếu tố cần thiết với một bộ phim hay không hay gọi là có giàu chất điện
26
ảnh hay không. Ngoài ra, chọn kiểu chuyển thể nào còn tuỳ thuộc ở sự lựa
chọn của nhà biên kịch thưởng thức, cảm nhận tác phẩm như thế nào. Trong
sự lựa chọn này, chúng ta cũng phải xét đến vấn đề công chúng. Sự mong
chờ, kỳ vọng và thị hiếu của công chúng cũng góp một phần lớn trong quyết
định của nhà làm phim. Nói tóm lại, lựa chọn kiểu chuyển thể phù hợp để làm
ra những bộ phim hấp dẫn, vừa khơi dậy những giá trị tiềm ẩn của tác phẩm
gốc, vừa cho ra đời những sáng tạo nghệ thuật mới, hấp dẫn, lôi cuốn người
xem là điều quan trọng với mỗi nhà biên kịch trong lĩnh vực chuyển thể này.
Bởi văn học là mảnh đất màu mỡ, khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của
điện ảnh nên lựa chọn hình thức chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh là một xu hướng đã và đang được nhà điện ảnh khai thác.
Ngoài những thuận lợi có thể nhìn thấy rõ ràng, phương thức này cũng khiến
các nhà biên kịch gặp khó khăn không ít trong quá trình triển khai.
Về mặt thuận lợi: Tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học
được kế thừa những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc như chủ đề tư tưởng, cấu
trúc, cốt truyện, kịch tính, tính cách nhân vật, thậm chí những trường đoạn ấn
tượng, những câu thoại ghi dấu ấn… trong khi các kịch bản điện ảnh sáng tác
mới cần mất thời gian, công phu, sự tính toán cho tất cả những điều cần thiết
của một bộ phim. Thuận lợi thứ hai, chính là việc kế thừa những thành công
sẵn có của tác phẩm văn học gốc. Đặc biệt, với các tác phẩm có tên tuổi, được
công chúng đón nhận, chứa đựng những giá trị được đã khẳng định, tác phẩm
điện ảnh mặc nhiên nhận được sự quan tâm và thu hút đối với khán giả. Nhiều
bộ phim đã gây được sự chú ý của công chúng nhờ việc chuyển thể các tác
phẩm nổi tiếng. Tất nhiên, ngoài sự hấp dẫn của bộ phim còn có một phần
thôi thúc khán giả bởi tò mò muốn xem bộ phim có hay, có hấp dẫn được như
tác phẩm văn học gốc hay không.
Mặc dù có nhiều lợi thế, song để làm tốt việc chuyển thể, các nhà làm
27
phim cũng gặp những khó khăn trong quá trình thực hiện. Sử dụng một loại
công cụ, một ngôn ngữ khác để thể hiện những nội dung được in dấu bởi một
loại hình nghệ thuật đã được thừa nhận khiến nhà biên kịch phải đào sâu suy
nghĩ. Dùng công cụ mới để thể hiện những đặc trưng của thể loại mới mà
không làm mất đi thần thái, phong cách của tác phẩm gốc là điều rất khó. Từ
văn học sang điện ảnh, từ ngôn từ sang hình ảnh, phải giữ được cái cốt cũ
đồng thời làm sinh động, hấp dẫn tác phẩm mới thực sự là một thách thức đòi
hỏi khả năng sáng tạo của nhà biên kịch. Ngoài ra, cũng phải tính đến phương
diện công chúng. Mỗi tác phẩm văn học đều có công chúng riêng. Việc thuyết
phục được công chúng của văn học chuyển sang thưởng thức một loại hình
nghệ thuật khác là điều vô cùng khó khăn. Trong nhiều trường hợp, khi tác
phẩm văn học đã đi sâu vào đời sống, bám rễ trong tư tưởng, tình cảm của
công chúng thì việc thuyết phục càng trở nên khó khăn hơn nhiều. Với những
trường hợp này, nhiều khi, sự thành công của tác phẩm gốc đôi khi lại trở
thành thách thức buộc các nhà biên kịch và đạo diễn phải vượt lên nếu muốn
sản phẩm mới có chỗ đứng trong lòng công chúng.
Tóm lại, chuyển thể là một xu hướng ngày càng được các nhà phim
hưởng ứng. Chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát nguyên bản
cũng là vấn đề khiến các nhà điện ảnh quan tâm suy nghĩ. Mảnh đất văn học
là nguồn mạch vô cùng phong phú, tuy nhiên, chọn được tác phẩm văn học có
đủ yếu tố, đủ chất điện ảnh hay không là điều vô cùng quan trọng. Có trong
tay tác phẩm có đủ yếu tố, giàu chất điện ảnh để chuyển thể, nhà biên kịch
cần sáng suốt lựa chọn kiểu chuyển thể phù hợp là một trong những điều đem
đến thành công của bộ phim.
1.2.2. Vấn đề chuyển thể trong điện ảnh hoạt hình Việt Nam
Phim hoạt hình là thể loại nghệ thuật dùng hình ảnh làm ngôn ngữ biểu
hiện. Tuy nhiên, hình ảnh của hoạt hình thực chất được tạo dựng từ sự ghép
28
nối các hình vẽ tay làm nên sự chuyển động. Bởi vậy, hoạt hình có những đặc
trưng riêng so với các thể loại khác của điện ảnh. Trên cơ sở những đặc trưng
riêng của ngôn ngữ thể hiện sẽ đặt ra những yêu cầu riêng trong quá trình
chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
Trong quá trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm hoạt
hình, sự phân biệt giữa chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát
nguyên bản không được thể hiện rõ nét giống như thể loại phim truyện điện
ảnh. Với đặc trưng trong ngôn ngữ thể hiện của hoạt hình là tính giả định, sự
ước lệ, khoa trương, bay bổng thì không kiểu chuyển thể nào có thể bó hẹp
được sự sáng tạo và cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ. Dù là chọn kiểu
chuyển thể sát nguyên bản và tác phẩm gốc có đầy đủ yếu tố của bộ phim
hoạt hình từ cách kể, cách tư duy, hình ảnh, nhân vật… song khi chuyển
sang ngôn ngữ hoạt hình, tức là một kiểu kể chuyện khác bằng hình ảnh dựa
trên những nét vẽ giàu tính giả định và sự sáng tạo của họa sĩ thì bản chất
của kiểu chuyển thể sát nguyên bản là mô phỏng không còn tồn tại nữa. Cho
dù trong kiểu chuyển thể này chúng ta cố gắng giữ vững cấu trúc, cốt truyện,
nhân vật, tính cách, lời thoại… nhưng thực tế điểm quan trọng nhất, linh hồn
của bộ phim hoạt hình là sự chuyển động thì mãi mãi không phải là sự mô
phỏng của tác phẩm gốc, bởi một điều đơn giản: Trong kịch bản điện ảnh
hoạt hình, sự chuyển động do nhà biên kịch viết ra cũng chỉ là một sự gợi ý,
tạo cảm hứng, còn sự chuyển động thực sự, tạo nên tính hoạt của hoạt hình
hoàn toàn nằm trong sáng tạo của người họa sĩ. Với kiểu chuyển thể không
sát nguyên bản sự sáng tạo của nhà biên kịch không bị bó hẹp, tác phẩm văn
học gốc hoàn toàn là một gợi ý để chắp cánh cho trí tưởng tượng của người
nghệ sĩ bay cao, bay xa. Trong kiểu chuyển thể này, khán giả chỉ nhận thấy
ý đồ, tư tưởng của tác phẩm gốc ẩn giấu trong bộ phim hoạt hình chứ không
29
còn nhìn thấy hình hài của tác phẩm văn học.
Khi thực hiện việc chuyển thể các tác phẩm văn học gốc sang tác phẩm
hoạt hình, chúng ta nhận thấy, các nhà biên kịch lựa chọn các tác phẩm văn
học từ hai nguồn: văn học viết và văn học dân gian. Có nhiều nét thú vị trong
quá trình chuyển thể các tác phẩm này sang điện ảnh và hoạt hình. Nếu như
trong phim truyện điện ảnh, nhiều nhà biên kịch lựa chọn kiểu chuyển thể sát
nguyên bản cho các tác phẩm văn học viết và kiểu chuyển thể không sát
nguyên bản đối với các tác phẩm dân gian thì trong hoạt hình lại ngược lại.
Nhiều nhà biên kịch hoạt hình thường chọn kiểu chuyển thể không sát nguyên
bản đối với các tác phẩm văn học viết và kiểu chuyển thể sát nguyên bản đối
với các tác phẩm văn học dân gian. Mặc dù trong hoạt hình, khái niệm “sát”
và “không sát” văn bản gốc cũng rất tương đối, tuy nhiên, với tính giả định,
tượng trưng, ước lệ… của mình, các tác phẩm văn học dân gian với sự tưởng
tượng vô cùng phong phú của quần chúng nhân dân rất phù hợp với đặc trưng
của hoạt hình. Thực tế, với nhiều sáng tác của văn học dân gian, đặc biệt là ở
mảng truyền thuyết, cổ tích… nhà biên kịch chỉ cần thể hiện sát với cốt truyện
dân gian, kịch bản đã mang đậm chất hoạt hình mà ít cần tới sự sáng tạo về
cốt truyện, xung đột, kịch tính, sự biến ảo, phép màu, những điều thần kỳ,
màu nhiệm… Trên thế giới, có rất nhiều bộ phim hoạt hình chuyển thể rất sát
với các tác phẩm văn học dân gian và đã thu được thành công, trở thành
những bộ phim hoạt hình kinh điển như phim hoạt hình Bạch Tuyết và bẩy
chú lùn (phim Mỹ); Công chúa Lọ Lem (phim Mỹ); Người đẹp và quái vật
(phim Mỹ); Nàng công chúa ngủ trong rừng (phim Mỹ)… Với HHVN, kiểu
chuyển thể này lại càng quen thuộc với hàng loạt các phim Sơn Tinh, Thuỷ
Tinh; Chuyện Ông Gióng; Âu Cơ – Lạc Long Quân; Trường ca Đam San…
Ở mảng chuyển thể từ các tác phẩm văn học viết ta nhận thấy, các nhà
biên kịch có thể sử dụng nguồn văn học từ các sáng tác mới với nội dung
30
tự sáng tạo hoặc các sáng tác có nguồn gốc từ dân gian như các tập truyện cổ
của Andersen, Grimm… Với các tác phẩm văn học có nguồn gốc dân gian
này, từ cốt truyện của dân gian, các nhà văn đã kể lại câu chuyện cổ tích,
truyền thuyết theo cách của họ, có lồng ghép tư tưởng hoặc thổi vào nó một
luồng hơi thở của thời đại. Chuyển thể các tác phẩm văn học viết có gốc từ
dân gian giúp cho kịch bản điện ảnh vừa thể hiện được các đặc trưng cơ bản
đồng thời giúp khán giả hiện đại dễ dàng tiếp cận và dung nhập với câu
chuyện hơn. Tiêu biểu cho các bộ phim hoạt hình này phải kể đến những bộ
phim như Nàng tiên cá, chuyển thể từ truyện của Andersen; Bầy chim thiên
nga, chuyển thể từ truyện của Andersen… Ở Việt Nam, các nhà biên kịch
cũng lựa chọn từ những tác phẩm văn học lấy cảm hứng từ dân gian như
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, Chuyện hoa,
chuyện quả của Phạm Hổ…
Một đặc điểm nữa ta có thể nhận thấy trong quá trình chuyển thể đó là sự
biến đổi, chuyển hoá cái Đẹp từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. Đây
chính là sự chuyển hoá vẻ phương thức thể hiện cái đẹp bằng ngôn ngữ văn học
sang phương thức ngôn ngữ điện ảnh, biến vẻ đẹp trong trí tưởng tượng thành
trực quan sinh động. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển thể các nhà biên kịch
phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt là có khả năng nhạy cảm để làm tốt
nhiệm vụ chuyển thể bởi thực tế không phải bất cứ sự biến đổi nào cũng mang
lại hiệu quả như mong muốn. Nhiều trường hợp, vẻ đẹp ngôn từ khiến người đọc
thẩm thấu, tâm đắc nhưng khi chuyển sang hình ảnh có thể nhạt nhoà, không tạo
nên sự rung động, cảm xúc hoặc cũng có thể không đảm bảo tính mỹ cảm trong
hình ảnh. Bởi vậy, sự chuyển hoá vẻ đẹp từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện
ảnh phụ thuộc nhiều năng lực của các nhà làm phim. Trên cơ sở sự biến đổi vẻ
đẹp này chúng ta càng nhận rõ hơn nữa mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và
31
điện ảnh, sự hỗ trợ, tương thích của hai loại hình gần gũi này.
Tiểu kết
Phim hoạt hình với các đặc tính của điện ảnh, khi chuyển thể từ tác
phẩm văn học sang tác phẩm hoạt hình ngoài những khó khăn và thuận lợi
giống với chuyển thể tác phẩm điện ảnh song nó cũng có đòi hỏi riêng biệt
hơn và cũng có cái thuận lợi hơn các thể loại điện ảnh khác. Về khó khăn, như
đã nói ở trên, chuyển thể từ ngôn từ sang hình ảnh đã khó, đặc biệt là hình ảnh
hoạt hình thì càng đòi hỏi cao hơn với nhà biên kịch. Tuy nhiên, mặt thuận lợi
cũng rõ rệt hơn, các tác phẩm văn học, đặc biệt là các tác phẩm văn học dân
gian có chất liệu, cảm xúc gần với hoạt hình, có thể là bệ phóng để các tác
phẩm hoạt hình thăng hoa. Phim hoạt hình với đối tượng chính là thiếu nhi,
đặc biệt với phim HHVN - một loại hình nghệ thuật từ trước tới nay vẫn đặt
yếu tố giáo dục lên hàng đầu thì những giá trị thẩm mỹ đã được thẩm định,
được đúc kết, được mọi người thừa nhận trong tác phẩm văn học chính là lợi
thế để các nhà làm phim khai thác và phát triển.
32
HƢƠNG : QUAN NI M VỀ I Đ P VÀ H GIÁ TR TRONG
PHIM HOẠT HÌNH VI T NAM
2.1. Sự phục dựng quan ni m về á Đẹp qua các thành tố của phim hoạt
hình Vi t Nam
Một bộ phim hoạt hình được khán giả yêu thích là bộ phim có thể thoả
mãn được sự kỳ vọng của khán giả. Để làm được điều này, các nhà làm phim
phải đến gần hơn với khán giả, hiểu rõ khán giả, hiểu rõ những mong chờ của
họ đối với bộ phim của mình. Trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới nay,
mặc dù đã có một số thành tựu, song phim hoạt hình thực chất chưa thoả mãn
được nhu cầu xem phim của khán giả trong nước cũng như chưa vươn ra ngoài
khu vực và quốc tế. Điều đó thôi thúc chúng ta cần phải tìm hiểu căn nguyên,
cội rễ xem trong thời gian qua, phim HHVN đã hướng đến một hệ giá trị thẩm
mỹ như thế nào? Cần nhận thức được hệ giá trị trong phim HHVN có gì tương
thích hoặc khác biệt so với phim hoạt hình thế giới? Chúng ta cũng cần tìm
hiểu hệ giá trị thẩm mỹ trong các phim HHVN đã thể hiện quan niệm của các
nhà làm phim HHVN như thế nào về cái Đẹp, về lý tưởng thẩm mỹ. Ở đây,
chúng ta phải luôn xét đến đặc điểm riêng biệt của HHVN là luôn coi thiếu nhi
là đối tượng khán giả đầu tiên mà chúng ta hướng tới. Thông qua việc phân tích
các phim hoạt hình chuyển thể từ nguồn văn học, đề tài nghiên cứu phải nhận
định được mối quan hệ giữa văn học và hoạt hình, đánh giá đúng vị trí và sự
tác động của văn học đối với việc định hình “cái Đẹp” của phim hoạt hình.
Để thấy rõ những giá trị cơ bản trong quan niệm về cái Đẹp thể hiện
trong các bộ phim, chúng ta sẽ tiếp cận nó thông qua các yếu tố: đề tài, hình
tượng nhân vật, câu chuyện - cốt truyện và hình thức tự sự trong các bộ
phim hoạt hình.
2.1.1. Hệ thống đề tài
Trong số gần 200 bộ phim hoạt hình sản xuất trong 15 năm qua thì
33
các tác phẩm chuyển thể từ gốc văn học chiếm một phần lớn. Các tác phẩm
văn học gốc này khai thác mảng chất liệu rất phong phú, nhờ đó hệ thống
đề tài trong phim HHVN thời kỳ này cũng rất đa dạng.
Qua khảo sát, chúng ta nhận thấy mảng đề tài bao trùm trong phim hoạt
hình giai đoạn này thường được các nhà làm phim hướng tới là: đề tài gia
đình - xã hội, đề tài con người cá nhân (trong đó có vấn đề tình yêu, nhân
cách, nhân sinh quan); đề tài môi trường - môi sinh; đề tài lịch sử…
Về mảng đề tài gia đình – xã hội: Do yêu cầu đặc trưng của thể loại
hoạt hình, khi khai thác các đề tài về gia đình - xã hội, không phải vấn đề nào
cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh. Nhiều đề tài mang tính xã hội
được khai thác mạnh mẽ trong tác phẩm văn học, song khi chuyển thể sang
hoạt hình, lại cần phải cân nhắc thận trọng. Bởi vậy, các nhà làm phim thường
dung hoà giữa yếu tố thực và ảo, dùng các câu chuyện ngụ ngôn, đồng thoại,
lấy các câu chuyện của các con vật để nói về chuyện của con người. Với cách
làm này, dường như các vấn đề cuộc sống, những thực tế, gai góc của hiện
thực được khái quát hoá khiến khán giả tiếp nhận một cách sâu sắc và thấm
thía hơn. Cũng nhờ vậy, phim HHVN vốn thiên nhiều về tính giáo dục, các bộ
phim ít hay nhiều đều chứa đựng những bài học kinh nghiệm và triết lý sống
đã phần nào giảm đi sự khô khan, cứng nhắc. Những bộ phim được chuyển
thể từ các tác phẩm văn học, khai thác các vấn đề xã hội thể hiện qua các câu
chuyện ngụ ngôn hoặc kể chuyện con vật để nói về con người như: Ve sầu và
Bọ ngựa (2013) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới về chuyện bọ ngựa
rình bắt ve bị chim sẻ tấn công…; Đeo lục lạc cho mèo (2014) chuyển thể từ
truyện ngụ ngôn thế giới kể về chuyện bầy chuột nghĩ ra việc đeo chuông cho
mèo để báo động nhưng không con nào đủ can đảm thực hiện; Sếu và Cáo
(2006) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới dựa trên việc Cáo mời Sếu thức
34
ăn đựng trong đĩa và Sếu lại đãi Cáo với thực ăn trong chiếc bình cao cổ;
Chuyến đi xa của Tắc kè (2006) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà
văn Vũ Duy Thông kể về câu chuyện chú Tắc kè đi một ngày đàng, học một
sàng khôn; Anh chàng số 9 (2013) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Trần Ninh Hồ về mối quan hệ của các con số trong một hộp đồ
chơi… Gia đình là mảng đề tài luôn được các nhà làm phim HHVN chú trọng
khai thác. Bởi vậy, số lượng phim về tình cảm gia đình, mối quan hệ trong gia
đình cũng chiếm một phần đáng kể trong các phim HHVN. Luôn coi khán giả
ở lứa tuổi thiếu nhi là đối tượng phục vụ chủ yếu, có nhiều bộ phim hoạt hình
chuyển thể từ tác phẩm văn học về tình cảm mẹ - con, cha - con, tình anh -
em, bà - cháu, ông - cháu đã chạm được đến trái tim của lớp khán giả nhỏ tuổi
như: Chiếc nôi trên vách đá (2003), chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Vũ Duy Thông nói về tình yêu thương, sự hy sinh của chim yến mẹ,
dùng máu và nước dãi để xây tổ cho con, sẵn sàng lao mình vào nguy hiểm để
bảo vệ những đứa con của mình; Sự tích cái nhà sàn (2001) chuyển thể từ
truyện cổ Việt Nam nói về tình anh em ruột thịt, cùng nhau đương đầu, chống
lại nguy hiểm…; Theo dấu chân hươu, chuyển thể từ truyện cổ dân tộc Tày -
Nùng, là câu chuyện về tình cha con và cuộc hành trình chống lại đàn sói, đi
tìm người cha bị biến thành hươu của cậu bé Pảo… Nhìn chung, các bộ phim
đề tài gia đình, thể hiện quan niệm trọng những vẻ đẹp thiên về xúc cảm, tình
cảm hơn là lý trí; sự ổn định hơn là biến đổi trong quan niệm của các nhà làm
phim. Bởi vậy, có nhiều bộ phim hoạt hình sâu sắc, phù hợp với cách nghĩ
của người Việt Nam, ẩn chứa những suy tư, trăn trở của chính khán giả vể
cuộc sống của bản thân họ. Các phim hoạt hình về đề tài này nhờ vậy mang
giá trị hiện thực, gần gũi với cuộc sống tình cảm của người Việt hơn.
Về mảng đề tài con người cá nhân: Qua khảo sát, chúng ta nhận thấy
35
các phim hoạt hình thuộc mảng đề tài này thường khai thác vấn đề về tình
yêu, nhân cách, nhân sinh quan… như: Quạ hói và Bồ câu (2006), chuyển thề
từ truyện ngụ ngôn thế giới, thông qua chuyện con quạ vì muốn trà trộn vào
đàn bồ câu mà sẵn sàng từ bỏ chính mình, nhuộm bộ lông đen thành trắng,
cuối cùng phải trả giá về chính quyết định sai lầm của nó; Cồ và Chíp (2008)
chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Trần Công Nghị, kể về anh
em nhà gà chọi giỏi võ nhưng luôn coi võ là để rèn luyện sức khoẻ, bồi dưỡng
nhân cách chứ không phải để khoe khoang, bắt nạt kẻ yếu; Tài biết bay của
Ếch (2012) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới kể về chuyện một con ếch
kiêu căng, ngạo mạn, không biết lượng sức mình, muốn bay lên trời cao và đã
phải trả giá bằng chính tính mệnh của nó; Ước mơ cây đàn (2011) chuyển thể
từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông về chuyện cây đàn ghita
nằm trong viện bảo tàng vẫn rung lên khúc quân hành để ôn lại những kỷ
niệm hào hùng trong những năm tháng chiến đấu gian khổ… Các phim hoạt
hình khai thác đề tài tình yêu lại có những đặc điểm riêng biệt. Vì luôn coi đối
tượng phục vụ chính là các em thiếu niên, nhi đồng mà các phim về đề tài
này thường thiên về tình cảm yêu thương đồng loại, yêu quê hương đất nước,
yêu thiên nhiên môi trường. Số lượng phim khai thác chuyện tình yêu nam nữ
khá hạn chế. Đề tài tình yêu nam - nữ nếu có, cũng chỉ khai thác dưới dạng ẩn
dụ, những câu chuyện cổ tích hoặc lịch sử như trong các phim Truyền thuyết
hoa hướng dương (2012) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam, Mỵ Châu, Trọng
Thuỷ (2014), chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam… Có thể thấy, gần như toàn
bộ các bộ phim HHVN khai thác chủ đề tình yêu nam nữ đều dựa trên các tác
phẩm văn học. Các nhà làm phim tin tưởng những câu chuyện này đã được đã
được thẩm định bởi công chúng văn học. Qua đó, những giá trị thẩm mỹ cũng
được khẳng định trong tác phẩm văn học gốc. Các nhà làm phim coi đây là lợi
thế lớn khi khai thác mảng đề tài này.
36
Về mảng đề tài môi trường - môi sinh: Những năm gần đây, các vấn đề
về thành thị, nông thôn, môi trường luôn được các nhà làm phim đặc biệt chú
trọng. Điều này cho thấy sự quan tâm của khán giả đến các yếu tố môi trường,
tới ranh giới ngày một lung lay giữa nông thôn và thành thị. Nắm bắt được sự
quan tâm của khán giả với đề tài này, hàng loạt phim hoạt hình về tình trạng ô
nhiễm môi trường, công nghiệp hoá dẫn đến phá vỡ cảnh quan, đô thị hoá các
làng mạc được khai thác như: Bước qua hai thế giới (2015), chuyển thể từ
truyện ngắn Vương quốc tàn lụi của nhà văn Trần Đức Tiến nói về việc con
người phá huỷ môi trường khiến môi trường chúng ta sống trở thành thế giới
của rác; Thủ lĩnh vây lửa dựa theo truyện ngắn Thủ lĩnh Chì Gộc của nhà văn
Trần Quốc Tuấn kể về hành trình đưa bầy cá thoát khỏi ao tù, hạn hán đến với
vùng nước mới; Hiệp sĩ áo xanh (2008) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên
của nhà văn Ngô Văn Phú nói về hiệp sĩ Bọ ngựa luôn nêu cao tinh thần
chống lại những kẻ phá hoại môi trường… Các phim hoạt hình thuộc đề tài
môi trường thường phát huy hết đặc trưng của thể loại, mang đến cho người
xem những dự đoán cũng như toàn cảnh của thảm họa môi trường trong tương
lai, gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với vấn đề môi trường hiện tại. Các
phim hoạt hình về môi trường vì thế đáp ứng được tính thời sự, phản ánh
được những vấn đề nóng đang được sự quan tâm của dư luận, tăng thêm giá
trị cho phim HHVN trong nhịp sống hiện đại.
Về mảng đề tài lịch sử: Trong giai đoạn 2000 - 2015, nhiều phim hoạt
hình lịch sử được đầu tư công phu và đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của
khán giả. Phần lớn các phim HHVN tập trung khai thác quá trình hình thành
và xây dựng đất nước, công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc,
những nhân vật lịch sử, danh nhân lịch sử như: Hào khí Thăng Long (2012)
chuyển thể từ bộ tiểu thuyết Thăng Long nổi giận của nhà văn Hoàng Quốc
Hải, nói về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân và dân nhà
37
Trần; Giấc mơ Loa Thành, (2010) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam, kể về
công cuộc xây dựng thành Cổ Loa bảo vệ đất nước của An Dương Vương; Mỵ
Châu - Trọng Thuỷ (2014) chuyển thể từ truyện dân gian Việt Nam với câu
chuyện nỏ thần và sự sụp đổ của Loa thành trước những âm mưu chính trị của
giặc ngoại xâm... Với những yêu cầu cao và khá đặc biệt của phim hoạt hình
lịch sử, các nhà làm phim cần rất nhiều sự hỗ trợ của tác phẩm văn học gốc để
thể hiện cho chính xác với tư tưởng, quan điểm lịch sử, phong tục, tập quán,
xưng hô đến những chi tiết nhỏ nhặt trong kiến trúc, trong trang phục, đạo
cụ… Nhờ chất liệu văn học vô cùng phong phú trong cuốn tiểu thuyết Thăng
Long nổi giận, mà đạo diễn, họa sĩ, biên kịch phim Hào khí Thăng Long được
gợi ý cụ thể, sinh động về hình dáng, kiến trúc của bối cảnh cung điện, tỉ mỉ
tới từng chi tiết như tạo hình con rồng thời Trần khác rồng thời Lý như thế
nào; có được nguồn tư liệu quý giá về phong tục, tập quán như uống rượu
bằng mũi khi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đi thu phục tù trưởng Giác
Mật hay cách xưng hô của vua thời Trần khác với triều đại khác ra sao… Dựa
vào câu chuyện dân gian về mối tình Mỵ Châu, Trọng Thuỷ với truyền thuyết
về sự hình thành của ngọc trai, của giếng ngọc ở đền Cổ Loa mà các nhà làm
phim Mỵ Châu, Trọng Thuỷ đã tái hiện được câu chuyện lịch sử với cách nhìn
nhận sâu sắc về chiến tranh, về thân phận con người trong chiến tranh và bài
học cảnh giác với ngoại xâm để bảo vệ đất nước… Vận dụng tới mức tối đa
các kiến thức lịch sử trong các tác phẩm văn học phục vụ việc làm phim của
mình, các nhà làm phim HHVN trở nên phụ thuộc nhiều vào gốc văn học hơn
khi khai thác mảng đề tài lịch sử này.
Qua các mảng đề tài được kể trên, chúng ta có thể nhận thấy một số
nét nổi bật trong quan niệm thẩm mỹ: đó chính là các nhà làm phim thường
chọn các vấn đề gần gũi với cuộc sống như sinh hoạt, lao động, học tập, vui
chơi; mối quan hệ tình cảm trong gia đình, môi trường - vấn đề nóng của
38
xã hội hiện đại hay đề tài lịch sử đang cần được coi trọng. Nét đặc trưng
riêng này giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau giữa quan niệm thẩm
mỹ của các phim hoạt hình phương Tây và HHVN. Trong khi hoạt hình
phương Tây luôn hướng tới những cái cao cả, vượt lên trên cuộc sống thì
phim HHVN lại chọn cái gần gũi, đi sâu khai thác những cái bình dị, chân
thực xung quanh. Việc hướng tới các đề tài gần gũi cuộc sống, khai thác
những thứ hiển hiện ngay trong đời sống cho thấy, các nhà làm phim coi đó
chính là biểu hiện của cái Đẹp trong quan niệm thẩm mỹ, là xu hướng mà
HHVN hướng tới.
2.1.2. Hình tượng nhân vật
Một yếu tố nữa trong phim HHVN thể hiện rõ nét quan niệm thẩm mỹ
chính là sự thể hiện cái Đẹp qua hình tượng nhân vật. Tìm hiểu và tổng kết lại
những dạng hình nhân vật hoạt hình mà các nhà làm phim thường lựa chọn để
thể hiện, chúng ta nhận thấy một số đặc điểm sau: kể từ năm 2000 về trước,
các mẫu nhân vật lý tưởng trong phim HHVN được yêu thích và xuất hiện
thường xuyên là các nhân vật thần tiên, bụt, phù thủy… Từ năm 2000, các
nhân vật này không được khai thác nhiều, cho thấy những quan điểm mới
trong cách xây dựng nhân vật. Trong giai đoạn này, nhân vật được coi là lý
tưởng là những con người bình thường trong cuộc sống: đó là các cậu bé, cô
bé trong đời sống hiện đại hoặc các con vật, đồ vật được nhân cách hóa như
những con người hoặc chính là những con người có trí thông minh, có tài
năng đặc biệt hoặc có ý chí phấn đấu vượt qua sai lầm, khắc phục các thiếu
sót, được giác ngộ hoặc tự mình giác ngộ để hoàn thiện bản thân, hoàn thành
mục tiêu phấn đấu và mẫu nhân vật lịch sử, người anh hùng là tấm gương để
khán giả noi theo.
Trên cơ sở những hình mẫu nhân vật nói trên, có thể thấy, thông qua
39
việc xây dựng nhân vật lý tưởng, hình mẫu nhân vật, các nhà làm phim và
khán giả đang hướng tới một cái Đẹp gần gũi, xây dựng các nhân vật có ngoại
hình, tính cách là sự mô tả, phản ánh người và vật xung quanh mình chứ
không phải cái Đẹp xa vời, tách rời cuộc sống hiện thực.
Nếu như trước đây, các nhân vật như ông bụt, bà tiên, phù thủy…
thường xuyên xuất hiện bởi khán giả yêu thích câu chuyện có các nhân vật
thần bí giải quyết các vấn đề khó khăn, để tạo ra các phép màu, để giúp đỡ
những người tốt, trừng phạt kẻ xấu hoặc chỉ đơn thuần là xuất hiện để thỏa
mãn mong ước được nhìn thấy những nhân vật thần kỳ như trong các phim:
Cây khế (1963), Cây tre trăm đốt (1982), Quả bầu tiên (1991), Chú chuột
biến hình (1995), Chiếc ô đỏ (Chiếc ô đỏ)… thì ngày nay, quan niệm ấy đang
dần dần thay đổi. Khán giả vẫn thích, vẫn mong ước được nhìn thấy những
phép màu, những điều kỳ diệu của cuộc sống nhưng họ khao khát điều đó thể
hiện ở những người bình thường ở xung quanh, muốn nhìn thấy điều kỳ diệu,
phép màu do chính ý chí và bàn tay con người tạo nên.
Với mong muốn đó, khán giả thích dạng nhân vật biết tự khám phá
năng lực của bản thân, rèn luyện hoặc đấu tranh để có thể tạo nên phép
màu, tự dệt nên ước mơ và nỗ lực biến chúng thành hiện thực. Dựa trên
mẫu nhân vật này, chúng ta nhận thấy, quan niệm về cái Đẹp trong sự lựa
chọn nhân vật hoạt hình giai đoạn này là: nhân vật được coi là đẹp, được
khán giả yêu thích phải là những con người chủ động, mạnh mẽ, có nghị
lực phấn đấu, rèn luyện, làm chủ cuộc sống, biết ước mơ và phấn đấu để
hoàn thành những ước mơ của mình. Điểm qua hàng loạt các bộ phim
HHVN trong 15 năm qua, chúng ta có thể kể ra rất nhiều các nhân vật được
khán giả yêu thích như: chú cá vây lửa trong phim Thủ Lĩnh vây lửa, dũng
cảm kiên cường, dám nghĩ dám làm, đương đầu với mọi khó khăn để đưa
bầy cá vượt qua hạn hán, đến vùng nước mới tự do bơi lội; chú cua con
40
trong phim Càng to càng nhỏ, dần dần qua những trải nghiệm cuộc sống đã
tự mình giác ngộ, tự khám phá ra thế mạnh và nhận ra những giá trị của
bản thân để làm nên những điều tốt đẹp cho cuộc sống; hoặc chú chim đại
bàng trong Bay về phía bầu trời từ một quả trứng lưu lạc, sinh trưởng
trong đàn gà nhưng bản năng và sự yêu thích bầu trời trỗi dậy, chú không
từ bỏ ước mơ, khát vọng của mình mà vẫn quyết tâm rèn luyện và đã biến
ước mơ thành sự thực, trở lại với bầu trời.
Thậm chí, trong giai đoạn này, cho dù nhiều phim hoạt hình có sự góp
mặt của các nhân vật thần tiên với những yếu tố thần kỳ, phép màu huyền bí thì
sự xuất hiện của họ cũng không đơn thuần như trong các phim giai đoạn trước
2000. Trong các phim trước đây, các nhà làm phim thường để nhân vật thần
tiên đồng hành cùng nhân vật chính. Mỗi khi nhân vật chính gặp khó khăn là
thần tiên hiện lên giúp đỡ. Trong thời kỳ hiện tại, khán giả cho rằng ngoài hiền
lành tốt bụng, nhân vật còn cần nhiều phẩm chất hơn nữa mới xứng đáng nhận
được phép màu: họ phải tự phấn đấu, nỗ lực, bỏ tâm ý và công sức, vượt qua
các trở ngại của bản thân chứ không thể thụ động trông chờ vào thế lực huyền
bí nào. Chính vì thế, nhân vật thần tiên chỉ xuất hiện khi nhân vật chính đã làm
hết sức mình, thể hiện sự xứng đáng của họ như trong phim Sự tích Hồ Ba bể;
Sự tích cái nhà sàn; Truyền thuyết Hoa hướng dương; Theo dấu chân hươu…
Trong các bộ phim này, phép màu và nhân vật thần tiên xuất hiện rất hợp lý, là
kết quả tất yếu của những nỗ lực của nhân vật chính. Có thể nói, nhân vật thần
tiên xuất hiện chính là thành quả do nhân vật chính tạo nên để giải quyết vấn đề
của chính mình. Nếu nhân vật thần tiên này không xuất hiện thì sẽ có nhân vật
thần tiên khác, thậm chí không phải là thần tiên mà là một con người có khả
năng đặc biệt xuất hiện để giải quyết sự việc - bởi thực ra sự nỗ lực của nhân
vật chính đã làm nên điều đó rồi. Với quan niệm như vậy, chúng ta gặp trong
hàng loạt bộ phim hoạt hình có các nhân vật bình thường tạo nên được những
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf
Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf

More Related Content

Similar to Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf

bảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tín
bảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tínbảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tín
bảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tín
krista461
 

Similar to Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf (20)

Khoá Luận Tốt Nghiệp Tác Động Của Truyện Tranh Nhật Bản Tới Trẻ Em
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tác Động Của Truyện Tranh Nhật Bản Tới Trẻ EmKhoá Luận Tốt Nghiệp Tác Động Của Truyện Tranh Nhật Bản Tới Trẻ Em
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tác Động Của Truyện Tranh Nhật Bản Tới Trẻ Em
 
Quản lý hoạt động biểu diễn của đoàn chèo
Quản lý hoạt động biểu diễn của đoàn chèoQuản lý hoạt động biểu diễn của đoàn chèo
Quản lý hoạt động biểu diễn của đoàn chèo
 
Đề tài: Hình tượng người chiến sĩ trong tranh cổ động, HAY, 9đ
Đề tài: Hình tượng người chiến sĩ trong tranh cổ động, HAY, 9đĐề tài: Hình tượng người chiến sĩ trong tranh cổ động, HAY, 9đ
Đề tài: Hình tượng người chiến sĩ trong tranh cổ động, HAY, 9đ
 
Công chúng truyền hình của Đài phát thanh - Truyền hình Hà Nội.pdf
Công chúng truyền hình của Đài phát thanh - Truyền hình Hà Nội.pdfCông chúng truyền hình của Đài phát thanh - Truyền hình Hà Nội.pdf
Công chúng truyền hình của Đài phát thanh - Truyền hình Hà Nội.pdf
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quản lý hoạt động biểu diễn của Đoàn Chèo Hải Phòng, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý hoạt động biểu diễn của Đoàn Chèo Hải Phòng, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý hoạt động biểu diễn của Đoàn Chèo Hải Phòng, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý hoạt động biểu diễn của Đoàn Chèo Hải Phòng, 9 ĐIỂM
 
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU DÂN SỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA - TẢI FREE ZALO: 093...
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU DÂN SỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA - TẢI FREE ZALO: 093...BIẾN ĐỔI CƠ CẤU DÂN SỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA - TẢI FREE ZALO: 093...
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU DÂN SỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA - TẢI FREE ZALO: 093...
 
Luận văn: Hệ thống rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh
Luận văn: Hệ thống rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinhLuận văn: Hệ thống rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh
Luận văn: Hệ thống rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh
 
DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TRONG AEC VÀ CƠ HỘI, THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM
DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TRONG AEC VÀ CƠ HỘI, THÁCH THỨC CHO VIỆT NAMDI CHUYỂN LAO ĐỘNG TRONG AEC VÀ CƠ HỘI, THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM
DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TRONG AEC VÀ CƠ HỘI, THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM
 
Du lịch văn hóa Mộc Châu : Luận văn ThS. Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam
Du lịch văn hóa Mộc Châu : Luận văn ThS. Ngôn ngữ và văn hoá Việt NamDu lịch văn hóa Mộc Châu : Luận văn ThS. Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam
Du lịch văn hóa Mộc Châu : Luận văn ThS. Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhà Ở Truyền Thống Của Các Cộng Đồng Người Nam Đảo Ở Việ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhà Ở Truyền Thống Của Các Cộng Đồng Người Nam Đảo Ở Việ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhà Ở Truyền Thống Của Các Cộng Đồng Người Nam Đảo Ở Việ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhà Ở Truyền Thống Của Các Cộng Đồng Người Nam Đảo Ở Việ...
 
Đề tài: Dạy vẽ tranh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
Đề tài: Dạy vẽ tranh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinhĐề tài: Dạy vẽ tranh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
Đề tài: Dạy vẽ tranh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
 
Ảnh hưởng của giao thoa văn hóa tới việc học tiếng Hàn của người Việt 6811025...
Ảnh hưởng của giao thoa văn hóa tới việc học tiếng Hàn của người Việt 6811025...Ảnh hưởng của giao thoa văn hóa tới việc học tiếng Hàn của người Việt 6811025...
Ảnh hưởng của giao thoa văn hóa tới việc học tiếng Hàn của người Việt 6811025...
 
Luận văn: Phát triển khu du lịch văn hóa Suối Tiên, HOT, 9đ
Luận văn: Phát triển khu du lịch văn hóa Suối Tiên, HOT, 9đLuận văn: Phát triển khu du lịch văn hóa Suối Tiên, HOT, 9đ
Luận văn: Phát triển khu du lịch văn hóa Suối Tiên, HOT, 9đ
 
Luận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đ
Luận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đLuận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đ
Luận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đ
 
Đề tài: Văn hóa biển với sự phát triển du lịch đảo Cát Hải, HOT, 9đ
Đề tài: Văn hóa biển với sự phát triển du lịch đảo Cát Hải, HOT, 9đĐề tài: Văn hóa biển với sự phát triển du lịch đảo Cát Hải, HOT, 9đ
Đề tài: Văn hóa biển với sự phát triển du lịch đảo Cát Hải, HOT, 9đ
 
Di tích kiến trúc nghệ thuật với sự phát triển của du lịch thái bình, khảo sá...
Di tích kiến trúc nghệ thuật với sự phát triển của du lịch thái bình, khảo sá...Di tích kiến trúc nghệ thuật với sự phát triển của du lịch thái bình, khảo sá...
Di tích kiến trúc nghệ thuật với sự phát triển của du lịch thái bình, khảo sá...
 
Luận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩLuận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩ
 
Luận văn thạc sĩ báo chí.
Luận văn thạc sĩ báo chí.Luận văn thạc sĩ báo chí.
Luận văn thạc sĩ báo chí.
 
bảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tín
bảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tínbảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tín
bảng giá thiết kế phim quảng cáo uy tín
 

More from NuioKila

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsbkjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
hoangphuc12ta6
 

Recently uploaded (17)

BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ 4 KỸ NĂNG TIẾNG ANH 11 CẢ NĂM - GLOBAL SUCCESS - NĂM HỌC 2023-...
BÀI TẬP BỔ TRỢ 4 KỸ NĂNG TIẾNG ANH 11 CẢ NĂM - GLOBAL SUCCESS - NĂM HỌC 2023-...BÀI TẬP BỔ TRỢ 4 KỸ NĂNG TIẾNG ANH 11 CẢ NĂM - GLOBAL SUCCESS - NĂM HỌC 2023-...
BÀI TẬP BỔ TRỢ 4 KỸ NĂNG TIẾNG ANH 11 CẢ NĂM - GLOBAL SUCCESS - NĂM HỌC 2023-...
 
xemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdf
xemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdfxemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdf
xemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdf
 
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...
BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...
BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...
 
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsbkjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
 
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
 
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
 
15 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 MÔN TIẾNG ANH NĂM HỌC 2023 - 2024 SỞ GIÁO...
15 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 MÔN TIẾNG ANH NĂM HỌC 2023 - 2024 SỞ GIÁO...15 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 MÔN TIẾNG ANH NĂM HỌC 2023 - 2024 SỞ GIÁO...
15 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 MÔN TIẾNG ANH NĂM HỌC 2023 - 2024 SỞ GIÁO...
 
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
 
Talk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdf
Talk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdfTalk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdf
Talk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NGThực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
 
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptxBài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
 

Quan niệm về cái đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 - 2015).pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HẠ TH TH NH HÀ U N NI VỀ I Đ TR NG HI H ẠT H NH VI T N HU ỂN THỂ TỪ T H VĂN HỌ (GI I Đ ẠN – 2015) LUẬN VĂN THẠ SĨ ậ , Đ ả -T ề Hà Nội – 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HẠ TH TH NH HÀ U N NI VỀ I Đ TR NG HI H ẠT H NH VI T N HU ỂN THỂ TỪ T H VĂN HỌ GI I Đ ẠN – 2015) Luậ ă t ạ ậ , - Đ ả T ề Mã số: 60210231 N ƣờ ƣớng dẫn khoa họ TS H G Chủ t ch Hộ đồng chấm luậ ă GS TS ạm Gia Lâm Hà Nội – 2016
  • 3. ỜI Đ N Tôi xin cam đoan rằng luận văn Quan niệm về cái Đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 – 2015) là đề tài nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tư liệu, kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố ở bất kỳ tài liệu nào khác. Các nhận định, tài liệu tham khảo và trích dẫn được sử dụng trong luận văn này đều nêu rõ xuất xứ tác giả và được ghi trong mục Tài liệu tham khảo ở cuối luận văn. Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam đoan trên. Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Tác giả Luận văn ạ T T H
  • 4. LỜI CẢ ƠN Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới giảng viên hướng dẫn: TS. Hoàng C m Giang - người đã luôn tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài và làm luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy Trần Hinh người đã truyền cảm hứng cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn Nghệ thuật học và khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã trang bị cho tôi những kiến thức quý giá trong thời gian học tập tại trường. Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân tới các nghệ sĩ hoạt hình lão thành, những đồng nghiệp đang công tác tại Hãng phim hoạt hình Việt Nam đã nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức nghề để giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Học viên Phạm Thị Thanh Hà
  • 5. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 3 1. Lý do chọ đề tài ..................................................................................... 3 2. L ch s vấ đề.......................................................................................... 5 3 Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................13 4. Mụ đí ứu..........................................................15 5 ƣơ p áp ứu......................................................................16 6. Cấu trúc của luậ ă ...........................................................................16 HƢƠNG 1: PHẠ TRÙ I Đ P VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PH VĂN HƢƠNG ĐẾN TÁC PH ĐI N ẢNH...................17 1.1. Những vấ đề lý luận về Mỹ học - á Đẹp ....................................17 1.1.1. Mỹ học, cái Đẹp qua các thời kỳ ...................................................17 1.1.2. Cái Đẹp trong nghệ thuật điện ảnh ................................................21 1.1.3. Cái Đẹp trong phim hoạt hình........................................................22 1.2. Một số vấ đề về chuyển thể tác ph ă ọc sang hoạt hình....23 1.2.1. Khái niệm chuyển thể, các hình thức chuyển thể và một số vấn đề chuyển thể từ văn học sang điện ảnh........................................................23 1.2.2. Vấn đề chuyển thể trong điện ảnh hoạt hình Việt Nam.................27 HƢƠNG : QUAN NI M VỀ I Đ P VÀ H GIÁ TR TRONG PHIM HOẠT HÌNH VI T NAM................................................................32 2.1. Sự phục dựng quan ni m về á Đẹp qua các thành tố của phim hoạt hình Vi t Nam....................................................................................32 2.1.1. Hệ thống đề tài...............................................................................32 2.1.2. Hình tượng nhân vật.......................................................................38 2.1.3. Câu chuyện, cốt truyện ..................................................................42 2.1.4. Phương thức tự sự.........................................................................44
  • 6. 2 2.2. Quan ni m th m mỹ ơ ản trong phim hoạt hình Vi t Nam.......47 2.2.1. Cái Đẹp nằm trong giá trị giáo dục và luân lý...............................48 2.2.2. Cái Đẹp gắn liền với sự nâng cao tri thức về tự nhiên và xã hội…49 2.2.3. Cái Đẹp đi cùng phương thức tự sự chân phương, giản dị............50 HƢƠNG 3: HẠ TRÙ I Đ U H NH THỨ VÀ THỂ ẠI HI H ẠT H NH VI T N .................................................................53 3 1 á Đẹp thể hi n trong hình thức phim ...........................................53 3.1.1. Cái Đẹp thể hiện qua tạo hình........................................................53 3.1.2. Cái Đẹp qua diễn xuất, động tác....................................................61 3.1.3. Cái Đẹp qua việc vận dụng các yếu tố kỹ thuật và công nghệ ......69 3 á Đẹp thể hi n trong thể loại phim ...............................................76 3.2.1. Cái Đẹp trong phim hoạt hoạ 2D...................................................77 3.2.2. Cái Đẹp trong phim cắt giấy..........................................................82 3.2.3. Cái Đẹp trong phim 3D..................................................................86 3.2.4. Cái Đẹp trong các thể loại tổng hợp ..............................................91 KẾT LUẬN ...................................................................................................94 TƢ I U THAM KHẢO.............................................................................96
  • 7. 3 Ở ĐẦU 1. d ọ đề t Ra đời vào tháng 11 năm 1959, trải qua hơn 55 năm phát triển và trưởng thành, phim hoạt hình Việt Nam (HHVN) chính thức trở thành một bộ phận quan trọng của nền điện ảnh nước ta. Suốt chặng đường lịch sử này, HHVN luôn gắn liền với sự đổi thay của đất nước: thời kỳ từ 1960 đến 1975 - vừa xây dựng cơ sở, đào tạo đội ngũ vừa sáng tác trong điều kiện chiến tranh ác liệt; từ 1975 đến hết những năm 1986 là quãng thời gian hoạt động ổn định trong cơ chế bao cấp của nhà nước; những năm từ 1986 đến 2000, HHVN vật lộn trước những thăng trầm trong giai đoạn đổi mới cơ chế sản xuất cũng như phong cách sáng tác; kể từ năm 2000 đến nay, HHVN dần định hình cơ chế sản xuất mới và đạt được những thành quả đáng khích lệ. Mặc dù vậy, toàn bộ phim HHVN sản xuất từ trước tới nay mới chỉ dừng lại con số hơn 500 bộ phim. So với các nước có nền công nghiệp hoạt hình với doanh thu và lợi nhuận khổng lồ như Mỹ, Nhận Bản, Hàn Quốc… thì HHVN còn quá ít về số lượng, chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu xem phim của khán giả. Về chất lượng, việc giành được một số giải thưởng trong nước và quốc tế là điều đáng khích lệ với HHVN, song trên thực tế, phim của chúng ta còn một khoảng cách khá xa so với các nền hoạt hình trong khu vực và trên thế giới. Có thể nói, HHVN thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, hạn chế về tư duy nghệ thuật và công nghệ sản xuất là thực trạng đáng phải suy nghĩ. Một thể loại vô cùng hấp dẫn của điện ảnh, luôn có một lượng khán giả khổng lồ không giới hạn ở nhóm đối tượng trẻ em mà cả người lớn sẵn sàng chờ đợi, đón nhận, tại sao phim HHVN vẫn dậm chân tại chỗ? Điều này thôi thúc chúng ta cần tìm hiểu căn nguyên, cội rễ xem trong thời gian qua, phim HHVN đã hướng đến một hệ giá trị thẩm mỹ như thế nào? Hệ giá
  • 8. 4 trị ấy có gì tương thích hoặc khác biệt so với phim hoạt hình thế giới. Hệ giá trị này thể hiện quan niệm của các nhà làm phim HHVN như thế nào về cái Đẹp, về lý tưởng thẩm mỹ, nhất là khi đối tượng khán giả đầu tiên mà phim hoạt hình hướng đến là thiếu nhi? Và thông qua các tác phẩm hoạt hình chuyển thể từ nguồn văn học, chúng ta cũng có thể nhìn nhận lại: xem văn học có vị trí và tác động như thế nào trong việc định hình cái Đẹp trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà làm phim HHVN. Lựa chọn khảo sát các bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học trong giai đoạn từ năm 2000 - 2015, chúng tôi xác định tầm quan trọng cũng như vai trò của văn học đối với sự phát triển của hoạt hình. Là mảnh đất màu mỡ để khai thác, văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt hình. Từ khi ra đời đến nay, HHVN có nhiều bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học nổi tiếng như Mèo con (1965) chuyển thể từ truyện Cái Tết của Mèo con của nhà văn Nguyễn Đình Thi; Dế Mèn (1979) chuyển thể từ truyện Dế Mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài; Chuyện Ông Gióng (1970) hay Sơn Tinh Thuỷ Tinh (1972) chuyển thể từ kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong thời điểm hiện tại, các nhà làm phim HHVN vẫn tiếp tục khai thác nhiều tác phẩm văn học để làm phim hoạt hình. Nhiều nhà làm phim cho rằng, phim HHVN luôn coi trọng yếu tố giáo dục nên việc kế thừa và phát huy những giá trị đã được đúc kết, thẩm định và được công chúng đón nhận qua các tác phẩm văn học sẽ là một lợi thế khi xây dựng một bộ phim hoạt hình. Để có một nền hoạt hình phát triển và phù hợp với các tiêu chí của nền điện ảnh đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời hòa nhập được với điện ảnh hoạt hình thế giới, các nhà làm phim cần tìm ra hướng phát triển thích hợp. Đặc biệt, trong xu thế nền hoạt hình thế giới không chỉ giới hạn trong việc phục vụ nhóm đối tượng thiếu nhi mà còn phục vụ cả người lớn, chúng ta cần nâng cao chất lượng phim, mở rộng nội dung đề tài phản ánh, cải tiến công nghệ
  • 9. 5 làm phim để phim HHVN đáp ứng được nhiều hơn nữa kỳ vọng và tầm đón đợi của khán giả. Với mong muốn như trên, đề tài nghiên cứu Quan niệm về cái Đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai đoạn 2000 – 2015) hướng tới mục tiêu xác định được quan niệm chung về cái Đẹp trong các phim HHVN, để góp thêm một tài liệu mang tính lý luận giúp cho nhà làm phim có thêm kiến thức về nghề, nâng cao nghệ thuật sáng tác và quan điểm mỹ học, xây dựng định hướng trong hoạt động sáng tác phim HHVN thời gian tới. 2. ấ đề Là một thể loại đặc biệt thuộc loại hình nghệ thuật điện ảnh, có ngôn ngữ biểu hiện giàu sức truyền cảm, có khả năng đi vào đời sống sinh hoạt và tinh thần của khán giả, phim hoạt hình có sức sống vững bền và cách thế tồn tại khác lạ. Trong xã hội hiện đại, nhu cầu thưởng thức phim hoạt hình như một món ăn hàng ngày, một thói quen dần được khẳng định, đặc biệt với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ công nghệ thông tin, hoạt hình càng có cơ hội thúc đẩy phát triển. Có thể nói, đây là giai đoạn có nhiều yếu tố thuận lợi để hoạt hình phát triển hơn cả. Và thực tế, từ trước đến nay, chưa bao giờ việc sản xuất phim hoạt hình rở rộ như hiện tại: sản xuất phim hoạt hình tại hãng phim của nhà nước, ở các công ty tư nhân, các nhóm làm phim độc lập, thậm chí các cá nhân, sinh viên và học sinh… đều có thể làm được phim hoạt hình. Mặc dù thực tế sáng tác khá sôi động song ở mảng lý luận, lý thuyết về phim hoạt hình (nền móng, là cái gốc để phát triển, định hướng sáng tác) thì lại khá trầm lắng. Có thể nói, so với vai trò và tầm vóc của một môn nghệ thuật quan trọng, nền lý luận của HHVN khá nghèo nàn và chưa tương xứng với yêu cầu sáng tác. Với mong muốn hệ thống lại toàn bộ những tài liệu mang tính lý luận cơ bản của HHVN phục vụ đề tài nghiên cứu về Quan niệm về cái Đẹp trong các phim hoạt hình Việt Nam chuyển thể từ tác phẩm văn học (Giai
  • 10. 6 đoạn 2000 - 2015) chúng tôi tiếp cận các tư liệu này theo các hướng dưới đây. 2.1. Phim hoạt hình nhìn từ góc độ tổng thể hình thức, nội dung, phong cách Trong khi nền điện ảnh hoạt hình của các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và đặc biệt là nước Nga - Xô Viết, chiếc nôi đào tạo ra những nhà làm phim HHVN đều có một bề dày lý luận và nhiều công trình nghiên cứu lớn thì ở Việt Nam các công trình nghiên cứu còn rất hạn chế. Cuốn sách của tác giả Ngô Mạnh Lân: Hoạt hình nghệ thuật thứ tám (1997) là một trong số ít các công trình đặt HHVN như một đối tượng nghiên cứu dưới góc độ tổng thể về cả nội dung, hình thức và phong cách. Nghiên cứu về bản chất nghệ thuật của hoạt hình, tác giả đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của hoạt hình là “cuộc trình chiếu hình tượng nghe - nhìn cực kỳ ngoạn mục” [14, tr.9], sử dụng những hình vẽ chuyển động dưới tác động của các phương tiện kỹ thuật tạo ra hiệu quả nghệ thuật đặc biệt. Tác giả nhấn mạnh vào nét riêng biệt của chuyển động trong hoạt hình khác với chuyển động được quay lại trong điện ảnh. Nếu như “hình” trong điện ảnh nói chung là “bức ảnh thật” thì “hình” trong hoạt hình là những nét vẽ do họa sĩ sáng tạo nên, có thể gần gũi, hoặc giống như thật nhưng cũng có thể cường điệu, biến dạng, trừu tượng… tuỳ thuộc sức tưởng tượng và khả năng sáng tạo của họa sĩ. Do vậy, sự “chuyển động” của hoạt hình sẽ không bị bó buộc hoặc bắt chước hoặc chính là sự ghi chép lại các chuyển động thật tuân theo qui luật tự nhiên của chuỗi các bức ảnh thật ghép nối với nhau mà nó có thể linh hoạt, bỏ qua các bước chuyển động hoặc kéo dài các bước chuyển động tạo nên tính ước lệ, giả định. Với cách biểu đạt giàu sáng tạo, giàu cảm xúc như vậy, hoạt hình đã tạo cho mình một thứ ngôn ngữ riêng, hình thành một loại nghệ thuật mới mẻ mà tác giả gọi là “nghệ thuật thứ tám” [14, tr 54]. Cũng trong cuốn sách, tác giả đã trình bày các nghiên cứu xoay quanh các vấn đề cơ bản của hoạt hình: về kịch bản, về công tác đạo diễn, về tạo hình, về âm nhạc… Ngoài
  • 11. 7 việc đưa ra những suy nghĩ và luận bàn phân tích một cách khá hệ thống các yếu tố về cả hình thức và nội dung, cuốn sách còn cung cấp cho độc giả những đánh giá tổng quan về sự phát triển của hoạt hình cả về mặt chất lẫn lượng, sự trưởng thành về mặt thể loại, phong cách sáng tác, tư duy nghệ thuật... Phác thảo những chân dung nghệ sĩ hoạt hình lớn trên thế giới, đưa ra những so sánh, cung cấp cho độc giả những hiểu biết rộng hơn về HHVN và thế giới, cuốn sách giống như cuốn cẩm nang cung cấp những lý luận nền tảng cùng những kiến thức chuyên môn, là tài liệu có giá trị đối với bộ môn nghệ thuật hoạt hình. Ngoài công trình nói trên, có thể kể đến các nghiên cứu của nhóm tác giả trong các cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam (tập 1, 2, nhiều tác giả 2003, 2005) với phần trình bày tổng quan và những nhận định chung về các bước phát triển về mặt nội dung, hình thức, phong cách của HHVN qua các thời kỳ lịch sử. Qua những nghiên cứu này, người đọc được cung cấp các kiến thức về hoạt hình như một thể loại riêng, sánh vai cùng các thể loại phim truyện nhựa, phim tài liệu trong bộ môn nghệ thuật điện ảnh. Bên cạnh những công trình nghiên cứu có qui mô kể trên, nhiều bài báo, bài nghiên cứu, bài phê bình, đánh giá, nhìn nhận phim hoạt hình dưới góc độ tổng thể cũng đã được xuất bản như: tập hợp các bài viết trong cuốn sách 30 năm nghệ thuật điện ảnh (nhiều tác giả, 1983); Điện ảnh và bản sắc dân tộc (nhiều tác giả, 1994)… Nhiều bài phê bình, nghiên cứu, lý luận đăng trên các ấn phẩm báo chí như: Một nền nghệ thuật trưởng thành trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu (Hà Xuân Trường, Tạp chí Điện ảnh số 1/1997); Điều chủ yếu trong phim hoạt họa (Võ Quảng, Báo Văn nghệ số 558, 1974), Yêu hoạt họa, nghĩ về hoạt họa (Phạm Hổ, Báo Văn nghệ số 554, 1974), Bàn chuyện hoạt họa (Tô Hoài, Báo Văn nghệ số 363, 1973)… Trong những bài báo này, nhiều nhận định mang tính khái quát cao về HHVN đã được tập hợp trong cuốn Lịch sử
  • 12. 8 Điện ảnh Việt Nam, có thể kể ra như: nhà thơ Võ Quảng đã chỉ ra những tồn tại của HHVN – “chưa mang được đầy đủ phong cách riêng biệt của Việt Nam” [21, tr.333] và cần tiếp thu, hấp thụ nhiều tinh hoa trong các ngành nghệ thuật liên quan để hình thành “phong cách độc đáo có đầy đủ giá trị Việt” [21, tr.334]; hay như nhà báo Chính Yên với đánh giá phim HHVN đã “mạnh dạn góp phần cho điện ảnh một phong cách làm phim hoạt họa búp bê riêng của Việt Nam” [213, tr.333]… Từ những công trình nghiên cứu có qui mô lớn đến những bài lý luận phê bình đăng tải trên các ấn phẩm báo chí, chúng tôi có được những nguồn tư liệu vô cùng quí giá, là nền tảng lý luận chính trong quá trình khảo sát, nghiên cứu đề tài luận văn. 2.2. Phim hoạt hình trong dòng chảy lịch sử điện ảnh Việt Nam Phim hoạt hình được xem là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nền điện ảnh Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp, đánh giá vai trò và vị thế của phim hoạt hình trong suốt quá trình hình thành và phát triển. Đầu tiên, phải kể đến phần trình bày về sự phát triển và trưởng thành của HHVN từ buổi đầu sơ khai đến những năm gần đây trong hai cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam (tập1, 2, nhiều tác giả 2003, 2005). Phản ánh một cách trực tiếp và sâu sát quá trình phát triển và trưởng thành của HHVN, các nhà làm phim HHVN giai đoạn đầu đã xuất bản các cuốn sách: Phim hoạt hình những nốt thăng, nốt trầm (Ngô Mạnh Lân, 2011); Chặng đường phim hoạt hình (Ngô Mạnh Lân, 2009); Hoạt hình Việt Nam đỉnh cao mơ ước (Trương Qua, 2006). Như cuốn hồi ký ghi lại những tháng ngày gắn bó với hoạt hình từ buổi đầu sơ khai cho đến thời điểm viết cuốn sách, tác giả cuốn sách Chặng đường phim hoạt hình đã cung cấp cho độc giả những tư liệu quí giá về sự hình thành và phát triển cả về tầm vóc và qui mô của HHVN qua từng giai đoạn, sự thay đổi về công nghệ sản xuất, tư duy nghệ thuật, những kinh nghiệm chuyên môn, khát vọng, trăn trở với nghề. Tiếng nói của người nghệ
  • 13. 9 sĩ gắn bó với nghề suốt từ khi hoạt hình ra đời đã phần nào cho chúng ta thấy những vấn đề bản chất nhất của HHVN. Một số cuốn sách khác cũng góp một phần vào nguồn tư liệu quí giá cho HHVN như: Phim hoạt họa Việt Nam (Ngô Mạnh Lân, Trần Ngọc Thanh, 1997); Danh mục phim hoạt hình Việt Nam (nhiều tác giả 1993); Kỷ yếu Hãng phim hoạt hình Việt Nam (nhiều tác giả 1999;) Các nhà Điện ảnh Hà Nội (nhiều tác giả, 2000)… Nhiều bài viết đăng trên tạp chí hoặc được xuất bản online cũng góp thêm tiếng nói cho HHVN trong dòng chảy của lịch sử điện ảnh như: Phim hoạt hình Việt Nam: Mùa xuân trẻ mãi (Ngô Mạnh Lân - Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 3-2013 Hoạt hình Việt Nam: Đợi chờ một tương lai tươi sáng (Nguyễn Hữu Phần, http://www.tinmoi.vn.”; Phim hoạt hình Việt, khoảng trống khó lấp đầy (Nam Phương, http://suckhoedoisong.vn/phim-hoat-hinh-viet-khoang-trong-kho- lap-day-n102624.html); Hoạt hình Việt Nam gặt hái những thành công (Hãng phim Hoạt hình Việt Nam, http://hoathinh.org.vn/hang-phim-hoat-hinh-viet- nam-gat-hai-thanh-cong-mua-giai-canh-dieu-2015); Hoạt hình trong đổi mới giáo dục (Hãng phim hoạt hình Việt Nam, http://hoathinh.org.vn/hoi-thao- phim-hoat-hinh-trong-doi-moi-giao-duc); Chỗ đứng nào cho hoạt hình Việt, (Khánh An, http://petrotimes.vn/cho-dung-nao-cho-phim-hoat-hinh-viet- 342641.html).. 2.3. Phim hoạt hình như một thể loại đặc biệt Với những đặc trưng riêng biệt, phim hoạt hình có một ngôn ngữ biểu cảm riêng, nó được xem là lĩnh vực hấp dẫn và mới mẻ luôn tạo được sự cuốn hút với công chúng yêu điện ảnh nói chung và giới chuyên môn nói riêng. Chính vì vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu, những bài viết, phê bình xem xét phim hoạt hình như một thể loại đặc biệt. Tiêu biểu là cuốn Hoạt hình Việt Nam (nhiều tác giả, 1997), cuốn sách tập hợp gần 50 bài viết của các tác giả phân tích về HHVN theo từng thể loại: phim hoạt họa, phim
  • 14. 10 cắt giấy, phim búp bê… Cuốn sách đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt, thế mạnh của từng loại phim, rút ra những kinh nghiệm về chuyên môn áp dụng trong từng thể loại và từng bộ phim. Hoạt hình Việt Nam trở thành cuốn sách tập hợp những bài phân tích phim có giá trị nhất, bao quát phần lớn quá trình phát triển của HHVN. Cũng qua những bài viết này, hàng loạt những chân dung của các nhà làm phim được giới thiệu tới công chúng thông qua các tác phẩm hoạt hình. Cuốn sách cũng đã hệ thống và phân tích phần lớn các tác phẩm có giá trị của các nhà làm phim, qua đó khẳng định phong cách cũng như thế mạnh của một số nghệ sĩ hoạt hình tiêu biểu. Từ phong cách và thế mạnh này có thể nhận rõ những nét riêng góp phần đưa hoạt hình trở thành một thể loại đặc biệt: thể loại phim hoạt họa - gắn liền với các tên tuổi như NSND Ngô Mạnh Lân, NSND Trương Qua, NSƯT Mai Long…; phim cắt giấy với NSND Hà Bắc, NSND Phương Hoa…; phim búp bê với NSƯT Bảo Quang, NSƯT Nguyễn Thị Hằng… Trong những năm gần đây, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, phim hoạt hình đã áp dụng những công nghệ cao trong sản xuất, cho ra đời các thể loại phim hoạt họa vi tính, phim 3D, phim cắt giấy vi tính, phim tổng hợp các thể loại trên… Chính sự ra đời các thể loại phim mới trên cơ sở áp dụng kỹ thuật máy tính trong các công đoạn sản xuất, những nét đặc trưng để chứng minh hoạt hình như một thể loại đặc biệt càng trở nên rõ nét. Hàng loạt các bài viết phân tích về HHVN đăng trên tạp chí và xuất bản online đã khẳng định thêm về thế mạnh, những nét riêng biệt của hoạt hình so với các thể loại khác như: Hoạt hình trong cánh diều (Minh Trí – Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 4-2013); Hoạt hình Việt Nam vẫn thiếu chất hài hước (Phương Hoa - Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 10-2013); Hoạt hình Việt Nam còn yếu về tư duy nghệ thuật (Kim Anh, Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 7-2013), Hoạt hình minh họa - hướng đi hay giải pháp (Trần Thanh Việt, Tạp chí Thế giới điện
  • 15. 11 ảnh, tháng 10 – 2013); Phim hoạt hình chưa có nhiều đột phá (Kim Anh, Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 4/2016); Phim hoạt hình Việt Nam: Cần thay đổi hướng tiếp cận khán giả (Tường Phạm, http://vnca.cand.com.vn/doi-song-van- hoa/Can-thay-doi-huong-tiep-can-khan-gia-355291/); Để tìm ra nhân vật phim hoạt hình Việt Nam!?(Vương Tâm, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van- hoa/318671/de-tim-ra-nhan-vat-phim-hoat-hinh-viet-nam); Phim hoạt hình - giáo dục trẻ thơ bằng nghệ thuật (Cao Sơn, http://tintuc.wada.vn/e/3851231/Phim-hoat-hinh-giao-duc-tre-tho-bang-nghe- thuat); Sức mạnh vô địch của hoạt hình (Văn Trầm http://hoathinh.org.vn/suc- manh-vo-dich-cua-dien-anh-va-phim-hoat-hinh) 2.4. Các tác phẩm hoạt hình Tiếp cận HHVN từ các tác phẩm hoạt hình là cách phổ biến nhất trong nguồn tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được. Với gần 50 bài phân tích về các bộ phim hoạt hình cụ thể, cuốn sách Phim hoạt hình Việt Nam đã tổng hợp được hầu hết thành tựu và những tác phẩm đáng nhớ của HHVN qua các bài viết: Cái duyên thầm của bộ phim Đáng đời thằng Cáo; Từ Phù đổng Thiên vương đến phim Chuyện Ông Gióng (Trương Qua – Hoạt hình Việt Nam, 1997; Mèo Con (Trần Anh Trung, Hoạt hình Việt Nam, 1997); Dế mèn phiêu lưu ký (Cao Thuỵ, Hoạt hình Việt Nam, 1997); Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Mỹ Linh, Hoạt hình Việt Nam, 1997)… Nhiều bài viết được tập hợp trong các cuốn sách khác như: Đi tìm bản sắc dân tộc Ê – đê trong phim hoạt họa Đam San (Trương Qua - Điện ảnh và bản sắc văn hoá dân tộc trong phim hoạt họa Đam San, 1994); Từ những kịch bản của tôi (Tô Hoài - Điện ảnh và bản sắc văn hoá dân tộc, 1994)… Thời gian gần đây, nhiều bài nghiên cứu, bài phê bình đăng tải trên báo và các trang mạng internet đã kịp thời đưa tin và giới thiệu đến khán giả những tác phẩm hoạt hình cũng như hoạt động sáng tác của HHVN: Để hoạt
  • 16. 12 hình trong Cánh diều hàng năm bay cao mãi (Minh Trí – Tạp chí Thế giới điện ảnh, tháng 3-2015); 3D - Xu hướng mới cho hoạt hình Việt Nam (Phan Anh, http://dantri.com.vn/giai-tri/3d-xu-huong-moi-cho-hoat-hinh-viet- 1322384759.htm), Cậu bé cờ lau - Khởi đầu bản hùng ca, (Thanh Xuân, http://anninhthudo.vn/hau-truong/khoi-dau-ban-hung-ca/560851.antd; Trần Khánh Duyên: Niềm vui chú Bò Vàng (Nguyễn Mai Trang, http://hoathinh.org.vn/tran-khanh-duyen-niem-vui-chu-bo-vang); Xe đạp và những kịch bản hoạt hình xuất sắc, (Ngô Minh Nguyệt, http://hoathinh.org.vn/xe-dap-va-nhung-kich-ban-hoat-hinh-xuat-sac); Người con của rồng - Duyên phận giữa phim 3D và Thái tổ Lý Công Uẩn, (Công Lê, http://www.thegioidienanh.vn/index.php?option=com_content&id=1057:ngu oi-con-cua-rong---duyen-phan-giua-phim-3d-va-thai-to-ly-cong- uan&Itemid=34; Phim hoạt hình 3D về Vua Lý Công Uẩn "níu" chân khán giả đến phút cuối (Tuyết Minh, http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van- hoa/373596/phim-hoat-hinh-3d-ve-vua-ly-cong-uan-niu-chan-khan-gia-den- phut-cuoi)... Các bài viết này đã đưa khán giả đến gần hơi với HHVN và góp thêm những đánh giá khách quan về HHVN qua góc nhìn từ các tác phẩm. 2.5. Một số nhận định sơ lược qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu, bài viết, bài lý luận phê bình về phim hoạt hình Có thể nói, đa số các công trình nghiên cứu, các bài viết đã đề cập tới phim hoạt hình ở nhiều góc độ cả về hình thức, nội dung và có nhiều thành tựu, đóng góp cho việc nghiên cứu và thực tiễn sáng tác. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, các nghiên cứu này vẫn còn hạn chế, chưa đi sâu khai thác phim HHVN dưới góc độ mỹ học. Chúng tôi nhận thấy, một đặc điểm đáng nói trong của phim HHVN, đó là: phần lớn các bộ phim được sáng tác dựa trên việc chuyển thể từ tác phẩm văn
  • 17. 13 học dành cho thiếu nhi và kho tàng văn học dân gian - lại chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm, lý giải tương xứng với mức độ ảnh hưởng trong thực tế. Chúng tôi hy vọng, đề tài này sẽ có những đóng góp mang tính lý luận về khía cạnh mỹ học trong phim hoạt hình. Chính xác hơn, thông qua tất cả các yếu tố nghệ thuật của các bộ phim, chúng tôi muốn “phục dựng” và phác họa nên những nội dung cơ bản về quan niệm mỹ học của các nhà làm phim HHVN đương đại: Thế nào là Đẹp? Một bộ phim hoạt hình nên kể về chuyện gì và kể như thế nào thì được coi là hấp dẫn, là chuẩn mực? Hệ giá trị được tạo lập nên đằng sau những thước phim đó là gì? Những đóng góp về giá trị thẩm mỹ của tác phẩm văn học gốc trong phim HHVN được thể hiện như thế nào? 3. Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu 1. Thông qua việc khảo sát và tìm hiểu các tư liệu, đặc biệt là nguồn tư liệu với cách tiếp cận hoạt hình thông qua các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy: có nhiều nghiên cứu, bài viết phân tích, đánh giá sâu về những nét đẹp trong phim HHVN song để hệ thống lại, sắp xếp và xem xét chúng dưới góc độ mỹ học thì dường như ít nghiên cứu đề cập tới. Với mong muốn đưa ra một cái nhìn, một cách đánh giá tổng quát, gắn liền với những lý luận cơ bản về thẩm mỹ, về cái Đẹp - đối tượng nghiên cứu của luận văn không chỉ hướng vào việc phân tích cái Đẹp của hoạt hình mà muốn đi sâu vào phân tích Cách thể hiện cái Đẹp trong phim hoạt hình, bởi trong thực tế sáng tác, cách thể hiện cái Đẹp của các nhà làm phim là minh chứng rõ nét nhất cho quan niệm về cái Đẹp của họ. 2. Trên cơ sở nghiên cứu một số bộ phim hoạt hình để chỉ ra cách thể hiện về cái Đẹp của các nhà làm phim HHVN, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu trong các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học trong giai đoạn 2000-2015. Ở đây, cần phải chỉ rõ, các tác phẩm văn học chuyển thể gồm tác phẩm văn học viết và văn học dân gian. Đối với các tác phẩm chuyển thể từ văn học dân gian - các nhà làm phim dựa trên các câu chuyện cổ tích,
  • 18. 14 sự tích, truyền thuyết, huyền thoại… để xây dựng kịch bản triển khai làm phim. Ở mảng văn học viết, các nhà biên kịch có thể chuyển thể những sáng tác mới của các nhà văn thành kịch bản điện ảnh hoặc dùng các tác phẩm văn học do các nhà văn sáng tác dựa trên nguồn gốc hoặc lấy cảm hứng từ các truyện dân gian. 3. Các bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học được lựa chọn để nghiên cứu: Các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học dân gian: - Sự tích cái nhà sàn (2001), đạo diễn Hà Bắc, chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam. - Tiếng nhạc ve (2003), đạo diễn Lý Thu Hà, chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới. - Sự tích Đảo bà (2010), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam. - Giấc mơ Loa Thành (2010), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam. - Truyền thuyết Hoa hướng dương (2012), đạo diễn Bùi Mạnh Quang, chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam. - Bay về phía bầu trời, (2013), đạo diễn Nguyễn Hồng Linh, chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới. - Mỵ Châu, Trọng Thuỷ (2014), đạo diễn Phạm Ngọc Tuấn, chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam. - Đeo lục lạc cho mèo (2014), đạo diễn Lê Bình, chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới. - Theo dấu chân hươu (2015), đạo diễn Hồng Sơn, chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam. Các phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học viết:
  • 19. 15 - Chiếc nôi trên vách đá (2003), đạo diễn Phan Trung, chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông. - Chiếc áo tàng hình (2003), đạo diễn Trần Dương Phấn, chuyển thể từ truyện ngắn Cánh bướm kỳ diệu của nhà văn Viết Linh. - Ve vàng và Dế lửa (2007), đạo diễn Phùng Văn Hà, chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lê Trường Đại. - Càng to, càng nhỏ (2011), đạo diễn Trịnh Lâm Tùng, chuyển thể từ truyện ngắn Đôi càng của cua con của Đỗ Hoà. - Hào khí Thăng Long (2012), đạo diễn Nguyễn Nhân Lập, Trần Dương Phấn, Phùng Văn Hà, chuyển thể từ tiểu thuyết lịch sử Thăng Long nổi giận của nhà văn Hoàng Quốc Hải. - Thủ Lĩnh vây lửa (2013), đạo diễn Trần Khánh Duyên, chuyển thể từ truyện ngắn Thủ lĩnh Chì gộc của nhà văn Trần Quốc Tuấn. - Anh chàng số 9 (2013), đạo diễn Phùng Văn Hà, chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Trần Ninh Hồ. - Bước qua hai thế giới (2015), đạo diễn Bảo Quang, chuyển thể từ truyện ngắn Vương quốc tàn lụi của nhà văn Trần Đức Tiến. 4. Mụ đí ứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Thông qua việc phân tích cách thể hiện cái Đẹp trong phim HHVN, luận văn hướng tới mục tiêu xác định được quan niệm chung về cái Đẹp trong các phim HHVN giai đoạn đương đại. - Luận văn đưa ra những kết quả nghiên cứu góp phần làm dày dặn thêm nền tảng lý luận sáng tác sẵn có của môn nghệ thuật hoạt hình, tạo điều kiện cho các nhà làm phim có thêm cơ hội nghiên cứu để nâng cao kiến thức về nghề, về quan điểm mỹ học và nghệ thuật sáng tác.
  • 20. 16 - Tiếp cận, phân tích và dự đoán các xu hướng mới, xây dựng định hướng trong hoạt động sáng tác phim HHVN giai đoạn tiếp theo. 4.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 4.2.1. Về lý luận: Luận văn là kết quả của đề tài nghiên cứu, hệ thống các quan điểm về cái Đẹp thông qua việc phân tích đánh giá các phim HHVN được chuyển thể từ tác phẩm văn học. Từ những kết quả nghiên cứu, những quan điểm chung của các nhà làm phim được tập hợp, sắp xếp hệ thống nhằm trở thành lý luận cơ bản, lý thuyết sáng tác cho một thể loại đặc biệt của nghệ thuật điện ảnh. 4.2.2 Về thực tiễn: Trong điều kiện thực tế các nguồn tài liệu về hoạt hình khá là khan hiếm và tản mạn thì luận văn là nguồn tham khảo giúp cho những người quan tâm nghiên cứu, đội ngũ sáng tác và khán giả phim hoạt hình có thể tiếp cận với HHVN một cách toàn diện, từ góc độ khái quát, tổng thể. 5. ƣơ p áp ứu Trên nền tảng hướng tiếp cận mỹ học, liên văn bản và trần thuật học, luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành; phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống; phương pháp tiếp cận văn hóa học để tiến hành nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã sử dụng một số thao tác để hoàn thành các yêu cầu đề ra như: Thao tác phân tích và tổng hợp; thao tác so sánh, đối chiếu; thao tác thống kê… 6. Cấu trúc của luậ ă Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: ƣơ 1: Phạm trù cái Đẹp và vấn đề chuyển thể từ tác phẩm văn chương đến tác phẩm điện ảnh ƣơ : Quan niệm về cái Đẹp và hệ giá trị trong phim hoạt hình Việt Nam ƣơ 3: Phạm trù cái Đẹp qua hình thức và thể loại phim hoạt hình Việt Nam
  • 21. 17 HƢƠNG 1: PHẠM TRÙ I Đ P VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PH VĂN HƢƠNG ĐẾN TÁC PH ĐI N ẢNH 1.1. Những vấ đề lý luận về Mỹ học - á Đẹp 1.1.1. Mỹ học, cái Đẹp qua các thời kỳ Mỹ học là một khoa học hợp thành khoa học triết học, có đối tượng nghiên cứu là các dạng biểu hiện của cái thẩm mỹ. Mỹ học giúp chúng ta nhận thức được cái Đẹp. Có thể nói, mỹ học chính là khoa học nghiên cứu sự cảm thụ cái Đẹp. Nghiên cứu lịch sử mỹ học qua các thời kỳ: Mỹ học Hy Lạp cổ đại, Mỹ học thời kỳ Trung cổ phong kiến; Mỹ học thời kỳ Phục hưng; Mỹ học thời khai sáng; Mỹ học thời kỳ cổ điển… Chúng ta nhận thấy tư tưởng mỹ học trước Marx có ba khuynh hướng cơ bản để tiếp cận cái Đẹp là: khuynh hướng duy vật tiếp cận cái Đẹp trước Marx; khuynh hướng duy tâm khách quan trong việc tiếp cận cái Đẹp trong lịch sử mỹ học; khuynh hướng duy tâm chủ quan trong việc tiếp cận cái Đẹp trong lịch sử triết học. 1.1.1.1. Khuynh hướng duy vật tiếp cận cái Đẹp trước Marx có ba thời kỳ phát triển mà đặc điểm chủ yếu đều coi cái Đẹp tồn tại khách quan, là thuộc tính của cuộc sống Quan niệm về cái Đẹp của mỹ học duy vật thời cổ đại với “các nhà mỹ học duy vật đầu tiên như Democrit và Aristote đều cho rằng, cái Đẹp có các thuộc tính như: sự cân xứng, sự hài hoà, trật tự, số lượng, chất lượng, sự tiến bộ, sự phát triển, cái Đẹp gắn với cái có ích, cái thiện…” [10, tr.46]. Theo quan điểm này, cái Đẹp phải được biểu hiện ở cái khác biệt được thống nhất trong đa dạng: “sự vật đẹp phải có một kích thước và một tỷ lệ nhất định”; “nó là các khoái cảm của con người gắn liền với độ”; “cái Đẹp tuy thống nhất trong đa dạng, là trật tự, tỷ lệ và kích thước, là phạm trù
  • 22. 18 trong khoái cảm, nhưng chúng có tính chất tương đối, không có một cái Đẹp nào tuyệt đối”; “cái Đẹp phải là cái có ích, là cái tốt”. [7, tr.74] Quan niệm về cái Đẹp của các nhà duy vật thế kỷ XVII – XVIII, tiêu biểu là Edmund Burke và Denis Dideros. Burke tỉ mỉ chỉ ra bảy dấu hiệu khách quan về cái Đẹp là tính nhỏ nhắn, tính tương đối, sự mịn màng của bề mặt, sự đa dạng trong tình trạng các bộ phận phân phối, quan hệ các bộ phận không cứng nhắc, cơ cấu uyển chuyển, màu này cùng với màu khác trong cùng sự vật đẹp là không quá nổi bật. Còn Dideros cho rằng cái Đẹp phải là cái thật, cái tốt và chúng có quan hệ khăng khít với nhau. Ông khẳng định có hai cái Đẹp – cái Đẹp thực tại và cái Đẹp ta nhìn thấy. Cái Đẹp là tồn tại khách quan trong tự nhiên. Tự nhiên là ngọn nguồn cái Đẹp. Cái Đẹp và cái thật là một. Quan niệm về cái Đẹp của các nhà duy vật nhân bản thế kỷ XIX tiêu biểu là Nikolay Chernyshevsky. Theo ông “cái Đẹp là cuộc sống, một thực thể đẹp là thực thể trong đó ta nhìn thấy được cuộc sống đúng như quan niệm của chúng ta, một đối tượng đẹp là một đối tượng trong đó cuộc sống được thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ tới cuộc sống” [7. tr. 74] 1.1.1.2. Khuynh hướng duy tâm khách quan trong việc tiếp cận cái Đẹp đối lập với cách tiếp cận cái Đẹp của mỹ học duy vật. Mỹ học duy tâm cho rằng cái Đẹp không phải thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là tư tưởng của Hegel. Mặc dù thừa nhận có cái Đẹp của tự nhiên song ông cho rằng cái Đẹp tự nhiên “nghèo nàn”, “thấp hơn rất nhiều so với cái Đẹp của nghệ thuật” và “nó cũng nằm trong tinh thần”. Còn Plato cho rằng cái Đẹp không thể là một sự vật nào đó, “cái Đẹp là một ý niệm”. Cái Đẹp - ý niệm là một thứ tiên nghiệm, sẵn có, chính nó làm nên cái Đẹp của vạn vật, soi sáng cái Đẹp của tâm hồn; nó tồn tại vĩnh cửu, không bị hủy diệt…
  • 23. 19 1.1.1.3. Khuynh hướng duy tâm chủ quan trong việc tiếp cận cái Đẹp coi mỹ học là khoa học nghiên cứu các phán đoán thị hiếu. Các nhà mỹ học duy tâm chủ quan cho rằng vấn đề chủ yếu không phải là cái Đẹp là gì mà là sự phán đoán về cái Đẹp là gì”. Phán đoán ở đây không phải theo logic mà phán đoán tình cảm, chủ quan, có tính thưởng ngoạn… “Hume quả quyết rằng: cái Đẹp không phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó. Còn Kant thì nói một cách hình tượng rằng: cái Đẹp không ở trên đôi má hồng của cô thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si tình” [7, tr.73] Trong lịch sử mỹ học, ba khuynh hướng này luôn đứng trên tư thế đối lập, đấu tranh lẫn nhau, song cũng đồng thời đối thoại, bù đắp cho nhau, cùng làm hoàn thiện dần những quan điểm về cái Đẹp trong hệ thống mỹ học Marx-Lenin. Mỹ học Marx-Lenin là thành quả phát triển của mỹ học nhân loại. Mỹ học Marx-Lenin là một bộ phận hợp thành của triết học Mac- Lênin, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nghiên cứu sự vận động của các quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, trong đó cái Đẹp là trung tâm, hình tượng là khâu cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất, hay nói cách khác, mỹ học Marx-Lenin nghiên cứu sự vận động của cái Đẹp và các hình thức khác nhau của cái Đẹp. Sử dụng cách tiếp cận “duy vật biện chứng” về cái Đẹp, mỹ học Marx- Lenin phê phán những hạn chế của ba cách tiếp cận cái Đẹp trước Marx, đồng thời đưa ra hệ thống quan điểm mới về cái Đẹp. Mỹ học Marx-Lenin coi cái Đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, bao chứa các quan hệ chân - thiện - ích, xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cân xứng
  • 24. 20 hài hoà, gây được khoái cảm thẩm mỹ tích cực đối với chủ thể xã hội. Phân biệt cái Đẹp với cái thẩm mỹ, coi cái Đẹp là một bộ phận hợp thành của cái thẩm mỹ chứ không phải là bản thân cái thẩm mỹ, chúng ta nhận thấy cái Đẹp và cái thẩm mỹ đều mang tố chất chung là yếu tố tinh thần và yếu tố tình cảm sâu sắc. Yếu tố xúc cảm là yếu tố đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ và là yếu tố điển hình của cái Đẹp. Mỹ học Marx-Lenin cho rằng cái Đẹp ra đời từ lao động, gắn bó chặt chẽ với cái thật, cái tốt và cái hữu ích. Bản chất của cái Đẹp gắn liền với lao động, chưa có con người và chưa có lao động thì chưa có hiện tượng thẩm mỹ, chưa có cái Đẹp. Như vậy, mỹ học Marx-Lenin nghiên cứu sự vận động lịch sử của cái Đẹp trong quá trình lao động sáng tạo và chiến đấu của con người. Xem xét cái Đẹp gắn với hoạt động thực tiễn, quan điểm Mỹ học Marx-Lenin còn chỉ ra rằng cái Đẹp có mối quan hệ gắn bó không chỉ trong lao động mà còn cả trong đấu tranh xã hội. Những hoạt động xã hội nhằm cải thiện, nâng cao, vun đắp quan hệ xã hội cho phù hợp khát vọng ước mơ, gây được hứng thú thẩm mỹ đều chứa đựng cái Đẹp. Do vậy, cái Đẹp còn mang bản chất xã hội. Do cái Đẹp có sự vận động và không ngừng sáng tạo, được khám phá mà cái Đẹp luôn biểu hiện cho tính xã hội của nó. Cái Đẹp gắn với cái thật, cái có ích, cái thiện. Nếu xa rời những yếu tố kể trên, cái Đẹp sẽ trở nên thiếu vắng nội dung, thiếu sự hài hoà, mất đi yếu tố toàn vẹn. Có thể nhận thấy, cái Đẹp là nhu cầu sống của con người, của dân tộc, của nhân loại. Cái Đẹp đi vào đời sống với mục tiêu đẩy lùi cái xấu, mang đến cho con người cảm giác thoả mãn và hạnh phúc. Cái Đẹp là lĩnh vực đa dạng và phức tạp. Cái Đẹp liên quan đến niềm tin, chân lý và trình độ nhận thức, khả năng sáng tạo của mỗi con người, mỗi dẫn tộc. Thể hiện vai trò của mình trong cuộc sống, cái Đẹp gây được khoái cảm tích cực và gắn với sự hài hoà thẩm mỹ nên nó có thể điều hoà các mối
  • 25. 21 quan hệ; làm phong phú đời sống tâm hồn và tình cảm của con người, định hướng sự phát triển hài hoà của xã hội, mở ra năng lực sáng tạo nhiều chiều, nhiều lớp, ngăn chặn sự phản thẩm mỹ. Như vậy, cái Đẹp trong cuộc sống là tất cả những gì mang tính hữu ích, tốt, thật. Cái Đẹp phải đảm bảo ba yêu cầu: đúng đắn, chân thực của cuộc sống; mang tính nhân bản và nhân văn; là một sự hoàn thiện và hoàn mỹ. “Cái Đẹp trong nghệ thuật có vấn đề thống nhất biện chứng giữa nội dung đẹp và và hình thức đẹp” [7, tr.58]. Không phong phú và đa dạng như cái Đẹp trong tự nhiên song cái Đẹp trong nghệ thuật khẳng định được chiều sâu nhân văn và triết lý. Cái Đẹp trong nghệ thuật là tổng hợp của giá trị mỹ học với đạo đức, chính trị, khoa học… Nó tạo nên một một chỉnh thể tinh thần trọn vẹn bao gồm Chân – Thiện - Mỹ, hòa quyện tình cảm, khát vọng, trí tuệ, ý chí của con người. 1.1.2. Cái Đẹp trong nghệ thuật điện ảnh Điện ảnh là loại hình sáng tạo nghệ thuật tổng hợp, kết hợp các kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành những khung hình chuyển động. Là môn nghệ thuật lấy hình ảnh làm ngôn ngữ thể hiện nên đặc trưng rõ nét nhất cũng là linh hồn của điện ảnh không gì khác chính là hình ảnh. Dựa trên đặc trưng cơ bản nhất là hình ảnh, ngôn ngữ thể hiện của điện ảnh bao hàm các yếu tố: tính sát thực, tính hình ảnh, tính không gian và thời gian, tính tổng hợp. Một bộ phim hay phải là bộ phim thể hiện rõ nhất những đặc trưng của điện ảnh, hay nói cách khác là bộ phim có “tính điện ảnh” cao. Dựa trên những yêu cầu, đòi hỏi và cả sự mong chờ, kỳ vọng của các nhà làm phim và công chúng quan tâm đến điện ảnh, chúng ta có thể nhận thấy quan điểm về thẩm mỹ, về cái Đẹp trong điện ảnh. Như vậy, cái Đẹp trong điện ảnh chính là sự thể hiện cao nhất những nét đặc trưng của điện ảnh
  • 26. 22 để tạo nên hứng thú, sự mến mộ và mong ước của khán giả. Một bộ phim được cho là đẹp phải thật sự đẹp trong hình ảnh - tức là trong ngôn ngữ thể hiện. Có nhiều yếu tố kết hợp để làm nên vẻ đẹp trong hình ảnh. Đó là hình ảnh phải chân thực, phải hấp dẫn người xem bằng tính chân thực như bản thân cuộc sống hiện thực. Hình ảnh phải có linh hồn - được tạo nên từ sự chuyển động, từ âm thanh, từ tư duy, ý đồ toát lên từ mỗi khuôn hình. Cái Đẹp trong điện ảnh còn thể hiện ở nhiều yếu tố khác như sự đa chiều, linh hoạt trong không gian, thời gian sự sáng tạo không gian hư cấu, sự đa dạng trong thời gian và sự cấu thành thời gian tâm lý… Và đặc biệt, cái Đẹp của nghệ thuật điện ảnh còn nằm trong cách thể hiện, trong ý đồ của hình ảnh khi sử dụng các kỹ thuật montage - ghép nối để tăng thêm sự thông minh, đa nghĩa, giàu biểu tượng của các hình ảnh. Mặc dù là môn nghệ thuật độc lập song điện ảnh là môn nghệ thuật có tính tổng hợp. Chính vì vậy, cái Đẹp của nghệ thuật điện ảnh còn bao gồm sự hài hoà, kết hợp các yếu tố của các loại hình nghệ thuật khác tạo hành một chỉnh thể vừa mới mẻ, vừa có sự tương đồng với các loại hình nghệ thuật khác, tạo nên sức hấp dẫn, quyến rũ của loại nghệ thuật đặc biệt này. 1.1.3. Cái Đẹp trong phim hoạt hình Hoạt hình là một thể loại đặc thù của loại hình nghệ thuật điện ảnh. Hoạt hình sử dụng phương tiện của điện ảnh để tạo ra các hiệu quả riêng biệt: sử dụng hình vẽ dưới tác động của các phương tiện kỹ thuật để tạo ra sự chuyển động. Như vậy, bản chất của hoạt hình chính là “hình vẽ và tạo hình chuyển động” [14, tr.18]. Sự khác biệt của hoạt hình trước tiên nằm ở yếu tố “hình” – bởi hình trong hoạt hình được tạo nên từ nét vẽ, là sự sáng tạo của người họa sĩ chứ không phải sự sao chép hay chính là bức ảnh của những hình ảnh thật. “Hình” trong hoạt hình vì thế mang tính giả định, đậm chất ước lệ, tượng trưng, tính hình tượng. Dưới sự hỗ trợ của kỹ thuật, các chuỗi hình tĩnh
  • 27. 23 ghép lại với nhau tạo thành sự chuyển động. Bởi có mối quan hệ chặt chẽ giữa hình và chuyển động nên cũng giống với hình, sự chuyển động của hoạt hình không phải là sự mô phỏng sự chuyển động trong tự nhiên mà là kết quả của sự kết hợp chuỗi hình tĩnh mang tính ước lệ, tượng trưng. Sự chuyển động trong hoạt hình vì thế cũng mang tính giả định. Chính những sự chuyển động, những động tác này tạo cho hình ảnh trở thành hình tượng của hoạt hình. Có thể nói, hoạt hình là thể loại “sử dụng hệ thống phương tiện mang tính giả định cao” [14, tr.35]. Tính giả định nằm trong phương pháp tư duy và ngôn ngữ của hoạt hình bao gồm - giả định trong tạo hình, trong xây dựng hình tượng về mặt thị giác, giả định trong cách sáng tạo đạo cụ, bối cảnh, xử lý khuôn hình, ánh sáng và màu sắc, tính giả định chỉ đạo diễn xuất, trong âm thanh, âm nhạc… Tóm lại, hoạt hình được sản sinh ra từ thế giới tưởng tượng và sự hư cấu, sáng tạo của con người, được truyền vào những hình tượng sống động có khả năng khơi gợi cảm hứng, truyền cảm xúc cho người xem. Từ những đặc trưng cơ bản trên, có thể thấy được, cái Đẹp của bộ phim hoạt hình chính là cách thể hiện tốt nhất, hoàn mỹ nhất, xuất sắc nhất những đặc trưng cơ bản của hoạt hình để thoả mãn kỳ vọng của người xem. Cái Đẹp trong nghệ thuật hoạt hình là sự thể hiện được tính bay bổng, sự lãng mạn cho phép bởi sự khoa trương, ước lệ, tính khái quát, giả định của ngôn ngữ hoạt hình. Một bộ phim hoạt hình được coi là “Đẹp” cần phải đạt được những chuẩn mực của cái Đẹp trong hoạt hình ở các mặt: cách tư duy, cách nghĩ, cách kể câu chuyện; trong ngôn ngữ thể hiện - tạo hình, diễn xuất, nhạc, động, thoại… tạo nên những xúc cảm mới mẻ và thúc đẩy trí tưởng tưởng không có biên giới của con người. 1.2. Một số vấ đề về chuyển thể tác ph ă ọc sang hoạt hình 1.2.1. Khái niệm chuyển thể, các hình thức chuyển thể và một số vấn đề chuyển thể từ văn học sang điện ảnh Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam do Hội đồng Quốc gia chỉ
  • 28. 24 đạo biên soạn thì “Chuyển thể là chuyển một tác phẩm nghệ thuật từ thể loại này sang thể loại khác. Trong điện ảnh, là dùng phương tiện, ngôn ngữ điện ảnh chuyển một tác phẩm thuộc một thể loại nghệ thuật khác (văn, thơ, kịch, balê, opera…) thành tác phẩm điện ảnh”. Thực chất, chuyển thể cũng là một quá trình sáng tạo nghệ thuật, sử dụng các phương tiện của một loại hình nghệ thuật để cải biến nội dung tác phẩm nghệ thuật gốc cho phù hợp với mục đích của người chuyển thể. Trong trường hợp này chúng ta nghiên cứu việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. Văn học và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật khác nhau về phương thức biểu hiện. Công cụ thể hiện của văn học là con chữ, là ngôn từ thì phương tiện thể hiện của điện ảnh là hình ảnh. Như vậy việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang điện ảnh chính là việc thể hiện nội dung tác phẩm bằng một loại ngôn ngữ khác - ở đây chính là hình ảnh để thể hiện. Và để tác phẩm mới hình thành phù hợp và đạt được hiệu quả của loại hình nghệ thuật điện ảnh, người nghệ sĩ phải sử dụng công cụ hình ảnh này thể hiện tác phẩm sao cho đạt được những yêu cầu mà loại hình nghệ thuật điện ảnh hướng tới như cách kể chuyện mang tính điện ảnh, các xung đột, kịch tính, nhân vật, màu sắc, bối cảnh… tác động trực tiếp vào thị giác người xem. Bởi thế, mặc dù là mô phỏng một tác phẩm gốc nhưng trên thực tế chuyển thể là cả một quá trình sáng tạo của nhà biên kịch. Chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh thường được thực hiện theo hai kiểu: chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát nguyên bản. Chuyển thể sát nguyên bản, là cách mà nhà biên kịch điện ảnh bám sát tác phẩm văn học gốc, tôn trọng tối đa tác phẩm văn học. Để thực hiện điều này, tác phẩm văn học cần có chứa đựng chất điện ảnh tiềm tàng bao gồm nhiều yếu tố cần thiết cho kịch bản phim như cốt truyện, tình huống, nhân vật,
  • 29. 25 hành động, tư tưởng chủ đề, ngôn ngữ… giàu chất điện ảnh. Như vậy, toàn bộ quá trình chuyển thể này là phụ thuộc hoàn toàn vào chất liệu văn học, ít sự sáng tạo ngoài những yếu tố sẵn có trong tác phẩm văn học. Vì vậy, việc tìm kiếm được tác phẩm văn học gốc có đủ tiêu chí để chuyển thể sát nguyên bản là điều vô cùng quan trọng. Thuận lợi của chuyển thể sát nguyên bản rất rõ ràng tuy nhiên, những khó khăn do sử dụng kiểu chuyển thể này cũng không đơn giản. Khi thành công của tác phẩm văn học gốc được khẳng định, được độc giả đón nhận, thì chuyển mã sang một ngôn ngữ khác chưa hẳn đã thành công như trong nguyên gốc. Và chính sự so sánh giữa hai tác phẩm có cùng nội dung chỉ khác cách thể hiện nhiều khi làm giảm đi cảm hứng của khán giả đối với sản phẩm nghệ thuật ra đời muộn hơn. Chuyển thể không sát nguyên bản, là hình thức chuyển thể tự do đòi hỏi sự sáng tạo cao hơn của nhà biên kịch. Đối với kiểu chuyển thể này, nhà biên kịch coi tác phẩm văn học như một cái cớ, thậm chí tác phẩm văn học gốc chỉ cung cấp ý tứ, gợi cảm hứng để xây dựng một kịch bản phim mới. Chuyển thể không sát nguyên bản mặc dù không mô phỏng lại tác phẩm gốc như kiểu chuyển thể sát nguyên bản song cũng không hẳn là sẽ sáng tạo lại toàn bộ từ cốt truyện, hành động, nhân vật, tình tiết, không gian… Nhà biên kịch sẽ tiếp nhận một cách chọn lọc các yếu tố của tác phẩm gốc, đặc biệt là phải giữ được chủ đề tư tưởng, một số nhân vật, sự kiện chính… để tác phẩm mới ra đời vẫn mang tinh thần, dáng dấp của tác phẩm gốc, nếu không sẽ không còn là sự chuyển thể mà là một sáng tác mới. Với kiểu chuyển thể không sát nguyên bản này, tác phẩm mới sẽ cuốn hút công chúng bởi sự mới mẻ, sáng tạo, gây cảm giác kích thích người xem hơn. Cùng là chuyển thể, song chọn lựa kiểu chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát nguyên bản là phụ thuộc vào tác phẩm văn học gốc có đủ yếu tố cần thiết với một bộ phim hay không hay gọi là có giàu chất điện
  • 30. 26 ảnh hay không. Ngoài ra, chọn kiểu chuyển thể nào còn tuỳ thuộc ở sự lựa chọn của nhà biên kịch thưởng thức, cảm nhận tác phẩm như thế nào. Trong sự lựa chọn này, chúng ta cũng phải xét đến vấn đề công chúng. Sự mong chờ, kỳ vọng và thị hiếu của công chúng cũng góp một phần lớn trong quyết định của nhà làm phim. Nói tóm lại, lựa chọn kiểu chuyển thể phù hợp để làm ra những bộ phim hấp dẫn, vừa khơi dậy những giá trị tiềm ẩn của tác phẩm gốc, vừa cho ra đời những sáng tạo nghệ thuật mới, hấp dẫn, lôi cuốn người xem là điều quan trọng với mỗi nhà biên kịch trong lĩnh vực chuyển thể này. Bởi văn học là mảnh đất màu mỡ, khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của điện ảnh nên lựa chọn hình thức chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh là một xu hướng đã và đang được nhà điện ảnh khai thác. Ngoài những thuận lợi có thể nhìn thấy rõ ràng, phương thức này cũng khiến các nhà biên kịch gặp khó khăn không ít trong quá trình triển khai. Về mặt thuận lợi: Tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học được kế thừa những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc như chủ đề tư tưởng, cấu trúc, cốt truyện, kịch tính, tính cách nhân vật, thậm chí những trường đoạn ấn tượng, những câu thoại ghi dấu ấn… trong khi các kịch bản điện ảnh sáng tác mới cần mất thời gian, công phu, sự tính toán cho tất cả những điều cần thiết của một bộ phim. Thuận lợi thứ hai, chính là việc kế thừa những thành công sẵn có của tác phẩm văn học gốc. Đặc biệt, với các tác phẩm có tên tuổi, được công chúng đón nhận, chứa đựng những giá trị được đã khẳng định, tác phẩm điện ảnh mặc nhiên nhận được sự quan tâm và thu hút đối với khán giả. Nhiều bộ phim đã gây được sự chú ý của công chúng nhờ việc chuyển thể các tác phẩm nổi tiếng. Tất nhiên, ngoài sự hấp dẫn của bộ phim còn có một phần thôi thúc khán giả bởi tò mò muốn xem bộ phim có hay, có hấp dẫn được như tác phẩm văn học gốc hay không. Mặc dù có nhiều lợi thế, song để làm tốt việc chuyển thể, các nhà làm
  • 31. 27 phim cũng gặp những khó khăn trong quá trình thực hiện. Sử dụng một loại công cụ, một ngôn ngữ khác để thể hiện những nội dung được in dấu bởi một loại hình nghệ thuật đã được thừa nhận khiến nhà biên kịch phải đào sâu suy nghĩ. Dùng công cụ mới để thể hiện những đặc trưng của thể loại mới mà không làm mất đi thần thái, phong cách của tác phẩm gốc là điều rất khó. Từ văn học sang điện ảnh, từ ngôn từ sang hình ảnh, phải giữ được cái cốt cũ đồng thời làm sinh động, hấp dẫn tác phẩm mới thực sự là một thách thức đòi hỏi khả năng sáng tạo của nhà biên kịch. Ngoài ra, cũng phải tính đến phương diện công chúng. Mỗi tác phẩm văn học đều có công chúng riêng. Việc thuyết phục được công chúng của văn học chuyển sang thưởng thức một loại hình nghệ thuật khác là điều vô cùng khó khăn. Trong nhiều trường hợp, khi tác phẩm văn học đã đi sâu vào đời sống, bám rễ trong tư tưởng, tình cảm của công chúng thì việc thuyết phục càng trở nên khó khăn hơn nhiều. Với những trường hợp này, nhiều khi, sự thành công của tác phẩm gốc đôi khi lại trở thành thách thức buộc các nhà biên kịch và đạo diễn phải vượt lên nếu muốn sản phẩm mới có chỗ đứng trong lòng công chúng. Tóm lại, chuyển thể là một xu hướng ngày càng được các nhà phim hưởng ứng. Chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát nguyên bản cũng là vấn đề khiến các nhà điện ảnh quan tâm suy nghĩ. Mảnh đất văn học là nguồn mạch vô cùng phong phú, tuy nhiên, chọn được tác phẩm văn học có đủ yếu tố, đủ chất điện ảnh hay không là điều vô cùng quan trọng. Có trong tay tác phẩm có đủ yếu tố, giàu chất điện ảnh để chuyển thể, nhà biên kịch cần sáng suốt lựa chọn kiểu chuyển thể phù hợp là một trong những điều đem đến thành công của bộ phim. 1.2.2. Vấn đề chuyển thể trong điện ảnh hoạt hình Việt Nam Phim hoạt hình là thể loại nghệ thuật dùng hình ảnh làm ngôn ngữ biểu hiện. Tuy nhiên, hình ảnh của hoạt hình thực chất được tạo dựng từ sự ghép
  • 32. 28 nối các hình vẽ tay làm nên sự chuyển động. Bởi vậy, hoạt hình có những đặc trưng riêng so với các thể loại khác của điện ảnh. Trên cơ sở những đặc trưng riêng của ngôn ngữ thể hiện sẽ đặt ra những yêu cầu riêng trong quá trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. Trong quá trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm hoạt hình, sự phân biệt giữa chuyển thể sát nguyên bản và chuyển thể không sát nguyên bản không được thể hiện rõ nét giống như thể loại phim truyện điện ảnh. Với đặc trưng trong ngôn ngữ thể hiện của hoạt hình là tính giả định, sự ước lệ, khoa trương, bay bổng thì không kiểu chuyển thể nào có thể bó hẹp được sự sáng tạo và cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ. Dù là chọn kiểu chuyển thể sát nguyên bản và tác phẩm gốc có đầy đủ yếu tố của bộ phim hoạt hình từ cách kể, cách tư duy, hình ảnh, nhân vật… song khi chuyển sang ngôn ngữ hoạt hình, tức là một kiểu kể chuyện khác bằng hình ảnh dựa trên những nét vẽ giàu tính giả định và sự sáng tạo của họa sĩ thì bản chất của kiểu chuyển thể sát nguyên bản là mô phỏng không còn tồn tại nữa. Cho dù trong kiểu chuyển thể này chúng ta cố gắng giữ vững cấu trúc, cốt truyện, nhân vật, tính cách, lời thoại… nhưng thực tế điểm quan trọng nhất, linh hồn của bộ phim hoạt hình là sự chuyển động thì mãi mãi không phải là sự mô phỏng của tác phẩm gốc, bởi một điều đơn giản: Trong kịch bản điện ảnh hoạt hình, sự chuyển động do nhà biên kịch viết ra cũng chỉ là một sự gợi ý, tạo cảm hứng, còn sự chuyển động thực sự, tạo nên tính hoạt của hoạt hình hoàn toàn nằm trong sáng tạo của người họa sĩ. Với kiểu chuyển thể không sát nguyên bản sự sáng tạo của nhà biên kịch không bị bó hẹp, tác phẩm văn học gốc hoàn toàn là một gợi ý để chắp cánh cho trí tưởng tượng của người nghệ sĩ bay cao, bay xa. Trong kiểu chuyển thể này, khán giả chỉ nhận thấy ý đồ, tư tưởng của tác phẩm gốc ẩn giấu trong bộ phim hoạt hình chứ không
  • 33. 29 còn nhìn thấy hình hài của tác phẩm văn học. Khi thực hiện việc chuyển thể các tác phẩm văn học gốc sang tác phẩm hoạt hình, chúng ta nhận thấy, các nhà biên kịch lựa chọn các tác phẩm văn học từ hai nguồn: văn học viết và văn học dân gian. Có nhiều nét thú vị trong quá trình chuyển thể các tác phẩm này sang điện ảnh và hoạt hình. Nếu như trong phim truyện điện ảnh, nhiều nhà biên kịch lựa chọn kiểu chuyển thể sát nguyên bản cho các tác phẩm văn học viết và kiểu chuyển thể không sát nguyên bản đối với các tác phẩm dân gian thì trong hoạt hình lại ngược lại. Nhiều nhà biên kịch hoạt hình thường chọn kiểu chuyển thể không sát nguyên bản đối với các tác phẩm văn học viết và kiểu chuyển thể sát nguyên bản đối với các tác phẩm văn học dân gian. Mặc dù trong hoạt hình, khái niệm “sát” và “không sát” văn bản gốc cũng rất tương đối, tuy nhiên, với tính giả định, tượng trưng, ước lệ… của mình, các tác phẩm văn học dân gian với sự tưởng tượng vô cùng phong phú của quần chúng nhân dân rất phù hợp với đặc trưng của hoạt hình. Thực tế, với nhiều sáng tác của văn học dân gian, đặc biệt là ở mảng truyền thuyết, cổ tích… nhà biên kịch chỉ cần thể hiện sát với cốt truyện dân gian, kịch bản đã mang đậm chất hoạt hình mà ít cần tới sự sáng tạo về cốt truyện, xung đột, kịch tính, sự biến ảo, phép màu, những điều thần kỳ, màu nhiệm… Trên thế giới, có rất nhiều bộ phim hoạt hình chuyển thể rất sát với các tác phẩm văn học dân gian và đã thu được thành công, trở thành những bộ phim hoạt hình kinh điển như phim hoạt hình Bạch Tuyết và bẩy chú lùn (phim Mỹ); Công chúa Lọ Lem (phim Mỹ); Người đẹp và quái vật (phim Mỹ); Nàng công chúa ngủ trong rừng (phim Mỹ)… Với HHVN, kiểu chuyển thể này lại càng quen thuộc với hàng loạt các phim Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Chuyện Ông Gióng; Âu Cơ – Lạc Long Quân; Trường ca Đam San… Ở mảng chuyển thể từ các tác phẩm văn học viết ta nhận thấy, các nhà biên kịch có thể sử dụng nguồn văn học từ các sáng tác mới với nội dung
  • 34. 30 tự sáng tạo hoặc các sáng tác có nguồn gốc từ dân gian như các tập truyện cổ của Andersen, Grimm… Với các tác phẩm văn học có nguồn gốc dân gian này, từ cốt truyện của dân gian, các nhà văn đã kể lại câu chuyện cổ tích, truyền thuyết theo cách của họ, có lồng ghép tư tưởng hoặc thổi vào nó một luồng hơi thở của thời đại. Chuyển thể các tác phẩm văn học viết có gốc từ dân gian giúp cho kịch bản điện ảnh vừa thể hiện được các đặc trưng cơ bản đồng thời giúp khán giả hiện đại dễ dàng tiếp cận và dung nhập với câu chuyện hơn. Tiêu biểu cho các bộ phim hoạt hình này phải kể đến những bộ phim như Nàng tiên cá, chuyển thể từ truyện của Andersen; Bầy chim thiên nga, chuyển thể từ truyện của Andersen… Ở Việt Nam, các nhà biên kịch cũng lựa chọn từ những tác phẩm văn học lấy cảm hứng từ dân gian như Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, Chuyện hoa, chuyện quả của Phạm Hổ… Một đặc điểm nữa ta có thể nhận thấy trong quá trình chuyển thể đó là sự biến đổi, chuyển hoá cái Đẹp từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. Đây chính là sự chuyển hoá vẻ phương thức thể hiện cái đẹp bằng ngôn ngữ văn học sang phương thức ngôn ngữ điện ảnh, biến vẻ đẹp trong trí tưởng tượng thành trực quan sinh động. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển thể các nhà biên kịch phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt là có khả năng nhạy cảm để làm tốt nhiệm vụ chuyển thể bởi thực tế không phải bất cứ sự biến đổi nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn. Nhiều trường hợp, vẻ đẹp ngôn từ khiến người đọc thẩm thấu, tâm đắc nhưng khi chuyển sang hình ảnh có thể nhạt nhoà, không tạo nên sự rung động, cảm xúc hoặc cũng có thể không đảm bảo tính mỹ cảm trong hình ảnh. Bởi vậy, sự chuyển hoá vẻ đẹp từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh phụ thuộc nhiều năng lực của các nhà làm phim. Trên cơ sở sự biến đổi vẻ đẹp này chúng ta càng nhận rõ hơn nữa mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và
  • 35. 31 điện ảnh, sự hỗ trợ, tương thích của hai loại hình gần gũi này. Tiểu kết Phim hoạt hình với các đặc tính của điện ảnh, khi chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm hoạt hình ngoài những khó khăn và thuận lợi giống với chuyển thể tác phẩm điện ảnh song nó cũng có đòi hỏi riêng biệt hơn và cũng có cái thuận lợi hơn các thể loại điện ảnh khác. Về khó khăn, như đã nói ở trên, chuyển thể từ ngôn từ sang hình ảnh đã khó, đặc biệt là hình ảnh hoạt hình thì càng đòi hỏi cao hơn với nhà biên kịch. Tuy nhiên, mặt thuận lợi cũng rõ rệt hơn, các tác phẩm văn học, đặc biệt là các tác phẩm văn học dân gian có chất liệu, cảm xúc gần với hoạt hình, có thể là bệ phóng để các tác phẩm hoạt hình thăng hoa. Phim hoạt hình với đối tượng chính là thiếu nhi, đặc biệt với phim HHVN - một loại hình nghệ thuật từ trước tới nay vẫn đặt yếu tố giáo dục lên hàng đầu thì những giá trị thẩm mỹ đã được thẩm định, được đúc kết, được mọi người thừa nhận trong tác phẩm văn học chính là lợi thế để các nhà làm phim khai thác và phát triển.
  • 36. 32 HƢƠNG : QUAN NI M VỀ I Đ P VÀ H GIÁ TR TRONG PHIM HOẠT HÌNH VI T NAM 2.1. Sự phục dựng quan ni m về á Đẹp qua các thành tố của phim hoạt hình Vi t Nam Một bộ phim hoạt hình được khán giả yêu thích là bộ phim có thể thoả mãn được sự kỳ vọng của khán giả. Để làm được điều này, các nhà làm phim phải đến gần hơn với khán giả, hiểu rõ khán giả, hiểu rõ những mong chờ của họ đối với bộ phim của mình. Trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới nay, mặc dù đã có một số thành tựu, song phim hoạt hình thực chất chưa thoả mãn được nhu cầu xem phim của khán giả trong nước cũng như chưa vươn ra ngoài khu vực và quốc tế. Điều đó thôi thúc chúng ta cần phải tìm hiểu căn nguyên, cội rễ xem trong thời gian qua, phim HHVN đã hướng đến một hệ giá trị thẩm mỹ như thế nào? Cần nhận thức được hệ giá trị trong phim HHVN có gì tương thích hoặc khác biệt so với phim hoạt hình thế giới? Chúng ta cũng cần tìm hiểu hệ giá trị thẩm mỹ trong các phim HHVN đã thể hiện quan niệm của các nhà làm phim HHVN như thế nào về cái Đẹp, về lý tưởng thẩm mỹ. Ở đây, chúng ta phải luôn xét đến đặc điểm riêng biệt của HHVN là luôn coi thiếu nhi là đối tượng khán giả đầu tiên mà chúng ta hướng tới. Thông qua việc phân tích các phim hoạt hình chuyển thể từ nguồn văn học, đề tài nghiên cứu phải nhận định được mối quan hệ giữa văn học và hoạt hình, đánh giá đúng vị trí và sự tác động của văn học đối với việc định hình “cái Đẹp” của phim hoạt hình. Để thấy rõ những giá trị cơ bản trong quan niệm về cái Đẹp thể hiện trong các bộ phim, chúng ta sẽ tiếp cận nó thông qua các yếu tố: đề tài, hình tượng nhân vật, câu chuyện - cốt truyện và hình thức tự sự trong các bộ phim hoạt hình. 2.1.1. Hệ thống đề tài Trong số gần 200 bộ phim hoạt hình sản xuất trong 15 năm qua thì
  • 37. 33 các tác phẩm chuyển thể từ gốc văn học chiếm một phần lớn. Các tác phẩm văn học gốc này khai thác mảng chất liệu rất phong phú, nhờ đó hệ thống đề tài trong phim HHVN thời kỳ này cũng rất đa dạng. Qua khảo sát, chúng ta nhận thấy mảng đề tài bao trùm trong phim hoạt hình giai đoạn này thường được các nhà làm phim hướng tới là: đề tài gia đình - xã hội, đề tài con người cá nhân (trong đó có vấn đề tình yêu, nhân cách, nhân sinh quan); đề tài môi trường - môi sinh; đề tài lịch sử… Về mảng đề tài gia đình – xã hội: Do yêu cầu đặc trưng của thể loại hoạt hình, khi khai thác các đề tài về gia đình - xã hội, không phải vấn đề nào cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh. Nhiều đề tài mang tính xã hội được khai thác mạnh mẽ trong tác phẩm văn học, song khi chuyển thể sang hoạt hình, lại cần phải cân nhắc thận trọng. Bởi vậy, các nhà làm phim thường dung hoà giữa yếu tố thực và ảo, dùng các câu chuyện ngụ ngôn, đồng thoại, lấy các câu chuyện của các con vật để nói về chuyện của con người. Với cách làm này, dường như các vấn đề cuộc sống, những thực tế, gai góc của hiện thực được khái quát hoá khiến khán giả tiếp nhận một cách sâu sắc và thấm thía hơn. Cũng nhờ vậy, phim HHVN vốn thiên nhiều về tính giáo dục, các bộ phim ít hay nhiều đều chứa đựng những bài học kinh nghiệm và triết lý sống đã phần nào giảm đi sự khô khan, cứng nhắc. Những bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học, khai thác các vấn đề xã hội thể hiện qua các câu chuyện ngụ ngôn hoặc kể chuyện con vật để nói về con người như: Ve sầu và Bọ ngựa (2013) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới về chuyện bọ ngựa rình bắt ve bị chim sẻ tấn công…; Đeo lục lạc cho mèo (2014) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới kể về chuyện bầy chuột nghĩ ra việc đeo chuông cho mèo để báo động nhưng không con nào đủ can đảm thực hiện; Sếu và Cáo (2006) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới dựa trên việc Cáo mời Sếu thức
  • 38. 34 ăn đựng trong đĩa và Sếu lại đãi Cáo với thực ăn trong chiếc bình cao cổ; Chuyến đi xa của Tắc kè (2006) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông kể về câu chuyện chú Tắc kè đi một ngày đàng, học một sàng khôn; Anh chàng số 9 (2013) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Trần Ninh Hồ về mối quan hệ của các con số trong một hộp đồ chơi… Gia đình là mảng đề tài luôn được các nhà làm phim HHVN chú trọng khai thác. Bởi vậy, số lượng phim về tình cảm gia đình, mối quan hệ trong gia đình cũng chiếm một phần đáng kể trong các phim HHVN. Luôn coi khán giả ở lứa tuổi thiếu nhi là đối tượng phục vụ chủ yếu, có nhiều bộ phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm văn học về tình cảm mẹ - con, cha - con, tình anh - em, bà - cháu, ông - cháu đã chạm được đến trái tim của lớp khán giả nhỏ tuổi như: Chiếc nôi trên vách đá (2003), chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông nói về tình yêu thương, sự hy sinh của chim yến mẹ, dùng máu và nước dãi để xây tổ cho con, sẵn sàng lao mình vào nguy hiểm để bảo vệ những đứa con của mình; Sự tích cái nhà sàn (2001) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam nói về tình anh em ruột thịt, cùng nhau đương đầu, chống lại nguy hiểm…; Theo dấu chân hươu, chuyển thể từ truyện cổ dân tộc Tày - Nùng, là câu chuyện về tình cha con và cuộc hành trình chống lại đàn sói, đi tìm người cha bị biến thành hươu của cậu bé Pảo… Nhìn chung, các bộ phim đề tài gia đình, thể hiện quan niệm trọng những vẻ đẹp thiên về xúc cảm, tình cảm hơn là lý trí; sự ổn định hơn là biến đổi trong quan niệm của các nhà làm phim. Bởi vậy, có nhiều bộ phim hoạt hình sâu sắc, phù hợp với cách nghĩ của người Việt Nam, ẩn chứa những suy tư, trăn trở của chính khán giả vể cuộc sống của bản thân họ. Các phim hoạt hình về đề tài này nhờ vậy mang giá trị hiện thực, gần gũi với cuộc sống tình cảm của người Việt hơn. Về mảng đề tài con người cá nhân: Qua khảo sát, chúng ta nhận thấy
  • 39. 35 các phim hoạt hình thuộc mảng đề tài này thường khai thác vấn đề về tình yêu, nhân cách, nhân sinh quan… như: Quạ hói và Bồ câu (2006), chuyển thề từ truyện ngụ ngôn thế giới, thông qua chuyện con quạ vì muốn trà trộn vào đàn bồ câu mà sẵn sàng từ bỏ chính mình, nhuộm bộ lông đen thành trắng, cuối cùng phải trả giá về chính quyết định sai lầm của nó; Cồ và Chíp (2008) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Trần Công Nghị, kể về anh em nhà gà chọi giỏi võ nhưng luôn coi võ là để rèn luyện sức khoẻ, bồi dưỡng nhân cách chứ không phải để khoe khoang, bắt nạt kẻ yếu; Tài biết bay của Ếch (2012) chuyển thể từ truyện ngụ ngôn thế giới kể về chuyện một con ếch kiêu căng, ngạo mạn, không biết lượng sức mình, muốn bay lên trời cao và đã phải trả giá bằng chính tính mệnh của nó; Ước mơ cây đàn (2011) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Vũ Duy Thông về chuyện cây đàn ghita nằm trong viện bảo tàng vẫn rung lên khúc quân hành để ôn lại những kỷ niệm hào hùng trong những năm tháng chiến đấu gian khổ… Các phim hoạt hình khai thác đề tài tình yêu lại có những đặc điểm riêng biệt. Vì luôn coi đối tượng phục vụ chính là các em thiếu niên, nhi đồng mà các phim về đề tài này thường thiên về tình cảm yêu thương đồng loại, yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên môi trường. Số lượng phim khai thác chuyện tình yêu nam nữ khá hạn chế. Đề tài tình yêu nam - nữ nếu có, cũng chỉ khai thác dưới dạng ẩn dụ, những câu chuyện cổ tích hoặc lịch sử như trong các phim Truyền thuyết hoa hướng dương (2012) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam, Mỵ Châu, Trọng Thuỷ (2014), chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam… Có thể thấy, gần như toàn bộ các bộ phim HHVN khai thác chủ đề tình yêu nam nữ đều dựa trên các tác phẩm văn học. Các nhà làm phim tin tưởng những câu chuyện này đã được đã được thẩm định bởi công chúng văn học. Qua đó, những giá trị thẩm mỹ cũng được khẳng định trong tác phẩm văn học gốc. Các nhà làm phim coi đây là lợi thế lớn khi khai thác mảng đề tài này.
  • 40. 36 Về mảng đề tài môi trường - môi sinh: Những năm gần đây, các vấn đề về thành thị, nông thôn, môi trường luôn được các nhà làm phim đặc biệt chú trọng. Điều này cho thấy sự quan tâm của khán giả đến các yếu tố môi trường, tới ranh giới ngày một lung lay giữa nông thôn và thành thị. Nắm bắt được sự quan tâm của khán giả với đề tài này, hàng loạt phim hoạt hình về tình trạng ô nhiễm môi trường, công nghiệp hoá dẫn đến phá vỡ cảnh quan, đô thị hoá các làng mạc được khai thác như: Bước qua hai thế giới (2015), chuyển thể từ truyện ngắn Vương quốc tàn lụi của nhà văn Trần Đức Tiến nói về việc con người phá huỷ môi trường khiến môi trường chúng ta sống trở thành thế giới của rác; Thủ lĩnh vây lửa dựa theo truyện ngắn Thủ lĩnh Chì Gộc của nhà văn Trần Quốc Tuấn kể về hành trình đưa bầy cá thoát khỏi ao tù, hạn hán đến với vùng nước mới; Hiệp sĩ áo xanh (2008) chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Ngô Văn Phú nói về hiệp sĩ Bọ ngựa luôn nêu cao tinh thần chống lại những kẻ phá hoại môi trường… Các phim hoạt hình thuộc đề tài môi trường thường phát huy hết đặc trưng của thể loại, mang đến cho người xem những dự đoán cũng như toàn cảnh của thảm họa môi trường trong tương lai, gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với vấn đề môi trường hiện tại. Các phim hoạt hình về môi trường vì thế đáp ứng được tính thời sự, phản ánh được những vấn đề nóng đang được sự quan tâm của dư luận, tăng thêm giá trị cho phim HHVN trong nhịp sống hiện đại. Về mảng đề tài lịch sử: Trong giai đoạn 2000 - 2015, nhiều phim hoạt hình lịch sử được đầu tư công phu và đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của khán giả. Phần lớn các phim HHVN tập trung khai thác quá trình hình thành và xây dựng đất nước, công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, những nhân vật lịch sử, danh nhân lịch sử như: Hào khí Thăng Long (2012) chuyển thể từ bộ tiểu thuyết Thăng Long nổi giận của nhà văn Hoàng Quốc Hải, nói về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân và dân nhà
  • 41. 37 Trần; Giấc mơ Loa Thành, (2010) chuyển thể từ truyện cổ Việt Nam, kể về công cuộc xây dựng thành Cổ Loa bảo vệ đất nước của An Dương Vương; Mỵ Châu - Trọng Thuỷ (2014) chuyển thể từ truyện dân gian Việt Nam với câu chuyện nỏ thần và sự sụp đổ của Loa thành trước những âm mưu chính trị của giặc ngoại xâm... Với những yêu cầu cao và khá đặc biệt của phim hoạt hình lịch sử, các nhà làm phim cần rất nhiều sự hỗ trợ của tác phẩm văn học gốc để thể hiện cho chính xác với tư tưởng, quan điểm lịch sử, phong tục, tập quán, xưng hô đến những chi tiết nhỏ nhặt trong kiến trúc, trong trang phục, đạo cụ… Nhờ chất liệu văn học vô cùng phong phú trong cuốn tiểu thuyết Thăng Long nổi giận, mà đạo diễn, họa sĩ, biên kịch phim Hào khí Thăng Long được gợi ý cụ thể, sinh động về hình dáng, kiến trúc của bối cảnh cung điện, tỉ mỉ tới từng chi tiết như tạo hình con rồng thời Trần khác rồng thời Lý như thế nào; có được nguồn tư liệu quý giá về phong tục, tập quán như uống rượu bằng mũi khi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đi thu phục tù trưởng Giác Mật hay cách xưng hô của vua thời Trần khác với triều đại khác ra sao… Dựa vào câu chuyện dân gian về mối tình Mỵ Châu, Trọng Thuỷ với truyền thuyết về sự hình thành của ngọc trai, của giếng ngọc ở đền Cổ Loa mà các nhà làm phim Mỵ Châu, Trọng Thuỷ đã tái hiện được câu chuyện lịch sử với cách nhìn nhận sâu sắc về chiến tranh, về thân phận con người trong chiến tranh và bài học cảnh giác với ngoại xâm để bảo vệ đất nước… Vận dụng tới mức tối đa các kiến thức lịch sử trong các tác phẩm văn học phục vụ việc làm phim của mình, các nhà làm phim HHVN trở nên phụ thuộc nhiều vào gốc văn học hơn khi khai thác mảng đề tài lịch sử này. Qua các mảng đề tài được kể trên, chúng ta có thể nhận thấy một số nét nổi bật trong quan niệm thẩm mỹ: đó chính là các nhà làm phim thường chọn các vấn đề gần gũi với cuộc sống như sinh hoạt, lao động, học tập, vui chơi; mối quan hệ tình cảm trong gia đình, môi trường - vấn đề nóng của
  • 42. 38 xã hội hiện đại hay đề tài lịch sử đang cần được coi trọng. Nét đặc trưng riêng này giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau giữa quan niệm thẩm mỹ của các phim hoạt hình phương Tây và HHVN. Trong khi hoạt hình phương Tây luôn hướng tới những cái cao cả, vượt lên trên cuộc sống thì phim HHVN lại chọn cái gần gũi, đi sâu khai thác những cái bình dị, chân thực xung quanh. Việc hướng tới các đề tài gần gũi cuộc sống, khai thác những thứ hiển hiện ngay trong đời sống cho thấy, các nhà làm phim coi đó chính là biểu hiện của cái Đẹp trong quan niệm thẩm mỹ, là xu hướng mà HHVN hướng tới. 2.1.2. Hình tượng nhân vật Một yếu tố nữa trong phim HHVN thể hiện rõ nét quan niệm thẩm mỹ chính là sự thể hiện cái Đẹp qua hình tượng nhân vật. Tìm hiểu và tổng kết lại những dạng hình nhân vật hoạt hình mà các nhà làm phim thường lựa chọn để thể hiện, chúng ta nhận thấy một số đặc điểm sau: kể từ năm 2000 về trước, các mẫu nhân vật lý tưởng trong phim HHVN được yêu thích và xuất hiện thường xuyên là các nhân vật thần tiên, bụt, phù thủy… Từ năm 2000, các nhân vật này không được khai thác nhiều, cho thấy những quan điểm mới trong cách xây dựng nhân vật. Trong giai đoạn này, nhân vật được coi là lý tưởng là những con người bình thường trong cuộc sống: đó là các cậu bé, cô bé trong đời sống hiện đại hoặc các con vật, đồ vật được nhân cách hóa như những con người hoặc chính là những con người có trí thông minh, có tài năng đặc biệt hoặc có ý chí phấn đấu vượt qua sai lầm, khắc phục các thiếu sót, được giác ngộ hoặc tự mình giác ngộ để hoàn thiện bản thân, hoàn thành mục tiêu phấn đấu và mẫu nhân vật lịch sử, người anh hùng là tấm gương để khán giả noi theo. Trên cơ sở những hình mẫu nhân vật nói trên, có thể thấy, thông qua
  • 43. 39 việc xây dựng nhân vật lý tưởng, hình mẫu nhân vật, các nhà làm phim và khán giả đang hướng tới một cái Đẹp gần gũi, xây dựng các nhân vật có ngoại hình, tính cách là sự mô tả, phản ánh người và vật xung quanh mình chứ không phải cái Đẹp xa vời, tách rời cuộc sống hiện thực. Nếu như trước đây, các nhân vật như ông bụt, bà tiên, phù thủy… thường xuyên xuất hiện bởi khán giả yêu thích câu chuyện có các nhân vật thần bí giải quyết các vấn đề khó khăn, để tạo ra các phép màu, để giúp đỡ những người tốt, trừng phạt kẻ xấu hoặc chỉ đơn thuần là xuất hiện để thỏa mãn mong ước được nhìn thấy những nhân vật thần kỳ như trong các phim: Cây khế (1963), Cây tre trăm đốt (1982), Quả bầu tiên (1991), Chú chuột biến hình (1995), Chiếc ô đỏ (Chiếc ô đỏ)… thì ngày nay, quan niệm ấy đang dần dần thay đổi. Khán giả vẫn thích, vẫn mong ước được nhìn thấy những phép màu, những điều kỳ diệu của cuộc sống nhưng họ khao khát điều đó thể hiện ở những người bình thường ở xung quanh, muốn nhìn thấy điều kỳ diệu, phép màu do chính ý chí và bàn tay con người tạo nên. Với mong muốn đó, khán giả thích dạng nhân vật biết tự khám phá năng lực của bản thân, rèn luyện hoặc đấu tranh để có thể tạo nên phép màu, tự dệt nên ước mơ và nỗ lực biến chúng thành hiện thực. Dựa trên mẫu nhân vật này, chúng ta nhận thấy, quan niệm về cái Đẹp trong sự lựa chọn nhân vật hoạt hình giai đoạn này là: nhân vật được coi là đẹp, được khán giả yêu thích phải là những con người chủ động, mạnh mẽ, có nghị lực phấn đấu, rèn luyện, làm chủ cuộc sống, biết ước mơ và phấn đấu để hoàn thành những ước mơ của mình. Điểm qua hàng loạt các bộ phim HHVN trong 15 năm qua, chúng ta có thể kể ra rất nhiều các nhân vật được khán giả yêu thích như: chú cá vây lửa trong phim Thủ Lĩnh vây lửa, dũng cảm kiên cường, dám nghĩ dám làm, đương đầu với mọi khó khăn để đưa bầy cá vượt qua hạn hán, đến vùng nước mới tự do bơi lội; chú cua con
  • 44. 40 trong phim Càng to càng nhỏ, dần dần qua những trải nghiệm cuộc sống đã tự mình giác ngộ, tự khám phá ra thế mạnh và nhận ra những giá trị của bản thân để làm nên những điều tốt đẹp cho cuộc sống; hoặc chú chim đại bàng trong Bay về phía bầu trời từ một quả trứng lưu lạc, sinh trưởng trong đàn gà nhưng bản năng và sự yêu thích bầu trời trỗi dậy, chú không từ bỏ ước mơ, khát vọng của mình mà vẫn quyết tâm rèn luyện và đã biến ước mơ thành sự thực, trở lại với bầu trời. Thậm chí, trong giai đoạn này, cho dù nhiều phim hoạt hình có sự góp mặt của các nhân vật thần tiên với những yếu tố thần kỳ, phép màu huyền bí thì sự xuất hiện của họ cũng không đơn thuần như trong các phim giai đoạn trước 2000. Trong các phim trước đây, các nhà làm phim thường để nhân vật thần tiên đồng hành cùng nhân vật chính. Mỗi khi nhân vật chính gặp khó khăn là thần tiên hiện lên giúp đỡ. Trong thời kỳ hiện tại, khán giả cho rằng ngoài hiền lành tốt bụng, nhân vật còn cần nhiều phẩm chất hơn nữa mới xứng đáng nhận được phép màu: họ phải tự phấn đấu, nỗ lực, bỏ tâm ý và công sức, vượt qua các trở ngại của bản thân chứ không thể thụ động trông chờ vào thế lực huyền bí nào. Chính vì thế, nhân vật thần tiên chỉ xuất hiện khi nhân vật chính đã làm hết sức mình, thể hiện sự xứng đáng của họ như trong phim Sự tích Hồ Ba bể; Sự tích cái nhà sàn; Truyền thuyết Hoa hướng dương; Theo dấu chân hươu… Trong các bộ phim này, phép màu và nhân vật thần tiên xuất hiện rất hợp lý, là kết quả tất yếu của những nỗ lực của nhân vật chính. Có thể nói, nhân vật thần tiên xuất hiện chính là thành quả do nhân vật chính tạo nên để giải quyết vấn đề của chính mình. Nếu nhân vật thần tiên này không xuất hiện thì sẽ có nhân vật thần tiên khác, thậm chí không phải là thần tiên mà là một con người có khả năng đặc biệt xuất hiện để giải quyết sự việc - bởi thực ra sự nỗ lực của nhân vật chính đã làm nên điều đó rồi. Với quan niệm như vậy, chúng ta gặp trong hàng loạt bộ phim hoạt hình có các nhân vật bình thường tạo nên được những