Cơ sở lý luận về biện pháp điều tra khám xét trong tố tụng hình sự. Khám xét là một trong những biện pháp điều tra được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới nói chung và trong lịch sử Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng. Ở góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, biện pháp điều tra khám xét cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả. Xung quanh khái niệm khám xét tồn tại nhiều quan niệm, cách thức định nghĩa khác nhau
Cơ Sở Lý Luận Các Biện Pháp Điều Tra Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Các Biện Pháp Điều Tra Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé.DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận về hoãn thi hành án hình sự. Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định hình sự của Toà án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhiều quy phạm pháp luật đã ra đời để điều chỉnh các mối quan hệ nêu trên, trong đó có pháp luật thi hành án. Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để thi hành trên thực tế; buộc người bị kết án phải thực thi bản án đó. Thực tế, hoạt động THAHS ở nước ta trải qua các thời kỳ lịch sử, vì vậy quan niệm về bản chất của THAHS nhiều nhà khoa học nghiên cứu có những quan điểm khác nhau, phù hợp với yêu cầu từng thời kỳ. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về thi hành án hình sự, các quan điểm mới chỉ nêu ra ở dạng quan điểm, đại ý khái quát. Cụ thể:
Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sựanh hieu
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả chọn đề tài: " Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự " làm luận văn tốt nghiệp
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download đề tài nghiên cứu khoa học: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố kiểm soat thu thập bảo quản dấu vết vật chứng trong các vụ án giết người, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Yêu cầu tiến hành thực nghiệm điều tra vụ án hình sự được Viện kiểm sát đưa ra nhằm phục vụ quá trình xử lý vụ án hình sự. Thông qua việc tái hiện lại hành vi, sự việc, hiện tượng đã diễn ra trước đây, có thể đưa ra kết luận khách quan để phục vụ công tác điều tra. Trong bài viết sau đây, chúng tôi sẽ trình bày thủ tục thực nghiệm điều tra và vai trò của luật trong quá trình thực nghiệm điều tra. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin liên quan.
Cơ Sở Lý Luận Các Biện Pháp Điều Tra Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Các Biện Pháp Điều Tra Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé.DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận về hoãn thi hành án hình sự. Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định hình sự của Toà án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhiều quy phạm pháp luật đã ra đời để điều chỉnh các mối quan hệ nêu trên, trong đó có pháp luật thi hành án. Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để thi hành trên thực tế; buộc người bị kết án phải thực thi bản án đó. Thực tế, hoạt động THAHS ở nước ta trải qua các thời kỳ lịch sử, vì vậy quan niệm về bản chất của THAHS nhiều nhà khoa học nghiên cứu có những quan điểm khác nhau, phù hợp với yêu cầu từng thời kỳ. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về thi hành án hình sự, các quan điểm mới chỉ nêu ra ở dạng quan điểm, đại ý khái quát. Cụ thể:
Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sựanh hieu
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả chọn đề tài: " Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự " làm luận văn tốt nghiệp
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download đề tài nghiên cứu khoa học: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố kiểm soat thu thập bảo quản dấu vết vật chứng trong các vụ án giết người, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Yêu cầu tiến hành thực nghiệm điều tra vụ án hình sự được Viện kiểm sát đưa ra nhằm phục vụ quá trình xử lý vụ án hình sự. Thông qua việc tái hiện lại hành vi, sự việc, hiện tượng đã diễn ra trước đây, có thể đưa ra kết luận khách quan để phục vụ công tác điều tra. Trong bài viết sau đây, chúng tôi sẽ trình bày thủ tục thực nghiệm điều tra và vai trò của luật trong quá trình thực nghiệm điều tra. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin liên quan.
Cơ sở lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của luật tố tụng hình sự. Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download đề tài nghiên cứu khoa học: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.536.149
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.536.149
Luận Văn Các Biện Pháp Điều Tra Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của người bị buộc tội theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam. Pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay chưa có khái niệm thống nhất về người bị buộc tội. Trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng thường quy định các chủ thể tham gia tố tụng và nêu định nghĩa thế nào là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tùy vào các đặc điểm, giai đoạn tham gia tố tụng khác nhau của những người bị tình nghi là tội phạm. Do đó, nghiên cứu và tìm ra một khái niệm thống nhất về người bị buộc tội trong pháp luật TTHS là cần thiết để nghiên cứu địa vị pháp lý nói chung hay cụ thể là quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.
Cơ sở lý luận về khởi tố vụ án hình sự. Mỗi giai đoạn tố tụng là một phần độc lập tương đối, nhìn chung được giới hạn bằng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng không chỉ nối tiếp nhau một cách đơn thuần, mà có mối liên kết tố tụng qua lại, tạo điều kiện và kiểm tra lẫn nhau một cách hệ thống. Giai đoạn trước là điều kiện làm phát sinh giai đoạn sau; giai đoạn tố tụng tiếp theo chỉ được thực hiện khi nhiệm vụ giai đoạn trước đã được hoàn thành và giai đoạn sau kiểm tra tính đúng đắn, khách quan kết quả tố tụng của giai đoạn tố tụng trước.
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Cơ Sở Lý Luận Của Pháp Luật Về Thi Hành Án Dân Sự. Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.
Cơ sở lí luận về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực tế, không có một quy phạm nào định nghĩa chính xác và đầy đủ khái niệm BPNC. Trong từ điển tiếng Việt Soha, khái niệm “BPNC” được giải thích theo nghĩa của danh từ thì “biện pháp” là: “cách làm, cách thức tiến hành, xử lý công việc hoặc giải quyết một vấn đề cụ thể”; đồng thời, theo nghĩa của động từ, “ngăn chặn” được hiểu là: “chặn lại, không để cho gây tác hại” Trong TTHS, giải quyết vấn đề cụ thể đó là giải quyết tội phạm. Từ đó có thể rút ra khái niệm cơ bản về các BPNC là: “Cách thức tiến hành chặn lại không để cho tội phạm có khả năng gây tác hại.”
Cơ sở lý luận và pháp luật về thi hành án hình sự. Trước hết, để làm rõ khái niệm thi hành án hình sự, cần tìm hiểu thi hành án là gì? Thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo thủ tục trình tự pháp luật quy định, nhằm thực hiện các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án. Thi hành án, xuất phát từ thuật ngữ gốc là “Thi hành”.
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Luận Văn Bắt Người Trong Trường Hợp Khẩn Cấp Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Khóa Luận Tốt Nghiệp Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Ở Việt Nam Hiện Nay đã chia đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được hỗ trợ tải nhé!
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận về biện pháp điều tra khám xét trong tố tụng hình sự.docx
Cơ sở lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của luật tố tụng hình sự. Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download đề tài nghiên cứu khoa học: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.536.149
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.536.149
Luận Văn Các Biện Pháp Điều Tra Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của người bị buộc tội theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam. Pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay chưa có khái niệm thống nhất về người bị buộc tội. Trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng thường quy định các chủ thể tham gia tố tụng và nêu định nghĩa thế nào là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tùy vào các đặc điểm, giai đoạn tham gia tố tụng khác nhau của những người bị tình nghi là tội phạm. Do đó, nghiên cứu và tìm ra một khái niệm thống nhất về người bị buộc tội trong pháp luật TTHS là cần thiết để nghiên cứu địa vị pháp lý nói chung hay cụ thể là quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.
Cơ sở lý luận về khởi tố vụ án hình sự. Mỗi giai đoạn tố tụng là một phần độc lập tương đối, nhìn chung được giới hạn bằng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng không chỉ nối tiếp nhau một cách đơn thuần, mà có mối liên kết tố tụng qua lại, tạo điều kiện và kiểm tra lẫn nhau một cách hệ thống. Giai đoạn trước là điều kiện làm phát sinh giai đoạn sau; giai đoạn tố tụng tiếp theo chỉ được thực hiện khi nhiệm vụ giai đoạn trước đã được hoàn thành và giai đoạn sau kiểm tra tính đúng đắn, khách quan kết quả tố tụng của giai đoạn tố tụng trước.
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Cơ Sở Lý Luận Của Pháp Luật Về Thi Hành Án Dân Sự. Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.
Cơ sở lí luận về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực tế, không có một quy phạm nào định nghĩa chính xác và đầy đủ khái niệm BPNC. Trong từ điển tiếng Việt Soha, khái niệm “BPNC” được giải thích theo nghĩa của danh từ thì “biện pháp” là: “cách làm, cách thức tiến hành, xử lý công việc hoặc giải quyết một vấn đề cụ thể”; đồng thời, theo nghĩa của động từ, “ngăn chặn” được hiểu là: “chặn lại, không để cho gây tác hại” Trong TTHS, giải quyết vấn đề cụ thể đó là giải quyết tội phạm. Từ đó có thể rút ra khái niệm cơ bản về các BPNC là: “Cách thức tiến hành chặn lại không để cho tội phạm có khả năng gây tác hại.”
Cơ sở lý luận và pháp luật về thi hành án hình sự. Trước hết, để làm rõ khái niệm thi hành án hình sự, cần tìm hiểu thi hành án là gì? Thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo thủ tục trình tự pháp luật quy định, nhằm thực hiện các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án. Thi hành án, xuất phát từ thuật ngữ gốc là “Thi hành”.
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Luận Văn Bắt Người Trong Trường Hợp Khẩn Cấp Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Khóa Luận Tốt Nghiệp Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Ở Việt Nam Hiện Nay đã chia đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được hỗ trợ tải nhé!
Similar to Cơ sở lý luận về biện pháp điều tra khám xét trong tố tụng hình sự.docx (20)
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ. Công tác lưu trữ ra đời là do đòi hỏi khách quan đối với việc bảo quản và tổ chức sử dụng tài liệu. Nhà nước ta luôn coi công tác này, đây là một ngành hoạt động trong công tác quản lý nhà nước đồng thời là một mắt xích không thể thiếu được trong bộ máy quản lý của mình. Ngày nay, những yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, công tác lưu trữ cần được xem xét từ những yêu cầu bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý, bởi thông tin trong tài liệu lưu trữ là loại thông tin có tính dự báo cao, dạng thông tin cấp một, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, có độ tin cậy cao do nguồn gốc hình thành, do đặc trưng pháp lý, tính chất làm bằng chứng lịch sử của tài liệu lưu trữ quy định.
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các công ty buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh.Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác.Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. (Thư viện Học liệu Mở Việt Nam , 2012)
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 20/04/1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật DNNN năm 1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu tư trong các DNNN, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định và hướng dẫn của Chính phủ. Theo đó, tại Điều 1 Luật DNNN 1995 quan niệm: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.Các DNNN được tổ chức theo mô hình quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp tư nhân.
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ sinh lao động. Trong hoạt động sản xuất thì vì những lý do khách quan và chủ quan có thể dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Do đó, yêu cầu về ATLĐ và VSLĐ trong lao động được đặt lên hàng đầu. Hiện nay,, An toàn, vệ sinh lao động là những quy định của luật lao động bao gồm những quy phạm pháp luật về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc lâu dài của người lao động.
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay. Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ. NLĐ dù là nam hay nữ đều được pháp luật ở mỗi quốc gia bảo vệ dưới góc độ quyền công dân và được pháp luật quốc tế công nhận và đảm bảo. Ủy ban Quyền con người của Liên Hợp quốc đã có sự phân chia nhóm quyền con người trong lĩnh vực lao động thuộc nhóm quyền dân sự và dưới góc độ pháp luật lao động “Quyền của người lao động phải được bảo đảm như quyền con người” [9].
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân quận. Văn bản hành chính dùng để truyền đạt thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước như : công bố hoặc thông báo về một chủ trương, quyết định hay nội dung và kết quả hoạt động của một cơ quan, tổ chức; ghi chép lại các ý kiến và kết luận trong các hội nghị ; thông tin giao dịch chính giữa các cơ quan, tổ chức với nhau hoặc giữa tổ chức và công nhân. Văn bản hành chính đưa ra các quyết định quản lý quy phạm, do đó không dùng để thay thế cho văn bản QPPL [21, tr 36]
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của viện kiểm sát nhân dân. Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua năm 1999 không tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận. Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiếp lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở. Với quy định của pháp luật, đất đai được chia ra làm nhiều loại khác nhau: theo Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam được chia ra làm sáu loại, bao gồm: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Sự phân chia này dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế này, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai 2003 và hiện nay là Luật Đất đai 2013 đã chia đất đai làm ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu gồm các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp huyện. Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh…Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển từ rất lâu, do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một khái niệm đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủiro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính. Báo cáo tài chính là các chứng từ cần thiết trong kinh doanh. Các nhà quản lý sử dụng chúng để đánh giá năng lực thực hiện và xác định các lĩnh vực cần thiết phải được can thiệp. Các cổ đông sử dụng chúng để theo dõi tình hình vốn đầu tư của mình đang được quản lý như thế nào. Các nhà đầu tư bên ngoài dùng chúng để xác định cơ hội đầu tư. Còn người cho vay và nhà cung ứng lại thường xuyên kiểm tra báo cáo tài chính để xác định khả năng thanh toán của những công ty mà họ đang giao dịch.
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn được đánh giá rất quan trọng trong kinh doanh bởi nó sẽ được sử dụng rất thương xuyên, sử dụng hàng ngày để chi trả cho các chi phí phát sinh khác trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó cũng là thước đo dùng để phản ánh các giá trị hiện có và tình hình biến động về kinh tế của doanh nghiệp tăng hau giảm.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường. Chúng ta biết rằng hàng hóa sản xuất ra là để bán. Chúng được bán ở thị trường. Theo cách hiểu cổ điển, thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán, nơi mà các người mua và bán đến với nhau để mua bán các sản phẩm và dịch vụ. Thị trường thể hiện đặc tính riêng của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Không thể coi thị trường chỉ là các chợ, các cửa hàng…mặc dù nơi đó có mua bán hàng hóa. [2_trang 16]
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet. Đầu tiên để tiếp cận một cách cụ thể về khái niệm chất lượng dịch vụ thì chúng ta cũng cần biết đôi chút về “dịch vụ” là gì. Theo đó thì dịch vụ là những hoạt động hoặc là chuỗi hoạt động mà thông thường ít hoặc nhiều chúng ta không thể sờ thấy về mặt tự nhiên được, nhưng không nhất thiết, xảy ra sự tác động qua lại giữa một bên là khách hàng và một bên là người cung cấp dịch vụ và / hoặc tiềm lực về mặt vật lý của sản phẩm và / hoặc hệ thống người cung cấp mà nó được cung cấp như là những giải pháp cho vấn đề của người tiêu dùng (Gronroos, 1990).
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartBiz
Cách Hệ thống MES giúp tối ưu Quản lý Sản xuất trong ngành May mặc như thế nào?
Ngành may mặc, với đặc thù luôn thay đổi theo xu hướng thị trường và đòi hỏi cao về chất lượng, đang ngày càng cần những giải pháp công nghệ tiên tiến để duy trì sự cạnh tranh. Bạn đã bao giờ tự hỏi làm thế nào mà những thương hiệu hàng đầu có thể sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối và thời gian giao hàng nhanh chóng? Bí mật nằm ở hệ thống Quản lý Sản xuất (MES - Manufacturing Execution System).
Hãy cùng khám phá cách hệ thống MES đang cách mạng hóa ngành may mặc và mang lại những lợi ích vượt trội như thế nào.
[NBV]-CHUYÊN ĐỀ 3. GTLN-GTNN CỦA HÀM SỐ (CÓ ĐÁP ÁN CHI TIẾT).pdf
Cơ sở lý luận về biện pháp điều tra khám xét trong tố tụng hình sự.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA
KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét
1.1.1. Khái niệm
Khám xét là một trong những biện pháp điều tra được quy định trong
pháp luật của nhiều nước trên thế giới nói chung và trong lịch sử Tố tụng hình
sự Việt Nam nói riêng. Ở góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, biện pháp
điều tra khám xét cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả. Xung quanh
khái niệm khám xét tồn tại nhiều quan niệm, cách thức định nghĩa khác nhau:
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, “khám” dưới góc độ pháp lý được
hiểu là: “Xét, lục soát để tìm tang chứng của tội lỗi, của hoạt động phạm
pháp” [42, tr.230].
Từ điển Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 đưa ra
khái niệm khám xét là:
Một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố
vụ án theo lệnh của người có thẩm quyền theo quy định tại điều
141- Bộ luật tố tụng hình sự, để tìm kiếm và thu hồi công cụ phạm
tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội mà có, cũng như mọi đồ vật và
tài liệu khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án. Có thể tiến hành phát
hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi [38, tr.92].
Có thể thấy, việc định nghĩa khám xét theo Từ điển nêu trên đã nêu lên
được khám xét là hoạt động tố tụng hình sự đồng thời là biện pháp nghiệp vụ
điều tra của các cơ quan có thẩm quyền, áp dụng đối với tội phạm nhằm phát
hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi. Tuy nhiên, định nghĩa
này lại chưa khẳng định được bản chất của khám xét là sự tìm tòi, lục soát,
cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng nhất định,
7
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cũng chưa thể hiện đầy đủ mục đích của khám xét là nhằm phát hiện những
chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án, hoặc tìm kiếm người đang bỏ trốn,
người bị bắt cóc, hoặc phát hiện các phần của tử thi… dẫn đến việc hiểu
không thật sự đầy đủ về bản chất, mục đích của hoạt động khám xét. Bên
cạnh đó, việc quan niệm khám xét là một hoạt động điều tra được tiến hành
ngay sau khi khởi tố vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ, khám xét là một trong
những biện pháp điều tra ban đầu nên biện pháp này hoàn toàn có thể được
thực hiện trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự.
Dưới góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, trong những cuốn sách
chuyên khảo hoặc giáo trình luật tố tụng hình sự, các nhà nghiên cứu cũng
đã đưa ra nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về biện pháp điều tra
khám xét:
Giáo trình Khoa học điều tra hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2014 định nghĩa:
Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm
tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, bưu kiện,
bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội;
đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan
đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người
bị bắt cóc [39, tr.149].
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2014 quan niệm:
Khám xét là biện pháp điều tra bằng cách tìm tòi, lục soát có
định hướng người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm nhằm thu thập công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu
vết của tội phạm hoặc những vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án
đang giải quyết hoặc xác chết hay người bị truy nã [23, tr.341].
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh trong Cuốn Sổ tay pháp luật của Điều tra
8
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
viên lại định nghĩa: “Khám xét là hoạt động điều tra được quy định trong
BLTTHS, do cơ quan điều tra tiến hành bằng cách lục soát người, chỗ ở, chỗ
làm việc, địa điểm để tìm kiếm dấu vết tội phạm, thu thập tài liệu, vật chứng
hoặc những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án” [2, tr.102].
Các định nghĩa về khám xét nêu trên đã khắc phục được hạn chế trong
cách định nghĩa của Từ điển, đồng thời nhấn mạnh, làm sáng tỏ được những
nội dung cơ bản của biện pháp khám xét như bản chất, mục đích và các hoạt
động khám xét cụ thể. Theo đó, bản chất của biện pháp khám xét là sự tìm tòi,
lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng nhất
định. Mục đích của khám xét là nhằm thu thập những chứng cứ, tài liệu hoặc
các đồ vật khác có liên quan đến vụ án, từ đó làm cơ sở để giải quyết vụ án
hình sự. Các hoạt động khám xét rất đa dạng, bao gồm khám người, khám chỗ
ở, chỗ làm việc, địa điểm, khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm…
Tuy nhiên, những định nghĩa trên nêu trên vẫn có hạn chế là chưa đề
cập đến các nội dung về căn cứ, trình tự, thủ tục tiến hành khám xét, thậm chí,
thẩm quyền tiến hành khám xét cũng chưa được thể hiện hoặc thể hiện không
đầy đủ. Có định nghĩa không thể hiện nội dung thẩm quyền khám xét, có định
nghĩa lại thể hiện nội dung này không đầy đủ khi chỉ quan niệm thẩm quyền
tiến hành khám xét thuộc về CQĐT. Trên thực tế, khám xét là biện pháp điều
tra được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nên bên cạnh CQĐT,
hàng loạt các cơ quan khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có
thẩm quyền tiến hành khám xét trong phạm vi quyền hạn của mình theo quy
định của pháp luật.
Theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, khám xét
cần được hiểu đầy đủ là: “một biện pháp điều tra được quy định trong luật tố
9
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tụng hình sự, do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng cách tìm tòi, lục
soát, cưỡng chế người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm để tìm kiếm, thu thập dấu vết của tội phạm, tài liệu, vật chứng
hoặc những đồ vật khác có liên quan đến vụ án theo các căn cứ, trình tự, thủ
tục luật định”.
Như vậy, theo khái niệm trên, biện pháp điều tra khám xét phải bao
hàm những yếu tố sau:
- Được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ và
theo một trình tự, thủ tục luật định.
- Khám xét chủ yếu bao gồm các hoạt động: tìm tòi, lục soát, cưỡng chế.
- Các biện pháp khám xét cụ thể bao gồm: khám người, chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
- Mục đích chung của biện pháp khám xét là phát hiện, thu thập những
chứng cứ, tài liệu hoặc đồ vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Đặc điểm
Biện pháp điều tra khám xét có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khám xét là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục
đích là phát hiện, thu thập vật chứng có liên quan trong vụ án hình sự, từ đó
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
Như đã phân tích ở phần trên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
có nhiều biện pháp điều tra khác nhau được thực hiện và mỗi biện pháp mang
lại những mục đích, hiệu quả riêng. Đối với biện pháp khám xét, khi thực
hiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phát hiện, thu thập được những chứng cứ,
tài liệu có liên quan đến vụ án. Đó có thể là vũ khí, công cụ, phương tiện
phạm tội, những tài sản bị tội phạm chiếm đoạt, những vật mang dấu vết tội
phạm, những mẫu vật để nghiên cứu, so sánh hoặc những giấy tờ, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án. Trong một số trường hợp, khi hoạt động khám
10
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xét được tiến hành tại chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc của của chủ thể bị khám
xét còn giúp phát hiện người đang bị truy nã, tử thi hoặc các phần của tử thi,
người bị bắt cóc, người bị giam giữ… Những tài liệu, chứng cứ này là cơ sở
quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có hành vi
phạm tội xảy ra, nếu có căn cứ để xác định là đã xảy ra hành vi phạm tội thì
lập kế hoạch, phương hướng điều tra và tổ chức thực hiện các hoạt động điều
tra phù hợp, từ đó từng bước chứng minh tội phạm, nhanh chóng làm sáng tỏ
sự thật khách quan trong vụ án hình sự.
Thứ hai, khám xét là biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế trong tố
tụng hình sự
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, cưỡng chế là “buộc người khác
phải làm theo những ý nghĩ hoặc hành động của mình” [42, tr.78], suy rộng
ra, cưỡng chế trong tố tụng hình sự là việc căn cứ vào các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự để buộc các đối tượng bị áp dụng phải tuân theo những
mệnh lệnh, yêu cầu nhất định. Trong tố tụng hình sự, có nhiều biện pháp
cưỡng chế khác nhau được ghi nhận như các biện pháp ngăn chặn bắt bị can,
bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt
tiền để bảo đảm… hoặc các biện pháp điều tra thể hiện tính cưỡng chế như
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực
tiếp đến vụ án, xem xét dấu vết trên thân thể, áp giải, dẫn giải, kê biên tài
sản… Khi thực hiện những biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền phải
căn cứ vào các quy định của luật tố tụng hình sự và những quy định liên quan
khác để buộc các đối tượng bị áp dụng phải tuân thủ.
Có thể thấy khám xét là biện pháp điều tra có tác động mạnh đến những
quyền cơ bản của công dân đã được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Đó là các quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
11
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
công dân được ghi nhận tại BLTTHS “Không ai được xâm phạm về chỗ ở, an
toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân” [31, Điều 8]; quyền bảo
hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân ghi nhận tại
BLTTHS “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật”… [31, Điều 7].
Tuy nhiên, để kịp thời ngăn chặn âm mưu, hành động phạm tội của tội
phạm và thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự vẫn
ghi nhận quyền tiến hành khám xét của các cơ quan có thẩm quyền nếu những
cơ quan này có đủ căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm của của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do
phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát
hiện người đang bị truy nã. Những đối tượng bị khám xét có nghĩa vụ phải
chấp hành đầy đủ các yêu cầu của lực lượng tiến hành khám xét, nếu các đối
tượng bi áp dụng có hành vi cản trở, chống đối hoặc không hợp tác thì tùy theo
tính chất của hành vi, họ sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định.
Thứ ba, khám xét là biện pháp điều tra có sự đa dạng về đối tượng, địa
điểm thực hiện
Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm hoặc người bị
tình nghi là tội phạm hoặc những người có liên quan khác có thể che giấu
những tài liệu, công cụ, phương tiện có liên quan đến vụ án ở nhiều địa điểm,
trong nhiều đồ vật khác nhau, đó có thể là trên người, nơi ở, nơi làm việc hoặc
trong bưu kiện, bưu phẩm... Bởi vậy, với vai trò là một biện pháp điều tra
giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra tìm kiếm, phát hiện những tài liệu,
công cụ liên quan đến vụ án bị tội phạm che giấu, khám xét cũng có sự đa
dạng về đối tượng. Theo đó, đối tượng của biện pháp khám xét bao gồm:
người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm...
12
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Mỗi đối tượng khám xét khác nhau sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền thu thập
những đồ vật, tài liệu khác nhau, từ đó tổng hợp, đánh giá chứng cứ. Sự đa
dạng trong đối tượng của biện pháp điều tra khám xét vừa tạo sự khách quan
trong hoạt động tìm kiếm, thu thập chứng cứ, vừa góp phần nâng cao hiệu quả
cho hoạt động điều tra cũng như quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ tư, khám xét phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định
Trước hết, hoạt động khám xét phải tiến hành theo quy định của pháp luật.
Như đã phân tích, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín là những quyền quan trọng của công dân được
pháp luật bảo hộ, ghi nhận. Trong khi đó, đối tượng của hoạt động khám xét
lại là người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín... Bởi vậy, khi tiến hành những
hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần triệt để tuân theo các quy định
của pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ: Mọi cuộc
khám xét phải đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền
khám xét và không được xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Cụ thể:
- Chỉ được khám xét khi có các căn cứ nhận định những nơi định khám
xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở
đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, người bị bắt cóc, xác chết hoặc các
phần của nó... Nếu chưa có đủ căn cứ ra lệnh khám xét thì các cơ quan có
thẩm quyền cần phải thu thập những tài liệu bổ sung, nếu việc thu thập tài liệu
bổ sung vẫn chưa đủ căn cứ khám xét thì không được ra lệnh khám xét.
- Phải tuân thủ những quy định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
ra lệnh khám xét: Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có lệnh của những
người có thẩm quyền. Trừ trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng
định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người những đồ vật, tài liệu
cần thu giữ thì việc khám người có thể được tiến hành mà không cần có lệnh.
- Khi tiến hành khám xét, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân những
quy định về trình tự, thủ tục khám xét đối với các đối tượng khám xét cụ thể.
13
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Trong quá trình khám xét, những người thi hành lệnh khám xét không
được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của công dân. Để đảm bảo thực hiện nội dung này, lực lượng
khám xét phải tiến hành khám xét nghiêm túc, đúng pháp luật. Trước khi tiến
hành khám xét, các cơ quan thi hành lệnh phải lên kế hoạch chuẩn bị khám
xét một cách kỹ lưỡng, chu toàn bao gồm: nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập,
phân tích, đánh giá những tài liệu liên quan đến cuộc khám xét, lập kế hoạch
khám xét (xác định thời gian khám xét, thành phần lực lượng khám xét, dự
kiến những tình huống xảy ra và các biện pháp giải quyết). Khi tiến hành
khám xét, người chủ trì cần giải thích, phổ biến kế hoạch khám xét cho các
thành viên trong đội khám xét, phân công nhiệm vụ cho từng người và kiểm
tra việc chuẩn bị của họ. Trong quá trình khám, lực lượng khám xét phải chấp
hành các nguyên tắc: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có
người cùng giới chứng kiến; khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ
hoặc người đã thành niên trong gia đình, có đại diện xã, phường, thị trấn và
người láng giềng chứng kiến; khi khám chỗ làm việc của một người thì phải
có mặt người đó (trừ trường hợp không thể trì hoãn) và đại diện cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc…
Hoạt động khám xét phải đảm bảo yêu cầu về nghiệp vụ là bí mật,
bất ngờ, bảo đảm an toàn cho người thực hiện. Để đạt được yêu cầu trên,
cơ quan thi hành lệnh khám xét phải giữ bí mật chủ trương, kế hoạch khám
xét, việc chuẩn bị, triển khai các lực lượng bao vây, giám sát và tạo được
yếu tố bất ngờ khi xuất hiện ở nơi cần khám xét. Ngoài ra, trong quá trình
khám xét, các cơ quan này không được để lộ bí mật về những phương tiện
hỗ trợ, cách thức thực hiện và các biện pháp nghiệp vụ đã được áp dụng,
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trước
mắt và lâu dài. Đây là nhân tố cơ bản để hoạt động khám xét đạt được mục
14
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đích. Khi yêu cầu này được thực hiện, tội phạm sẽ không có cơ hội che
giấu, tiêu hủy chứng cứ hoặc chạy trốn.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong
luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án
dung làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [31, Điều 64, khoản 1].
Theo khái niệm này, chứng cứ chỉ được coi là hợp pháp và có giá trị
chứng minh khi thỏa mãn đầy đủ các thuộc tính khách quan, tính liên quan và
tính được thu thập hợp pháp. Nếu thiếu đi một trong các thuộc tính này,
chứng cứ sẽ mất đi giá trị chứng minh, trong đó thuộc tính được thu thập hợp
pháp là thuộc tính cần được chú trọng bởi nó dễ bị xâm phạm nhất.
Khi thực hiện hoạt động khám xét, để đảm bảo thuộc tính được thu thập hợp
pháp của chứng cứ, các cơ quan có thẩm quyền phải tránh việc xâm phạm các
quyền cơ bản của công dân. Trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta, các quyền
bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí
mật thư tín, điện tín… của công dân luôn được ghi nhận. Hiến pháp 2013 quy định:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm…” [35, Điều 20]. Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật
gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình” [35, Điều 21]. Bản Hiến pháp
này cũng quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không
ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc
khám xét chỗ ở do luật định…” [35, Điều 22]. Nếu chỉ căn cứ theo những quy
15
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
định này thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự, trong đó có khám
xét đối với công dân sẽ bị coi là không hợp pháp. Tuy nhiên, khi những quy
định về hoạt động khám xét đươc ghi nhận trong tinh thần của Hiến pháp
cũng như trong luật tố tụng hình sự thì hoạt động khám xét của các cơ quan
có thẩm quyền đã được đảm bảo về cơ sở pháp lý, từ đó tính hợp pháp của
những chứng cứ thu thập được từ hoạt động khám xét cũng được khẳng định.
Thứ hai, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người được hiểu:
Là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được
hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội nhất
định. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã
hội, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính
giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống nhất với quyền dân tộc
cơ bản [37, tr.14].
Như vậy, quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt,
nó có mối quan hệ chặt chẽ với quyền công dân và được hiện hữu trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự, khám xét là một biện pháp điều tra được tiến
hành bởi một bên là những chủ thể đại diện cho Nhà nước, được nhà nước
trao quyền, còn một bên là tội phạm hoặc người bị cho là thực hiện hành vi
phạm tội. Sự khác nhau về địa vị pháp lý này dễ dẫn đến những hành vi xâm
phạm quyền con người của những người tiến hành khám xét. Do đó, việc
BLTTHS điều chỉnh biện pháp điều tra khám xét về các căn cứ khám xét, thẩm
quyền ra lệnh, trình tự thủ tục tiến hành khám xét,… đã góp phần hạn chế sự tùy
tiện, lạm quyền của các cơ quan, cá nhân tiến hành khám xét, từ đó bảo vệ quyền
công dân, quyền con người theo tinh thần của BLTTHS là “bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa…” [31, Điều 1].
16
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thứ ba, góp phần giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, thuận lợi hơn
Thực tế hoạt động điều tra cho thấy, những tài liệu, chứng cứ mà các cơ
quan có thẩm quyền thu thập được như công cụ, phương tiện phạm tội, những
đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án… có vai trò quyết định đến thời gian và
hiệu quả của việc giải quyết vụ án hình sự. Đây được coi là những bằng
chứng quan trọng để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội? ai là
người thực hiện hành vi phạm tội? cách thức thực hiện hành vi phạm tội?... để
đưa tội phạm ra xét xử trước pháp luật. Trong khi đó, khám xét lại là một biện
pháp điều tra tổng hợp, bao gồm nhiều hoạt động lục soát, tìm kiếm với mục
đích là phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do
phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác
chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc, từ đó đưa ra kế hoạch,
phương hướng cho những hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo. Như vậy, việc
pháp luật ghi nhận hoạt động khám xét đã giúp các cơ quan có thẩm quyền
điều tra sớm phát hiện, thu thập các chứng cứ hoặc tài liệu liên quan đến vụ
án, từ đó nhanh chóng chứng minh tội phạm, rút ngắn thời gian và nâng cao
hiệu quả trong việc giải quyết vụ án hình sự.
1.3. Lịch sử phát triển của các quy định về biện pháp điều tra
khám xét từ năm 1945 đến trước ngày 01/07/2004
1.3.1. Từ năm 1945 đến trước năm 1975
Lịch sử phát triển của các quy định về khám xét gắn liền với lịch sử
xây dựng và hoàn thiện của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Năm 1945, cách
mạng tháng Tám thành công, đánh dấu sự ra đời của pháp luật xã hội chủ
nghĩa, song trong thời gian này, nước ta chưa có BLTTHS thống nhất, pháp
luật tố tụng hình sự chỉ bao gồm những văn bản đơn hành, riêng rẽ… Cho tới
trước năm 1957, các quy định về khám xét cơ bản là không được đề cập.
Tuy nhiên, bản Hiến pháp năm 1946 và sau đó là Hiến pháp năm 1959
đã có những quy định tương đối rõ ràng về một số nội dung cốt lõi để bảo vệ
17
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tạo cơ sở cho các
quy định về khám xét sau này. Cụ thể: Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nhà ở
và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái
pháp luật” [25, Điều 11]; Hiến pháp năm 1959 ghi nhận: “Quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo
đảm… Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật” [26, Điều 27, 28].
Từ tinh thần trên của Hiến pháp, Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957
quy định về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở,
đồ vật, thư tín của nhân dân và Nghị định 301 ngày 10/7/1957 của Thủ tướng
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 đã
lần đầu tiên ghi nhận một số nội dung liên quan đến hoạt động khám người,
khám đồ vật, nhà ở và thư tín với các nội dung cụ thể như sau:
- Thẩm quyền khám người, đồ vật, nhà ở và thư tín của tư nhân trong
các trường hợp thông thường thuộc về: Công tố uỷ viên, phó công tố uỷ viên,
thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh hoặc thành phố trở lên (được tạm uỷ quyền
giữ nhiệm vụ công tố); Chánh án, phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân
tỉnh hoặc thành phố trở lên được uỷ quyền làm chủ toạ phiên toà đối với
những vụ án đem xét xử tại phiên toà ấy; Cục trưởng hoặc Cục phó Cục quân
pháp; Công tố uỷ viên hoặc công tố uỷ viên Toà án binh các cấp, cán bộ công
tố (được uỷ quyền giữ nhiệm vụ công tố); Chánh án, phó Chánh án, cán bộ
thẩm phán (được uỷ quyền làm chủ toạ phiên toà); Những người thi hành lệnh
viết của các cán bộ tư pháp nêu trên [14, Điều 12,13,14].
Trong những trường hợp phạm pháp quả tang, trường hợp khẩn cấp
hoặc có triệu chứng phạm pháp, trường hợp đang tiến hành điều tra vụ án mà
can phạm đang bị tạm giữ, hoặc tạm giam, hoặc trong trường hợp được uỷ
quyền điều tra toàn bộ vụ phạm pháp, thì tùy từng trường hợp mà Thẩm phán
18
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Toà án nhân dân huyện, châu trở lên; Cán bộ công tố của Toà án binh; Nhân
viên và cán bộ công an, chiến sĩ và và cán bộ bộ đội bảo vệ, bộ đội biên phòng,
chiến sĩ và cán bộ bộ đội quốc phòng làm nhiệm vụ bảo vệ; Trưởng công an
huyện, châu, phó công an huyện, châu, trưởng đồn, phó đồn công an trở lên hoặc
những nhân viên thi hành lệnh viết của các cán bộ nói trên cũng có quyền được
khám người, đồ vật, nhà ở và thư tín của tư nhân [14, Điều 15,16,17]. Uỷ ban
hành chính xã trong khi làm nhiệm vụ tư pháp, trưởng công an và phó công
an xã có quyền khám người, đồ vật, nhà ở của người phạm pháp quả tang
và những người có liên quan đến vụ phạm pháp quả tang xảy ra trong xã
mình [14, Điều 18].
- Các hoạt động khám xét cụ thể được điều chỉnh chi tiết là khám người
và khám nhà. Theo đó, Nghị định 301 ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính
phủ quy định:
Khi khám người một phụ nữ phạm pháp cần có một phụ nữ
khám ở một nơi kín đáo và trong những trường hợp thông thường,
nhân viên thi hành lệnh khám nhà phải cùng đi với một uỷ viên Uỷ
ban Hành chính địa phương, người chủ nhà hoặc thay mặt chủ nhà
và một người láng giềng, khi khám xong phải lập biên bản khám
xét và giữ tang vật nếu có [14, Điều 19, 20].
Có thể thấy, Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 và Nghị định 301
ngày 10/7/1957 không phải là những văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động
khám xét nên những quy định về khám xét được ghi nhận trong hai văn bản
này còn rất đơn giản, sơ lược. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lịch sử nước ta
lúc bấy giờ, việc các nhà làm luật lần đầu tiên ghi nhận một số nội dung liên
quan đến hoạt động khám xét trong riêng một chương của một văn bản Luật
đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Những quy
định này sẽ tạo tiền đề vững chắc cho việc ra đời và phát triển của các quy
định về khám xét sau này.
19
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1975, do Luật Tố
tụng hình sự chưa được pháp điển hóa nên các quy định về khám xét cũng
mới chỉ được thể hiện trong các văn bản pháp luật đơn lẻ về tố tụng. Tuy
nhiên, những văn bản này cũng phần nào tạo cơ sở, định hướng cho việc phát
triển và hoàn thiện các quy định về đến hoạt động khám xét trong các
BLTTHS sau này.
1.3.2. Từ năm 1975 đến trước 01/07/2004
Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam Việt Nam, trong thời gian chờ đợi thống nhất
về mặt Nhà nước (từ 30/4/1975 đến 29/06/1976), Nhà nước Cộng hòa đã ban
hành một số văn bản Luật tố tụng hình sự đơn lẻ. Trong đó, Sắc luật số
02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định việc bắt giam, khám người, khám nhà ở,
khám đồ vật là văn bản có nội dung điều chỉnh trực tiếp hoạt động khám xét.
Trong Sắc luật này, hoạt động khám xét được điều chỉnh tại 4 điều luật, với
nội dung chủ yếu là quy định các hoạt động khám nhà ở, khám đồ vật trong
trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang, nguyên tắc và việc lập
biên bản khi tiến hành khám xét. Những quy định này đã được áp dụng khá
triệt để trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam giai đoạn trước những
năm 90 của thế kỷ XX.
Thời kỳ này, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 là nguồn
quan trọng của Luật tố tụng hình sự. Trong cả hai bản Hiến pháp trên, các
quyền bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở,
an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đều được ghi nhận
và bảo vệ. Trên cơ sở những nguyên tắc Hiến định, BLTTHS 1988- BLTTHS
đầu tiên của nước ta ra đời đã có những quy định rõ ràng, đầy đủ về hoạt động
khám xét. Tại đây, hoạt động khám xét được điều chỉnh trong một chương
độc lập, bao gồm 4 điều luật với các nội dung cụ thể như sau:
20
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Căn cứ khám xét: khám xét chỉ được thực hiện khi có căn cứ nhận
định trong người, chỗ ở, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện
phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên
quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã hoặc khi cần
phải thu thập những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm [28, Điều 115].
- Thẩm quyền ra lệnh khám xét: trong những trường hợp thông thường,
Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
các cấp; Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên,
chủ toạ phiên toà; Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên (có lệnh khám xét do
Viện kiểm sát cũng cấp phê chuẩn) là những người có thẩm quyền ban hành lệnh
khám xét. Tuy nhiên, trong trường hợp không thể trì hoãn, người chỉ huy của
đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn; Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo
hoặc biên giới; Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng cũng có quyền ra lệnh khám xét. Trong những trường
hợp này, sau khi khám xong, người ra lệnh khám phải báo bằng văn bản cho
Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ [28, Điều 116].
- Trình tự, thủ tục tiến hành khám xét: khi khám xét, người tiến hành
khám xét phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó, giải
thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Tuy nhiên, trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định
người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật cần thu giữ thì có thể
tiến hành khám người mà không cần có lệnh. Trước khi khám, người tiến
hành khám xét phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến
vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám xét [28, Điều 117,118,119].
21
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Các lưu ý khi tiến hành hoạt động khám xét cụ thể: Bên cạnh căn cứ, thẩm
quyền và trình tự thủ tục khám xét, BLTTHS 1988 cũng quy định về những
trường hợp khám xét cụ thể (khám người, khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm,
khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm…). Theo đó, khi khám người,
người tiến hành khám xét phải thực hiện theo nguyên tắc: nam khám nam, nữ
khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến [28, Điều 117]. Khi tiến hành
khám chỗ ở, địa điểm, người tiến hành khám xét phải đảm bảo sự có mặt
người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính
quyền xã, phường hoặc thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường
hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi
vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính
quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban
đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Khi khám chỗ làm việc của một người: thì phải có mặt người đó, trừ trường
hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.Việc khám chỗ
làm việc phải có đại diện của cơ quan hoặc tổ chức chứng kiến. Khi tiến hành
khám chỗ ở, địa điểm, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang
bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác
cho đến khi khám xong [28, Điều 118]; Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì CQĐT ra lệnh thu giữ. Người thi
hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan
trước khi tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan phải
giúp đỡ người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm vụ. Khi thu giữ thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng
kiến và ký xác nhận vào biên bản. Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho
người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết, trừ trường hợp
việc thông báo cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra
22
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
lệnh thu giữ phải thông báo ngay [28, Điều 119]. Bên cạnh đó, tất cả các hoạt
động khám xét cần phải được lập biên bản, ghi nhận lại toàn bộ những hoạt động
đã thực hiện, có chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia [28, Điều 120].
Như vậy, khi BLTTHS 1988 ra đời, các quy định về khám xét đã lần đầu
tiên được điều chỉnh trong một BLTTHS thống nhất với các nội dung khá rõ
ràng, chi tiết và chặt chẽ. Những quy định về khám xét này vừa thể hiện sự
thống nhất, kế thừa của những văn bản trước như Luật số 103/SL-L005 ngày
20/5/1957, Nghị định 301 ngày 10/7/1957, Sắc luật số 02/SL-76 ngày
15/03/1976… vừa có những điểm tiến bộ, phát triển hơn. Những quy định này
là cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan chức năng thực hiện hoạt động
khám xét và cũng là cơ sở để bảo vệ quyền công dân.
1.4. Các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng
hình sự của một số quốc gia trên thế giới
1.4.1. Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản
BLTTHS hiện hành của Nhật Bản (thông qua năm 1948, sửa đổi bổ
sung năm 2004) bao gồm 7 quyển, 23 chương đã điều chỉnh một cách toàn
diện các nội dung về tố tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý cho việc làm sáng tỏ
những tình tiết của vụ án cũng như áp dụng và thực thi việc trừng trị một cách
nhanh chóng đối với các vụ án hình sự, trong khi vẫn xem xét đầy đủ đến việc
duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đối với từng cá nhân.
Cùng với biện pháp tạm giữ, biện pháp khám xét được BLTTHS Nhật
Bản điều chỉnh tại Chương IX với 28 điều luật chính. Theo quy định tại Bộ
luật này, khám xét là một biện pháp điều tra, có thể được áp dụng đối với bị
cáo hoặc người không phải bị cáo nếu có những tình huống đủ để chỉ ra đồ
vật cần bị tạm giữ. Khi có căn cứ khám xét thân thể, đồ vật hoặc nơi ở, hoặc
bất kì nơi nào của các đối tượng khám xét, Tòa án có thẩm quyền ra lệnh.
Lệnh khám xét có các nội dung chính gồm: tên bị cáo, tội phạm, địa điểm,
23
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thân thể, hoặc đồ vật cần bị khám xét, thời hạn có hiệu lực, và tuyên bố là sau
khi hết thời hạn này thì không được thi hành, phải trả lại lệnh cũng như ngày
ban hành lệnh; các vấn đề được quy định trong các nguyên tắc của toà án;
phải ký tên, đóng dấu của Chánh án. Lệnh này có thể được thi hành bởi thư kí
văn phòng công tố hoặc cảnh sát dưới sự chỉ huy của công tố viên, trong
trường hợp cần phải bảo vệ bị cáo, chánh án có thể ra lệnh cho thư kí toà hoặc
cảnh sát thi hành.
Theo BLTTHS Nhật Bản, nếu trong lệnh khám xét không cho phép tiến
hành vào ban đêm thì không được khám xét vào ban đêm. Tuy nhiên, trong
trường hợp khám xét tại những nơi được cho là thường xuyên được sử dụng
để đánh bạc, chơi số đề, hoặc các hành vi có thể gây tổn hại đến tập quán và
đạo đức; hộp đêm, nhà hàng, hoặc bất kì nơi nào khác nơi công chúng có thể
ra vào cả vào ban đêm thì hoạt động khám xét vẫn có thể diễn ra vào ban
đêm. Quy định này của BLTTHS Nhật Bản khá linh hoạt, phù hợp với tình
hình thực tế, vừa bảo vệ quyền con người, vừa đảm bảo hiệu quả của hoạt
động điều tra.
BLTTHS Nhật Bản quy định: “Trường hợp cần khám xét thân thể phụ
nữ, thì phải yêu cầu một phụ nữ đã trưởng thành có mặt: Với điều kiện là
không áp dụng trong trường hợp khẩn cấp” [44, Điều 115]. Theo quy định
này, có thể hiểu người thi hành lệnh khám không nhất thiết phải cùng giới với
người bị khám (nam có thể khám nữ và ngược lại, nữ có thể khám nam) và
khi khám nam giới, không cần có người cùng giới chứng kiến, chỉ trong
trường hợp khám xét thân thể phụ nữ mới cần phải có người cùng giới chứng
kiến. Đây có thể coi là một điểm không hợp lý trong pháp luật tố tụng hình sự
của Nhật Bản. Bởi lẽ, chủ thể bị áp dụng biện pháp khám xét ngoài bị cáo còn
có thể là những người không phải là bị cáo (chỉ là những người bị tình nghi
phạm tội hoặc có liên quan khác), họ chưa bị hạn chế một số quyền công dân
24
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nên việc pháp luật không quy định hoạt động khám người phải do người cùng
giới thực hiện là không thỏa đáng, chưa thể hiện sự tôn trọng quyền được coi
trọng thân thể của mỗi cá nhân. Vì vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, trong bối
cảnh quyền con người đang ngày càng được đề cao ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, quy định này trong luật tố tụng hình sự Nhật Bản cũng nên sửa
đổi, bổ sung theo hướng: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và bắt
buộc phải có người cùng giới chứng kiến như trong pháp luật Việt Nam cũng
như pháp luật của nhiều quốc gia có nền lập pháp tiến bộ khác trên thế giới.
1.4.2. Luật Tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Hiện nay, do đặc điểm thể chế truyền thống của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, ở quốc gia này không có một BLTTHS riêng biệt, những quy định
về tố tụng hình sự được điều chỉnh ở nhiều văn bản khác nhau như: Quy tắc
tố tụng hình sự Liên bang, Quy tắc tố tụng phúc thẩm Liên bang, Quy tắc
của Tòa án Tối cao, Quy tắc về bằng chứng của Liên bang và hàng loạt các
Đạo luật của Liên bang, các Quyết định hợp Hiến của Tòa án Tối cao, Quy
tắc nội bộ của Cơ quan Điều tra... Trong đó, biện pháp khám xét được điều
chỉnh tập trung tại nguyên tắc thứ 41: Khám xét và bắt giữ của Các nguyên
tắc Liên bang về Tố tụng hình sự năm 2006 (thường được gọi tắt là “Quy
tắc tố tụng hình sự Liên bang”).
Theo nguyên tắc này, lệnh khám xét có thể được ban hành đối với:
Chứng cứ về một tội phạm; Hàng buôn lậu, tài sản có được do phạm tội, hoặc
các đồ vật khác được sở hữu bất hợp pháp; Tài sản được thiết kế để sử dụng,
có ý định để sử dụng hoặc được sử dụng để phạm tội; hoặc một người cần
phải bị bắt hoặc người đang bị tạm giữ bất hợp pháp. Có thể thấy, so với pháp
luật Nhật Bản, pháp luật Liên bang của Hoa Kỳ quy định về đối tượng bị áp
dụng biện pháp khám xét rộng hơn, cụ thể hơn, bao gồm cả người và tài sản
(gồm: tài liệu, sách, giấy tờ, các đồ vật hữu hình và thông tin).
25
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nguyên tắc 41 (d) (1) của Các nguyên tắc Liên bang về Tố tụng hình sự
Hoa Kỳ quy định thẩm phán sơ thẩm hoặc thẩm phán toà án bang nơi có hồ sơ
(nếu được uỷ quyền) là những người có quyền ban hành lệnh khám xét.
Thông thường, sau khi nhận được một bản khai hoặc thông báo đề nghị ban
hành lệnh khám xét và nhận thấy có căn cứ để tiến hành khám xét người hoặc
tài sản, thẩm phán sơ thẩm sẽ ban hành lệnh khám xét. Việc đề nghị ban hành
lệnh khám xét cũng có thể được diễn ra qua điện thoại hoặc các phương tiện
điện tử đáng tin cậy khác (như điện thoại, chuyển fax) nếu những thông tin
này được tiến hành ghi âm, chứng nhận theo quy định của pháp luật. Tương
tự, thẩm phán cũng có thể ban hành lệnh khám xét bằng điện thoại hoặc các
phương tiện điện tử khác, sau đó chuyển hóa lệnh này thành văn bản theo quy
định tại Nguyên tắc 41(e) (3). Đây là một quy định khá khác biệt của pháp
luật Hoa Kỳ, bởi hiện nay, hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới có ghi
nhận biện pháp khám xét đều quy định lệnh khám xét phải được lập thành văn
bản, có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền – nghĩa là lệnh này phải được
tồn tại dưới hình thức một văn bản giấy. Thực tế điều tra cho thấy, việc quy
định cho cơ quan có thẩm quyền có thể ban hành lệnh khám xét bằng điện
thoại hoặc các phương tiện điện tử khác như trong pháp luật Hoa Kỳ mang lại
ý nghĩa lớn trong những trường hợp khẩn cấp hoặc không thể trì hoãn tiến
hành khám xét. Quy định này vừa thể hiện sự linh hoạt của pháp luật vừa
phản ánh một trình độ lập pháp khoa học, tiến bộ, văn minh ở quốc gia này.
Nội dung của quy định trên sẽ được tác giả đưa vào nghiên cứu để kiến nghị
hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam tại Chương 3.
Để đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động khám xét, pháp luật Hoa Kỳ
đã ghi nhận các nguyên tắc thi hành lệnh đối với các cơ quan có thẩm quyền:
- Thi hành lệnh trong khoảng thời gian cụ thể, không quá 10 ngày;
- Thi hành lệnh vào ban ngày, trừ khi thẩm phán vì lí do chính đáng uỷ
quyền việc thi hành vào thời điểm khác;
26
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Sau khi thi hành, phải trả lại lệnh cho người thẩm phán sơ thẩm được
ghi trong lệnh.
Có thể thấy, với quan niệm khám xét là một biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự, có nguy cơ xâm phạm đến quyền con người, pháp luật tố tụng hình sự
Hoa Kỳ đã quy định về biện pháp này theo chiều hướng ràng buộc chặt chẽ trình
tự, thủ tục ban hành và thực thi lệnh khám xét cũng như tính hợp pháp của nó.
Tuy nhiên, không vì thế mà các quy định của pháp luật Hoa Kỳ trở nên cứng
nhắc, trái lại, những quy định về khám xét trong luật tố tụng hình sự của quốc
gia này có rất nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với kiểu mô hình tố tụng tranh tụng
đặc trưng. Những điểm tiến bộ này rất đáng để nhiều quốc gia khác học hỏi và
hoàn thiện pháp luật tố tụng của mình, trong đó có Việt Nam.
1.4.3. Luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga
BLTTHS năm 2001 của Liên bang Nga có hiệu lực ngày 01/7/2002
thay thế cho BLTTHS năm 1960 thời Xô viết đã hệ thống và ghi nhận các quy
định về hoạt động điều tra trên cơ sở những nguyên tắc mang tính dân chủ và
pháp quyền. Những quy định này không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thực
tiễn mà còn bảo đảm tính hiệu quả của các cơ quan thực thi pháp luật khi thực
hiện nhiệm vụ và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Với 01
chương, 11 mục và 77 điều quy định về hoạt động điều tra, BLTTHS 2001 đã
điều chỉnh toàn bộ biện pháp điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Các quy định về khám xét – dưới góc độ một biện pháp điều tra cũng được
ghi nhận tại một số điều của Mục 25, thuộc Chương VIII của Bộ luật với các
nội dung cụ thể sau:
Về căn cứ tiến hành khám xét:
Theo BLTTHS Liên bang Nga, mỗi hoạt động khám xét khác nhau, lại
có những căn cứ tiến hành khác nhau:
- Việc khám người, địa điểm chỉ được tiến hành khi có những tài liệu cho
27
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
rằng ở một địa điểm hoặc trong một người nào đó có công cụ phạm tội, những
vật, tài liệu có giá trị và có thể có ý nghĩa đối với vụ án [43, Điều 182, Khoản 1].
- Việc khám xét điện báo, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm có thể được tiến
hành khi có đủ căn cứ cho rằng đồ vật, tài liệu tin tức có ý nghĩa đối với vụ án
đang ở trong các bức điện báo, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm đó [43, Điều 185].
- Trong một số trường hợp việc khám xét cũng được thực hiện để nhằm
phát hiện người đang bị truy nã và thi thể người chết [43, Điều 182, Khoản 6].
Như vậy, căn cứ tiến hành khám xét đã được luật tố tụng hình sự của
Liên bang Nga quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Theo đó, căn cứ vào những
tính chất, đặc điểm khác nhau của những hoạt động khám xét cụ thể, pháp
luật Liên bang Nga đã ghi nhận những căn cứ khám xét khác nhau. Những
quy định này đã được các nhà làm luật Việt Nam học hỏi và ghi nhận trong
BLTTHS năm 2003.
Về thẩm quyền quyết định khám xét:
Thông thường, việc khám xét được tiến hành căn cứ vào quyết định của
Dự thẩm viên. Tuy nhiên, việc khám xét chỗ ở, khám xét điện báo, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm lại được tiến hành căn cứ vào quyết định của Toà án, ban
hành theo thủ tục Toà án cho phép tiến hành hoạt động điều tra. Đối với việc
khám người, có thể được tiến hành mà không cần có lệnh trong trường hợp
tạm giữ, tạm giam người đó khi có đủ căn cứ để cho rằng một người ở một địa
điểm hoặc ở nơi tiến hành khám xét đang cất giấu trong người những vật hoặc
tài liệu có thể có ý nghĩa đối với vụ án [43, Điều 184].
Quy định này cho thấy pháp luật Liên bang Nga đã giao thẩm quyền
cưỡng chế khá lớn cho các cơ quan chức năng trong việc thực hiện hoạt động
khám xét. Đây là sự ảnh hưởng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đã tồn
tại ở quốc gia này trong nhiều năm trở về trước.
28
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Về thủ tục tiến hành khám xét:
Trước khi khám xét, Dự thẩm viên công bố quyết định tiến hành khám
xét, nếu trong trường hợp Tòa án quyết định cho phép tiến hành khám xét thì
công bố quyết định của Toà án. Sau đó, Dự thẩm viên yêu cầu tự nguyện giao
nộp những đồ vật, tài liệu và những vật có giá trị có thể có ý nghĩa đối với vụ
án cần thu giữ. Nếu chúng được giao nộp một cách tự nguyện và không có
căn cứ cho rằng chúng còn bị cất giấu thì Dự thẩm viên có quyền không tiến
hành khám xét hoặc tiếp tục tiến hành khám xét.
Khi tiến hành khám xét phải lập biên bản ghi nhận rõ những đồ vật, tài
liệu hoặc vật có giá trị được phát hiện ở đâu và trong hoàn cảnh nào, chúng
được giao nộp một cách tự nguyện hay bị thu giữ bằng biện pháp cưỡng chế.
Tất cả đồ vật, tài liệu và vật có giá trị bị thu giữ cần phải được liệt kê đầy đủ
và nêu rõ số lượng, kích cỡ, trọng lượng, những dấu hiệu riêng và nếu có thể
thì cả giá trị của chúng. Nếu trong quá trình khám xét phát hiện thấy có âm
mưu huỷ hoại, cất giấu những đồ vật, tài liệu hoặc vật có giá trị thuộc loại bị
thu giữ thì trong biên bản phải ghi rõ việc này và những biện pháp đã áp
dụng. Bản sao biên bản được giao cho người có địa điểm bị khám xét hoặc
giao cho người đã thành niên trong gia đình họ. Nếu việc khám xét được tiến
hành tại công sở thì bản sao biên bản được giao cho đại diện lãnh đạo tổ chức
nơi công sở bị khám xét và họ phải xác nhận vào giấy biên nhận.
Một số nguyên tắc khi tiến hành khám xét:
- Phải tránh gây hư hỏng tài sản một cách không cần thiết.
- Dự thẩm viên áp dụng các biện pháp để giữ bí mật về đời tư của
người đang sống tại nơi tiến hành khám xét, về bí mật cá nhân và gia đình họ
cũng như của những người khác.
- Khi tiến hành khám xét, mọi đồ vật và tài liệu thu thập được từ việc
lưu thông phải được thu giữ trong mọi trường hợp.
29
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Những đồ vật, tài liệu và vật có giá trị bị thu giữ phải được đưa cho
những người chứng kiến và những người khác tham gia vào quá trình khám
xem xét, nếu trong trường hợp cần thiết phải đóng gói và niêm phong tại nơi
tiến hành khám xét thì những người này ký xác nhận.
- Khi khám xét phải có mặt của người có địa điểm bị khám xét hoặc
thành viên đã thành niên trong gia đình họ. Người bào chữa hoặc luật sư của
người có địa điểm bị khám xét có thể có mặt khi tiến hành khám xét.
- Việc khám người phải do người cùng giới tiến hành và phải có mặt
những người chứng kiến và nhà chuyên môn là người cùng giới, nếu họ tham
gia vào hoạt động điều tra này.
- Sau khi tiến hành khám xét xong, phải tiến hành lập biên bản cuộc
khám xét, có đầy đủ chữ ký của những người tham gia.
Bên cạnh việc quy định về hoạt động khám xét người, địa điểm, nơi ở,
nơi làm việc, thư tín, điện tín, bưu phẩm, bưu kiện, BLTTHS Liên bang Nga
còn ghi nhận hoạt động giám sát và ghi âm các cuộc trao đổi khi có lệnh của
Tòa án nếu có đủ căn cứ để cho rằng các cuộc trao đổi qua điện thoại hoặc
bằng các hình thức khác của người bị tình nghi, bị can và những người khác
có thể chứa đựng những thông tin có ý nghĩa đối với vụ án có tội phạm là các
tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc trường hợp có sự đe doạ
việc dùng vũ lực, tống tiền hoặc những hoạt động tội phạm khác đối với
người bị hại, người làm chứng hoặc những người họ hàng thân thích của họ
(Điều 186). Đây có thể coi là một biện pháp có ý nghĩa hỗ trợ, bổ sung cho
biện pháp điều tra khám xét. Trong bối cảnh công nghệ thông tin (internet,
điện thoại…) đang phát triển rầm rộ ở tất cả các quốc gia, việc ghi nhận hoạt
động giám sát và ghi âm các cuộc trao đổi qua điện thoại hoặc bằng các hình
thức khác là rất cần thiết và phù hợp.
Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam, hoạt động này vẫn chưa được ghi
30
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhận trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như các văn bản pháp luật khác có
liên quan. Do đó, tại Chương 3 của Luận văn, chúng tôi sẽ đề cập đến việc
hoàn thiện pháp luật về nội dung này.
Như vậy, so với Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga quy định về biện pháp khám
xét chặt chẽ, cụ thể và rõ ràng hơn. Những quy định này hoàn toàn phù hợp
với nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự của Liên bang Nga là: Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, của những người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra; Bảo vệ các cá nhân không bị buộc tội, bị kết án,
bị hạn chế các quyền và tự do một cách không có căn cứ và trái pháp luật.
Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga nói chung và một số quy
định về biện pháp điều tra khám xét trong Bộ luật này nói riêng đã được các
nhà làm luật Việt Nam nghiên cứu, tham khảo và vận dụng có chọn lọc vào
BLTTHS Việt Nam trong quá trình pháp điển hóa lần đầu tiên vào năm 1988
cũng như lần pháp điển hóa thứ hai vào năm 2003 và định hướng là lần pháp
điển hóa trong những năm tới đây.
* Một số vấn đề rút ra khi nghiên cứu các quy định về biện pháp điều
tra khám xét trong Luật tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra
khám xét trong Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
và Liên bang Nga, chúng tôi rút ra một số nhận định sau:
Một là, nhìn chung biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng
hình sự của cả ba quốc gia trên đều được quy định khá đầy đủ, rõ ràng và chi
tiết về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành. Tuy nhiên, nội dung
của các quy định này lại không hoàn toàn giống nhau ở mỗi nước. Điều này là
lẽ tự nhiên bởi mỗi quốc gia có một đặc trưng riêng về pháp luật và đời sống
thực tiễn nên pháp luật cũng phản ánh và phù hợp với thực tiễn đó.
31
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Hai là, với bản chất của một mô hình tố tụng tranh tụng đặc trưng,
trong pháp luật Hoa Kỳ, quyền con người luôn được đề cao, do đó các quy
định về biện pháp điều tra khám xét của quốc gia này chủ yếu nhấn mạnh vào
trình tự, thủ tục ban hành, tiến hành lệnh khám xét. Trong khi đó, ở Nhật Bản
và Liên bang Nga, các quy định về biện pháp điều tra khám xét lại chủ yếu
tập trung vào căn cứ và thẩm quyền tiến hành khám xét, thể hiện sự trao
quyền của Nhà nước cho các cơ quan thực thi. Như vậy, trong khi các quy
định về biện pháp điều tra khám xét của Hoa Kỳ chủ yếu hướng tới việc đảm
bảo tính hợp pháp của hoạt động khám xét, từ đó bảo vệ tối đa quyền của
người bị áp dụng thì pháp luật Nhật Bản và Liên bang Nga lại hướng tới mục
tiêu đảm bảo tính khẩn trương, hiệu quả của hoạt động điều tra trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
Ba là, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên bang Nga đều là những quốc gia có
trình độ lập pháp tiến bộ trên thế giới, những quy định về biện pháp điều tra
khám xét của các quốc gia này cũng khá đầy đủ, có nhiều nội dung tiến bộ,
văn minh, phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, để hoàn thiện luật tố tụng hình
sự Việt Nam nói chung, quy định về biện pháp điều tra khám xét nói riêng ở
nước ta, việc nghiên cứu, học hỏi các quy định của những quốc gia này là một
đòi hỏi tất yếu.