SlideShare a Scribd company logo
1 of 136
1
Tài Liệu
Y Học Bổ Sung Chữa Bệnh Nan Y
Kính tặng qúy vị thầy thuốc đông tây y và các bệnh nhân trên toàn thế giới tài liệu tự học cách
chữa khỏi bệnh theo Phương pháp Y Học Bổ Sung này.
Xin qúy vị hảo tâm và các vị thiện nguyên viên giúp dịch tài liệu này ra nhiều ngoại ngữ để phổ
biến rộng rãi lên online với tinh thần vô vụ lợi cho mọi người không phân biệt chủng tộc trên toàn
thế giới biết cách tự chữa khỏi bệnh Tác giả không giữ bản quyền sách này, nhưng xin đừng sửa
chữa sai bản gốc.
Tác giả: Đỗ Đức Ngọc (15/08/2015)
Mục Lục
Phần I: Hậu qủa chữa ngọn bệnh của Tây Y và phương pháp khám chữa nguyên nhân gốc bệnh theo Y Học Bổ
Sung
I-Làm sao biết trước sức khỏe của mình bị sa sút, có bệnh tật
A-Theo tây y
B-Theo Y Học Bổ Sung của Đông Y Khí Công Y Đạo
1-Nhịp tim và đường, có 4 trường hợp
2-Nhịp tim và máu, có 3 trường hợp
3-Nhịp tim với khí lực tâm thu
II-Phát hiện sớm được bệnh ung thư và cách chữa
a-Người lớn có áp huyết thấp như trẻ em có nguy cơ ung thư do thiếu máu
b-Nồng độ máu
c-Tiêu chuẩn đường huyết theo Hiệp Hội Tiểu Đường Canada
Phần II: Nguyên nhân và cách chữa ung thư
I-Đề phòng bệnh ung thư
II-Cách chữa bệnh ung thư theo Khí Công Trị Liệu (Oxy liệu pháp)
III-Cách chữa ung thư của tây y
A-Nguyên nhân tế bào bị ung thư
B-Tây y nghiên cứu thuốc chữa ung thư như thế nào ?
IV-Nguyên tắc phân tích áp huyết biết trước bệnh ung thư của ngành Y Học Bổ Sung
1-Mã lực của bộ máy tiêu hóa
2-Chức năng chuyển hóa của bao tử
3-Chức năng hấp thụ máu vào gan, thì đo áp huyết sau khi ăn bên gan, bên tay phải.
Phần III: Phân tích áp huyết tìm nguyên nhân bệnh
I-Lý luận áp huyết 2 tay và đường trước và sau khi ăn hay uống thuốc để tìm nguyên nhân gốc bệnh nan y và ung thư
II-Những bệnh nan y mà không tổn thuơng thực thể, tây y không biết nguyên nhân nên không biết cách chữa
1-Bị lỡ niêm mạc miệng 2 bên +miệng khô cảm giác niêm mạc bị dính với răng, cổ họng khô và ăn có đường thì bị chua miệng
2-Lòng bàn tay và chân lúc nào cũng lạnh, trán nóng, cơ thể thì nóng, tồng trạng người gầy, xanh
3-Bướu ở cổ to bằng quả cau sờ cứng
4-Hồng cầu thấp
5-Bệnh vẫy nến và hội chứng ung thư biểu bì
6-Bệnh trầm cảm nhiều năm
7-Cảm giác lòng bàn chân lạnh nhột, tay run, trán ấm, mắt nóng đổ ghèn, viêm hang vị trào ngược thực quản
8-Ung thư vú
9-Đi khám bị viêm sốt niêm mạc dạ dày ăn không tiêu 5, 6 năm nay
10-Đau nhức nửa ngươi từ đầu vai tay chân bên phải
11-Ung thư gan
12-Mổ nội soi viêm xoang, chịu lạnh kém, đau đầu
13-Đau khắp nguời, cổ gáy rất đau trên 20 năm, chích cortisone hơn 1 tháng nay
14-Ung thư gan
15-Đau nữa đầu bên phải, lâu năm có khối u não, mỡ trong máu, đau khớp gối...
Phần IV: Những nghiên cứu mới của Y Học Bổ Sung
I-Sụ lợi hại của Coca
II-Phòng bệnh và chữa khỏi bệnh ung thư dễ hay khó, khi chúng ta đã hiểu nguyên nhân, và tại sao thuốc bổ máu, chất sắt, B12 là con dao 2 lưỡi cho
bệnh ung thư
2
A-Cấu trúc thành phần tế bào và các chất dinh dưỡng duy trì sự sống của tế bào
B-Sụ hoạt động của tế bào
C-Những nguyên tố vi lượng cần thiết giùp chức năng khí hóa hay điện giải
1-Chất sắt
2-Coban
3-Chất đồng
4-Chất Kẽm
5-Chất Magnésium
6- Mangan
D-Chữa bệnh vô minh giống như tự giết chết con mình
E-Sự quan trọng của lượng máu trong chữa bệnh ung thư
F-Sự quan trọng của đường-huyết
III- Chức Năng Doanh Phần
A-Doanh Phần là gì ?
B-Công dụng của máy đo áp huyết khám phá thức ăn, thuốc uống chữa bệnh và chức năng hấp thụ chuyển hóa đúng hay sai
1-Nếu chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt
2-Thức ăn làm áp huyết tụt thấp hay tăng cao
C-Bài tập phục hồi chức năng Doanh Phần
PHẦN V: Những bài đọc thêm
Bài 1: Những thức ăn chữa bệnh
A-Điều chỉnh về Tinh
I-Về thuốc uống
1-Những loại thuốc tây y
Chất sắt
Acid folic
Vitamin B12
Glucose
2-Những loại thuốc thang đông y
Cấp cứu thủy
Phù chính thăng áp thang gia vị
Tam nhân thận trước thang
Đại Bổ Tâm Tỳ Khí Huyết Thang
Bổ Hư Thang
Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin)
Lộc Nhung, huyết nhung
II-Về thức ăn
a-Thuốc bổ máu làm tăng nhiệt
b-Thuốc bổ máu làm hạ nhiệt
c-Thuốc bổ máu trung tính đã quân bình âm dương
B-Tập khí công tăng cường oxy để chuyển hóa âm ra dương
Tham khảo thêm những trái cây bổ máu
Bài 2 : Tóm tắt phương pháp tự chữa khỏi các bệnh nan y ung thư, trừ bệnh lười
A-Bài Tập Làm Hạ Áp Huyết Và Đường
B-Bài Tập Làm Tăng Áp Huyết Và Hạ Đường
Một trường hợp tập sai
Đường giống như xăng trong xe hơi. Xe hơi giống như người lái xe
Cách chữa bệnh mù quáng cố chấp, mình tự hại mình, nhiều người đã bị chết oan.
Bệnh ma chướng – Bệnh mê chướng
Thân bệnh và nghiệp bệnh khi vấp ngã hãy tự đứng dậy mà đi
Khám bệnh theo quy luật âm dương bằng máy đo áp huyết
Tự kiểm chứng cách chữa bệnh của các thầy thuuóc Đông y, Tây y, dược thảo, ăn uống giúp mình khỏi bệnh hay không
---------------------------------------------------
Phần I: Hậu qủa chữa ngọn bệnh của Tây Y và phương pháp khám chữa nguyên nhân gốc
bệnh theo Y Học Bổ Sung
I-Làm sao biết trước sức khỏe của mình bị sa sút, có bệnh tật
A-Theo tây y
Thí dụ một người tuổi trung niên cảm thấy cơ thể suy yếu dần, vẫn đi khám sức khỏe định kỳ 3
3
tháng 1 lần. 4, 5 lần xét nghiệm máu bác sĩ cho biết kết qủa vẫn tốt, không tìm ra bệnh, còn bệnh
nhân cảm thấy sức khỏe mình phải có gì thay đổi khác lạ thấy mệt mỏi yếu sức, tây y cho là bệnh
tâm lý thần kinh thôi, không có gì quan trọng. Nhưng bỗng nhiên khám lần thứ thứ sáu thì bác sĩ
báo tin buồn cho biết kết qủa thử máu là bệnh ung thư giai đoạn cuối. Tại sao lại như vậy, muốn biết
lý do, chúng ta theo dõi những kết qủa thử nghiệm máu của bệnh nhân sẽ thấy như thí dụ dưới đây:
Xétnghiệm
Glucose
Albumine
Bilirubine
ALT
Phosphatas
-e Alcaline
HB
PLAQ
LEUCO
Neutro
Tiêu chuần
3.6-6.7mmol/l *
35-50g/L
0-21mcmol/L
0-40U/L
35-125 U/L
118-158g/L
140-440x10e9/L
4.5-10x10e9/L
1.8-7.0x10e9/L
Lần thứ 1
7.0mmol/l
49
5
35
120
230
8.0
6.0
6.0
Lần thứ 2
6.0
45
15
30
100
120
200
7.0
5.0
Lần thứ 3
5.0
40
20
20
75
115
170
6.0
4.0
Lần thứ 4
4.0
35
25
10
40
100
150
5.0
3.0
Lần thứ 5
3.5
30
30
0
35
90
130
4.0
1.7
Lần thứ 6
3.0
25
35
0
10
70
100
3.0
0.8
Kết qủa đo áp huyết và đường-huyết mỗi 3 tháng định kỳ :
Lần 1 : 130/80mmHg nhịp tim 80, đường-huyết 8.0mmol/l bị tiểu đường phải uống thuốc
Lần 2 : 125/78mmHg nhịp tim 70 , đường-huyết 6.0mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt)
Lần 3 : 120/70mmHg nhịp tim 68 đuờng-huyết 5.0mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt)
Lần 4 : 110/68mmHg nhịp tim 65 đường-huyết 4.5mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt)
Lần 5 : 100/62mmHg nhịp tim 63 đường-huyết 4.0mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt)
Lần 6 : 90/59mmHg nhịp tim 60 đường-huyết 3.6mmol/l
*Tiêu chuẩn đường-huyết của ngành y như trên qúa thâp so với tiêu chuẩn ngành dược, mới gây ra
nhiều biến chứng, nhiều hậu qủa trở thành nhiều bệnh nan y khó chữa, vì đường làm tăng nhiệt
lượng cho bao tử làm chín nhừ thức ăn, giống như nấu thức ăn thì lửa trên bếp phải đủ làm chín
thức ăn, nếu không đủ đường làm tăng đủ nhiệt cho bao tử làm bao tử hàn lạnh thì thức ăn thành
sống sít, mặc dù thức ăn có nhiều chất bổ ăn vào bao tử giống như đổ thức ăn vào thùng rác, sẽ bị
loại ra khỏi cơ thể thành tiêu chảy, phần thức ăn chư chín đi ra phân sống sít, phần chín nửa chừng
còn lại biến thành mỡ mà không biến thành máu, nên các tế bào vẫn đói không đủ máu nuôi dưỡng,
gây ra nhiều bệnh.
Theo hãng Contour, bụng đói từ 6.0-8.0mmol/l, bụng no từ 8.0-11.0mmol/l
Theo tiêu chuẩn ghi trên hộp que thử đường của Accu-Chek ghi Glucose Control :
Đường-huyết thấp : từ 20-60mg/dL hay 1.7-3.3mmol/l
Đường-huyết cao : từ 254-344mg/dL hay 14.1-19.9mmol/l
Theo bác sĩ 5 lần khám định kỳ bác sĩ cho biết tốt, lần thứ sáu báo tin buồn bệnh nhân đã bị bệnh
ung thư thời kỳ 2, hay 3 hay tệ hơn là thời kỳ cuối.
Tại sao kết qủa khám định kỳ tốt tự nhiên lại có hiện tượng xấu bất ngờ này.
Không có gì là lạ.
Nhìn vào kết qủa xét nghiệm máu, áp huyết và đường-huyết chúng ta thấy tất cả các kết qủa xét
nghiệm giảm dần từ tiêu chuẩn tối đa xuống tiêu chuẩn tối thiểu, còn nằm trong an toàn thì bác sĩ
vẫn cho là tốt, nhưng khi kết qủa lần thứ 6, kết qủa tụt thấp lọt ra ngoài tiêu chuẩn của người khỏe
thì các tế bào do thiếu khí, thiếu máu, thiếu đường đã trở thành tế bào đói, chết dần trở thành biến
chứng tạo ra nhiều bệnh nan y, tây y khám nghiệm máu vẫn tốt, nên không tìm ra bệnh, đến khi tế
4
bào bị bỏ đói do thiếu máu và thiếu đường nuôi dưỡng để trao đổi hồng cầu và oxy nên bị cô lập
thành khối u ung thư rồi.
Thật ra không cần xét nghiệm máu vừa làm mất máu vừa tốn kém thời gian và tiền bạc. Chúng ta
chỉ cần có một máy đo áp huyết và máy đo đường tại nhà, theo dõi sức khỏe bằng cách đo áp huyết
và đo đường huyết sau mỗi bữa ăn sẽ thấy nguyên nhân tại sao như bảng đo áp huyết ở thí dụ trên
đây. Chúng ta thấy tâm trương giảm dần là máu trong cơ thể thiếu dần do ăn uống kiêng mỡ, đường,
ăn ít, sợ bệnh tiểu đường, sợ bệnh cao áp huyết, sợ bệnh cholesterol, ăn gạo lức muối mè...áp huyết
thấp dần bác sĩ lại khen là tốt, vì bác sĩ không chú trọng đến áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi như
KCYĐ. nên không thấy sức khỏe của bệnh nhân thay đổi xấu tốt ra sao so với tiêu chuẩn tuổi.
Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo :
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 60-70 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) .
Như vậy 3 yếu tố của máy đo áp huyết cho biết, số tâm thu là Khí Lực, số tâm trương là lượng
máu, nhịp tim là nồng độ máu liên quan đến đường đã cho chúng ta biết nguyên nhân bệnh để biết
cách điều chỉnh lại thức ăn, thuốc uống, và lượng đường trong máu.
Quan trọng ưu tiên khi tâm trương thấp phải ăn những thức ăn bổ máu, uống thuốc bổ máu, vì
thiếu máu nuôi tế bào làm đau nhức nên cần bổ máu chứ không phải uống thuốc giảm đau, mà
không có máu để phục hồi sự sống cho tế bào thì có uống thuốc giảm đau suốt đời cũng không khỏi,
đó là chữa ngọn không phải chữa vào gốc bệnh là những nguyên nhân do thiếu máu, thiếu khí, thiếu
đường.
Khi cơ thể đủ máu giống như vườn cây có đủ nguồn nước cung cấp, thì ưu tiên thứ hai là phải có
máy tưới nước cho cây, lúc đó cần tập khí công làm tăng khí lực số tâm thu bơm máu tuần hoàn,
giống như mở máy bơm nước tưới cây, và mục đích tập luyện thể dục thể thao để giữ khí lực tâm
thu nằm trong tiêu chuẩn tuổi là điều chỉnh Khí Lực, còn ăn uống đủ bổ máu làm tăng Huyết Lực,
lượng máu ở tâm trương phải nằm trong tiêu chuẩn là điều chỉnh Tinh, theo dõi sức nóng ấm ở bàn
tay chân và nhịp tim có tương xứng với tiêu chuẩn để cơ thể đủ đường giúp lực co bóp tim bơm
máu hòa hoãn đều đặn 70-80 nhịp/phút.
Điều mà tây y không để ý, áp huyết đo bên tay trái không quan trọng bằng đo bên tay phải, do đó
khi chưa ăn mà đi bác sĩ khám bệnh đo áp huyết thì tay trái lúc bụng đói thấp hơn, tay phải cao hơn,
ngược lại nếu chưa ăn mà áp huyết bên tay trái đã cao thì bên tay phải lại càng cao hơn nữa, mặc dù
đã uống thuốc trị áp huyết mà không hạ xuống. Điều đó chứng tỏ áp huyết thay đổi do thức ăn và
do chức năng tiêu hóa tốt hay xấu. Đó là lý do tại sao uống thuốc trị cao áp huyết không chữa dứt
hẳn được bệnh, mà phải uống thuốc suốt đời để ngừa bệnh, và cuối đời cũng vẫn chết về bệnh áp
huyết qúa cao hay qúa thấp.
Đối với đông y, bệnh cao áp huyết gây ra tai biến hay đột qụy, có tên bệnh gọi là Can Phong Nội
Động, là bệnh do khí và máu trong gan dư thừa nên đo áp huyết tay phải trên 180-240/100-
120mmHg.
5
B-Theo Y Học Bổ Sung của Đông Y Khí Công Y Đạo
Nhờ vào bảng tiêu chuẩn áp huyết của KCYĐ, chúng ta sẽ biết tại sao sức khỏe sa sút vì 3 số đo
áp huyết có nghĩa rõ ràng :
Số thứ nhất tâm thu gọi là khí lực, bệnh nhân thấy suy giảm dần.
Số thứ hai tâm trương là lượng máu qua tim thấp dần do thức ăn không đủ bổ máu. Làm lượng
máu cơ thể thiếu dần do thức ăn, như chỉ ăn rau, ăn gạo lức muối mè, tuởng là khỏe, thật ra chỉ khỏe
đối với người áp huyết cao, mập, dư máu, vì nó làm cho ốm, giảm khí lực bơm máu, giảm lượng
máu do ăn chay không dư thừa chất bổ máu, khi khí lực thấp dần hay huyết lực thấp dần dưới tiêu
chuẩn thì phải xét lại thực phẩm ăn uống có đúng đủ theo nhu cầu cần của cơ thể hay không.
Số thứ ba là nhịp tim quan trọng nhất, nó lệ thuộc vào những yếu tố sau đây :
1-Nhịp tim và đường, có 4 trường hợp
a-Nhịp tim thấp và đường thấp là chuyển hóa thuận
Thí dụ khi đo áp huyết có nhịp tim thấp hơn tiêu chuẩn 70-80 thì đường-huyết 6.0mmol/l tương
đương nhịp tim 70, đường-huyết 8.0mmol/l tương đương nhịp tim 80
Thí dụ nhịp tim 60 thì đường-huyết tương đượng khoảng 4.0-5.0mmol/l.
Khi đường thấp có dấu hiệu đầu tay chân tê lạnh đau, đôi khi đau khớp cổ tay, cồ chân, thoái hóa
đốt sống cổ, lưng, gối...khô khớp xương co rút gân, tây y phải mổ gân mạch, nếu đo nhiệt kế nơi
đau tê lạnh nhiệt kế chỉ duới 34 độ C hay chỉ Low (thấp) không bắt được nhiệt.
Theo Y Học Bổ Sung không cần mổ, chỉ cần uống 3 thìa đưòng cát vàng với 1 ly nước nóng ấm,
sau 5-10 phút bàn tay chân và ngón tay chân ấm nóng lên, nhiệt kế đo được 38 độ C, bàn tay chân
ngón tay chân hết tê đau lạnh, cử động khớp tay chân, ngón tay nắm mở co duỗi hết đau.
Bệnh tê lạnh đau ngón tay chân và thoái hóa xương khớp cổ lưng...tây y không biết là do thiếu
đường, chỉ có phương pháp mổ là chữa ngọn, mà gốc là thiếu đường nên vẫn bị dau. Lý do duy nhất
là tây y sợ đưòng cao, bệnh nhân phải uống thuốc chữa tiểu đường cho đường hạ thấp, nên gây ra
nhiều biến chứng thiếu đường làm suy cơ co bóp tim yếu dần, thấp dần, và liệt cơ co bóp bao tử
khiến ăn không tiêu, thức ăn cũ đọng trong bao tử lên men làm ra bệnh trào ngược thực quản, bướu
cổ, ung thư bao tử...
b-Nhịp tim cao và đường cao là chuyển hóa thuận
Thí dụ nhịp tim 90 thì đường phải cao là chuyển hóa thuận tương đương 10.0-15.0mmol/l.
Theo Y Học Bổ Sung, muốn hạ đường không cần phải uống thuốc hạ đường, mà chỉ cần tập 1 trong
2 bài tập làm hạ đường :
Cách chũa làm hạ đường và chữa áp huyết thấp thành cao
Thí dụ đường-huyết 20.0mmol/l áp huyết tâm thu thấp 100mmHg: Tập Bài Đứng Hát Kéo Gối Lên
Ngực 100-200 lần, sau khi tập thì áp huyết tâm thu tăng lên 130-140mmHg, đường huyết xuống còn
10-0mmol/l, nghỉ ít phút cho áp huyết xuống rồi tập lại thêm một lần nữa, thì đường xuống còn
6.0mmol/l, áp huyết lại tăng lên 120-130mmHg.
Đứng hát kéo gối lên ngực : Thăng âm lên dương khí
http://www.youtube.com/watch?v=KO1PWscjaxU
Cách chữa làm hạ đường và chữa áp huyết cao thành thấp:
Thí dụ đường-huyết 28.0mmol/l, áp huyết cao 200mmHg. Tập bài Bó bắp chân đi cầu thang 1 bậc
chậm trong 30 phút. Thử lại đường xuống còn 18.0mmol/l áp huyết xuống còn 160mmHg, tháo
băng bó chân nghỉ 15 phút, rồi bó bắp chân lại tập tiếp 30 phút nữa, rồi tháo băng, đo lại đường
xuống còn 6.0-8.0mmol/l, áp huyết xuống còn 130-140mmHg.
6
Bó bắp chân đi cầu thang 1 bậc chậm 30 phút
https://www.youtube.com/watch?v=lhTAx9tTMSo
(Đi chậm vừa đi vừa hát, lâu 30 phút, để sau khi đi xong nhịp tim nằm trong khoảng 70-80 là đúng,
cao hơn là sai)
https://www.youtube.com/watch?v=T-SFhRPDBfA
https://www.youtube.com/watch?v=umMLS5nxfzg
Kết luận : Tập khí công hay vận động mạnh cho xuất mồ hôi sẽ làm hạ đường huyết. Do đó
người có đường huyết thấp thì không có sức tập khí công hay làm việc, vì khi tập khi công làm tụt
đường-huyết xuống thấp nữa sẽ gây ra chứng suy tim, té xỉu, chóng mặt, nhưng không tập thì không
điều chỉnh được bệnh áp huyết cao hay thấp.
Riêng người già nằm một chỗ, áp huyết cao, mà không vận động thông khí huyết thì đường-
huyết mỗi ngày càng tăng, khí huyết không lưu thông sẽ bị ứ đọng tại chỗ nên da bị hoại tử, dù có
chích insulin mỗi ngày 4 lần đường huyết vẫn cao, cũng không khỏi bệnh tiểu đường vì không chịu
tập luyện khí công một trong hai bài trên.
c-Nhịp tim cao nhưng đường-huyết thấp là chuyển hóa nghịch
Thí dụ nhịp tim 90-100, đường-huyết 4.0-5.0mmol/l
Đối với tiêu chuẩn đường theo ngành y là tốt không có bệnh tiểu đường, trái với ngành dược là
thấp, trường hợp này theo đông y là bệnh nan y, vì đường thấp dưới 6.0mmol/l thì chân tay tê lạnh,
đau nhức thần kinh tay chân và các khớp bị thoái hóa, người lạnh phải mặc áo lạnh, da khô, môi
khô cổ họng khô khát, mắt khô, người bị sốt âm, có nghĩa là cảm thấy nóng sốt bên trong cơ thể,
nhưng đo nhiệt kế thì thấp khoảng 36 độ C
Nguy hiểm nhất khi thiếu đường làm suy cơ co bóp của bao tử và cơ co bóp của tim, áp huyết đo
số tâm trương thấp do thiếu máu, nhưng số tâm thu lại cao, thí dụ 130/55mmHg nhịp tim 100,
đường 4.0mmol/l, mà chân tay tê lạnh, đối với tây y áp huyết và đường là lý tưởng, đối với đông y
có tên bệnh là âm hư nội nhiệt là bệnh nan y, gọi là áp huyết giả, đổi ra áp huyết thật theo nhịp
mạch tiêu chuẩn 75, vì do thiếu máu nên nhịp tim đã phải đập nhanh hơn 25 nhịp, áp huyết thật
tương đương với (130-25), như vậy khí lực chỉ còn 105mmHg.
Cách chữa : Phải uống thêm đường cát vàng, 2-3 thìa đường với nước nóng ấm, giúp năng lượng
cho chức năng bao tử co bóp chuyển hóa thức ăn thành chất lỏng biến thành máu làm tăng số tâm
trương cho đủ máu, nhịp tim sẽ thấp trở lại và tăng khí lực tâm thu mới đủ sức đẩy bơm máu lưu
thông ra đến ngoài da, thì đầu ngón tay chân sẽ ấm lên, bên ngoài da sẽ ấm, bên trong người sẽ mát.
d-Nhịp tim thấp, đường-huyết cao là chuyển hóa nghịch
Thí dụ nhịp tim 50, đường-huyết 12.0mmol/l, trường hợp này theo đông y là bệnh nan y, chân tay
ấm, nhưng trong người lạnh, đo nhiệt kế ngoài da nóng 37.5-38.0 độ C. Thí dụ áp huyết đo được
110/65mmHg nhịp tim 50, số tâm thu khí lực thấp, đông y gọi là bệnh nan y hàn giả nhiệt do thiếu
máu, số tâm trương 65 so với tiêu chuẩn tuổi 65-70 là thiếu. Còn nếu tâm trương là 55 thiếu máu
nhiều thì đông y gọi là bệnh nan y âm hư nội nhiệt, số tâm thu thấp 90 là dương hư ngoại hàn, thí dụ
90/55mmHg nhịp tim 50 là âm hư nội nhiệt, dương hư ngoại hàn hay gọi là âm dương lưỡng hư thì
trong cơ thể nóng ngoài cơ thể lạnh, dù đường-huyết cao 12.0mmol/l nhưng nhiệt độ chân tay thấp
dưới 35 độ C hay máy chỉ Low, là bệnh ung thư máu, đường huyết càng tăng càng nhức, xương tủy
khô không sinh sản máu và hồng cầu.
Cách chữa : Cần uống B12, ăn uống nước súp phở bò, thức ăn bổ máu, nước súp hầm đậu đỏ đậu
đen, hay có thể dùng xương ống bò hầm lấy tủy, và gan heo bổ đôi rửa sạch hấp chín với 50 hạt
tiêu, cả hai đã chín, lấy tủy và gan, thêm ít nước hầm cho ít muối, xay chung sền sệt thành paté tủy,
ăn sáng với bánh mì.
7
Tập khí công bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần, không có sức thì tập bài Nằm co 2 đầu gối
vào sát bụng, rồi đá gót chân vào mông 300 lần, làm tăng khí lực tâm thu, tăng máu cho tâm trương,
tăng nhịp tim để tuần hoàn máu, nhưng làm hạ đường-huyết, ngừa được các loại bệnh ung thư.
Dùng thuốc uống kèm theo vuốt cột sống ngăn chặn tế bào ung thư phát triển. Làm tăng tế bào tủy
sinh ra tế bào hồng cầu, làm tăng khí lực và oxy bảo vệ tế bào hồng cầu tăng trưởng không bị mất :
Bệnh nhân nằm úp, bôi dầu trơn trên cột sống, dùng 2 ngón tay cái vuốt lần thứ nhất từ xương
cùng theo giữa cột sống lên đến gáy 18 lần, vuốt lần thứ hai, dùng 2 ngón tay cái móc vào 2 bên
xương cột sống vuốt dọc 2 bên xương cột sống từ dưới lên cổ gáy, gọi là đường Hoa Đà Giáp Tích
18 lần, vuốt lần thứ ba, dùng 2 ngón tay cái vuốt dọc theo đường kinh Bàng Quang cách 2 bên
xuong sống 3-5cm, vuốt từ dưới lên trên gáy 18 lần.
Dùng thuốc : Mua ở tiệm thuốc bắc Bột Điền Thất sống, và bột nghệ tốt, pha 3 phần Điền Thất + 7
phần Bột nghệ trộn đều, mỗi sáng và tối uống 1 thìa cà phê bột thuốc trên với nước nóng pha mật
ong, uống chung với 3-5 viên Linh Chi.
Nếu áp huyết khí lực tăng, huyết lực tăng, người khỏe mạnh hồng hào, thử máu các tiêu chuần
máu tăng dần thì không cần phải đợi ghép thay tủy của người hiến tủy phù hợp, vì bài tập và thuốc
đã giúp phục hồi tế bào tủy sinh sản ra tế bào hồng cầu.
Có những bệnh nhân ung thư máu bị tây y chê chờ chết vì không có cơ hội ghép tủy, cũng đã thoát
chết nhờ phương pháp này.
2-Nhịp tim và máu, có 3 trường hợp
Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn tuổi trung niên :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Tâm trương 70-80mmHg, nếu máu giảm thấp thì tâm trương từ 70 xuống thấp dần đến 50 thì chết,
nếu tăng là máu cao, tâm trương từ 80 tăng dần lên trên 120 sẽ bị đột qụy, còn nhịp tim dưới 70 là
chậm thì người lạnh, trên 80 là nhanh thì người nóng.
Đường trong tiêu chuẩn từ 6.0-8.0mmol/l, khi bụng đói, nếu thấp hơn là thiếu đường, phải uống
thêm đường, cao hơn thì chỉ cần tập khí công, đường-huyết sẽ xuống thấp, nhưng có đủ đường cơ
thể sẽ có đủ năng lượng để hoạt động mà không bị mệt tim.
a-Máu thấp, nhịp tim chậm, không liên quan đến đường trong tiêu chuẩn
Thí dụ : 125/68mmHg nhịp tim 65. đường-huyết 6.5mmol/l
Nhịp tim thấp, máu thấp thì tuần hoàn máu chậm, không đem đủ máu và hồng cầu trao đổi oxy
cho tế bào, khiến tế bào thiếu dần hồng cầu và oxy. Như vậy máu thấp và nhịp tim thấp đã gây ra
một số bệnh nan y là hẹp van tim hay những bệnh không tên mà tây y tìm chưa ra dấu vết bệnh, vì
chưa tổn thương thực thể.
Nhưng nếu thấp hơn nữa, như lúc nào cũng chỉ còn 55-60mmHg là cơ thể thiếu lượng máu, hàng
tỷ tế bào sẽ không nhận đủ hồng cầu và oxy, không đồng đều, nên có những tế bào mô yếu dần, chết
dần, bị cô lập thành khối u lành tính, máu không nuôi đủ tế bào thần kinh gây đau nhức, cơ quan
chức năng tạng phủ thiếu máu sẽ hoạt động yếu kém, là những dấu hiệu xấu ở những giai đoạn đầu
của ung thư lành tính chưa tổn thương tây y chưa phát hiện.
b-Máu thiếu, nhịp tim nhanh, không liên quan đến đường trong tiêu chuẩn
Thí dụ 125/68mmHg nhịp tim 90, đường trong tiêu chuẩn chuyển hóa thuận 8.0mmol/l (là đường
cao, nhịp tim cao)
Nguyên nhân thiếu máu, tâm trương phải mở rộng ra để hút máu về tim cho đủ tuần hoàn, nên tim
phải đập nhanh gây biến chứng là hở van tim.
Nhưng nếu số tâm trương thấp hơn nữa như 60-65mmHg lả cơ thể thiếu lượng máu, gọi là âm hư
sinh nội nhiệt, nhịp tim nhanh làm tăng nhiệt, nhưng đường còn nằm trong tiêu chuẩn thì nhiệt kế
đo trên da tay ấm, 37.0-37.5 độ C Trường hợp này là thiếu máu chứ không phải thiếu đường thì phải
8
bổ máu, tiêm hay uống B12, ăn thức ăn bổ máu cho tâm trương tăng lên trở về tiêu chuẩn, thì nhịp
tim sẽ giảm xuống. Nếu không bổ máu kịp mà tâm trương cứ tiếp tục giảm là dấu hiệu ung thư giai
đoạn đầu, theo đông y vẫn là âm hư sinh nội nhiệt làm khô khát cổ họng, phổi, bao tử nhiệt...sau
này những cơ quan tạng phủ này sẽ bị ung thư trước.
c-Dư máu, nhịp tim nhanh, không liên quan đến đường trong tiêu chuẩn
Thí dụ 125/100mmHg nhịp tim 95, đường-huyết 7.5mmol/l
Nguyên nhân dư máu là máu và cholesterol dồn về tim, khiến tim đập mạnh, nhịp tim lại đập
nhanh, nhiệt độ thân người và tay chân nóng, trường hợp này dễ bị đột qụy khi có dấu hiệu đau nhói
tim tức ngực khó thở.
Nặng hơn nữa, nếu nhịp tim càng ngày càng cao dần lên đến 120 thì người toát mồ hôi ngộp thở,
nếu lại tăng tâm thu cao sẽ bị tai biến, nhẹ hơn thì tràn dịch màng phổi.
Cách chữa cấp cứu :
Vuốt động mạch cảnh xuống làm giảm nhịp tim và hạ áp huyết trước khi đưa bệnh nhân đi bệnh
viện cấp cứu.
Vuốt động mạch cảnh lên làm tăng áp huyết, vuốt xuống làm hạ áp huyết
https://www.youtube.com/watch?v=uGgR2ev6G6s
3-Nhịp tim với khí lực tâm thu
Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn tuổi trung niên :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Có 4 trường hợp :
a-Nếu nhịp tim tăng cao khi đi bộ hay chạy bộ, thể thao, đánh cầu, hay tập khí công...làm nhịp tim
tăng cao trong khoảng 30 phút thì nhịp tim trở lại trạng thái bình thường.
b-Không làm gì mà nhịp tim luôn luôn cao, là bệnh nan y, đi kèm với bệnh cao áp huyết mãn tính,
dùng thuốc hạ áp huyết không hiệu nghiệm. Trường hợp này muốn chữa khỏi phải tập thở Khí Công
ở Đan Điền Tinh và Mệnh Môn, vuốt động mạch cảnh xuống, hay vuốt dọc theo xương ống chân
làm hạ áp huyết nhanh, và uống trà tim xem, nhịp tim và áp huyết mới xuống được.
https://www.youtube.com/watch?v=6qB2iWN7QxE
https://www.youtube.com/watch?v=aRO5LQUVF4U
https://www.youtube.com/watch?v=buEUiVVPD0k
c-Nhịp tim lúc nào cũng cao mà chân tay và da lạnh, nhưng trong người nóng do thiếu lượng máu
nhiều, vì vậy dù tim đập nhanh để tuần hoàn máu, nhưng cũng không đủ máu chạy ra đến ngoài da
và tay chân : Thiếu máu nhiều thì tâm trương rất thấp khoảng 50-60mmHg, và tâm thu cao là áp
huyết giả. Đây là dấu hiệu ung thư, không đủ máu tuần hoàn nuôi hàng tỷ tế bào trong cơ thể, nếu
đường-huyết cao thì ngoài dấu hiệu tim đập nhanh, nhưng còn đập mạnh, nhưng nếu đường-huyết
thấp thì tim đập nhanh nhưng đập yếu.
Cách chữa : Chỉ cần bổ sung máu, ăn uống những chất bổ máu làm tăng tâm trương thì nhịp tim sẽ
không cần phải đập nhanh, và áp lực khí tâm thu sẽ trở lại thành thấp, mà không phải là bệnh áp
huyết cao.
d-Nhịp tim thấp do thiếu máu tâm trương, thiếu khí tâm thu, thiếu đường, là bệnh nan y mãn tính
cũng là dấu hiệu ung thư mãn tính một thời gian dài, hàng tỷ tế bào chết dần, các dấu hiệu thấy rõ
thường xuyên là đau nhức bên ngoài tạng phủ như chân tay, cột sống, lưng gối, đau đầu, chóng mặt,
mắt mờ, rụng tóc, dấu hiệu bên trong cơ thể là suy tim, hồi hộp, thoát mồ hôi, đau bao tử, khó thở,
táo bón giả, đau tức hông sườn, ợ hơi, đầy hơi, trướng bụng, ăn không tiêu, chán ăn, mất ngủ, khi bị
ung thư tổn thương sẽ là ung thư sọ não, ung thư vú, đau bụng kinh, kinh không đều ra máu hòn
cục, sẩy thai, ung thư tử cung, tiền liệt tuyến, ung thư bao tử, ung thư ruột, ung thư phổi, ung thư
gan...tất cả các cơ quan nội tạng tế bào đã chết dần, cơ quan nào tế bào chết nhiều nhất kết khối u bị
9
cô lập, tây y chụp hình thấy trước thì bị ung thư trước, vừa chữa xong thì cơ quan nào tế bào kết
khối sau thì bị ung thư sau, mà tây y gọi là di căn là từ nơi này chạy sang nơi khác thì không đúng.
Cách chữa : Chỉ cần điều chỉnh phục hồi lại 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần sao cho áp huyết lọt vào tiêu
chuẩn tuổi.
Điều chỉnh Tinh : Thiếu máu, tâm trương thấp dưới tiêu chuẩn tuổi, thì ăn uống những thức ăn bổ
máu, uống hay tiêm B12.
Điều chỉnh lượng đường và nhịp tim chuyển hóa thuận : Có nghĩa là nhịp tim thấp dưới 70 (ở tuổi
lão niện) thì đường-huyết thấp dưới 6.0mmol/l có dấu hiệu chân tay lạnh, ngoài da lạnh, tim đập
yếu không đưa đủ máu tuần hoàn khắp cơ thể, da mặt xanh trắnh nhợt nhạt, không hồng hào. Phải
uống thêm đường cát vàng với nước nóng ấm để duy trì lực co bóp cơ tim đập nhanh khiến người
nóng ấm, để sao cho nhịp tim nằm trong tiêu chuẩn 70-80 tương đương với đường-huyết 6.0-
8,0mmol/l.
Điều chỉnh tâm thu bằng cách tập khí công bài làm tăng áp huyết : Thí dụ tâm thu thấp dưới
100mmHg tập bài Nằm Đá Gót Chân vào mông 300 lần, hay bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200
lần, cho tăng lên đủ tiêu chuẩn tuổi (như tuổi trung niên 120-130mmHg hay lão niên 130-
140mmHg)
Điều chỉnh thần : Nằm thở thiền ý trụ vào Đan điền Thân
http://www.youtube.com/watch?v=PQshiUzamdI
http://www.youtube.com/watch?v=qG1IxJUg0bw
II-Phát hiện sớm đc bệnh ung thư và cách chữa
Nhờ máy đo áp huyết và máy đo đường phát hiện sớm được bệnh ung thư và cách chữa
Xưa nay ai cũng biết máy đo áp huyết chỉ dùng cho những bệnh nhân bị cao áp huyết để kiểm soát
áp huyết khi uống thuốc. Theo tây y, những người áp huyết tốt không có bệnh, áp huyết đều nằm
trong tiêu chuẩn từ 100mmHg đến 140mmHg, ngoài ra nếu có những bệnh khác mà áp huyết vẫn
nằm trong tiêu chuẩn 100-140mmHg thì không liên quan gì đến bệnh áp huyết, nhưng thật ra nó
vẫn xẩy ra những bệnh nan y nằm trong tiêu chuẩn ấymà tây y không tìm ra nguyên nhân.
Theo kinh nghiệm của môn Khí Công Trị Liệu, thì áp huyết phải phù hợp với độ tuổi, không cao,
không thấp, lý thuyết đông y gọi những bệnh do nguyên nhân dư thừa là bệnh thực, do nguyên nhân
thiếu kém gọi là bệnh hư.
Thí dụ áp huyết cao ở trẻ em :
Tuổi thiếu nhi mà có áp huyết cao bằng tuổi thanh niên hay trung niên là một loại bệnh thực do dư
thừa áp huyết thay vì đứt mạch máu não do cao áp huyết tăng đến trên 20mmHg, nhưng chưa aúa
140mmHg thì trẻ em thường bị vỡ niêm mạc mũi gọi là bệnh chảy máu cam, tây y không biết
nguyên nhân này nên không chữa vào gốc bệnh làm hạ áp huyết, mà đốt niêm mạc mũi hay bôi
vaseline, áp lực khí đẩy máu không vỡ ở mũi sẽ vỡ đứt mạch ở chỗ khác như thần kinh mặt, mắt,
làm liệt mặt.
Thí dụ áp huyết thấp ở người lớn :
Tuổi người lớn mà có áp huyết thấp như trẻ em 95-100mmHg là một loại bệnh hư không tìm ra
nguyên nhân khiến bệnh nhân mất ngủ, đau nhức quanh năm, tiêu hóa kém, trầm cảm, tâm thần
...nên đối với tây y là một bệnh nan y.
Theo tây y giải thích 3 con số của máy đo áp huyết :
Số thứ nhất là tâm thu là tim co bóp đẩy máu từ tim ra đại động mạch tim dẫn máu đi nuôi khắp cơ
10
thể.
Số thứ hai là tâm trương là tim mở ra thu máu về tim qua ống đại tĩnh mạch.
Số thứ ba là nhịp tim do số lần tim co bóp bơm máu trong 1 phút.
a-Người lớn có áp huyết thấp như trẻ em có nguy cơ ung thư do thiếu máu
Theo môn Khí Công Trị Liệu giải thích theo lý thuyết đông y, khác với tây y, nhưng rất quan trọng
đối với đông y, nhờ máy này, thay vì đông y khám bệnh như trước kia bắt mạch bằng 3 ngón tay đặt
trên cổ tay của bệnh nhân theo kinh nghiệm chủ quan của mỗi thầy thuốc không được chính xác nên
ngày nay bắt mạch bằng máy đo áp huyết hiện ra con số rõ ràng, tuy nhiên sự giải thích 3 con số
của máy khám bệnh này trên nguyên tắc giống nhau :
Thí dụ cụ thể lấy áp huyết tiêu chuẩn của tuổi lão niên :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Con số thứ nhất : 130-140 là con số chỉ khí lực của cơ thể, sai số 10mmHg là lực hấp thụ và chuyển
hóa thức ăn thành máu tốt. Gọi chung là KHÍ
Con số thứ hai : Chỉ van tim như một cánh cửa đóng mở điều chỉnh lượng máu qua tim. Gọi chung
là HUYẾT. Tùy theo lượng máu ít thì cửa van tim mở nhỏ 80, lượng máu nhiều thì mở lớn 90.
Con số thứ ba là nhịp tim, đông y bắt mạch ở cổ tay thì gọi là nhịp mạch 70-80, có nghĩa tối thiểu
70, tối đa 80 thì cơ thể ấm không nóng không lạnh. Nếu dưới 70 đông y gọi là cơ thể hàn, cao hơn
80 gọi là cơ thể nhiệt. Khi nhịp tim cao đến 120 cơ thể bị sốt, trường hợp này giống tây y, nhưng
theo đông y, bắt mạch để biết hàn hay nhiệt trong máu nguyên nhân do nồng độ máu cao hay thấp
lại lệ thuộc vào lượng đường trong máu, nên theo môn Khí Công Trị Liệu gọi là ĐƯỜNG.
Như vậy 3 số đo áp huyết của tây y là :
Tâm thu/tâm trương/nhịp tim được đổi sang 3 yếu tố gây bệnh theo đông y là: Khí
lực/lượnghuyết/đường
Số thứ 1 : Báo cho biết có 2 loại bệnh : bệnh khí lực dư thừa, bệnh khí lực thiếu hụt.
Số thứ 2 : Báo cho biết 2 loại bệnh : bệnh dư lượng máu, bệnh thiếu lượng máu
Số thứ 3 : Báo cho biết 2 loại bệnh : bệnh dư đường, bệnh thiếu đường trong máu
Người lớn tuổi lão niên, áp huyết tiêu chuẩn là :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Nhưng nếu thực tế có áp huyết như trẻ em 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60, theo công thức
yếu tố gây bệnh Khí lực/lượng máu/đường , khi so sánh với áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, chúng ta
kết luận nguyên nhân bệnh là Khí thiếu, huyết thiếu, đường thiếu làm cho các tế bào không được
nuôi dưỡng đầy đủ làm giảm dần chức năng hoạt động của chúng để duy trì sự sống cho con người
sẽ gây ra biến chứng của nhiều bệnh nan y khác nhau..
Thiếu Khí và Huyết thì tây y không có chuyên khoa về cách làm tăng khí oxy để duy trì công thức
máu Fe2O3, mặc dù có tăng thuốc bổ máu là chất sắt Fe2, chỉ làm cho cơ thể thừa chất sắt mà vẫn
thiếu máu, còn ăn uống những thức ăn bổ máu có làm tăng lượng máu chậm vì không có khí lực
chuyển hóa thức ăn thành máu toàn phần để làm tăng khí lực, mà đa số chuyển hóa thành mỡ dự
trữ, vì vậy có những người béo phì mà khí lực yếu
11
Về khí lực
Thiếu khí trong Khí Công Trị Bệnh là tâm thu thấp không đủ lực bơm máu đi nuôi các tế bào trong
cơ thể, thí dụ người lớn tuổi trung bình nặng 60kg, đơn giản hóa là 60 kí lô tế bào thì cần phải đủ
khí lực từ 130-140, đủ máu qua tim từ 80-90, đủ nồng độ đường trong máu 70-80.
Nếu người lớn 60 kg lô tế bào có áp huyết thấp như trẻ em 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là
áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) thì cả 3 yếu tố Khí lực/Máu/Đường chỉ đủ nuôi 1 cơ thể
nặng 30 kí lô tế bào, còn 30 kí lô tế bào không có máu nuôi dưỡng sẽ suy yếu dần không còn khả
năng hoạt động theo chức năng của mình, chúng sẽ trở thành tế bào ung thư tiềm ẩn rải rác trong cơ
thể, là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh nan y tây y không tìm ra bệnh và uống thuốc không có hiệu
qủa như mất ngủ, trầm cảm, đau nhức thần kinh gân cơ, Parkinson chân tay co giật mềm, ăn không
tiêu, mắt mờ, migrain, mất trí nhớ, rụng tóc, hay buồn ngủ, hôn mê, ác mộng, bệnh trầm cảm, tâm
thần, điên nói lảm nhảm
Về Huyết
Thiếu máu theo tây y là tỷ lệ bạch cầu hồng cầu được tìm thấy là hồng cầu giảm, mà không để ý
đến lượng máu. Dù tỷ lệ bạch cầu hồng cầu đúng, thì dù 1 lít hay 4 lít cũng giống nhau, nhưng
lượng máu 1 lít với 4 lít tuần hoàn nuôi tế bào đủ hay thiếu hoàn toàn khác nhau, vì 1 lít máu thì có
thể tuần hoàn trong cơ thể trẻ em nặng 20 ki lô tế bào, 4 lít máu tuần hoàn mới nuôi đủ 1 cơ thể
người lớn nặng 60 kí lô tế bào. Nên có điều nghịch lý khi thiếu máu xin bác sĩ cho mua B12 để
chích thì bị từ chối khi xét nghiệm máu, kết luận không thiếu máu, đó cũng là 1 nguyên nhân làm tế
bào suy yếu dần trong nhiều năm, gây biến chứng đau nhức rồi dẫn đến tế bào trở thành ung thư rải
rác, và áp huyết thấp dần dưới 100mmHg, cho đến khi áp huyết xuống 80mmHg lúc đó các tế bào
ung thư kết thành khối thì tây y mới thấy thực thể 1 khối u, mới xét nghiệm là khối u lành hay ác
tính.
Về đường
Thiếu đường để nuôi cơ bắp, theo đông y, chất ngọt vào tỳ vị chuyển hóa thức ăn thành chất nuôi
bắp thịt, thiếu đường làm teo mất dần bắp thịt, những bắp thịt của các lực sĩ cần rất nhiều lượng
đường hơn người bình thường, nên những người cùng tuổi, cùng thể trọng, ăn cùng lượng đường
giống nhau, nhưng một người làm việc nặng đổ mồ hôi làm lượng đường trong máu giảm nhanh
khiến cơ thể thiếu đường làm mệt mỏi cơ bắp, còn người kia ăn xong chỉ nằm một chỗ không vận
động thì lại bị bệnh dư đường trong máu.
Như vậy lượng đường ăn trong ngày còn tùy theo sự vận động của cơ bắp. Khi chúng ta dư đường
trong máu do không vận động thì tây y kết luận chúng ta bị bệnh tiểu đường phải dùng thuốc trị
bệnh tiểu đường vừa làm hạ đường, vừa kiêng sợ ăn đường, nên đuờng trong cơ thể càng thiếu dần
cho đến khi cơ bắp tay và chân teo dần, khi chúng ta nhận thấy cơ bắp bị teo dần thì chúng ta đã bị
bệnh suy cơ tim từ lâu rồi, vì cơ co bóp tim, và thịt của qủa tim mạnh nhờ vào đường nó mới làm
việc mạnh để bơm máu tuần hoàn, khi cơ co bóp tim giảm thì tuần hoàn máu chậm, làm nhịp tim
càng chậm, máu không đi nuôi được gân cơ thần kinh làm đau nhức, không lên nuôi thần kinh thị
giác làm mắt mù, không nuôi thần kinh trung ương và thần kinh não làm mất trí nhớ, không nuôi
thần kinh giao cảm và hưng phấn làm liệt thần kinh vận động và sinh hoạt tình dục yếu...Tất cả
những hậu qủa này do suy tim, suy tim do nguyên nhân thiếu đường do không ăn đường lại còn
uống thuốc trị tiểu đường làm hạ đường thêm, ngược lại với người ăn đường nhiều mà vẫn không bị
bệnh tiểu đường vì cơ bắp phải làm việc nhiều, số đường được tiêu thụ hết, nên tây y khuyên cần
12
phải tập thể dục nhưng không ai tập nổi vì cơ thể không có đủ đường phân phối cho những vận
động này. Biến chứng của thiếu đường cũng làm giảm cơ co bóp của bao tử gây ra bệnh ăn không
tiêu, trào ngược thực quản và sinh ra bệnh bướu cổ, các thần kinh gân cơ bị co rút sinh ra bệnh đau
nhức, cơ bắp chân yếu đi không vững, mệt tim, hoa mắt, chóng mặt, chân tay tê lạnh....và cuối cùng
đường-huyết tụt thấp nhiều dẫn đến hậu qủa các tế bào suy yếu, các mô tế bào lạnh chai dần cũng
góp phần tạo nên bướu ung thư mà tây y gọi là bướu lành tính, thí dụ như trước khi bị ung thư bướu
sọ não, bệnh nhân đã từng chữa trị bệnh đau nửa bên đầu do thiếu áp lực khí một bên, khi đo áp
huyết 2 tay sẽ thấy chênh lệch nhau nhiều, nửa đầu bên đau có áp huyết thấp dưới tiêu chuẩn tuổi,
nên máu không được bơm lên nửa bên đầu và vì thiếu đường, nửa bên đầu lạnh, đo bằng nhiệt kế so
sánh hai bên, bên nửa đầu không đau, và bên nửa đầu đau có nhiệt độ thấp hơn hay nhiệt kế chỉ low
không bắt được nhiệt độ, gân cổ co rút đau, và trong qúa trình trị liệu bệnh đau nửa đầu migrain, tây
y chỉ cho thuốc giảm đau, chứ không chữa vào nguyên nhân, coi như bệnh đau nửa đầu dù 10 năm
uống thuốc giảm đau cũng không khỏi, cuối cùng mô tế bào não bị lạnh kết khối thành hình, khi
chụp thấy khối u, tây y mới gọi là bệnh ung thư sọ não thì qúa trễ.
Muốn có bằng chứng cụ thể, thí dụ 10 năm trước bệnh nhân tuổi trung niên, tiêu chuẩn áp huyết
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi). Khi đau
nửa đầu bên trái, đo áp bên trái thấp nhiều như 95/62mmHg nhịp tim 60, áp huyết bên tay phải
125/65mmHg nhịp tim 62, đường-huyết 5.0mmol/l. Nếu cứ dùng thuốc giảm đau trong 10 năm mà
ngày tháng năm nào áp huyết bên tay trái không tăng lên, mà ăn kiêng đường, đường xuống thấp,
thiếu chất bổ máu, khi phát hiện ra bệnh bướu sô não, đo áp huyết tay trái xuống thấp như
85/58mmHg nhịp tim 54, tay phải 110/62mmHg nhịp tim 55. Như vậy khi so sánh áp huyết trước
khi bị ung thư và đang bị ung thư áp huyết 2 tay tụt thấp dưới tiêu chuẩn cả khí lực tâm thu, cả
lượng máu tâm trương và cả đường-huyết xuống dưới 4.0mmol/l.
KCYĐ đã có nhiều kinh nghiệm chữa những bệnh đau nửa đầu, chỉ cần điều chỉnh ăn uống thuốc
bổ máu, tăng thêm đường, tập khí công để áp huyết của bệnh nhân tăng lên, lọt vào tiêu chuẩn, sẽ
khỏi bệnh này không còn bệnh đau nửa bên đầu và không còn sợ bệnh ung thư sọ não nữa.
Theo kinh nghiệm của Khí Công Trị Liệu, bệnh mù mắt không phải do tăng đường làm mù mắt, mà
giảm đường quá thấp, đo đường trên mắt còn 3.5mmol/l trong khi đường đo ở ngón tay 4.5-
5.0mmol/l do uống thuốc tiểu đường giữ cho đường trong máu thấp nên nhịp tim tuần hoàn máu
không đủ đem máu và đường lên nuôi mắt.
Có những bệnh nhân tiêm insulin chữa bệnh tiểu đường, và thị lực kém dần, cuối cùng bác sĩ kết
luận mù mắt, khi đến tôi chữa bệnh mắt, tôi cho bệnh nhân tự đo đường, bệnh nhân nói không nhìn
thấy máy đo và cầm được que thử cắm vào máy. Tôi đo đường trên mắt 3.5mmol/l, ở ngón tay
4.5mmol/l, rồi cho uống 3 thìa đường cát vàng với 1 ly nước nóng ấm, châm nặn máu cũ trên mắt
và đầu ngón tay, tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần, cào đầu, cào gáy, vuốt gáy, vuốt cổ, chà tai, xoa
mặt, để thông khí huyết lên đầu mặt mắt, cúi ngửa 4 nhịp đưa máu dồn lền đầu, sau đó thử lại
đường trên mắt thấy tăng từ 3.5 lên 5.mmol/l, tôi cho uống đường tiếp và tập tiếp những bài trên và
thử đường lại cho lọt vào tiêu chuẩn đường trên mắt để mắt sáng phải nằm trong tiêu chuẩn KCYĐ
từ 6.0-8.0mmol/l mặc dù khi no hay đói gan cũng phải điều chỉnh lượng đường vào mắt lọt vào tiêu
chuẩn thì mắt sáng, cuối cùng day 6 huyệt mắt, tôi ví như thay 6 bóng đèn và một huyệt Não Không
sau đầu ví như thay cục pile làm cho mắt sáng lên, và họ thấy mắt sáng nhìn rõ trở lại.
Tôi dặn những bệnh nhân này muốn mắt sáng lúc nào cũng phải giữ mức đường trên mắt từ 6.0-
8.0mmol/l.
Những năm sau gặp lại những bệnh nhân này họ lại có thể đi xe đạp một mình trên đường không
còn bị mù nữa.
Xem cách chữa trong video này : https://www.youtube.com/watch?v=4riqjgp7gT0
Xin xem thêm bài 5 công dụng của máy đo áp huyết :
http://www.youtube.com/watch?v=92TXdDU1CvY
13
5 công dụng của máy đo áp huyết
1-Đo khám chức năng hoạt động của bao tử
Khi đo bên tay trái như tây y thường đo tìm bệnh cao áp huyết, nhưng theo Khí Công Trị Liệu, áp
huyết thay đổi khi bụng đói sẽ thấp. Khi ăn qúa no thì áp huyết tăng cao.
Ngược lại khi bụng đói đo áp huyết cao, sau khi ăn no, đo áp huyết lại thấp, là chức năng bao tử
không làm việc, thức ăn bị giữ trong bao tử mà không hấp thụ chuyển hóa, nên thức ăn lên men ợ
chua, tăng acid làm loét bao tử, một thời gian lâu thì bao tử chai khi đo áp huyết trước và sau khi ăn
giống nhau, có nghĩa thể tích trong bao tử không chuyển động, thí dụ trước khi ăn 150/90/95, sau
khi ăn 150/92/100, có nghĩa là Khí lực không thông/lượng máu tăng/nồng độ máu tăng trong bao tử.
Cũng nhờ công thức áp huyết này, chúng ta lý luận bệnh nhân tuổi lão niên, trước khi ăn và sau khi
ăn có số đo áp huyết thí dụ như :
Trước 105/60/55 và sau 105/65/60 là Khí lực không thay đổi là bao tử teo/ tăng lượng máu trong
bao tử/ tăng nồng độ máu làm ợ hơi nghẹn tim ngực.
2-Đo khám chức năng hoạt dộng của gan
Bên tay phải, tây y không đo bên tay phải, vì tuởng tay nào cũng giống nhau, chỉ đo tay phải khi tay
trái không thể đo được.
Cũng như trước và sau khi ăn phải thay đổi áp huyết để xem chức năng hoạt động của gan. Trước
khi ăn, bụng đói thì áp huyết bên gan phải cao vì phải làm việc trước để kích thích dịch chất cho
bao tử khiến cho mình cảm thấy đói đòi ăn, sau khi ăn thì áp huyết bao tử phải cao, áp huyết bên
gan phải thấp là chức năng chuyển hóa đúng.
3-Khám chức năng hấp và chuyển hóa thức ăn bao nhiêu phần trăm
Nếu sự chênh lệch áp huyết 10mmHg ở 2 tay thì sự hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu
nhanh, giống như 1 thác nuớc mỗi phút nước đổ xuống thác 1000lít, dưới thác là một hệ thống gầu
hứng nước quay theo trục vòng tròn để tạo ra lực quay biến thành công suất, nếu độ cao của thác
càng cao thì lực quay càng mạnh tạo ra công suất sử dụng lớn, sẽ có sự chuyển hóa mạnh, số chênh
lệch áp huyết giữa 2 tay cũng vậy, như
Trước khi ăn tay trái 130/80/70 tay phải 140/90/80
Sau khi ăn tay trái 140/90/80 tay phải 130/80/70
Nhưng giống như độ cao của thác thấp chênh lệnh 1-2 mét thì sự chuyển hóa rất chậm, thì áp huyềt
giữa gan và bao tử trước và sau khi ăn chệnh lệch ít thì lực co bóp chuyển hóa chậm cũng như vậy :
Trước khi ăn tay trái 130/80/70, tay phải 132/78/73
Sau khi ăn tay trái 132/78/73, tay phải 130/80/70
4-Khám xem thức ăn thuốc uống có lợi hay hại với cơ thể
Trên Internet hay ngành dinh dưỡng hướng dẫn những thức ăn bổ, thức ăn giảm dường, mỡ, hạ áp
huyết, chống hay ngừa ung thư...đó là do phân tích của ngành dinh dưỡng, và những kinh nghiệm
dân gian về những loại cây cỏ dược thảo chữa ngừa bệnh ung thư, có người khỏi, có người cũng bắt
chước thì bệnh nặng thêm nên nghi ngờ sự chính xác đúng sai, đông tây y phản bác nhau nhưng
chưa ai biết rõ như người trong cuộc, có người nhờ những thuốc mách bảo thì sống muốn đem phổ
14
biến làm phước, còn những người có thân nhân bạn bè chết vì nó thì chống đối, cho nên môn Khí
Công Trị Liệu đề nghị các bệnh nhân nên tin vào máy móc tây y để kiểm chứng có số liệu rõ ràng
không thể tranh cãi, và tùy theo sự hấp thụ chuyển hóa ở mỗi người khác nhau, mạnh hay yếu. Sự
hấp thụ và chuyển hóa ấy cũng không ngoài công thức đo áp huyết để biết về tình trạng :
Khí lực/Huyết/Đường
Có nhiều người hỏi tôi : Thầy ơi, có người nói uống hỗn hợp nước ép :Củ Dền, Cà rốt, Táo có tốt
không, uống nuớc ép ngũ qủa có tốt không, uống hạt CHIA tốt không, ăn bánh bao lên đường
không. Uống Lá Đu Đủ, Nha Đam, Lá Xả, Fucodin khỏi bệnh ung thư không....Tôi trả lời : Phải hỏi
máy đo áp huyết.
Thí dụ trước khi thử món ăn thức uống hay bất kỳ loại thuốc nào, đều do áp huyết hai tay, ghi chú
vào giấy để biết cái nào cần cho bệnh của mình theo tiêu chuẩn khí lực /huyết /đường xem có lọt
vào tiêu chuẩn tuổi hay không.
Với công thức áp huyết là : Khí lực/lượng huyết/Đường thí có loại làm tăng cả 3 số, như Phở, Bún
Bò Huế, vừa tăng khí lực, tăng lượng máu, tăng đường. Có loại làm tăng khí, giảm khí, có loại tăng
máu tăng khí, có loại giảm đường, tăng đuờng, nhưng để ý có loại chỉ tăng áp huyết bên gan, có loại
chỉ tăng bên bao tử lại hại gan giảm, có loại tăng bên gan lại hại bên bao tử giảm... do nguyên nhân
chất thuốc vị thuốc giống nhau nhưng sự hấp thụ và chuyển hoá ở gan, bao tử mỗi người khác nhau.
5-Khám xem tập khí công, thiền, môn phái nào bài nào hay cách chữa bệnh nào khỏi bệnh ung
thư
Tập khí công bài này bài kia của thầy này thầy kia có khỏi bệnh ung thư không, tôi trả lời : Cũng
phải hỏi máy đo áp huyết, uống nước nhiều, nuớc ít cái nào lợi, cũng hỏi máy đo áp huyết.
Cách chữa ung thư theo thuốc bắc, theo tây y hóa trị liệu, xạ trị liệu cách nào hay, sống lâu, không
di căn, cũng phải hỏi máy đo áp huyết...
Tất cả các môn khí công không thể nói bài nào hay bài nào dở, mà phải xem nó có phù hợp làm
tăng áp huyết hay giảm áp huyết, làm thay đổi lượng máu lượng đường tốt hay xấu, cho nên muốn
thử để biết thì cần đo áp huyết trước khi tập và sau khi tập, trước khi ăn và sau khi ăn
b-Nồng độ máu
Nhịp tim cao hay thấp tùy thuộc vào nồng độ máu
Có nhiều phương pháp làm tăng nồng độ máu. Đông y xét qua 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần.
Tinh : là do những thức ăn hay thuốc uống : Như ăn những thức ăn cay nóng, những thức ăn nướng,
thuốc calcium, ăn nhiều thịt đỏ, uống nước Coke....làm tăng áp huyết và nhịp tim tăng cao.
Tuy nhiên lạm dụng những thức ăn thuốc uống như trên, trong máu lại có nhiều cholesterol, máu
đặc lại, tây y lại cho dùng thuốc trị cholesterol, và thuốc Aspirin làm loãng máu, Vit.C. hay các thức
ăn chua, như chanh cam bưởi....làm loãng máu, hạ áp huyết làm hạ nồng độ máu.
Khí : khi cơ thể làm việc nặng, vận động ra mồ hôi như thể dục thể thao cũng làm tăng nhịp tim,
thân nhiệt cũng làm tăng nồng đô máu.
Thần : Khi tinh thần căng thẳng, hồi hộp làm nhịp tim đập nhanh cũng làm tăng nồng độ máu.
Tuy nhiên những điều kiện làm tăng nồng độ máu kể trên không ổn định, không quan trọng bằng
lượng đường trong máu. Theo đông y về ngũ hành tạng phủ đối với những thực phẩm ăn uống hay
15
thuốc uống được phân loại theo Tính-Khí-Vị, mà thức ăn theo đông y có 5 vị khác nhau là : đắng,
ngọt, cay, mặn, chua, và mỗi vị là chất dẫn thuốc hay chất bổ vào mỗi cơ quan khác nhau để bổ hay
tả chức năng của cơ quan đó, bổ là làm cho cơ quan đó mạnh lên, còn tả làm cho cơ quan đó yếu đi,
thí dụ như :
Vị đắng vào tim để làm mạnh tim là cà phê, thức ăn nướng...do đó tây y công nhận mỗi ngày uống
1 ly cà phê để làm mạnh chức năng của tim, nó làm tăng nhịp tim và nồng độ máu, nhưng chỉ có lợi
cho người bị suy tim. Ngược lại những người bị bệnh cao áp huyết, nồng độ máu cao nhịp tim
nhanh thì chất đắng cà phê gây thêm bệnh, còn Mướp đắng, tim sen, trà xanh...làm giảm nhịp tim và
nồng độ máu.
Vị ngọt vào tỳ (lá lách) để làm mạnh chức năng lá lách là đường thiên nhiên gọi chung là glucose,
lactose, fructose, mật ong...
Làm giảm chức năng lá lách là những loại đường hóa học, theo tây y, dùng đường hóa học có nguy
cơ biến chứng thành tiểu đường loại 2.
Muốn biết loại đường nào làm tăng hay giảm chức năng của lá lách trên thực tế dùng máy thử
đường trong máu và máy đo áp huyết. Phối hợp 2 kết qủa trước và sau khi áp dụng loại đường mình
chọn, thấy sự khác biệt có lợi hay hại cho sức khỏe.
Vị cay vào phổi để làm mạnh chức năng phổi thông tà khí hàn lạnh trong phổi thoát ra lỗ chân lông
bằng đường mổ hôi. Khi phổi bị nóng nhiệt ăn thêm chất cay lại hại phổi.
Vị mặn vào thận để giữ nước điều hòa thân nhiệt, dư mặn thì ứ nuớc sinh phù nề, thiếu nuớc thì
không điều hòa chức năng tim và nồng độ đường trong máu, uống ít nước thì đường trong máu
tăng, sau này tây y mới tìm ra type tiểu đường loại 3.
Vị chua vào gan để làm điều hòa chức năng gan tiết mật, điều chỉnh co giãn gân cơ, thần kinh, ống
mạch dẫn máu. Dư chất chua thì chùng giãn gân và làm mất lượng máu, hồng cầu, còn thiếu chất
chua thì thẩn kinh gân cơ co rút sinh đau nhức do dẫn máu tuần hoàn không đều.
Trong máu có vị mặn và ngọt, vị mặn để giữ nước cho tế bào, vị ngọt trong máu nuôi các bắp thịt,
phối hợp với chất chua trong gan điều hòa các ống dẫn máu, các mao mạch dẫn máu và bơm máu đi
đều khắp nơi khắp chỗ với tốc độ đều trên các đường kinh ra đến đầu ngón tay chân, khoa học đã
chế ra loại máy đo được chỉ số bơm máu (perfusion Index) ở đầu các ngón tay, chân là đầu và cuối
12 đường kinh tay chân, đó là máy khám tìm bệnh Masimo IspO2, do đó trong máu thiếu nồng độ
đường thì chỉ số bơm máu bị giảm, là nguyên nhân tuần hoàn máu không thông sinh ra nhiều bệnh
đau nhức mà tây y không tìm ra nguyên nhân để chữa tận gốc được.
Sự khám phá ra công dụng của máy đo áp huyết và máy đo đường để tìm ra nguyên nhân bệnh theo
công thức của đông y là Khí lực/ huyết/đường phù họp với 3 con số của máy đo áp huyết là số tâm
thu/tâm trương/nhịp mạch, chúng ta đã thấy có 26 trường hợp số do áp huyết khác nhau là 26
trường hợp bệnh chứng khác nhau như những thí dụ dẫn chứng đơn giản dưới đây :
Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn ở tuổi lão niên, khỏe mạnh không bệnh :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Áp huyết trong tình trạng bệnh của người ở tuổi lão niên, có 26 trường hợp bệnh nặng nhẹ khác
nhau so với tiêu chuẩn người khỏe không bệnh như tính theo công thức Khí lực/lượng huyết/Đường
-Trường hợp 1 : Khí lực thiếu/huyết đủ/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/80 mạch 75
16
-Trường hợp 2 : Khí lực dư/huyết đủ/đường đủ : Thí dụ 170mmHg/80 mạch 75
-Trường hợp 3 : Khí lực đủ/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 133mmHg/60 mạch 70
-Trường hợp 4 : Khí lực đủ/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 72
-Trường hợp 5 : Khí lực đủ/huyết đủ/ đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/85 mạch 60
Trường hợp này đối với người không vận động, mạch 60 là tay lạnh, nhưng các lực sĩ đều có nhịp
tim thấp 60 nhưng bàn tay vẫn ấm nóng, họ ăn rất nhiều đường nhưng vận động tiêu thụ hết đường,
nên mạch báo thiếu đường là bình thường không phải là bệnh.
-Trường hợp 6 : Khí lực đủ/huyết đủ/ đường dư : Thí dụ 140mmHg/88 mạch 90 cơ thể nóng
-Trường hợp 7 : Khí lực thiếu/ huyết đủ/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/75 mạch 60
-Trường hợp 8 : Khí lực thiếu/huyết đủ/đường dư : Thí dụ 105mmHg/75 mạch 95 bàn tay nóng ấm,
ngược lại trong người nóng bàn tay lạnh là áp huyết mạch nhiệt giả hàn.
-Trường hợp 9 : Khí lực dư/huyết đủ/ đường thiếu : Thí dụ 155mmHg/80 mạch 65
-Trường hợp 10 : Khí lực dư/huyết đủ/ đưởng dư : Thí dụ 150mmHg/80 mạch 95
-Trường hợp 11 : Khí lực đủ/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/65 mạch 60
-Trường hợp 12 : Khí lực đủ//huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 135mmHg/65 mạch 90
-Trường hợp 13 : Khí lực đủ/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 65
-Trường hợp 14 : Khí lực đủ/huyết dư/đường dư : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 100
-Trường hợp 15 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 75
-Trường hợp 16 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 155mmHg/65 mạch 80 hẹp van tim do
lượng máu qua tim thiếu do cholesterol làm hẹp van tim..
-Trường hợp 17 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 80
-Trường hợp 18 : Khí lực dư/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 160mmHg/ 100 mạch 80
-Trường hợp 19 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 55
-Trường hợp 20 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 150mmHg/65 mạch 65
-Trường hợp 21 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 90
-Trường hợp 22 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 160mmHg/65 mạch 90
-Trường hợp 23 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 65
-Trường hợp 24 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường dư : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 95
-Trường hợp 25 : Khí lực dư/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 160mmHg/100 mạch 65, dư máu lượng
máu qua tim làm hở van tim, người hay bị mệt tim khi vận động, vì vận động làm đường thấp thêm.
-Trường hợp 26 : Khí lực dư/huyết dư/đường dư : Thí dụ 160mmHg/ 100 mạch 100
c-Tiêu chuẩn đường huyết theo Hiệp Hội Tiểu Đường Canada
Xin xem link này : https://bestdays.onetouch.ca/monitoring ... ur-numbers
Đường khi bụng đói từ 4.0-7.0mmol/l trước khi ăn.
Sau khi ăn được 2 tiếng, đường từ 5.0-10mmol/l
Riêng môn Khí Công Trị Liệu, đo ngay sau khi ăn từ 6.0-12mmol/l sau 4-5 giờ cơ thể trở lại bụng
đói như trước khi ăn, theo tiêu chuẩn của hãng dược phẩm Contour mới nhất từ 5.8-8.1mmol/l
Tuy nhiên, có những người ăn rất nhiều chất ngọt, không bao giờ thử đường, nhưng khi tôi thử cho
họ thì đường khi bụng đói là 5.8mmol/l, tôi cho uống thử 1 thìa nhỏ đường, đo đường lên 6.8mol/l,
không có nghĩa là 1 thìa nhỏ đường làm đường lên 1mmol/l, sau 15 phút tập khí công bài Cúi Lạy,
để ép đùi vào 2 bên hông sườn kích thích co bóp gan và lá lách chuyển hóa đường và đo lại đường
xuống còn 4.4mmol/l.
Cũng một bệnh nhân khác đo đường là 3.4mmol/l, do thiếu đường không thể tập được khí công sẽ
17
làm đường tụt thấp thêm có nguy cơ bị té ngã hôn mê, cần phải uống 1 thìa đường rối mới tập khí
công được, đo lại đường lên 7.0mmol/l, sau khi tập 15 phút, đo đường xuống 4.5mmol/l
Người khác trước khi tập đo đường được 7.7mmol/l sau khi tập khí công 15 phút, đo đường xuống
5.0mmol/l.
Người khác trước khi tập đo đường 6.5mmol/l, sau khi tập 15 phút đo lại, đường lên 8.0mmol/l
Những khác biệt ấy đều do tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn chậm hay nhanh, nhiều hay ít lệ
thuộc vào khí lực nhiều hay ít, khí lực muốn có nhiều hay ít phải tập khí công làm tăng hay giảm
khí lực tùy theo bệnh.
Khí Công Trị Liệu dựa vào kết qủa của công thức áp huyết theo tuổi, mà có bài làm tăng khí, giảm
khí, giảm máu, (không tăng máu được nếu không ăn những thứ bổ máu hay B12), giảm đường,
(không tăng đường được nếu không ăn thêm ngọt).
------------------------------------------
Phần II: Nguyên Nhân Và Cách Chữa Ung Thư
I-Đề phòng bệnh ung thư
Môn Khí Công Y Đạo nhờ máy đo áp huyết và máy đo đường cho ra kết qủa tỷ lệ giữa Khí
lực/huyết/đường, nên đã có nhiều kinh nghiệm tìm ra được những bệnh biết trước bệnh nhân sẽ chết
trong 2 trường hợp do Khí lực/ huyết/ đường qúa cao, qúa dư thừa, hay qúa thấp qúa thiếu :
-Khí lực dư / huyết dư / đường dư, qúa cao, qúa dư thừa, từ 200mmHg/140 mạch 140 chết bất tử bất
cứ lúc nào.
-Khí lực thiếu/ huyết thiếu / đường thiếu, qúa thấp, qúa thiếu của nhửng bệnh nhân ung thư dưới
70mmHg/50 mạch 50, do đau đớn khó thỏ, tim đập chậm thoi thóp rồi chết hay uống thuốc an thần
giảm đau rồi chết trong giấc ngủ.,
Áp huyết của những bệnh nhân đang bị ung thư có 2 trường hợp :
Áp huyết giả đánh lừa bác sĩ : 130mmHg/60 mạch 130 là mạch nhiệt, trong người nóng khô đỏ cổ
họng, nhưng tay chân lạnh, sợ lạnh, sợ nước, phải mặc áo ấm, vì cơ thể thiếu máu trầm trọng, mạch
phải chạy thật nhanh bơm máu nuôi cơ thể để duy trì sự sống, nhưng vẫn không đủ máu chạy ra đầu
tay chân, nên phải đổi ra áp huyết thật như người khỏe bình thường với mạch tiêu chuẩn là 80,
chúng ta sẽ thấy, vì thiếu máu nhịp tim đã phải đập nhanh hơn 50 nhịp (130 trừ 80= 50)
Lấy số khí lực 130 trừ 50, áp huyết thật sẽ là 80mmHg/60 mạch 80 là bệnh ung thư cấp tính.
Áp huyết của những bệnh ung thư tiềm ẩn mãn tính, người vẫn khỏe đi làm bình thường, nhưng cơ
thể suy nhược dần, hoa mắt, đau đầu 1 bên hoặc 2 bên, chóng mặt, mất trí nhớ, rụng tóc, chân tay
lạnh, đang có số đo áp huyết dưới 80mmHg/60 mạch 50, tự nhiên chân tay yếu té ngã hôn mê,
không va chạm tổn thương bộ đầu, vào bệnh viện cấp cứu, bác sĩ mới báo tin là ung thư sọ não.
Cũng với áp huyết này, ăn chậm tiêu, chán ăn, bụng đầy, ợ chua đắng, bao tử teo dần, ăn vào ói ra,
bác sĩ sẽ tìm ra bệnh ung thư bao tử.
Nếu thường đau bên sườn trái bác sĩ sẽ tìm ra ung thư lá lách, khi có dấu hiệu ăn vào là đi cầu tiêu
chảy nhiều lần trong ngày, mất sức nhanh vì mất máu mất nuớc, mất nhiệt lượng.
Nếu đau sườn phải, ấn vào cứng đau, hay ợ chua đắng, không muốn ăn, vàng da, mặt xanh...bác sĩ
18
sẽ tìm ra bệnh ung thư gan.
II-Cách chữa bệnh ung thư theo Khí Công Trị Liệu (Oxy liệu pháp)
Cách chữa theo tây y, bất cứ cách chữa nào làm cho tỷ lệ Khí lực/huyết/ đường phục hồi làm tăng
lên đến tiêu chuẩn là khỏi bệnh cho tuổi trung niên là :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
và cho tuổi lão niên là :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Tuy nhiên khi tây y chữa áp huyết lên 100mmHg thì những tế bào ung thư không còn tìm thấy, nên
tuyên bố khỏi bệnh ung thư. Theo Khí Công Y Đạo vẫn còn đang bệnh, sẽ bị di căn tái phát khi áp
huyết lại tụt thấp xuống dưới 90mmHg.
Những người có áp huyết ở mức dưới 90mmHg là dấu hiện tiền ung thư, đã có nhiều tế bào thiếu
máu nuôi dưỡng bị bỏ đói lâu ngày trở thành tế bào ung thư, nhưng chưa hội đủ điều kiện kết tụ
thành khối, vì nhờ cơ thể còn vận động, nằm 1 chỗ không vận động thì khối u phát triển nhanh hơn.
Trong 26 trường hợp bệnh do kết qủa máy đo áp huyết tìm ra, tây y chỉ chữa vào nhửng trường hợp
Khí lực dư thừa là cao áp huyết, còn số thứ hai về huyết dư thừa, khi tâm trương cao, mà tim nhói
đau, tây y tìm thấy sự nghẽn máu động mạch hay tĩnh mạch vành, màng bao tim, thì mổ làm stent
cắt bỏ thay vào ống mạch lấy ở đùi hay ống mạch nhân tạo, là cách chữa ngọn và ngăn ngừa bằng
loại thuốc chữa cholesterol, thuốc loãng máu Aspirin, thuốc giãn mạch, hạ áp huyết, lợi tiểu, táo
bón, ức chế thần kinh giao cảm....chứ không chữa vào gốc bệnh.
Những trường hợp bệnh do thiếu khí, thiếu huyết, thiếu đường gây ra nhiều biến chứng không chữa
tận gốc được chỉ dùng thuốc giảm đau, hay mổ xẻ.
Còn phương pháp Khí Công Trị Liệu chữa rất đơn giản, chỉ làm cân bằng tỷ lệ 3 số của máy áp
huyết :
Khí lực dư thì tập khí công làm bớt khí. Khí lực thiếu tập bài khí công làm tăng khí.
Huyết dư thì bớt ăn những thứ bổ máu, những chất béo, khó tiêu, nên ăn nhiều chất chua, Vit. C làm
giảm lượng máu.
Huyết thiếu thì ăn uống những chất bổ máu, kiêng ăn chất chua sẽ phá mất máu, tiêm hay uống
B12, vitamines tổng hợp, B-Complex. Theo kinh nghiệm Khí Công Y Đạo, ăn 10 trái nhãn bằng 1
múi sầu riêng, bằng 1 trái hồng, áp huyết sẽ tăng 10mmHg. Đó là lý do tại sao một người bị bệnh
cao áp, uống thuốc trị áp huyết mỗi ngày, cứ tin rằng đã uống thuốc kiểm soát được áp huyết xuống
dưới 140mmHg, nhưng khi ăn nhãn, sầu riêng, hồng, áp huyết lên cao hơn 170mmHg trở lên mà
không biết, thấy sầu riêng ngon ăn thêm vài múi áp huyết lên trên 200mmHg đang ăn đầu gục
xuống bàn chết không cứu kịp.
Để điều chỉnh áp huyết cho người tiền ung thư dưới 90mmHg, hay người đang bị ung thư dưới
80mmHg, tùy theo tỷ lệ bệnh do khí lực, hay do huyết, hay do đường.
Do khí lực cần tập bài khí công tăng khí lực tăng oxy duy trì công thức máu Fe2O3, oxy nhiều sẽ
khống chế tế bào ung thư không phát triển, không bị mất lượng máu. Nếu bệnh viện có tiếp máu
cho bệnh nhân, 1 tuần sau lại thấy mất máu, chúng ta cứ tưởng bệnh ung thư có 1 loại virus gì
khủng khiếp đáng sợ như ác quỷ ma cà rồng hút mất máu, thật ra tiếp máu làm tăng đơn vị lượng
19
máu có công thức máu Fe2O3, thành nhiều đơn vị Fe2O3, Fe2O3, Fe2O3....nhưng không biết cách
tập tăng oxy như phương pháp oxy liệu pháp gọi là khoa Khí Công Trị Liệu thì thiếu oxy làm phá
vỡ công thức máu trở thành nhiều đơn vị sắt : Fe2+, Fe2+, Fe2+, Fe2+,..., vì lý do này mà bệnh ung
thư tây y không cho uống thuốc hay chích thuốc bổ máu B12 mà không tập khí công nó sẽ háo oxy,
làm cơ thể mất oxy thì tế bào ung thư không còn bị oxy kềm chế lại có cơ hội phát triển to hơn.
Nếu thiếu nồng độ đường thì ăn thêm đường và tập khí công để chuyển hóa đường. Nhưng theo tây
y. Bệnh ung thư cũng cấm không ăn đường, vì công thức đường glucose là C6H12O6, ăn đường mà
không tập khí công chuyển hóa đường thì lại bị mất oxy, chỉ còn lại C6H12 là một chất Hexene có
nguy cơ kết dính khối u, chất hexene là nguyên liệu để làm thành nylon.
Như kết qủa cấu tạo thành phần hóa học, thì ung thư phát triển được do cơ thể không có khí Oxy
duy trì công thức máu và công thức đường, nếu không biết cách tập khí công, vì tây y không có
môn này, nhưng công nhận chữa ung thư phải tìm ra cách chữa bằng oxy liệu pháp, mới khống chế
tế bào ung thư không phát triển và oxy dư thừa sẽ tự tiêu diệt tế bào ung thư.
Vì thế môn học Oxy liệu pháp hay Khí Công Trị Liệu này ra đời (Qigongtherapy) để bổ sung cho
những thiếu sót của đông y lẫn tây y, đưa tây y tiếp cận lý thuyết đông y. Đưa kiến thức đông y ra
ánh sáng bằng những máy móc tây y, có dẫn chứng xét nghiệm thử nghiệm thực tế bằng những
thống kê kết qủa theo tây y.
Những bệnh nhân có dấu hiệu tiền ung thư và những bệnh nhân đang bị ung thư của tôi đã theo Khí
Công Trị Liệu được tây y xác nhận khỏi bệnh, trong khi đó những bệnh nhân ung thư khác là những
bạn đồng bệnh của họ tiếp tục trị liệu theo tây y đến nay đã sang thế giới khác.
Mới đây có 1 nữ bệnh nhân ung thư vú từ năm 2002, bác sĩ cho biết còn sống 6 tháng. Nếu bệnh
nhân có tinh thần tiêu cực nằm 1 chỗ không ăn uống vận động, áp huyết tụt xuống dần cộng thêm
tinh thần lo sợ, thì cái chết đếm sớm hơn.
Bệnh nhân theo lời khuyên của tôi, không cần chữa, mà phải có đời sống hoạt động tích cực, thiếu
máu thì bổ máu, thiếu đuờng bổ đường, thiếu khí lực phải tập khí công, ăn không được phải dùng
Vitamines, nên bà ta vẫn khỏe, đi làm bình thường cho đến nay (2015).
Cách đây 4 tháng bà thử đi tái khám, bác sĩ nói tốt và hỏi tại sao cơ thể lại khỏe mạnh, bà khai là
uống B12, ăn đường. Bác sĩ cấm và nói những thứ này làm tăng khối u bệnh ung thư sẽ tái phát
nặng hơn, bà sợ nên ngưng, 1 tháng sau bà mệt yếu, xuống cân, tóc xơ xác, mặt hốc hác, thở gấp
suyễn, không thở được như người đứt hơi, bà đến gặp tôi trong tình trạng này, nhờ tôi cứu bà.
Tôi hỏi bà có uống B12 và đường không, áp huyết của bà bây giờ là 76mmHg/60 mạch 60 là Khí
lực thiếu/huyết thiếu/đường thiếu. Bà nói bác sĩ nói tôi chỉ còn sống 3 tuần vì ung thư đã di căn toàn
thân hết chữa được rồi.
Tôi bảo nếu bà muốn sống thì trong 3 tuần này phải tích cực tập thở, tập khí công, uống B12, thêm
trà gừng mật ong sau mỗi bữa ăn, bà đến tôi kiểm soát áp huyết mỗi tuần cải thiện dần áp huyết lên
trên 100mmHg/70 mạch 68, bà đã qua khỏi ngưỡng cửa của tử thần, và bà tái khám, không nói với
bác sĩ là uống B12 và ăn ngọt chỉ nói tập khí công, bà đến tôi mặt vui vẻ hơi hồng hào, tăng cân
hơn, bà báo tin mừng bác sĩ cho biết hết tìm thấy di căn của bệnh ung thư rồi.
Nhiều người không tin ung thư do thiếu máu và đường, nên cơ thể đau đớn do khí huyết không đủ
tuần hoàn nuôi các tế bào, lại nằm một chỗ, không ăn uống được, cứ chờ đến ngày hóa trị liệu hay
xạ trị liệu làm mất máu mất khí suy nhược thêm, chỉ uống thuốc morphine giảm đau đớn đâu phải là
cách chữa phục hồi khí lực/ phục hồi lượng máu cho cơ thể hoạt động để tái tạo lại chức năng hoạt
20
động của tế bào, rồi lại nghe uống nha đam, lá đu đủ, lá sả...hay thuốc nam thuốc bắc chuyên trị ung
thư mà không biết thuốc đó có làm tăng công thức khí lực/huyết/đường lên để khỏi bệnh hay không
hay nó lại làm giảm xuống thêm cho đến khi lìa đời.
Trên đây là nói chung về công thức áp huyết đổi sang công thức Khí Công Trị Liệu là:
Khí lực/ huyết/đường để khám tìm thấy ngay nguyên nhân bệnh nan y và ung thư trước khi tây y
tìm ra những bệnh này.
Còn cách tìm bệnh ở cơ quan tạng phủ nào bệnh, có nguy cơ ung thư trước nhất, chúng ta sẽ tìm
hiểu về máy khám bệnh Masimo IspO2 ở bài viết về kinh nghiệm sử dụng máy này để khám tìm
bệnh ung thư ở tạng phủ nào.
III-Cách chữa ung thư của tây y
A-Nguyên nhân tế bào bị ung thư
Như một gia đình, các thành viên trong gia đình là những tế bào và tạng phủ, người nào có nhiệm
vụ của người ấy, ăn cơm chung cùng mâm.
Đường-huyết và máu cần thiết nuôi tế bào, cho ta năng lượng làm việc theo chưc năng, nếu trong
gia đình 10 thành viên, có một người bị thiếu máu thiếu đường mà bị bệnh ung thư như những
trường hợp nêu trên, cách chữa theo tây y là bỏ đói tất cả, không cung cấp chất bổ đường bổ máu
cho 10 người này, thì không những 1 người đã bị ung thư, mà 9 người còn lại cũng bị bỏ đói không
cung cấp máu và đường thì 9 người còn lại cũng chung số phận chết theo .
Số tâm trương chỉ về kết qủa của thức ăn tạo ra máu hay làm mất máu, nếu tăng lên là thức ăn tạo
máu tạo mỡ, nếu giảm là thức ăn có chất chua làm mất máu tiêu mỡ. Nếu số thứ hai tâm trương là
huyết lực thấp hay cao hơn tiêu chuẩn là đã ăn uống sai, tâm trương thấp thì thiếu máu không nuôi
đủ các tế bào trong cơ thể, tế bào bị bỏ đói trở thành tế bào ung thư, đó là nguyên nhân. Trong khi
tây y chẩn đoán ngược lại xét hậu qủa nói là tế bào ung thư nếu bổ máu thì tế bào ung thư phát triển
là sai lầm.
Thí dụ : dân cả 1 làng thiếu gạo bị bỏ đói, tất cả mọi người đều bị đói, nhưng người nào đói nhiều
thì người đó bệnh nặng hơn, tạm gọi là bệnh ung thư, đó là nguyên nhân.
Bây giờ mọi người được tiếp tế gạo, theo lý thuyết thì người bị bỏ đói nhiều nhất thì cần lấy gạo
nhiều nhất, đó là lý thuyết, chứ thực ra tế bào ung thư gặp được máu thì mới khỏe để phục hồi sự
sống.
Quan sát thực tế, khi gạo cứu trợ đến làng thì ngưới còn khỏe mới còn sức đi nhận gạo, còn người
bệnh chỉ nằm một chỗ đâu còn sức mà nhận gạo, rồi những người náy mới có sức chuyển gạo đến
giúp cho những người yếu bệnh.
Cũng như thế, cơ thể được bổ sung máu kịp thời nên tế bào chưa bệnh được máu phục hồi sức
khỏe nhanh, còn tế bào ung thư dần dần được máu đến tận chỗ mới phục hồi được, làm sao nó khỏe
hơn tế bào lành để đánh tế bào lành thành tế bào bệnh được.
Tế bào ung thư tây y xác nhận không có vi trùng thì làm sao lây lan, giống như người bị đói sắp
chết làm sao lây cái đói cho người khác, mà thật ra nhửng người khác cũng đang bị đói do thiếu gạo
cũng sắp chết, chứ không phải tế bào ung thư làm tế bào lành bị ung thư, như vậy theo đông y
những bệnh ung thư theo tây y chỉ là các tế bào bị thiếu máu, thiếu khí, thiếu đường là nguyên nhân
chứ không phải là hậu qủa.
Ngược lại, theo đông y cũng có bệnh gọi là ung thư được định nghĩa là ung nhọt có mủ phát sinh
không phải ở ngoài da để chữa được dễ dàng mà phát sinh trong cơ thể, mới gọi là thư, nên loại ung
thư này là loại ác tính, thuộc cấp tính làm con người chết dễ dàng cả đông lẫn tây y không kịp chữa,
phải cắt bỏ ngay.
Khi thử một loại thuốc trước và sau khi uống cũng làm tăng giảm số tâm trương làm thay đổi
Tinh, nếu đúng, lọt vào tiêu chuẩn thì thuốc đó hợp với mình, còn lọt ra ngoài tiêu chuẩn cao hơn
hay thấp hơn thì thuốc đó không hợp đã làm hại sức khỏe của mình, đó là chữa gốc bệnh, tây y
21
không để ý điều này là thuốc cũng làm thay đổi áp huyết tốt hơn hay xấu hơn.
Chúng ta chỉ sợ ăn uống những thức ăn sai, hay thuốc uống sai làm lọt ra ngoài tiêu chuẩn số tâm
trương về Tinh.
Chúng ta không sợ về Khí lực là số tâm thu, vì chúng ta có những bài tập khí công làm tăng hay
giảm khí lực rất dễ, làm thay đổi kết qủa nhanh.
Còn muốn làm thay đổi kết qủa Huyết lực cần phải thời gian dài điều chỉnh lại cách ăn uống
đúng., vì huyết lực thuộc âm đến từ thức ăn, trong thức ăn cũng có khí của thức ăn cũng là âm, nhờ
tập khí công là khí lực dương, giúp khí âm chuyển ra huyết mới bền vững.
Chúng ta cũng không sợ bệnh tiểu đường, Chúng ta có thể làm tăng đường bằng Pepsi hay Coca,
chúng ta có thể làm hạ đường nhanh bằng bài tập "Đi Cầu Thang" có kết qủa nhanh nhất.
Như vậy chữa ung thư gọi là di căn và bỏ đói tế bào là không đúng, chưa kể nguyên nhân khác của
ung thư là thiếu oxy là khí lực tâm thu, thiếu lượng máu là số tâm trương, và nhịp tim cao hay thấp
do đường chuyển hóa nghịch, còn do yếu tố cơ học mà đông y thường nói : “Thông thì bất thống,
thống thì bất thông“, có nghĩa là những ống dẫn máu đỏ trong động mạch thông qua hệ thống mao
mạch là những tia máu nhỏ li ti nhận máu từ động mạch đem vào các mô của tạng phủ trao đổi máu
mới cho tế bào, và đem máu đen đi ra theo mao mạch của tĩnh mạch đi theo ống tĩnh mạch lớn về
tim, thì chính hệ thống mao mạch bị tắc không thông do 3 yếu tố chính sau đây :
a-Khí lực bơm máu tùy thuộc số tâm thu mạnh hay yếu, có nghĩa là đúng tiêu chuẩn áp huyết,
hay lọt ra ngoài tiêu chuẩn làm áp huyết thấp dần :Nếu khí lực thiếu thì sức bơm máu yếu không
trao đổi oxy đủ cho các tế bào
b-Luợng máu đủ hay thiếu hay dư : Nếu lượng máu thiếu không nuôi đủ hàng tỷ tế bào, còn dư
thừa làm ứ huyết nghẽn mạch sinh ra bướu máu
c-Tốc độ chảy của máu do nhịp tim nhanh hay chậm: Tốc độ dòng chảy của máu (viscosité) lệ
thuộc vào đường huyết làm cơ tim co bóp bơm máu đều, làm giãn nỡ hệ thống ống máu và làm tăng
nồng độ máu, và làm giãn nở mao mạch.
Ung thư sớm nhất mà tây y chưa thấy, chính là thiếu đường-huyết làm co rút gân cơ, hệ thống mao
mạch và thần kinh bên ngoài tạng phủ là những gân cơ vận động co bóp tạng phủ như co bóp cơ
tim, co bóp cơ phổi, co bóp bao tử, co bóp gan, co bóp ruột....ngoài chức năng co bóp này chính là
trao đổi máu đỏ và màu đen của các mao mạch để trao đổi máu cho các tế bào tạng phủ, nếu không
có đủ đường, các cơ co bóp yếu, và các mao mạch teo, nên khi máu đỏ trong ống động mạch đến
một tạng phủ nào, bị ứ nghẽn đọng lại không thông qua được mao mạch đã bị teo thì các tế bào bên
trong không được nuôi dưỡng sẽ chết dần, còn máu đỏ ứ đọng lại bên ngoài mao mạch chỉ đì một
chiều nên khi làm scan chúng ta sẽ thấy 1 khối máu ứ tụ ở tạng phủ phải cắt mổ, còn phía mao
mạch bên tĩnh mạch không được đẩy về tim thì chúng ta làm scan cũng thấy những đoạn ống tĩnh
mạch bị phình ứ những máu chết mọc thành rễ lúc đó trở thành ung thư ác tính..
Trong những trường hợp này tây y chữa ung thư là cắt, mổ, rồi hóa xạ trị lại làm đứt chết mao
mạch gây tắc sự lưu thông khí huyết, giống như cắt bỏ cây cầu nối qua sông giữa 2 tỉnh, 2 quận, từ
đó vấn đề giao thông bế tắc khiến đời sống sinh hoạt nơi hai bên cầu khó khăn.
B-Tây y nghiên cứu thuốc chữa ung thư như thế nào ?
Nói về nghiên cứu thuốc chữa ung thư theo tây y thì hoàn toàn xa rời thực tế, mà đông y đã biết
nguyên nhân ung thư giải thích theo máy đo áp huyết và đường-huyết :
1-Máu không chạy : Đông y gọi là Thấp là ứ đọng, do 2 nguyên nhân là Huyết thấp nhiệt do
đường cao và huyết thấp hàn do đường-huyết thấp hơn tiêu chuẩn
2-Khí lực tâm thu yếu không đủ sức đẩy máu, hay khí lực mạnh nhưng đường huyết thấp hàn nên
máu ứ dồn vào một chỗ.
Như vậy ung thư mỗi tạng phủ đều có nhiều tên bệnh ung thư như :
Phổi thì có ung thư theo tên gọi đông y như loại Phế hư thấp nhiệt, phế hư thấp hàn, phế thực thấp
nhiêt, phế thực thấp hàn. Có nghĩa là phế hư thì tâm thu thấp hơn tiêu chuẩn, thấp-nhiệt hay thấp-
hàn là do máu số tâm trương qúa cao hoặc thấp, nhiệt là đường-huyết cao, hàn là đường-huyết thấp,
như 100/50mmHg nhịp tim 50 (hư thấp hàn), 90-100/50-55mmHg nhịp tim 100 (hư thấp nhiệt), 90-
22
100/90mmHg nhịp tim 50 (thực thấp hàn), 90-100/95mmHg nhịp tim 100 (thực thấp nhiệt)
Gan thì có ung thư loại gan huyết hư hàn, gan huyết hư nhiệt, gan huyết thực hàn, gan huyết thực
nhiệt. Như 90/55mmHg nhịp tim 55 (huyết hư hàn), 90/55mmHg nhịp tim 100 (huyết hư nhiệt), 90-
100/100mmHg nhịp tim 55 (hư thấp thực hàn), 90-100/50-60mmHg nhịp tim 120 (hư thấp thực
nhiệt)
Bao tử có ung thư loại Vị hư thấp nhiệt, vị hư thấp hàn, vị thấp thực nhiệt, vị thấp thực hàn, vị khí
hư hàn, vị khí hư nhiệt. Như 90/60mmHg nhịp tim 60 (khí huyết hư thấp hàn), 90/60mmHg nhịp
tim 100 (khí huyết hư thấp nhiệt), 105/95mmHg nhịp tim 60 (thấp thực hàn), 100/95mmHg nhịp
tim 100 (thấp thực nhiệt)...
Đường ruột có ung thư loại đại trường hư thấp hàn, đại trường hư thấp nhiệt, đại trường thấp thực
nhiệt, đại trường thấp thực hàn.
Thận hay bàng quang cũng có ung thư 4 loại như thế.
Tây y đợi bệnh nhân bị ung thư rồi, là nguyên nhân thấy trước hết trong một thời gian dài, nhìn
vào áp huyết với đường đều cho là tốt, bình thường thì bệnh nhân thực ra đã ở giai đoạn ung thư sắp
thành hình, ăn không tiêu, đau nhức là do chức năng doanh phần không đủ mạnh.
Chức năng Doanh Phần
http://khicongydaododucngoc.blogspot.ca/2015/04/chuc-nang-doanh-phan-la-fonction.html
Khi ung thư đã thành hình thì tây y cắt mẫu tế bào ung thư đi thử nghiệm với các loại thuốc đã
nghiên cứu tìm được, tuởng là ung thư chỉ có 1 loại, thực ra ít nhất là 4 loại căn bản khác nhau, cho
các tạng phủ khác nhau, khi tìm ra một loại thuốc bỏ vào mẫu tế bào ung thư thấy có kết qủa làm
cho tất cả các tế baò ung thư ngưng phát triển hay chết gọn hay phát triển thành tế bào lành khỏe
mạnh bình thường, thì cũng giống như một loại thuốc chữa được 1 bệnh như H1N1, còn H2N2,
H3N3, hay H1N2....cho các loại ung thư khác....Tuy nhiên nếu tìm được 1 loại trên lý thuyết thật
đúng, nhưng khi thực tế trong điều trị có hai cách :
Cách tiêm trực tiếp thuốc vào khối u làm khối u chết hay teo như từng làm thử nghiệm trong
phòng thí nghiệm, thì không làm được vào cơ thể, còn cách thứ hai là uống thuốc dù thuốc chữa
đúng bệnh, thì nó cũng chỉ nằm ở bao tử, lúc đó boa tử giống như thùng rác chứa thuốc, không có
khí lực co bóp bao tử để chuyển hóa thuốc, vì cơ thể khí huyết suy nhược, nó không thể hấp thụ
chuyển hóa để theo máu dẫn thuốc qua mao mạch mà vào được khối u, như vậy vẫn là chữa ngọn,
còn chữa gốc vẫn cần phải tiếp máu, bổ đường, thông mao mạch mới đưa thuốc vào nơi khối u và
nhờ mao mạch bên tĩnh mạch đẩy độc tố và tế bào chết ra khỏi cơ thể. Do đó nguyên nhân ban đầu
gây ra ung thư vẫn là nguyên nhân gốc thiếu máu, thiếu đường tắc mao mạch. Còn nếu không chữa
vào nguyên nhân gốc, chỉ dùng thuốc chữa ung thư, khi khối u chết teo, phần còn lại của các mô tế
bào khác cũng vẫn bị ung thư không phải do lây lan gọi là di căn, mà nguyên nhân gốc vẫn là teo
mao mạch và khí huyết thiếu không thông để trao đổi máu cho những tế bào đang thành hình kết
khối u từ nơi xa, phần mao mạch bên tĩnh mạch không thông từ động mạch sang tĩnh mạch thành ứ
huyết bầm sẽ trở thành rễ của ung thư trở thành ung thư ác tính và tây y gọi là di căn..
Nghiên cứu tìm một loại thuốc chữa ung thư cho một tạng cũng là khó huống chi có nhiều loại
ung thư khác nhau bời các số đo áp huyết và đường-huyết khác nhau như ở phần trên đả dẫn giải là
do khí lực hư, thực, huyết hư thực, đường-huyết nhiệt hay hàn ở các tạng phủ bị bệnh khác nhau, thì
biết đến bao giờ tây y mới khắc phục được nhiều loại ung thư khác nhau, mà thật ra chỉ cần chữa
đơn giản phòng ngừa bệnh ung thư bằng cách theo dõi điều chỉnh 3 yếu tố Tinh là ăn uống cho đủ
máu, đủ đường, tập luyện khí công cho thông khí thông huyết, thông mao mạch, thì con người sẽ
không bao giờ có bệnh ung thư do tự mình tạo ra bệnh do Tinh sai, Khí thiếu, Thần suy. Còn nếu đã
kiểm soát được 3 yếu tố đúng tiêu chuẩn mà vẫn bị ung thư ngoài ý muốn do nghiệp bệnh trời kêu
ai nấy dạ thì không kể,vì ngoài khả năng con người....
IV-Nguyên tắc phân tích áp huyết biết trước bệnh ung thư của ngành Y Học Bổ Sung
Các bệnh theo đông y khí công quan trọng nhất là Doanh Phần là cơ quan tiếp nạp thức ăn, thuốc
uống để chuyển hóa và hấp thụ thức ăn thành khí nuôi Khí Phần làm tăng tâm thu, nuôi Huyết Phần
23
làm tăng tâm trương, và đường-huyết là năng lượng cho bộ máy Doanh Phần làm việc. Do đó
Doanh Phần có 3 chức năng quan trọng :
1-Mã lực của bộ máy tiêu hóa
So sánh áp huyết tay trái và tay phải trước khi ăn, chênh lệch nhau 10mmHg giống như máy tiêu
hóa có mã lực mạnh như 10 ngựa. Nếu chênh lệnh 1mmHg là máy chỉ có 1 mã lực. Chiều quay của
máy phải thuận chiều, trước khi ăn áp huyết tay trái phải thấp hơn tay phải .
2-Chức năng chuyển hóa của bao tử
So sánh áp huyết chênh lệch tay trái trước và sau khi ăn phải cao hơn trước khi ăn 10mmHg là
chuyển hóa tốt, thấp hơn trước khi ăn là chức năng bao tử hư, không chuyển hóa làm thức ăn không
tiêu sinh ra bệnh bao tử
Thí dụ trước khi ăn áp huyết 2 tay đều nằm trong tiêu chuẩn như 130/75mmHg nhịp tim 72, ai
cũng tuởng là tốt nhưng thực ra mã lực máy tiêu hóa là Zero 0, đó cũng là nguyên nhân càng ăn bao
nhiêu càng không được bao tử chuyển hóa thức ăn thành khí huyết và hấp thụ vào gan, nên thức ăn
dư thừa vẫn nằm trong bao tử giống như một thùng rác, càng làm cho bao tử bị ung thư, và liệt ruột.
Phân tích sự chuyển hóa thức ăn :
Thí dụ trước khi ăn Tay trái 132/75mmHg 73 :
Nếu sau khi ăn, áp huyết :
132/75mmHg 73 : là bao tử bị chai, không thay đổi, chức năng bao tử không hoạt động.
Nếu : 135/70mmHg 69 là khí bao tử tăng 2mmHg, nhưng làm tâm trương thấp là mất máu, tâm
trương tụt thấp 5mmHg, và nhịp tim tụt thấp do thức ăn hàn từ 73 xuống 69
Nếu : 125/68mmHg 80 là chuyển hóa nghịch mất khí lực từ 132 xuống 125, mất thêm máu từ 75
xuống còn 69, đấy là những dấu hiệu ung thư bao tử.
So sánh mã lực của bộ máy tiêu hóa với chức năng chuyển hóa của bao tử :
Nếu mã lực Zero thì thức ăn còn nguyên sau khi ăn không chuyển hóa
Nếu mã lực chênh lệch 5mmHg thì chuyển hóa được 50% thì sau khi ăn áp huyết tay trái lên
137/80mmHg, nhưng nếu ăn ít lượng, mà chuyển hóa nhanh thì mau đói.
Thí dụ áp huyết sau khi ăn 130/78mmHg 76, có nghĩa là đã không ăn thức ăn bổ khí mà chỉ uống
thuốc bổ sirop bổ máu làm tăng máu, làm tăng nhịp tim là thức ăn nước uống có đường.
3-Chức năng hấp thụ máu vào gan, thì đo áp huyết sau khi ăn bên gan, bên tay phải.
Nếu áp huyết sau khi ăn khí lực cao hơn tiêu chuẩn là bệnh của gan không giúp bao tử chuyển hóa
vì chưa cung cấp mật và chất chua cho bao tử trước khi ăn để làm cho bao tử biết đói thèm ăn, mà
sau khi bao tử ăn rồi, gan mới tiết mật thì đã không đồng bộ giúp thức ăn chuyển hóa, nên thức ăn ứ
đọng trong bao tử tạo ra tăng men gan và men bao tử gây ra bệnh trào ngược thực quản, ợ chua,
đắng, loét bao tử và ung thư bao tử do vị thấp thực nhiệt, đối với phụ nữ gây ra biến chứng bướu
cổ..
Nếu áp huyết xuống thấp 10mmHg so với trước khi ăn thì thức ăn được hấp thụ theo tỷ lệ mã lực
của máy tiêu hóa, nhưng do ăn lượng ít, không có chất bổ máu thì gan không có gì để hấp thụ.
Như vậy mọi bệnh đều do chức năng Doanh Phần gây ra bệnh. Muốn Doanh Phần không gây ra
bệnh phải ăn uống những chất phù hợp với áp huyết tâm thu, tâm trương và đường huyết, và tập 3
trong 4 bài khí công căn bản :
a-Bài Kéo Ép Gối Làm Mềm Bụng : tập 300 lần giúp tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn. Sau
khi ăn được 30 phút giúp thức ăn hóa lỏng thành dưỡng trấp..
Kéo Ép Gối Làm Mềm Bụng chậm 100-300 lần
http://youtu.be/NP-18CNjYC8
Cách tập có 2 cách :
Khi áp huyết thấp thì thổi hơi ra bằng miệng khi 2 tay ép gối vào bụng đụng đến bao tử và gan, để
cho bụng xẹp mềm ép bao tử co bóp..
Khi áp huyết cao thì thay vì thổi hơi ra bằng miệng thì nói chữ Hà hà hà...kéo dài cho đến hết hơi
thì bụng xẹp sát bao tử và gan
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc
KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc

More Related Content

Similar to KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc

Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡmelissa899
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡlamont568
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡdarrick542
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡmona840
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡleonora735
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡlenore366
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡwerner586
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡkraig291
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡramon673
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡforest628
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡfranchesca580
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡharland592
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡdann840
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡtomas463
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡnelida353
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡarlena882
 
Phac do khoa noi
Phac do khoa noiPhac do khoa noi
Phac do khoa noidocnghia
 
Phac do khoa noi
Phac do khoa noiPhac do khoa noi
Phac do khoa noidocnghia
 
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đườngLàm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đườnggregory557
 
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đườngLàm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đườngconcetta596
 

Similar to KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc (20)

Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡThực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
Thực phẩm tốt cho người bị gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡChế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
Chế độ dinh dưỡng cho người gan nhiễm mỡ
 
Phac do khoa noi
Phac do khoa noiPhac do khoa noi
Phac do khoa noi
 
Phac do khoa noi
Phac do khoa noiPhac do khoa noi
Phac do khoa noi
 
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đườngLàm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
 
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đườngLàm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
Làm sao ngăn chặn biến chứng trong bệnh tiểu đường
 

Recently uploaded

[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...VnTh47
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 

KCYD–Y Hoc Bo Sung Chua Benh Nan Y.doc

  • 1. 1 Tài Liệu Y Học Bổ Sung Chữa Bệnh Nan Y Kính tặng qúy vị thầy thuốc đông tây y và các bệnh nhân trên toàn thế giới tài liệu tự học cách chữa khỏi bệnh theo Phương pháp Y Học Bổ Sung này. Xin qúy vị hảo tâm và các vị thiện nguyên viên giúp dịch tài liệu này ra nhiều ngoại ngữ để phổ biến rộng rãi lên online với tinh thần vô vụ lợi cho mọi người không phân biệt chủng tộc trên toàn thế giới biết cách tự chữa khỏi bệnh Tác giả không giữ bản quyền sách này, nhưng xin đừng sửa chữa sai bản gốc. Tác giả: Đỗ Đức Ngọc (15/08/2015) Mục Lục Phần I: Hậu qủa chữa ngọn bệnh của Tây Y và phương pháp khám chữa nguyên nhân gốc bệnh theo Y Học Bổ Sung I-Làm sao biết trước sức khỏe của mình bị sa sút, có bệnh tật A-Theo tây y B-Theo Y Học Bổ Sung của Đông Y Khí Công Y Đạo 1-Nhịp tim và đường, có 4 trường hợp 2-Nhịp tim và máu, có 3 trường hợp 3-Nhịp tim với khí lực tâm thu II-Phát hiện sớm được bệnh ung thư và cách chữa a-Người lớn có áp huyết thấp như trẻ em có nguy cơ ung thư do thiếu máu b-Nồng độ máu c-Tiêu chuẩn đường huyết theo Hiệp Hội Tiểu Đường Canada Phần II: Nguyên nhân và cách chữa ung thư I-Đề phòng bệnh ung thư II-Cách chữa bệnh ung thư theo Khí Công Trị Liệu (Oxy liệu pháp) III-Cách chữa ung thư của tây y A-Nguyên nhân tế bào bị ung thư B-Tây y nghiên cứu thuốc chữa ung thư như thế nào ? IV-Nguyên tắc phân tích áp huyết biết trước bệnh ung thư của ngành Y Học Bổ Sung 1-Mã lực của bộ máy tiêu hóa 2-Chức năng chuyển hóa của bao tử 3-Chức năng hấp thụ máu vào gan, thì đo áp huyết sau khi ăn bên gan, bên tay phải. Phần III: Phân tích áp huyết tìm nguyên nhân bệnh I-Lý luận áp huyết 2 tay và đường trước và sau khi ăn hay uống thuốc để tìm nguyên nhân gốc bệnh nan y và ung thư II-Những bệnh nan y mà không tổn thuơng thực thể, tây y không biết nguyên nhân nên không biết cách chữa 1-Bị lỡ niêm mạc miệng 2 bên +miệng khô cảm giác niêm mạc bị dính với răng, cổ họng khô và ăn có đường thì bị chua miệng 2-Lòng bàn tay và chân lúc nào cũng lạnh, trán nóng, cơ thể thì nóng, tồng trạng người gầy, xanh 3-Bướu ở cổ to bằng quả cau sờ cứng 4-Hồng cầu thấp 5-Bệnh vẫy nến và hội chứng ung thư biểu bì 6-Bệnh trầm cảm nhiều năm 7-Cảm giác lòng bàn chân lạnh nhột, tay run, trán ấm, mắt nóng đổ ghèn, viêm hang vị trào ngược thực quản 8-Ung thư vú 9-Đi khám bị viêm sốt niêm mạc dạ dày ăn không tiêu 5, 6 năm nay 10-Đau nhức nửa ngươi từ đầu vai tay chân bên phải 11-Ung thư gan 12-Mổ nội soi viêm xoang, chịu lạnh kém, đau đầu 13-Đau khắp nguời, cổ gáy rất đau trên 20 năm, chích cortisone hơn 1 tháng nay 14-Ung thư gan 15-Đau nữa đầu bên phải, lâu năm có khối u não, mỡ trong máu, đau khớp gối... Phần IV: Những nghiên cứu mới của Y Học Bổ Sung I-Sụ lợi hại của Coca II-Phòng bệnh và chữa khỏi bệnh ung thư dễ hay khó, khi chúng ta đã hiểu nguyên nhân, và tại sao thuốc bổ máu, chất sắt, B12 là con dao 2 lưỡi cho bệnh ung thư
  • 2. 2 A-Cấu trúc thành phần tế bào và các chất dinh dưỡng duy trì sự sống của tế bào B-Sụ hoạt động của tế bào C-Những nguyên tố vi lượng cần thiết giùp chức năng khí hóa hay điện giải 1-Chất sắt 2-Coban 3-Chất đồng 4-Chất Kẽm 5-Chất Magnésium 6- Mangan D-Chữa bệnh vô minh giống như tự giết chết con mình E-Sự quan trọng của lượng máu trong chữa bệnh ung thư F-Sự quan trọng của đường-huyết III- Chức Năng Doanh Phần A-Doanh Phần là gì ? B-Công dụng của máy đo áp huyết khám phá thức ăn, thuốc uống chữa bệnh và chức năng hấp thụ chuyển hóa đúng hay sai 1-Nếu chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt 2-Thức ăn làm áp huyết tụt thấp hay tăng cao C-Bài tập phục hồi chức năng Doanh Phần PHẦN V: Những bài đọc thêm Bài 1: Những thức ăn chữa bệnh A-Điều chỉnh về Tinh I-Về thuốc uống 1-Những loại thuốc tây y Chất sắt Acid folic Vitamin B12 Glucose 2-Những loại thuốc thang đông y Cấp cứu thủy Phù chính thăng áp thang gia vị Tam nhân thận trước thang Đại Bổ Tâm Tỳ Khí Huyết Thang Bổ Hư Thang Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin) Lộc Nhung, huyết nhung II-Về thức ăn a-Thuốc bổ máu làm tăng nhiệt b-Thuốc bổ máu làm hạ nhiệt c-Thuốc bổ máu trung tính đã quân bình âm dương B-Tập khí công tăng cường oxy để chuyển hóa âm ra dương Tham khảo thêm những trái cây bổ máu Bài 2 : Tóm tắt phương pháp tự chữa khỏi các bệnh nan y ung thư, trừ bệnh lười A-Bài Tập Làm Hạ Áp Huyết Và Đường B-Bài Tập Làm Tăng Áp Huyết Và Hạ Đường Một trường hợp tập sai Đường giống như xăng trong xe hơi. Xe hơi giống như người lái xe Cách chữa bệnh mù quáng cố chấp, mình tự hại mình, nhiều người đã bị chết oan. Bệnh ma chướng – Bệnh mê chướng Thân bệnh và nghiệp bệnh khi vấp ngã hãy tự đứng dậy mà đi Khám bệnh theo quy luật âm dương bằng máy đo áp huyết Tự kiểm chứng cách chữa bệnh của các thầy thuuóc Đông y, Tây y, dược thảo, ăn uống giúp mình khỏi bệnh hay không --------------------------------------------------- Phần I: Hậu qủa chữa ngọn bệnh của Tây Y và phương pháp khám chữa nguyên nhân gốc bệnh theo Y Học Bổ Sung I-Làm sao biết trước sức khỏe của mình bị sa sút, có bệnh tật A-Theo tây y Thí dụ một người tuổi trung niên cảm thấy cơ thể suy yếu dần, vẫn đi khám sức khỏe định kỳ 3
  • 3. 3 tháng 1 lần. 4, 5 lần xét nghiệm máu bác sĩ cho biết kết qủa vẫn tốt, không tìm ra bệnh, còn bệnh nhân cảm thấy sức khỏe mình phải có gì thay đổi khác lạ thấy mệt mỏi yếu sức, tây y cho là bệnh tâm lý thần kinh thôi, không có gì quan trọng. Nhưng bỗng nhiên khám lần thứ thứ sáu thì bác sĩ báo tin buồn cho biết kết qủa thử máu là bệnh ung thư giai đoạn cuối. Tại sao lại như vậy, muốn biết lý do, chúng ta theo dõi những kết qủa thử nghiệm máu của bệnh nhân sẽ thấy như thí dụ dưới đây: Xétnghiệm Glucose Albumine Bilirubine ALT Phosphatas -e Alcaline HB PLAQ LEUCO Neutro Tiêu chuần 3.6-6.7mmol/l * 35-50g/L 0-21mcmol/L 0-40U/L 35-125 U/L 118-158g/L 140-440x10e9/L 4.5-10x10e9/L 1.8-7.0x10e9/L Lần thứ 1 7.0mmol/l 49 5 35 120 230 8.0 6.0 6.0 Lần thứ 2 6.0 45 15 30 100 120 200 7.0 5.0 Lần thứ 3 5.0 40 20 20 75 115 170 6.0 4.0 Lần thứ 4 4.0 35 25 10 40 100 150 5.0 3.0 Lần thứ 5 3.5 30 30 0 35 90 130 4.0 1.7 Lần thứ 6 3.0 25 35 0 10 70 100 3.0 0.8 Kết qủa đo áp huyết và đường-huyết mỗi 3 tháng định kỳ : Lần 1 : 130/80mmHg nhịp tim 80, đường-huyết 8.0mmol/l bị tiểu đường phải uống thuốc Lần 2 : 125/78mmHg nhịp tim 70 , đường-huyết 6.0mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt) Lần 3 : 120/70mmHg nhịp tim 68 đuờng-huyết 5.0mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt) Lần 4 : 110/68mmHg nhịp tim 65 đường-huyết 4.5mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt) Lần 5 : 100/62mmHg nhịp tim 63 đường-huyết 4.0mmol/l (Bác sĩ cho biết tốt) Lần 6 : 90/59mmHg nhịp tim 60 đường-huyết 3.6mmol/l *Tiêu chuẩn đường-huyết của ngành y như trên qúa thâp so với tiêu chuẩn ngành dược, mới gây ra nhiều biến chứng, nhiều hậu qủa trở thành nhiều bệnh nan y khó chữa, vì đường làm tăng nhiệt lượng cho bao tử làm chín nhừ thức ăn, giống như nấu thức ăn thì lửa trên bếp phải đủ làm chín thức ăn, nếu không đủ đường làm tăng đủ nhiệt cho bao tử làm bao tử hàn lạnh thì thức ăn thành sống sít, mặc dù thức ăn có nhiều chất bổ ăn vào bao tử giống như đổ thức ăn vào thùng rác, sẽ bị loại ra khỏi cơ thể thành tiêu chảy, phần thức ăn chư chín đi ra phân sống sít, phần chín nửa chừng còn lại biến thành mỡ mà không biến thành máu, nên các tế bào vẫn đói không đủ máu nuôi dưỡng, gây ra nhiều bệnh. Theo hãng Contour, bụng đói từ 6.0-8.0mmol/l, bụng no từ 8.0-11.0mmol/l Theo tiêu chuẩn ghi trên hộp que thử đường của Accu-Chek ghi Glucose Control : Đường-huyết thấp : từ 20-60mg/dL hay 1.7-3.3mmol/l Đường-huyết cao : từ 254-344mg/dL hay 14.1-19.9mmol/l Theo bác sĩ 5 lần khám định kỳ bác sĩ cho biết tốt, lần thứ sáu báo tin buồn bệnh nhân đã bị bệnh ung thư thời kỳ 2, hay 3 hay tệ hơn là thời kỳ cuối. Tại sao kết qủa khám định kỳ tốt tự nhiên lại có hiện tượng xấu bất ngờ này. Không có gì là lạ. Nhìn vào kết qủa xét nghiệm máu, áp huyết và đường-huyết chúng ta thấy tất cả các kết qủa xét nghiệm giảm dần từ tiêu chuẩn tối đa xuống tiêu chuẩn tối thiểu, còn nằm trong an toàn thì bác sĩ vẫn cho là tốt, nhưng khi kết qủa lần thứ 6, kết qủa tụt thấp lọt ra ngoài tiêu chuẩn của người khỏe thì các tế bào do thiếu khí, thiếu máu, thiếu đường đã trở thành tế bào đói, chết dần trở thành biến chứng tạo ra nhiều bệnh nan y, tây y khám nghiệm máu vẫn tốt, nên không tìm ra bệnh, đến khi tế
  • 4. 4 bào bị bỏ đói do thiếu máu và thiếu đường nuôi dưỡng để trao đổi hồng cầu và oxy nên bị cô lập thành khối u ung thư rồi. Thật ra không cần xét nghiệm máu vừa làm mất máu vừa tốn kém thời gian và tiền bạc. Chúng ta chỉ cần có một máy đo áp huyết và máy đo đường tại nhà, theo dõi sức khỏe bằng cách đo áp huyết và đo đường huyết sau mỗi bữa ăn sẽ thấy nguyên nhân tại sao như bảng đo áp huyết ở thí dụ trên đây. Chúng ta thấy tâm trương giảm dần là máu trong cơ thể thiếu dần do ăn uống kiêng mỡ, đường, ăn ít, sợ bệnh tiểu đường, sợ bệnh cao áp huyết, sợ bệnh cholesterol, ăn gạo lức muối mè...áp huyết thấp dần bác sĩ lại khen là tốt, vì bác sĩ không chú trọng đến áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi như KCYĐ. nên không thấy sức khỏe của bệnh nhân thay đổi xấu tốt ra sao so với tiêu chuẩn tuổi. Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo : 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 60-70 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi) 110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi) 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) . Như vậy 3 yếu tố của máy đo áp huyết cho biết, số tâm thu là Khí Lực, số tâm trương là lượng máu, nhịp tim là nồng độ máu liên quan đến đường đã cho chúng ta biết nguyên nhân bệnh để biết cách điều chỉnh lại thức ăn, thuốc uống, và lượng đường trong máu. Quan trọng ưu tiên khi tâm trương thấp phải ăn những thức ăn bổ máu, uống thuốc bổ máu, vì thiếu máu nuôi tế bào làm đau nhức nên cần bổ máu chứ không phải uống thuốc giảm đau, mà không có máu để phục hồi sự sống cho tế bào thì có uống thuốc giảm đau suốt đời cũng không khỏi, đó là chữa ngọn không phải chữa vào gốc bệnh là những nguyên nhân do thiếu máu, thiếu khí, thiếu đường. Khi cơ thể đủ máu giống như vườn cây có đủ nguồn nước cung cấp, thì ưu tiên thứ hai là phải có máy tưới nước cho cây, lúc đó cần tập khí công làm tăng khí lực số tâm thu bơm máu tuần hoàn, giống như mở máy bơm nước tưới cây, và mục đích tập luyện thể dục thể thao để giữ khí lực tâm thu nằm trong tiêu chuẩn tuổi là điều chỉnh Khí Lực, còn ăn uống đủ bổ máu làm tăng Huyết Lực, lượng máu ở tâm trương phải nằm trong tiêu chuẩn là điều chỉnh Tinh, theo dõi sức nóng ấm ở bàn tay chân và nhịp tim có tương xứng với tiêu chuẩn để cơ thể đủ đường giúp lực co bóp tim bơm máu hòa hoãn đều đặn 70-80 nhịp/phút. Điều mà tây y không để ý, áp huyết đo bên tay trái không quan trọng bằng đo bên tay phải, do đó khi chưa ăn mà đi bác sĩ khám bệnh đo áp huyết thì tay trái lúc bụng đói thấp hơn, tay phải cao hơn, ngược lại nếu chưa ăn mà áp huyết bên tay trái đã cao thì bên tay phải lại càng cao hơn nữa, mặc dù đã uống thuốc trị áp huyết mà không hạ xuống. Điều đó chứng tỏ áp huyết thay đổi do thức ăn và do chức năng tiêu hóa tốt hay xấu. Đó là lý do tại sao uống thuốc trị cao áp huyết không chữa dứt hẳn được bệnh, mà phải uống thuốc suốt đời để ngừa bệnh, và cuối đời cũng vẫn chết về bệnh áp huyết qúa cao hay qúa thấp. Đối với đông y, bệnh cao áp huyết gây ra tai biến hay đột qụy, có tên bệnh gọi là Can Phong Nội Động, là bệnh do khí và máu trong gan dư thừa nên đo áp huyết tay phải trên 180-240/100- 120mmHg.
  • 5. 5 B-Theo Y Học Bổ Sung của Đông Y Khí Công Y Đạo Nhờ vào bảng tiêu chuẩn áp huyết của KCYĐ, chúng ta sẽ biết tại sao sức khỏe sa sút vì 3 số đo áp huyết có nghĩa rõ ràng : Số thứ nhất tâm thu gọi là khí lực, bệnh nhân thấy suy giảm dần. Số thứ hai tâm trương là lượng máu qua tim thấp dần do thức ăn không đủ bổ máu. Làm lượng máu cơ thể thiếu dần do thức ăn, như chỉ ăn rau, ăn gạo lức muối mè, tuởng là khỏe, thật ra chỉ khỏe đối với người áp huyết cao, mập, dư máu, vì nó làm cho ốm, giảm khí lực bơm máu, giảm lượng máu do ăn chay không dư thừa chất bổ máu, khi khí lực thấp dần hay huyết lực thấp dần dưới tiêu chuẩn thì phải xét lại thực phẩm ăn uống có đúng đủ theo nhu cầu cần của cơ thể hay không. Số thứ ba là nhịp tim quan trọng nhất, nó lệ thuộc vào những yếu tố sau đây : 1-Nhịp tim và đường, có 4 trường hợp a-Nhịp tim thấp và đường thấp là chuyển hóa thuận Thí dụ khi đo áp huyết có nhịp tim thấp hơn tiêu chuẩn 70-80 thì đường-huyết 6.0mmol/l tương đương nhịp tim 70, đường-huyết 8.0mmol/l tương đương nhịp tim 80 Thí dụ nhịp tim 60 thì đường-huyết tương đượng khoảng 4.0-5.0mmol/l. Khi đường thấp có dấu hiệu đầu tay chân tê lạnh đau, đôi khi đau khớp cổ tay, cồ chân, thoái hóa đốt sống cổ, lưng, gối...khô khớp xương co rút gân, tây y phải mổ gân mạch, nếu đo nhiệt kế nơi đau tê lạnh nhiệt kế chỉ duới 34 độ C hay chỉ Low (thấp) không bắt được nhiệt. Theo Y Học Bổ Sung không cần mổ, chỉ cần uống 3 thìa đưòng cát vàng với 1 ly nước nóng ấm, sau 5-10 phút bàn tay chân và ngón tay chân ấm nóng lên, nhiệt kế đo được 38 độ C, bàn tay chân ngón tay chân hết tê đau lạnh, cử động khớp tay chân, ngón tay nắm mở co duỗi hết đau. Bệnh tê lạnh đau ngón tay chân và thoái hóa xương khớp cổ lưng...tây y không biết là do thiếu đường, chỉ có phương pháp mổ là chữa ngọn, mà gốc là thiếu đường nên vẫn bị dau. Lý do duy nhất là tây y sợ đưòng cao, bệnh nhân phải uống thuốc chữa tiểu đường cho đường hạ thấp, nên gây ra nhiều biến chứng thiếu đường làm suy cơ co bóp tim yếu dần, thấp dần, và liệt cơ co bóp bao tử khiến ăn không tiêu, thức ăn cũ đọng trong bao tử lên men làm ra bệnh trào ngược thực quản, bướu cổ, ung thư bao tử... b-Nhịp tim cao và đường cao là chuyển hóa thuận Thí dụ nhịp tim 90 thì đường phải cao là chuyển hóa thuận tương đương 10.0-15.0mmol/l. Theo Y Học Bổ Sung, muốn hạ đường không cần phải uống thuốc hạ đường, mà chỉ cần tập 1 trong 2 bài tập làm hạ đường : Cách chũa làm hạ đường và chữa áp huyết thấp thành cao Thí dụ đường-huyết 20.0mmol/l áp huyết tâm thu thấp 100mmHg: Tập Bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 100-200 lần, sau khi tập thì áp huyết tâm thu tăng lên 130-140mmHg, đường huyết xuống còn 10-0mmol/l, nghỉ ít phút cho áp huyết xuống rồi tập lại thêm một lần nữa, thì đường xuống còn 6.0mmol/l, áp huyết lại tăng lên 120-130mmHg. Đứng hát kéo gối lên ngực : Thăng âm lên dương khí http://www.youtube.com/watch?v=KO1PWscjaxU Cách chữa làm hạ đường và chữa áp huyết cao thành thấp: Thí dụ đường-huyết 28.0mmol/l, áp huyết cao 200mmHg. Tập bài Bó bắp chân đi cầu thang 1 bậc chậm trong 30 phút. Thử lại đường xuống còn 18.0mmol/l áp huyết xuống còn 160mmHg, tháo băng bó chân nghỉ 15 phút, rồi bó bắp chân lại tập tiếp 30 phút nữa, rồi tháo băng, đo lại đường xuống còn 6.0-8.0mmol/l, áp huyết xuống còn 130-140mmHg.
  • 6. 6 Bó bắp chân đi cầu thang 1 bậc chậm 30 phút https://www.youtube.com/watch?v=lhTAx9tTMSo (Đi chậm vừa đi vừa hát, lâu 30 phút, để sau khi đi xong nhịp tim nằm trong khoảng 70-80 là đúng, cao hơn là sai) https://www.youtube.com/watch?v=T-SFhRPDBfA https://www.youtube.com/watch?v=umMLS5nxfzg Kết luận : Tập khí công hay vận động mạnh cho xuất mồ hôi sẽ làm hạ đường huyết. Do đó người có đường huyết thấp thì không có sức tập khí công hay làm việc, vì khi tập khi công làm tụt đường-huyết xuống thấp nữa sẽ gây ra chứng suy tim, té xỉu, chóng mặt, nhưng không tập thì không điều chỉnh được bệnh áp huyết cao hay thấp. Riêng người già nằm một chỗ, áp huyết cao, mà không vận động thông khí huyết thì đường- huyết mỗi ngày càng tăng, khí huyết không lưu thông sẽ bị ứ đọng tại chỗ nên da bị hoại tử, dù có chích insulin mỗi ngày 4 lần đường huyết vẫn cao, cũng không khỏi bệnh tiểu đường vì không chịu tập luyện khí công một trong hai bài trên. c-Nhịp tim cao nhưng đường-huyết thấp là chuyển hóa nghịch Thí dụ nhịp tim 90-100, đường-huyết 4.0-5.0mmol/l Đối với tiêu chuẩn đường theo ngành y là tốt không có bệnh tiểu đường, trái với ngành dược là thấp, trường hợp này theo đông y là bệnh nan y, vì đường thấp dưới 6.0mmol/l thì chân tay tê lạnh, đau nhức thần kinh tay chân và các khớp bị thoái hóa, người lạnh phải mặc áo lạnh, da khô, môi khô cổ họng khô khát, mắt khô, người bị sốt âm, có nghĩa là cảm thấy nóng sốt bên trong cơ thể, nhưng đo nhiệt kế thì thấp khoảng 36 độ C Nguy hiểm nhất khi thiếu đường làm suy cơ co bóp của bao tử và cơ co bóp của tim, áp huyết đo số tâm trương thấp do thiếu máu, nhưng số tâm thu lại cao, thí dụ 130/55mmHg nhịp tim 100, đường 4.0mmol/l, mà chân tay tê lạnh, đối với tây y áp huyết và đường là lý tưởng, đối với đông y có tên bệnh là âm hư nội nhiệt là bệnh nan y, gọi là áp huyết giả, đổi ra áp huyết thật theo nhịp mạch tiêu chuẩn 75, vì do thiếu máu nên nhịp tim đã phải đập nhanh hơn 25 nhịp, áp huyết thật tương đương với (130-25), như vậy khí lực chỉ còn 105mmHg. Cách chữa : Phải uống thêm đường cát vàng, 2-3 thìa đường với nước nóng ấm, giúp năng lượng cho chức năng bao tử co bóp chuyển hóa thức ăn thành chất lỏng biến thành máu làm tăng số tâm trương cho đủ máu, nhịp tim sẽ thấp trở lại và tăng khí lực tâm thu mới đủ sức đẩy bơm máu lưu thông ra đến ngoài da, thì đầu ngón tay chân sẽ ấm lên, bên ngoài da sẽ ấm, bên trong người sẽ mát. d-Nhịp tim thấp, đường-huyết cao là chuyển hóa nghịch Thí dụ nhịp tim 50, đường-huyết 12.0mmol/l, trường hợp này theo đông y là bệnh nan y, chân tay ấm, nhưng trong người lạnh, đo nhiệt kế ngoài da nóng 37.5-38.0 độ C. Thí dụ áp huyết đo được 110/65mmHg nhịp tim 50, số tâm thu khí lực thấp, đông y gọi là bệnh nan y hàn giả nhiệt do thiếu máu, số tâm trương 65 so với tiêu chuẩn tuổi 65-70 là thiếu. Còn nếu tâm trương là 55 thiếu máu nhiều thì đông y gọi là bệnh nan y âm hư nội nhiệt, số tâm thu thấp 90 là dương hư ngoại hàn, thí dụ 90/55mmHg nhịp tim 50 là âm hư nội nhiệt, dương hư ngoại hàn hay gọi là âm dương lưỡng hư thì trong cơ thể nóng ngoài cơ thể lạnh, dù đường-huyết cao 12.0mmol/l nhưng nhiệt độ chân tay thấp dưới 35 độ C hay máy chỉ Low, là bệnh ung thư máu, đường huyết càng tăng càng nhức, xương tủy khô không sinh sản máu và hồng cầu. Cách chữa : Cần uống B12, ăn uống nước súp phở bò, thức ăn bổ máu, nước súp hầm đậu đỏ đậu đen, hay có thể dùng xương ống bò hầm lấy tủy, và gan heo bổ đôi rửa sạch hấp chín với 50 hạt tiêu, cả hai đã chín, lấy tủy và gan, thêm ít nước hầm cho ít muối, xay chung sền sệt thành paté tủy, ăn sáng với bánh mì.
  • 7. 7 Tập khí công bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần, không có sức thì tập bài Nằm co 2 đầu gối vào sát bụng, rồi đá gót chân vào mông 300 lần, làm tăng khí lực tâm thu, tăng máu cho tâm trương, tăng nhịp tim để tuần hoàn máu, nhưng làm hạ đường-huyết, ngừa được các loại bệnh ung thư. Dùng thuốc uống kèm theo vuốt cột sống ngăn chặn tế bào ung thư phát triển. Làm tăng tế bào tủy sinh ra tế bào hồng cầu, làm tăng khí lực và oxy bảo vệ tế bào hồng cầu tăng trưởng không bị mất : Bệnh nhân nằm úp, bôi dầu trơn trên cột sống, dùng 2 ngón tay cái vuốt lần thứ nhất từ xương cùng theo giữa cột sống lên đến gáy 18 lần, vuốt lần thứ hai, dùng 2 ngón tay cái móc vào 2 bên xương cột sống vuốt dọc 2 bên xương cột sống từ dưới lên cổ gáy, gọi là đường Hoa Đà Giáp Tích 18 lần, vuốt lần thứ ba, dùng 2 ngón tay cái vuốt dọc theo đường kinh Bàng Quang cách 2 bên xuong sống 3-5cm, vuốt từ dưới lên trên gáy 18 lần. Dùng thuốc : Mua ở tiệm thuốc bắc Bột Điền Thất sống, và bột nghệ tốt, pha 3 phần Điền Thất + 7 phần Bột nghệ trộn đều, mỗi sáng và tối uống 1 thìa cà phê bột thuốc trên với nước nóng pha mật ong, uống chung với 3-5 viên Linh Chi. Nếu áp huyết khí lực tăng, huyết lực tăng, người khỏe mạnh hồng hào, thử máu các tiêu chuần máu tăng dần thì không cần phải đợi ghép thay tủy của người hiến tủy phù hợp, vì bài tập và thuốc đã giúp phục hồi tế bào tủy sinh sản ra tế bào hồng cầu. Có những bệnh nhân ung thư máu bị tây y chê chờ chết vì không có cơ hội ghép tủy, cũng đã thoát chết nhờ phương pháp này. 2-Nhịp tim và máu, có 3 trường hợp Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn tuổi trung niên : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) Tâm trương 70-80mmHg, nếu máu giảm thấp thì tâm trương từ 70 xuống thấp dần đến 50 thì chết, nếu tăng là máu cao, tâm trương từ 80 tăng dần lên trên 120 sẽ bị đột qụy, còn nhịp tim dưới 70 là chậm thì người lạnh, trên 80 là nhanh thì người nóng. Đường trong tiêu chuẩn từ 6.0-8.0mmol/l, khi bụng đói, nếu thấp hơn là thiếu đường, phải uống thêm đường, cao hơn thì chỉ cần tập khí công, đường-huyết sẽ xuống thấp, nhưng có đủ đường cơ thể sẽ có đủ năng lượng để hoạt động mà không bị mệt tim. a-Máu thấp, nhịp tim chậm, không liên quan đến đường trong tiêu chuẩn Thí dụ : 125/68mmHg nhịp tim 65. đường-huyết 6.5mmol/l Nhịp tim thấp, máu thấp thì tuần hoàn máu chậm, không đem đủ máu và hồng cầu trao đổi oxy cho tế bào, khiến tế bào thiếu dần hồng cầu và oxy. Như vậy máu thấp và nhịp tim thấp đã gây ra một số bệnh nan y là hẹp van tim hay những bệnh không tên mà tây y tìm chưa ra dấu vết bệnh, vì chưa tổn thương thực thể. Nhưng nếu thấp hơn nữa, như lúc nào cũng chỉ còn 55-60mmHg là cơ thể thiếu lượng máu, hàng tỷ tế bào sẽ không nhận đủ hồng cầu và oxy, không đồng đều, nên có những tế bào mô yếu dần, chết dần, bị cô lập thành khối u lành tính, máu không nuôi đủ tế bào thần kinh gây đau nhức, cơ quan chức năng tạng phủ thiếu máu sẽ hoạt động yếu kém, là những dấu hiệu xấu ở những giai đoạn đầu của ung thư lành tính chưa tổn thương tây y chưa phát hiện. b-Máu thiếu, nhịp tim nhanh, không liên quan đến đường trong tiêu chuẩn Thí dụ 125/68mmHg nhịp tim 90, đường trong tiêu chuẩn chuyển hóa thuận 8.0mmol/l (là đường cao, nhịp tim cao) Nguyên nhân thiếu máu, tâm trương phải mở rộng ra để hút máu về tim cho đủ tuần hoàn, nên tim phải đập nhanh gây biến chứng là hở van tim. Nhưng nếu số tâm trương thấp hơn nữa như 60-65mmHg lả cơ thể thiếu lượng máu, gọi là âm hư sinh nội nhiệt, nhịp tim nhanh làm tăng nhiệt, nhưng đường còn nằm trong tiêu chuẩn thì nhiệt kế đo trên da tay ấm, 37.0-37.5 độ C Trường hợp này là thiếu máu chứ không phải thiếu đường thì phải
  • 8. 8 bổ máu, tiêm hay uống B12, ăn thức ăn bổ máu cho tâm trương tăng lên trở về tiêu chuẩn, thì nhịp tim sẽ giảm xuống. Nếu không bổ máu kịp mà tâm trương cứ tiếp tục giảm là dấu hiệu ung thư giai đoạn đầu, theo đông y vẫn là âm hư sinh nội nhiệt làm khô khát cổ họng, phổi, bao tử nhiệt...sau này những cơ quan tạng phủ này sẽ bị ung thư trước. c-Dư máu, nhịp tim nhanh, không liên quan đến đường trong tiêu chuẩn Thí dụ 125/100mmHg nhịp tim 95, đường-huyết 7.5mmol/l Nguyên nhân dư máu là máu và cholesterol dồn về tim, khiến tim đập mạnh, nhịp tim lại đập nhanh, nhiệt độ thân người và tay chân nóng, trường hợp này dễ bị đột qụy khi có dấu hiệu đau nhói tim tức ngực khó thở. Nặng hơn nữa, nếu nhịp tim càng ngày càng cao dần lên đến 120 thì người toát mồ hôi ngộp thở, nếu lại tăng tâm thu cao sẽ bị tai biến, nhẹ hơn thì tràn dịch màng phổi. Cách chữa cấp cứu : Vuốt động mạch cảnh xuống làm giảm nhịp tim và hạ áp huyết trước khi đưa bệnh nhân đi bệnh viện cấp cứu. Vuốt động mạch cảnh lên làm tăng áp huyết, vuốt xuống làm hạ áp huyết https://www.youtube.com/watch?v=uGgR2ev6G6s 3-Nhịp tim với khí lực tâm thu Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn tuổi trung niên : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) Có 4 trường hợp : a-Nếu nhịp tim tăng cao khi đi bộ hay chạy bộ, thể thao, đánh cầu, hay tập khí công...làm nhịp tim tăng cao trong khoảng 30 phút thì nhịp tim trở lại trạng thái bình thường. b-Không làm gì mà nhịp tim luôn luôn cao, là bệnh nan y, đi kèm với bệnh cao áp huyết mãn tính, dùng thuốc hạ áp huyết không hiệu nghiệm. Trường hợp này muốn chữa khỏi phải tập thở Khí Công ở Đan Điền Tinh và Mệnh Môn, vuốt động mạch cảnh xuống, hay vuốt dọc theo xương ống chân làm hạ áp huyết nhanh, và uống trà tim xem, nhịp tim và áp huyết mới xuống được. https://www.youtube.com/watch?v=6qB2iWN7QxE https://www.youtube.com/watch?v=aRO5LQUVF4U https://www.youtube.com/watch?v=buEUiVVPD0k c-Nhịp tim lúc nào cũng cao mà chân tay và da lạnh, nhưng trong người nóng do thiếu lượng máu nhiều, vì vậy dù tim đập nhanh để tuần hoàn máu, nhưng cũng không đủ máu chạy ra đến ngoài da và tay chân : Thiếu máu nhiều thì tâm trương rất thấp khoảng 50-60mmHg, và tâm thu cao là áp huyết giả. Đây là dấu hiệu ung thư, không đủ máu tuần hoàn nuôi hàng tỷ tế bào trong cơ thể, nếu đường-huyết cao thì ngoài dấu hiệu tim đập nhanh, nhưng còn đập mạnh, nhưng nếu đường-huyết thấp thì tim đập nhanh nhưng đập yếu. Cách chữa : Chỉ cần bổ sung máu, ăn uống những chất bổ máu làm tăng tâm trương thì nhịp tim sẽ không cần phải đập nhanh, và áp lực khí tâm thu sẽ trở lại thành thấp, mà không phải là bệnh áp huyết cao. d-Nhịp tim thấp do thiếu máu tâm trương, thiếu khí tâm thu, thiếu đường, là bệnh nan y mãn tính cũng là dấu hiệu ung thư mãn tính một thời gian dài, hàng tỷ tế bào chết dần, các dấu hiệu thấy rõ thường xuyên là đau nhức bên ngoài tạng phủ như chân tay, cột sống, lưng gối, đau đầu, chóng mặt, mắt mờ, rụng tóc, dấu hiệu bên trong cơ thể là suy tim, hồi hộp, thoát mồ hôi, đau bao tử, khó thở, táo bón giả, đau tức hông sườn, ợ hơi, đầy hơi, trướng bụng, ăn không tiêu, chán ăn, mất ngủ, khi bị ung thư tổn thương sẽ là ung thư sọ não, ung thư vú, đau bụng kinh, kinh không đều ra máu hòn cục, sẩy thai, ung thư tử cung, tiền liệt tuyến, ung thư bao tử, ung thư ruột, ung thư phổi, ung thư gan...tất cả các cơ quan nội tạng tế bào đã chết dần, cơ quan nào tế bào chết nhiều nhất kết khối u bị
  • 9. 9 cô lập, tây y chụp hình thấy trước thì bị ung thư trước, vừa chữa xong thì cơ quan nào tế bào kết khối sau thì bị ung thư sau, mà tây y gọi là di căn là từ nơi này chạy sang nơi khác thì không đúng. Cách chữa : Chỉ cần điều chỉnh phục hồi lại 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần sao cho áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi. Điều chỉnh Tinh : Thiếu máu, tâm trương thấp dưới tiêu chuẩn tuổi, thì ăn uống những thức ăn bổ máu, uống hay tiêm B12. Điều chỉnh lượng đường và nhịp tim chuyển hóa thuận : Có nghĩa là nhịp tim thấp dưới 70 (ở tuổi lão niện) thì đường-huyết thấp dưới 6.0mmol/l có dấu hiệu chân tay lạnh, ngoài da lạnh, tim đập yếu không đưa đủ máu tuần hoàn khắp cơ thể, da mặt xanh trắnh nhợt nhạt, không hồng hào. Phải uống thêm đường cát vàng với nước nóng ấm để duy trì lực co bóp cơ tim đập nhanh khiến người nóng ấm, để sao cho nhịp tim nằm trong tiêu chuẩn 70-80 tương đương với đường-huyết 6.0- 8,0mmol/l. Điều chỉnh tâm thu bằng cách tập khí công bài làm tăng áp huyết : Thí dụ tâm thu thấp dưới 100mmHg tập bài Nằm Đá Gót Chân vào mông 300 lần, hay bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần, cho tăng lên đủ tiêu chuẩn tuổi (như tuổi trung niên 120-130mmHg hay lão niên 130- 140mmHg) Điều chỉnh thần : Nằm thở thiền ý trụ vào Đan điền Thân http://www.youtube.com/watch?v=PQshiUzamdI http://www.youtube.com/watch?v=qG1IxJUg0bw II-Phát hiện sớm đc bệnh ung thư và cách chữa Nhờ máy đo áp huyết và máy đo đường phát hiện sớm được bệnh ung thư và cách chữa Xưa nay ai cũng biết máy đo áp huyết chỉ dùng cho những bệnh nhân bị cao áp huyết để kiểm soát áp huyết khi uống thuốc. Theo tây y, những người áp huyết tốt không có bệnh, áp huyết đều nằm trong tiêu chuẩn từ 100mmHg đến 140mmHg, ngoài ra nếu có những bệnh khác mà áp huyết vẫn nằm trong tiêu chuẩn 100-140mmHg thì không liên quan gì đến bệnh áp huyết, nhưng thật ra nó vẫn xẩy ra những bệnh nan y nằm trong tiêu chuẩn ấymà tây y không tìm ra nguyên nhân. Theo kinh nghiệm của môn Khí Công Trị Liệu, thì áp huyết phải phù hợp với độ tuổi, không cao, không thấp, lý thuyết đông y gọi những bệnh do nguyên nhân dư thừa là bệnh thực, do nguyên nhân thiếu kém gọi là bệnh hư. Thí dụ áp huyết cao ở trẻ em : Tuổi thiếu nhi mà có áp huyết cao bằng tuổi thanh niên hay trung niên là một loại bệnh thực do dư thừa áp huyết thay vì đứt mạch máu não do cao áp huyết tăng đến trên 20mmHg, nhưng chưa aúa 140mmHg thì trẻ em thường bị vỡ niêm mạc mũi gọi là bệnh chảy máu cam, tây y không biết nguyên nhân này nên không chữa vào gốc bệnh làm hạ áp huyết, mà đốt niêm mạc mũi hay bôi vaseline, áp lực khí đẩy máu không vỡ ở mũi sẽ vỡ đứt mạch ở chỗ khác như thần kinh mặt, mắt, làm liệt mặt. Thí dụ áp huyết thấp ở người lớn : Tuổi người lớn mà có áp huyết thấp như trẻ em 95-100mmHg là một loại bệnh hư không tìm ra nguyên nhân khiến bệnh nhân mất ngủ, đau nhức quanh năm, tiêu hóa kém, trầm cảm, tâm thần ...nên đối với tây y là một bệnh nan y. Theo tây y giải thích 3 con số của máy đo áp huyết : Số thứ nhất là tâm thu là tim co bóp đẩy máu từ tim ra đại động mạch tim dẫn máu đi nuôi khắp cơ
  • 10. 10 thể. Số thứ hai là tâm trương là tim mở ra thu máu về tim qua ống đại tĩnh mạch. Số thứ ba là nhịp tim do số lần tim co bóp bơm máu trong 1 phút. a-Người lớn có áp huyết thấp như trẻ em có nguy cơ ung thư do thiếu máu Theo môn Khí Công Trị Liệu giải thích theo lý thuyết đông y, khác với tây y, nhưng rất quan trọng đối với đông y, nhờ máy này, thay vì đông y khám bệnh như trước kia bắt mạch bằng 3 ngón tay đặt trên cổ tay của bệnh nhân theo kinh nghiệm chủ quan của mỗi thầy thuốc không được chính xác nên ngày nay bắt mạch bằng máy đo áp huyết hiện ra con số rõ ràng, tuy nhiên sự giải thích 3 con số của máy khám bệnh này trên nguyên tắc giống nhau : Thí dụ cụ thể lấy áp huyết tiêu chuẩn của tuổi lão niên : 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) Con số thứ nhất : 130-140 là con số chỉ khí lực của cơ thể, sai số 10mmHg là lực hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu tốt. Gọi chung là KHÍ Con số thứ hai : Chỉ van tim như một cánh cửa đóng mở điều chỉnh lượng máu qua tim. Gọi chung là HUYẾT. Tùy theo lượng máu ít thì cửa van tim mở nhỏ 80, lượng máu nhiều thì mở lớn 90. Con số thứ ba là nhịp tim, đông y bắt mạch ở cổ tay thì gọi là nhịp mạch 70-80, có nghĩa tối thiểu 70, tối đa 80 thì cơ thể ấm không nóng không lạnh. Nếu dưới 70 đông y gọi là cơ thể hàn, cao hơn 80 gọi là cơ thể nhiệt. Khi nhịp tim cao đến 120 cơ thể bị sốt, trường hợp này giống tây y, nhưng theo đông y, bắt mạch để biết hàn hay nhiệt trong máu nguyên nhân do nồng độ máu cao hay thấp lại lệ thuộc vào lượng đường trong máu, nên theo môn Khí Công Trị Liệu gọi là ĐƯỜNG. Như vậy 3 số đo áp huyết của tây y là : Tâm thu/tâm trương/nhịp tim được đổi sang 3 yếu tố gây bệnh theo đông y là: Khí lực/lượnghuyết/đường Số thứ 1 : Báo cho biết có 2 loại bệnh : bệnh khí lực dư thừa, bệnh khí lực thiếu hụt. Số thứ 2 : Báo cho biết 2 loại bệnh : bệnh dư lượng máu, bệnh thiếu lượng máu Số thứ 3 : Báo cho biết 2 loại bệnh : bệnh dư đường, bệnh thiếu đường trong máu Người lớn tuổi lão niên, áp huyết tiêu chuẩn là : 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) Nhưng nếu thực tế có áp huyết như trẻ em 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60, theo công thức yếu tố gây bệnh Khí lực/lượng máu/đường , khi so sánh với áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, chúng ta kết luận nguyên nhân bệnh là Khí thiếu, huyết thiếu, đường thiếu làm cho các tế bào không được nuôi dưỡng đầy đủ làm giảm dần chức năng hoạt động của chúng để duy trì sự sống cho con người sẽ gây ra biến chứng của nhiều bệnh nan y khác nhau.. Thiếu Khí và Huyết thì tây y không có chuyên khoa về cách làm tăng khí oxy để duy trì công thức máu Fe2O3, mặc dù có tăng thuốc bổ máu là chất sắt Fe2, chỉ làm cho cơ thể thừa chất sắt mà vẫn thiếu máu, còn ăn uống những thức ăn bổ máu có làm tăng lượng máu chậm vì không có khí lực chuyển hóa thức ăn thành máu toàn phần để làm tăng khí lực, mà đa số chuyển hóa thành mỡ dự trữ, vì vậy có những người béo phì mà khí lực yếu
  • 11. 11 Về khí lực Thiếu khí trong Khí Công Trị Bệnh là tâm thu thấp không đủ lực bơm máu đi nuôi các tế bào trong cơ thể, thí dụ người lớn tuổi trung bình nặng 60kg, đơn giản hóa là 60 kí lô tế bào thì cần phải đủ khí lực từ 130-140, đủ máu qua tim từ 80-90, đủ nồng độ đường trong máu 70-80. Nếu người lớn 60 kg lô tế bào có áp huyết thấp như trẻ em 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) thì cả 3 yếu tố Khí lực/Máu/Đường chỉ đủ nuôi 1 cơ thể nặng 30 kí lô tế bào, còn 30 kí lô tế bào không có máu nuôi dưỡng sẽ suy yếu dần không còn khả năng hoạt động theo chức năng của mình, chúng sẽ trở thành tế bào ung thư tiềm ẩn rải rác trong cơ thể, là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh nan y tây y không tìm ra bệnh và uống thuốc không có hiệu qủa như mất ngủ, trầm cảm, đau nhức thần kinh gân cơ, Parkinson chân tay co giật mềm, ăn không tiêu, mắt mờ, migrain, mất trí nhớ, rụng tóc, hay buồn ngủ, hôn mê, ác mộng, bệnh trầm cảm, tâm thần, điên nói lảm nhảm Về Huyết Thiếu máu theo tây y là tỷ lệ bạch cầu hồng cầu được tìm thấy là hồng cầu giảm, mà không để ý đến lượng máu. Dù tỷ lệ bạch cầu hồng cầu đúng, thì dù 1 lít hay 4 lít cũng giống nhau, nhưng lượng máu 1 lít với 4 lít tuần hoàn nuôi tế bào đủ hay thiếu hoàn toàn khác nhau, vì 1 lít máu thì có thể tuần hoàn trong cơ thể trẻ em nặng 20 ki lô tế bào, 4 lít máu tuần hoàn mới nuôi đủ 1 cơ thể người lớn nặng 60 kí lô tế bào. Nên có điều nghịch lý khi thiếu máu xin bác sĩ cho mua B12 để chích thì bị từ chối khi xét nghiệm máu, kết luận không thiếu máu, đó cũng là 1 nguyên nhân làm tế bào suy yếu dần trong nhiều năm, gây biến chứng đau nhức rồi dẫn đến tế bào trở thành ung thư rải rác, và áp huyết thấp dần dưới 100mmHg, cho đến khi áp huyết xuống 80mmHg lúc đó các tế bào ung thư kết thành khối thì tây y mới thấy thực thể 1 khối u, mới xét nghiệm là khối u lành hay ác tính. Về đường Thiếu đường để nuôi cơ bắp, theo đông y, chất ngọt vào tỳ vị chuyển hóa thức ăn thành chất nuôi bắp thịt, thiếu đường làm teo mất dần bắp thịt, những bắp thịt của các lực sĩ cần rất nhiều lượng đường hơn người bình thường, nên những người cùng tuổi, cùng thể trọng, ăn cùng lượng đường giống nhau, nhưng một người làm việc nặng đổ mồ hôi làm lượng đường trong máu giảm nhanh khiến cơ thể thiếu đường làm mệt mỏi cơ bắp, còn người kia ăn xong chỉ nằm một chỗ không vận động thì lại bị bệnh dư đường trong máu. Như vậy lượng đường ăn trong ngày còn tùy theo sự vận động của cơ bắp. Khi chúng ta dư đường trong máu do không vận động thì tây y kết luận chúng ta bị bệnh tiểu đường phải dùng thuốc trị bệnh tiểu đường vừa làm hạ đường, vừa kiêng sợ ăn đường, nên đuờng trong cơ thể càng thiếu dần cho đến khi cơ bắp tay và chân teo dần, khi chúng ta nhận thấy cơ bắp bị teo dần thì chúng ta đã bị bệnh suy cơ tim từ lâu rồi, vì cơ co bóp tim, và thịt của qủa tim mạnh nhờ vào đường nó mới làm việc mạnh để bơm máu tuần hoàn, khi cơ co bóp tim giảm thì tuần hoàn máu chậm, làm nhịp tim càng chậm, máu không đi nuôi được gân cơ thần kinh làm đau nhức, không lên nuôi thần kinh thị giác làm mắt mù, không nuôi thần kinh trung ương và thần kinh não làm mất trí nhớ, không nuôi thần kinh giao cảm và hưng phấn làm liệt thần kinh vận động và sinh hoạt tình dục yếu...Tất cả những hậu qủa này do suy tim, suy tim do nguyên nhân thiếu đường do không ăn đường lại còn uống thuốc trị tiểu đường làm hạ đường thêm, ngược lại với người ăn đường nhiều mà vẫn không bị bệnh tiểu đường vì cơ bắp phải làm việc nhiều, số đường được tiêu thụ hết, nên tây y khuyên cần
  • 12. 12 phải tập thể dục nhưng không ai tập nổi vì cơ thể không có đủ đường phân phối cho những vận động này. Biến chứng của thiếu đường cũng làm giảm cơ co bóp của bao tử gây ra bệnh ăn không tiêu, trào ngược thực quản và sinh ra bệnh bướu cổ, các thần kinh gân cơ bị co rút sinh ra bệnh đau nhức, cơ bắp chân yếu đi không vững, mệt tim, hoa mắt, chóng mặt, chân tay tê lạnh....và cuối cùng đường-huyết tụt thấp nhiều dẫn đến hậu qủa các tế bào suy yếu, các mô tế bào lạnh chai dần cũng góp phần tạo nên bướu ung thư mà tây y gọi là bướu lành tính, thí dụ như trước khi bị ung thư bướu sọ não, bệnh nhân đã từng chữa trị bệnh đau nửa bên đầu do thiếu áp lực khí một bên, khi đo áp huyết 2 tay sẽ thấy chênh lệch nhau nhiều, nửa đầu bên đau có áp huyết thấp dưới tiêu chuẩn tuổi, nên máu không được bơm lên nửa bên đầu và vì thiếu đường, nửa bên đầu lạnh, đo bằng nhiệt kế so sánh hai bên, bên nửa đầu không đau, và bên nửa đầu đau có nhiệt độ thấp hơn hay nhiệt kế chỉ low không bắt được nhiệt độ, gân cổ co rút đau, và trong qúa trình trị liệu bệnh đau nửa đầu migrain, tây y chỉ cho thuốc giảm đau, chứ không chữa vào nguyên nhân, coi như bệnh đau nửa đầu dù 10 năm uống thuốc giảm đau cũng không khỏi, cuối cùng mô tế bào não bị lạnh kết khối thành hình, khi chụp thấy khối u, tây y mới gọi là bệnh ung thư sọ não thì qúa trễ. Muốn có bằng chứng cụ thể, thí dụ 10 năm trước bệnh nhân tuổi trung niên, tiêu chuẩn áp huyết 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi). Khi đau nửa đầu bên trái, đo áp bên trái thấp nhiều như 95/62mmHg nhịp tim 60, áp huyết bên tay phải 125/65mmHg nhịp tim 62, đường-huyết 5.0mmol/l. Nếu cứ dùng thuốc giảm đau trong 10 năm mà ngày tháng năm nào áp huyết bên tay trái không tăng lên, mà ăn kiêng đường, đường xuống thấp, thiếu chất bổ máu, khi phát hiện ra bệnh bướu sô não, đo áp huyết tay trái xuống thấp như 85/58mmHg nhịp tim 54, tay phải 110/62mmHg nhịp tim 55. Như vậy khi so sánh áp huyết trước khi bị ung thư và đang bị ung thư áp huyết 2 tay tụt thấp dưới tiêu chuẩn cả khí lực tâm thu, cả lượng máu tâm trương và cả đường-huyết xuống dưới 4.0mmol/l. KCYĐ đã có nhiều kinh nghiệm chữa những bệnh đau nửa đầu, chỉ cần điều chỉnh ăn uống thuốc bổ máu, tăng thêm đường, tập khí công để áp huyết của bệnh nhân tăng lên, lọt vào tiêu chuẩn, sẽ khỏi bệnh này không còn bệnh đau nửa bên đầu và không còn sợ bệnh ung thư sọ não nữa. Theo kinh nghiệm của Khí Công Trị Liệu, bệnh mù mắt không phải do tăng đường làm mù mắt, mà giảm đường quá thấp, đo đường trên mắt còn 3.5mmol/l trong khi đường đo ở ngón tay 4.5- 5.0mmol/l do uống thuốc tiểu đường giữ cho đường trong máu thấp nên nhịp tim tuần hoàn máu không đủ đem máu và đường lên nuôi mắt. Có những bệnh nhân tiêm insulin chữa bệnh tiểu đường, và thị lực kém dần, cuối cùng bác sĩ kết luận mù mắt, khi đến tôi chữa bệnh mắt, tôi cho bệnh nhân tự đo đường, bệnh nhân nói không nhìn thấy máy đo và cầm được que thử cắm vào máy. Tôi đo đường trên mắt 3.5mmol/l, ở ngón tay 4.5mmol/l, rồi cho uống 3 thìa đường cát vàng với 1 ly nước nóng ấm, châm nặn máu cũ trên mắt và đầu ngón tay, tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần, cào đầu, cào gáy, vuốt gáy, vuốt cổ, chà tai, xoa mặt, để thông khí huyết lên đầu mặt mắt, cúi ngửa 4 nhịp đưa máu dồn lền đầu, sau đó thử lại đường trên mắt thấy tăng từ 3.5 lên 5.mmol/l, tôi cho uống đường tiếp và tập tiếp những bài trên và thử đường lại cho lọt vào tiêu chuẩn đường trên mắt để mắt sáng phải nằm trong tiêu chuẩn KCYĐ từ 6.0-8.0mmol/l mặc dù khi no hay đói gan cũng phải điều chỉnh lượng đường vào mắt lọt vào tiêu chuẩn thì mắt sáng, cuối cùng day 6 huyệt mắt, tôi ví như thay 6 bóng đèn và một huyệt Não Không sau đầu ví như thay cục pile làm cho mắt sáng lên, và họ thấy mắt sáng nhìn rõ trở lại. Tôi dặn những bệnh nhân này muốn mắt sáng lúc nào cũng phải giữ mức đường trên mắt từ 6.0- 8.0mmol/l. Những năm sau gặp lại những bệnh nhân này họ lại có thể đi xe đạp một mình trên đường không còn bị mù nữa. Xem cách chữa trong video này : https://www.youtube.com/watch?v=4riqjgp7gT0 Xin xem thêm bài 5 công dụng của máy đo áp huyết : http://www.youtube.com/watch?v=92TXdDU1CvY
  • 13. 13 5 công dụng của máy đo áp huyết 1-Đo khám chức năng hoạt động của bao tử Khi đo bên tay trái như tây y thường đo tìm bệnh cao áp huyết, nhưng theo Khí Công Trị Liệu, áp huyết thay đổi khi bụng đói sẽ thấp. Khi ăn qúa no thì áp huyết tăng cao. Ngược lại khi bụng đói đo áp huyết cao, sau khi ăn no, đo áp huyết lại thấp, là chức năng bao tử không làm việc, thức ăn bị giữ trong bao tử mà không hấp thụ chuyển hóa, nên thức ăn lên men ợ chua, tăng acid làm loét bao tử, một thời gian lâu thì bao tử chai khi đo áp huyết trước và sau khi ăn giống nhau, có nghĩa thể tích trong bao tử không chuyển động, thí dụ trước khi ăn 150/90/95, sau khi ăn 150/92/100, có nghĩa là Khí lực không thông/lượng máu tăng/nồng độ máu tăng trong bao tử. Cũng nhờ công thức áp huyết này, chúng ta lý luận bệnh nhân tuổi lão niên, trước khi ăn và sau khi ăn có số đo áp huyết thí dụ như : Trước 105/60/55 và sau 105/65/60 là Khí lực không thay đổi là bao tử teo/ tăng lượng máu trong bao tử/ tăng nồng độ máu làm ợ hơi nghẹn tim ngực. 2-Đo khám chức năng hoạt dộng của gan Bên tay phải, tây y không đo bên tay phải, vì tuởng tay nào cũng giống nhau, chỉ đo tay phải khi tay trái không thể đo được. Cũng như trước và sau khi ăn phải thay đổi áp huyết để xem chức năng hoạt động của gan. Trước khi ăn, bụng đói thì áp huyết bên gan phải cao vì phải làm việc trước để kích thích dịch chất cho bao tử khiến cho mình cảm thấy đói đòi ăn, sau khi ăn thì áp huyết bao tử phải cao, áp huyết bên gan phải thấp là chức năng chuyển hóa đúng. 3-Khám chức năng hấp và chuyển hóa thức ăn bao nhiêu phần trăm Nếu sự chênh lệch áp huyết 10mmHg ở 2 tay thì sự hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu nhanh, giống như 1 thác nuớc mỗi phút nước đổ xuống thác 1000lít, dưới thác là một hệ thống gầu hứng nước quay theo trục vòng tròn để tạo ra lực quay biến thành công suất, nếu độ cao của thác càng cao thì lực quay càng mạnh tạo ra công suất sử dụng lớn, sẽ có sự chuyển hóa mạnh, số chênh lệch áp huyết giữa 2 tay cũng vậy, như Trước khi ăn tay trái 130/80/70 tay phải 140/90/80 Sau khi ăn tay trái 140/90/80 tay phải 130/80/70 Nhưng giống như độ cao của thác thấp chênh lệnh 1-2 mét thì sự chuyển hóa rất chậm, thì áp huyềt giữa gan và bao tử trước và sau khi ăn chệnh lệch ít thì lực co bóp chuyển hóa chậm cũng như vậy : Trước khi ăn tay trái 130/80/70, tay phải 132/78/73 Sau khi ăn tay trái 132/78/73, tay phải 130/80/70 4-Khám xem thức ăn thuốc uống có lợi hay hại với cơ thể Trên Internet hay ngành dinh dưỡng hướng dẫn những thức ăn bổ, thức ăn giảm dường, mỡ, hạ áp huyết, chống hay ngừa ung thư...đó là do phân tích của ngành dinh dưỡng, và những kinh nghiệm dân gian về những loại cây cỏ dược thảo chữa ngừa bệnh ung thư, có người khỏi, có người cũng bắt chước thì bệnh nặng thêm nên nghi ngờ sự chính xác đúng sai, đông tây y phản bác nhau nhưng chưa ai biết rõ như người trong cuộc, có người nhờ những thuốc mách bảo thì sống muốn đem phổ
  • 14. 14 biến làm phước, còn những người có thân nhân bạn bè chết vì nó thì chống đối, cho nên môn Khí Công Trị Liệu đề nghị các bệnh nhân nên tin vào máy móc tây y để kiểm chứng có số liệu rõ ràng không thể tranh cãi, và tùy theo sự hấp thụ chuyển hóa ở mỗi người khác nhau, mạnh hay yếu. Sự hấp thụ và chuyển hóa ấy cũng không ngoài công thức đo áp huyết để biết về tình trạng : Khí lực/Huyết/Đường Có nhiều người hỏi tôi : Thầy ơi, có người nói uống hỗn hợp nước ép :Củ Dền, Cà rốt, Táo có tốt không, uống nuớc ép ngũ qủa có tốt không, uống hạt CHIA tốt không, ăn bánh bao lên đường không. Uống Lá Đu Đủ, Nha Đam, Lá Xả, Fucodin khỏi bệnh ung thư không....Tôi trả lời : Phải hỏi máy đo áp huyết. Thí dụ trước khi thử món ăn thức uống hay bất kỳ loại thuốc nào, đều do áp huyết hai tay, ghi chú vào giấy để biết cái nào cần cho bệnh của mình theo tiêu chuẩn khí lực /huyết /đường xem có lọt vào tiêu chuẩn tuổi hay không. Với công thức áp huyết là : Khí lực/lượng huyết/Đường thí có loại làm tăng cả 3 số, như Phở, Bún Bò Huế, vừa tăng khí lực, tăng lượng máu, tăng đường. Có loại làm tăng khí, giảm khí, có loại tăng máu tăng khí, có loại giảm đường, tăng đuờng, nhưng để ý có loại chỉ tăng áp huyết bên gan, có loại chỉ tăng bên bao tử lại hại gan giảm, có loại tăng bên gan lại hại bên bao tử giảm... do nguyên nhân chất thuốc vị thuốc giống nhau nhưng sự hấp thụ và chuyển hoá ở gan, bao tử mỗi người khác nhau. 5-Khám xem tập khí công, thiền, môn phái nào bài nào hay cách chữa bệnh nào khỏi bệnh ung thư Tập khí công bài này bài kia của thầy này thầy kia có khỏi bệnh ung thư không, tôi trả lời : Cũng phải hỏi máy đo áp huyết, uống nước nhiều, nuớc ít cái nào lợi, cũng hỏi máy đo áp huyết. Cách chữa ung thư theo thuốc bắc, theo tây y hóa trị liệu, xạ trị liệu cách nào hay, sống lâu, không di căn, cũng phải hỏi máy đo áp huyết... Tất cả các môn khí công không thể nói bài nào hay bài nào dở, mà phải xem nó có phù hợp làm tăng áp huyết hay giảm áp huyết, làm thay đổi lượng máu lượng đường tốt hay xấu, cho nên muốn thử để biết thì cần đo áp huyết trước khi tập và sau khi tập, trước khi ăn và sau khi ăn b-Nồng độ máu Nhịp tim cao hay thấp tùy thuộc vào nồng độ máu Có nhiều phương pháp làm tăng nồng độ máu. Đông y xét qua 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần. Tinh : là do những thức ăn hay thuốc uống : Như ăn những thức ăn cay nóng, những thức ăn nướng, thuốc calcium, ăn nhiều thịt đỏ, uống nước Coke....làm tăng áp huyết và nhịp tim tăng cao. Tuy nhiên lạm dụng những thức ăn thuốc uống như trên, trong máu lại có nhiều cholesterol, máu đặc lại, tây y lại cho dùng thuốc trị cholesterol, và thuốc Aspirin làm loãng máu, Vit.C. hay các thức ăn chua, như chanh cam bưởi....làm loãng máu, hạ áp huyết làm hạ nồng độ máu. Khí : khi cơ thể làm việc nặng, vận động ra mồ hôi như thể dục thể thao cũng làm tăng nhịp tim, thân nhiệt cũng làm tăng nồng đô máu. Thần : Khi tinh thần căng thẳng, hồi hộp làm nhịp tim đập nhanh cũng làm tăng nồng độ máu. Tuy nhiên những điều kiện làm tăng nồng độ máu kể trên không ổn định, không quan trọng bằng lượng đường trong máu. Theo đông y về ngũ hành tạng phủ đối với những thực phẩm ăn uống hay
  • 15. 15 thuốc uống được phân loại theo Tính-Khí-Vị, mà thức ăn theo đông y có 5 vị khác nhau là : đắng, ngọt, cay, mặn, chua, và mỗi vị là chất dẫn thuốc hay chất bổ vào mỗi cơ quan khác nhau để bổ hay tả chức năng của cơ quan đó, bổ là làm cho cơ quan đó mạnh lên, còn tả làm cho cơ quan đó yếu đi, thí dụ như : Vị đắng vào tim để làm mạnh tim là cà phê, thức ăn nướng...do đó tây y công nhận mỗi ngày uống 1 ly cà phê để làm mạnh chức năng của tim, nó làm tăng nhịp tim và nồng độ máu, nhưng chỉ có lợi cho người bị suy tim. Ngược lại những người bị bệnh cao áp huyết, nồng độ máu cao nhịp tim nhanh thì chất đắng cà phê gây thêm bệnh, còn Mướp đắng, tim sen, trà xanh...làm giảm nhịp tim và nồng độ máu. Vị ngọt vào tỳ (lá lách) để làm mạnh chức năng lá lách là đường thiên nhiên gọi chung là glucose, lactose, fructose, mật ong... Làm giảm chức năng lá lách là những loại đường hóa học, theo tây y, dùng đường hóa học có nguy cơ biến chứng thành tiểu đường loại 2. Muốn biết loại đường nào làm tăng hay giảm chức năng của lá lách trên thực tế dùng máy thử đường trong máu và máy đo áp huyết. Phối hợp 2 kết qủa trước và sau khi áp dụng loại đường mình chọn, thấy sự khác biệt có lợi hay hại cho sức khỏe. Vị cay vào phổi để làm mạnh chức năng phổi thông tà khí hàn lạnh trong phổi thoát ra lỗ chân lông bằng đường mổ hôi. Khi phổi bị nóng nhiệt ăn thêm chất cay lại hại phổi. Vị mặn vào thận để giữ nước điều hòa thân nhiệt, dư mặn thì ứ nuớc sinh phù nề, thiếu nuớc thì không điều hòa chức năng tim và nồng độ đường trong máu, uống ít nước thì đường trong máu tăng, sau này tây y mới tìm ra type tiểu đường loại 3. Vị chua vào gan để làm điều hòa chức năng gan tiết mật, điều chỉnh co giãn gân cơ, thần kinh, ống mạch dẫn máu. Dư chất chua thì chùng giãn gân và làm mất lượng máu, hồng cầu, còn thiếu chất chua thì thẩn kinh gân cơ co rút sinh đau nhức do dẫn máu tuần hoàn không đều. Trong máu có vị mặn và ngọt, vị mặn để giữ nước cho tế bào, vị ngọt trong máu nuôi các bắp thịt, phối hợp với chất chua trong gan điều hòa các ống dẫn máu, các mao mạch dẫn máu và bơm máu đi đều khắp nơi khắp chỗ với tốc độ đều trên các đường kinh ra đến đầu ngón tay chân, khoa học đã chế ra loại máy đo được chỉ số bơm máu (perfusion Index) ở đầu các ngón tay, chân là đầu và cuối 12 đường kinh tay chân, đó là máy khám tìm bệnh Masimo IspO2, do đó trong máu thiếu nồng độ đường thì chỉ số bơm máu bị giảm, là nguyên nhân tuần hoàn máu không thông sinh ra nhiều bệnh đau nhức mà tây y không tìm ra nguyên nhân để chữa tận gốc được. Sự khám phá ra công dụng của máy đo áp huyết và máy đo đường để tìm ra nguyên nhân bệnh theo công thức của đông y là Khí lực/ huyết/đường phù họp với 3 con số của máy đo áp huyết là số tâm thu/tâm trương/nhịp mạch, chúng ta đã thấy có 26 trường hợp số do áp huyết khác nhau là 26 trường hợp bệnh chứng khác nhau như những thí dụ dẫn chứng đơn giản dưới đây : Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn ở tuổi lão niên, khỏe mạnh không bệnh : 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) Áp huyết trong tình trạng bệnh của người ở tuổi lão niên, có 26 trường hợp bệnh nặng nhẹ khác nhau so với tiêu chuẩn người khỏe không bệnh như tính theo công thức Khí lực/lượng huyết/Đường -Trường hợp 1 : Khí lực thiếu/huyết đủ/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/80 mạch 75
  • 16. 16 -Trường hợp 2 : Khí lực dư/huyết đủ/đường đủ : Thí dụ 170mmHg/80 mạch 75 -Trường hợp 3 : Khí lực đủ/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 133mmHg/60 mạch 70 -Trường hợp 4 : Khí lực đủ/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 72 -Trường hợp 5 : Khí lực đủ/huyết đủ/ đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/85 mạch 60 Trường hợp này đối với người không vận động, mạch 60 là tay lạnh, nhưng các lực sĩ đều có nhịp tim thấp 60 nhưng bàn tay vẫn ấm nóng, họ ăn rất nhiều đường nhưng vận động tiêu thụ hết đường, nên mạch báo thiếu đường là bình thường không phải là bệnh. -Trường hợp 6 : Khí lực đủ/huyết đủ/ đường dư : Thí dụ 140mmHg/88 mạch 90 cơ thể nóng -Trường hợp 7 : Khí lực thiếu/ huyết đủ/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/75 mạch 60 -Trường hợp 8 : Khí lực thiếu/huyết đủ/đường dư : Thí dụ 105mmHg/75 mạch 95 bàn tay nóng ấm, ngược lại trong người nóng bàn tay lạnh là áp huyết mạch nhiệt giả hàn. -Trường hợp 9 : Khí lực dư/huyết đủ/ đường thiếu : Thí dụ 155mmHg/80 mạch 65 -Trường hợp 10 : Khí lực dư/huyết đủ/ đưởng dư : Thí dụ 150mmHg/80 mạch 95 -Trường hợp 11 : Khí lực đủ/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/65 mạch 60 -Trường hợp 12 : Khí lực đủ//huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 135mmHg/65 mạch 90 -Trường hợp 13 : Khí lực đủ/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 65 -Trường hợp 14 : Khí lực đủ/huyết dư/đường dư : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 100 -Trường hợp 15 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 75 -Trường hợp 16 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 155mmHg/65 mạch 80 hẹp van tim do lượng máu qua tim thiếu do cholesterol làm hẹp van tim.. -Trường hợp 17 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 80 -Trường hợp 18 : Khí lực dư/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 160mmHg/ 100 mạch 80 -Trường hợp 19 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 55 -Trường hợp 20 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 150mmHg/65 mạch 65 -Trường hợp 21 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 90 -Trường hợp 22 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 160mmHg/65 mạch 90 -Trường hợp 23 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 65 -Trường hợp 24 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường dư : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 95 -Trường hợp 25 : Khí lực dư/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 160mmHg/100 mạch 65, dư máu lượng máu qua tim làm hở van tim, người hay bị mệt tim khi vận động, vì vận động làm đường thấp thêm. -Trường hợp 26 : Khí lực dư/huyết dư/đường dư : Thí dụ 160mmHg/ 100 mạch 100 c-Tiêu chuẩn đường huyết theo Hiệp Hội Tiểu Đường Canada Xin xem link này : https://bestdays.onetouch.ca/monitoring ... ur-numbers Đường khi bụng đói từ 4.0-7.0mmol/l trước khi ăn. Sau khi ăn được 2 tiếng, đường từ 5.0-10mmol/l Riêng môn Khí Công Trị Liệu, đo ngay sau khi ăn từ 6.0-12mmol/l sau 4-5 giờ cơ thể trở lại bụng đói như trước khi ăn, theo tiêu chuẩn của hãng dược phẩm Contour mới nhất từ 5.8-8.1mmol/l Tuy nhiên, có những người ăn rất nhiều chất ngọt, không bao giờ thử đường, nhưng khi tôi thử cho họ thì đường khi bụng đói là 5.8mmol/l, tôi cho uống thử 1 thìa nhỏ đường, đo đường lên 6.8mol/l, không có nghĩa là 1 thìa nhỏ đường làm đường lên 1mmol/l, sau 15 phút tập khí công bài Cúi Lạy, để ép đùi vào 2 bên hông sườn kích thích co bóp gan và lá lách chuyển hóa đường và đo lại đường xuống còn 4.4mmol/l. Cũng một bệnh nhân khác đo đường là 3.4mmol/l, do thiếu đường không thể tập được khí công sẽ
  • 17. 17 làm đường tụt thấp thêm có nguy cơ bị té ngã hôn mê, cần phải uống 1 thìa đường rối mới tập khí công được, đo lại đường lên 7.0mmol/l, sau khi tập 15 phút, đo đường xuống 4.5mmol/l Người khác trước khi tập đo đường được 7.7mmol/l sau khi tập khí công 15 phút, đo đường xuống 5.0mmol/l. Người khác trước khi tập đo đường 6.5mmol/l, sau khi tập 15 phút đo lại, đường lên 8.0mmol/l Những khác biệt ấy đều do tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn chậm hay nhanh, nhiều hay ít lệ thuộc vào khí lực nhiều hay ít, khí lực muốn có nhiều hay ít phải tập khí công làm tăng hay giảm khí lực tùy theo bệnh. Khí Công Trị Liệu dựa vào kết qủa của công thức áp huyết theo tuổi, mà có bài làm tăng khí, giảm khí, giảm máu, (không tăng máu được nếu không ăn những thứ bổ máu hay B12), giảm đường, (không tăng đường được nếu không ăn thêm ngọt). ------------------------------------------ Phần II: Nguyên Nhân Và Cách Chữa Ung Thư I-Đề phòng bệnh ung thư Môn Khí Công Y Đạo nhờ máy đo áp huyết và máy đo đường cho ra kết qủa tỷ lệ giữa Khí lực/huyết/đường, nên đã có nhiều kinh nghiệm tìm ra được những bệnh biết trước bệnh nhân sẽ chết trong 2 trường hợp do Khí lực/ huyết/ đường qúa cao, qúa dư thừa, hay qúa thấp qúa thiếu : -Khí lực dư / huyết dư / đường dư, qúa cao, qúa dư thừa, từ 200mmHg/140 mạch 140 chết bất tử bất cứ lúc nào. -Khí lực thiếu/ huyết thiếu / đường thiếu, qúa thấp, qúa thiếu của nhửng bệnh nhân ung thư dưới 70mmHg/50 mạch 50, do đau đớn khó thỏ, tim đập chậm thoi thóp rồi chết hay uống thuốc an thần giảm đau rồi chết trong giấc ngủ., Áp huyết của những bệnh nhân đang bị ung thư có 2 trường hợp : Áp huyết giả đánh lừa bác sĩ : 130mmHg/60 mạch 130 là mạch nhiệt, trong người nóng khô đỏ cổ họng, nhưng tay chân lạnh, sợ lạnh, sợ nước, phải mặc áo ấm, vì cơ thể thiếu máu trầm trọng, mạch phải chạy thật nhanh bơm máu nuôi cơ thể để duy trì sự sống, nhưng vẫn không đủ máu chạy ra đầu tay chân, nên phải đổi ra áp huyết thật như người khỏe bình thường với mạch tiêu chuẩn là 80, chúng ta sẽ thấy, vì thiếu máu nhịp tim đã phải đập nhanh hơn 50 nhịp (130 trừ 80= 50) Lấy số khí lực 130 trừ 50, áp huyết thật sẽ là 80mmHg/60 mạch 80 là bệnh ung thư cấp tính. Áp huyết của những bệnh ung thư tiềm ẩn mãn tính, người vẫn khỏe đi làm bình thường, nhưng cơ thể suy nhược dần, hoa mắt, đau đầu 1 bên hoặc 2 bên, chóng mặt, mất trí nhớ, rụng tóc, chân tay lạnh, đang có số đo áp huyết dưới 80mmHg/60 mạch 50, tự nhiên chân tay yếu té ngã hôn mê, không va chạm tổn thương bộ đầu, vào bệnh viện cấp cứu, bác sĩ mới báo tin là ung thư sọ não. Cũng với áp huyết này, ăn chậm tiêu, chán ăn, bụng đầy, ợ chua đắng, bao tử teo dần, ăn vào ói ra, bác sĩ sẽ tìm ra bệnh ung thư bao tử. Nếu thường đau bên sườn trái bác sĩ sẽ tìm ra ung thư lá lách, khi có dấu hiệu ăn vào là đi cầu tiêu chảy nhiều lần trong ngày, mất sức nhanh vì mất máu mất nuớc, mất nhiệt lượng. Nếu đau sườn phải, ấn vào cứng đau, hay ợ chua đắng, không muốn ăn, vàng da, mặt xanh...bác sĩ
  • 18. 18 sẽ tìm ra bệnh ung thư gan. II-Cách chữa bệnh ung thư theo Khí Công Trị Liệu (Oxy liệu pháp) Cách chữa theo tây y, bất cứ cách chữa nào làm cho tỷ lệ Khí lực/huyết/ đường phục hồi làm tăng lên đến tiêu chuẩn là khỏi bệnh cho tuổi trung niên là : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) và cho tuổi lão niên là : 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) Tuy nhiên khi tây y chữa áp huyết lên 100mmHg thì những tế bào ung thư không còn tìm thấy, nên tuyên bố khỏi bệnh ung thư. Theo Khí Công Y Đạo vẫn còn đang bệnh, sẽ bị di căn tái phát khi áp huyết lại tụt thấp xuống dưới 90mmHg. Những người có áp huyết ở mức dưới 90mmHg là dấu hiện tiền ung thư, đã có nhiều tế bào thiếu máu nuôi dưỡng bị bỏ đói lâu ngày trở thành tế bào ung thư, nhưng chưa hội đủ điều kiện kết tụ thành khối, vì nhờ cơ thể còn vận động, nằm 1 chỗ không vận động thì khối u phát triển nhanh hơn. Trong 26 trường hợp bệnh do kết qủa máy đo áp huyết tìm ra, tây y chỉ chữa vào nhửng trường hợp Khí lực dư thừa là cao áp huyết, còn số thứ hai về huyết dư thừa, khi tâm trương cao, mà tim nhói đau, tây y tìm thấy sự nghẽn máu động mạch hay tĩnh mạch vành, màng bao tim, thì mổ làm stent cắt bỏ thay vào ống mạch lấy ở đùi hay ống mạch nhân tạo, là cách chữa ngọn và ngăn ngừa bằng loại thuốc chữa cholesterol, thuốc loãng máu Aspirin, thuốc giãn mạch, hạ áp huyết, lợi tiểu, táo bón, ức chế thần kinh giao cảm....chứ không chữa vào gốc bệnh. Những trường hợp bệnh do thiếu khí, thiếu huyết, thiếu đường gây ra nhiều biến chứng không chữa tận gốc được chỉ dùng thuốc giảm đau, hay mổ xẻ. Còn phương pháp Khí Công Trị Liệu chữa rất đơn giản, chỉ làm cân bằng tỷ lệ 3 số của máy áp huyết : Khí lực dư thì tập khí công làm bớt khí. Khí lực thiếu tập bài khí công làm tăng khí. Huyết dư thì bớt ăn những thứ bổ máu, những chất béo, khó tiêu, nên ăn nhiều chất chua, Vit. C làm giảm lượng máu. Huyết thiếu thì ăn uống những chất bổ máu, kiêng ăn chất chua sẽ phá mất máu, tiêm hay uống B12, vitamines tổng hợp, B-Complex. Theo kinh nghiệm Khí Công Y Đạo, ăn 10 trái nhãn bằng 1 múi sầu riêng, bằng 1 trái hồng, áp huyết sẽ tăng 10mmHg. Đó là lý do tại sao một người bị bệnh cao áp, uống thuốc trị áp huyết mỗi ngày, cứ tin rằng đã uống thuốc kiểm soát được áp huyết xuống dưới 140mmHg, nhưng khi ăn nhãn, sầu riêng, hồng, áp huyết lên cao hơn 170mmHg trở lên mà không biết, thấy sầu riêng ngon ăn thêm vài múi áp huyết lên trên 200mmHg đang ăn đầu gục xuống bàn chết không cứu kịp. Để điều chỉnh áp huyết cho người tiền ung thư dưới 90mmHg, hay người đang bị ung thư dưới 80mmHg, tùy theo tỷ lệ bệnh do khí lực, hay do huyết, hay do đường. Do khí lực cần tập bài khí công tăng khí lực tăng oxy duy trì công thức máu Fe2O3, oxy nhiều sẽ khống chế tế bào ung thư không phát triển, không bị mất lượng máu. Nếu bệnh viện có tiếp máu cho bệnh nhân, 1 tuần sau lại thấy mất máu, chúng ta cứ tưởng bệnh ung thư có 1 loại virus gì khủng khiếp đáng sợ như ác quỷ ma cà rồng hút mất máu, thật ra tiếp máu làm tăng đơn vị lượng
  • 19. 19 máu có công thức máu Fe2O3, thành nhiều đơn vị Fe2O3, Fe2O3, Fe2O3....nhưng không biết cách tập tăng oxy như phương pháp oxy liệu pháp gọi là khoa Khí Công Trị Liệu thì thiếu oxy làm phá vỡ công thức máu trở thành nhiều đơn vị sắt : Fe2+, Fe2+, Fe2+, Fe2+,..., vì lý do này mà bệnh ung thư tây y không cho uống thuốc hay chích thuốc bổ máu B12 mà không tập khí công nó sẽ háo oxy, làm cơ thể mất oxy thì tế bào ung thư không còn bị oxy kềm chế lại có cơ hội phát triển to hơn. Nếu thiếu nồng độ đường thì ăn thêm đường và tập khí công để chuyển hóa đường. Nhưng theo tây y. Bệnh ung thư cũng cấm không ăn đường, vì công thức đường glucose là C6H12O6, ăn đường mà không tập khí công chuyển hóa đường thì lại bị mất oxy, chỉ còn lại C6H12 là một chất Hexene có nguy cơ kết dính khối u, chất hexene là nguyên liệu để làm thành nylon. Như kết qủa cấu tạo thành phần hóa học, thì ung thư phát triển được do cơ thể không có khí Oxy duy trì công thức máu và công thức đường, nếu không biết cách tập khí công, vì tây y không có môn này, nhưng công nhận chữa ung thư phải tìm ra cách chữa bằng oxy liệu pháp, mới khống chế tế bào ung thư không phát triển và oxy dư thừa sẽ tự tiêu diệt tế bào ung thư. Vì thế môn học Oxy liệu pháp hay Khí Công Trị Liệu này ra đời (Qigongtherapy) để bổ sung cho những thiếu sót của đông y lẫn tây y, đưa tây y tiếp cận lý thuyết đông y. Đưa kiến thức đông y ra ánh sáng bằng những máy móc tây y, có dẫn chứng xét nghiệm thử nghiệm thực tế bằng những thống kê kết qủa theo tây y. Những bệnh nhân có dấu hiệu tiền ung thư và những bệnh nhân đang bị ung thư của tôi đã theo Khí Công Trị Liệu được tây y xác nhận khỏi bệnh, trong khi đó những bệnh nhân ung thư khác là những bạn đồng bệnh của họ tiếp tục trị liệu theo tây y đến nay đã sang thế giới khác. Mới đây có 1 nữ bệnh nhân ung thư vú từ năm 2002, bác sĩ cho biết còn sống 6 tháng. Nếu bệnh nhân có tinh thần tiêu cực nằm 1 chỗ không ăn uống vận động, áp huyết tụt xuống dần cộng thêm tinh thần lo sợ, thì cái chết đếm sớm hơn. Bệnh nhân theo lời khuyên của tôi, không cần chữa, mà phải có đời sống hoạt động tích cực, thiếu máu thì bổ máu, thiếu đuờng bổ đường, thiếu khí lực phải tập khí công, ăn không được phải dùng Vitamines, nên bà ta vẫn khỏe, đi làm bình thường cho đến nay (2015). Cách đây 4 tháng bà thử đi tái khám, bác sĩ nói tốt và hỏi tại sao cơ thể lại khỏe mạnh, bà khai là uống B12, ăn đường. Bác sĩ cấm và nói những thứ này làm tăng khối u bệnh ung thư sẽ tái phát nặng hơn, bà sợ nên ngưng, 1 tháng sau bà mệt yếu, xuống cân, tóc xơ xác, mặt hốc hác, thở gấp suyễn, không thở được như người đứt hơi, bà đến gặp tôi trong tình trạng này, nhờ tôi cứu bà. Tôi hỏi bà có uống B12 và đường không, áp huyết của bà bây giờ là 76mmHg/60 mạch 60 là Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường thiếu. Bà nói bác sĩ nói tôi chỉ còn sống 3 tuần vì ung thư đã di căn toàn thân hết chữa được rồi. Tôi bảo nếu bà muốn sống thì trong 3 tuần này phải tích cực tập thở, tập khí công, uống B12, thêm trà gừng mật ong sau mỗi bữa ăn, bà đến tôi kiểm soát áp huyết mỗi tuần cải thiện dần áp huyết lên trên 100mmHg/70 mạch 68, bà đã qua khỏi ngưỡng cửa của tử thần, và bà tái khám, không nói với bác sĩ là uống B12 và ăn ngọt chỉ nói tập khí công, bà đến tôi mặt vui vẻ hơi hồng hào, tăng cân hơn, bà báo tin mừng bác sĩ cho biết hết tìm thấy di căn của bệnh ung thư rồi. Nhiều người không tin ung thư do thiếu máu và đường, nên cơ thể đau đớn do khí huyết không đủ tuần hoàn nuôi các tế bào, lại nằm một chỗ, không ăn uống được, cứ chờ đến ngày hóa trị liệu hay xạ trị liệu làm mất máu mất khí suy nhược thêm, chỉ uống thuốc morphine giảm đau đớn đâu phải là cách chữa phục hồi khí lực/ phục hồi lượng máu cho cơ thể hoạt động để tái tạo lại chức năng hoạt
  • 20. 20 động của tế bào, rồi lại nghe uống nha đam, lá đu đủ, lá sả...hay thuốc nam thuốc bắc chuyên trị ung thư mà không biết thuốc đó có làm tăng công thức khí lực/huyết/đường lên để khỏi bệnh hay không hay nó lại làm giảm xuống thêm cho đến khi lìa đời. Trên đây là nói chung về công thức áp huyết đổi sang công thức Khí Công Trị Liệu là: Khí lực/ huyết/đường để khám tìm thấy ngay nguyên nhân bệnh nan y và ung thư trước khi tây y tìm ra những bệnh này. Còn cách tìm bệnh ở cơ quan tạng phủ nào bệnh, có nguy cơ ung thư trước nhất, chúng ta sẽ tìm hiểu về máy khám bệnh Masimo IspO2 ở bài viết về kinh nghiệm sử dụng máy này để khám tìm bệnh ung thư ở tạng phủ nào. III-Cách chữa ung thư của tây y A-Nguyên nhân tế bào bị ung thư Như một gia đình, các thành viên trong gia đình là những tế bào và tạng phủ, người nào có nhiệm vụ của người ấy, ăn cơm chung cùng mâm. Đường-huyết và máu cần thiết nuôi tế bào, cho ta năng lượng làm việc theo chưc năng, nếu trong gia đình 10 thành viên, có một người bị thiếu máu thiếu đường mà bị bệnh ung thư như những trường hợp nêu trên, cách chữa theo tây y là bỏ đói tất cả, không cung cấp chất bổ đường bổ máu cho 10 người này, thì không những 1 người đã bị ung thư, mà 9 người còn lại cũng bị bỏ đói không cung cấp máu và đường thì 9 người còn lại cũng chung số phận chết theo . Số tâm trương chỉ về kết qủa của thức ăn tạo ra máu hay làm mất máu, nếu tăng lên là thức ăn tạo máu tạo mỡ, nếu giảm là thức ăn có chất chua làm mất máu tiêu mỡ. Nếu số thứ hai tâm trương là huyết lực thấp hay cao hơn tiêu chuẩn là đã ăn uống sai, tâm trương thấp thì thiếu máu không nuôi đủ các tế bào trong cơ thể, tế bào bị bỏ đói trở thành tế bào ung thư, đó là nguyên nhân. Trong khi tây y chẩn đoán ngược lại xét hậu qủa nói là tế bào ung thư nếu bổ máu thì tế bào ung thư phát triển là sai lầm. Thí dụ : dân cả 1 làng thiếu gạo bị bỏ đói, tất cả mọi người đều bị đói, nhưng người nào đói nhiều thì người đó bệnh nặng hơn, tạm gọi là bệnh ung thư, đó là nguyên nhân. Bây giờ mọi người được tiếp tế gạo, theo lý thuyết thì người bị bỏ đói nhiều nhất thì cần lấy gạo nhiều nhất, đó là lý thuyết, chứ thực ra tế bào ung thư gặp được máu thì mới khỏe để phục hồi sự sống. Quan sát thực tế, khi gạo cứu trợ đến làng thì ngưới còn khỏe mới còn sức đi nhận gạo, còn người bệnh chỉ nằm một chỗ đâu còn sức mà nhận gạo, rồi những người náy mới có sức chuyển gạo đến giúp cho những người yếu bệnh. Cũng như thế, cơ thể được bổ sung máu kịp thời nên tế bào chưa bệnh được máu phục hồi sức khỏe nhanh, còn tế bào ung thư dần dần được máu đến tận chỗ mới phục hồi được, làm sao nó khỏe hơn tế bào lành để đánh tế bào lành thành tế bào bệnh được. Tế bào ung thư tây y xác nhận không có vi trùng thì làm sao lây lan, giống như người bị đói sắp chết làm sao lây cái đói cho người khác, mà thật ra nhửng người khác cũng đang bị đói do thiếu gạo cũng sắp chết, chứ không phải tế bào ung thư làm tế bào lành bị ung thư, như vậy theo đông y những bệnh ung thư theo tây y chỉ là các tế bào bị thiếu máu, thiếu khí, thiếu đường là nguyên nhân chứ không phải là hậu qủa. Ngược lại, theo đông y cũng có bệnh gọi là ung thư được định nghĩa là ung nhọt có mủ phát sinh không phải ở ngoài da để chữa được dễ dàng mà phát sinh trong cơ thể, mới gọi là thư, nên loại ung thư này là loại ác tính, thuộc cấp tính làm con người chết dễ dàng cả đông lẫn tây y không kịp chữa, phải cắt bỏ ngay. Khi thử một loại thuốc trước và sau khi uống cũng làm tăng giảm số tâm trương làm thay đổi Tinh, nếu đúng, lọt vào tiêu chuẩn thì thuốc đó hợp với mình, còn lọt ra ngoài tiêu chuẩn cao hơn hay thấp hơn thì thuốc đó không hợp đã làm hại sức khỏe của mình, đó là chữa gốc bệnh, tây y
  • 21. 21 không để ý điều này là thuốc cũng làm thay đổi áp huyết tốt hơn hay xấu hơn. Chúng ta chỉ sợ ăn uống những thức ăn sai, hay thuốc uống sai làm lọt ra ngoài tiêu chuẩn số tâm trương về Tinh. Chúng ta không sợ về Khí lực là số tâm thu, vì chúng ta có những bài tập khí công làm tăng hay giảm khí lực rất dễ, làm thay đổi kết qủa nhanh. Còn muốn làm thay đổi kết qủa Huyết lực cần phải thời gian dài điều chỉnh lại cách ăn uống đúng., vì huyết lực thuộc âm đến từ thức ăn, trong thức ăn cũng có khí của thức ăn cũng là âm, nhờ tập khí công là khí lực dương, giúp khí âm chuyển ra huyết mới bền vững. Chúng ta cũng không sợ bệnh tiểu đường, Chúng ta có thể làm tăng đường bằng Pepsi hay Coca, chúng ta có thể làm hạ đường nhanh bằng bài tập "Đi Cầu Thang" có kết qủa nhanh nhất. Như vậy chữa ung thư gọi là di căn và bỏ đói tế bào là không đúng, chưa kể nguyên nhân khác của ung thư là thiếu oxy là khí lực tâm thu, thiếu lượng máu là số tâm trương, và nhịp tim cao hay thấp do đường chuyển hóa nghịch, còn do yếu tố cơ học mà đông y thường nói : “Thông thì bất thống, thống thì bất thông“, có nghĩa là những ống dẫn máu đỏ trong động mạch thông qua hệ thống mao mạch là những tia máu nhỏ li ti nhận máu từ động mạch đem vào các mô của tạng phủ trao đổi máu mới cho tế bào, và đem máu đen đi ra theo mao mạch của tĩnh mạch đi theo ống tĩnh mạch lớn về tim, thì chính hệ thống mao mạch bị tắc không thông do 3 yếu tố chính sau đây : a-Khí lực bơm máu tùy thuộc số tâm thu mạnh hay yếu, có nghĩa là đúng tiêu chuẩn áp huyết, hay lọt ra ngoài tiêu chuẩn làm áp huyết thấp dần :Nếu khí lực thiếu thì sức bơm máu yếu không trao đổi oxy đủ cho các tế bào b-Luợng máu đủ hay thiếu hay dư : Nếu lượng máu thiếu không nuôi đủ hàng tỷ tế bào, còn dư thừa làm ứ huyết nghẽn mạch sinh ra bướu máu c-Tốc độ chảy của máu do nhịp tim nhanh hay chậm: Tốc độ dòng chảy của máu (viscosité) lệ thuộc vào đường huyết làm cơ tim co bóp bơm máu đều, làm giãn nỡ hệ thống ống máu và làm tăng nồng độ máu, và làm giãn nở mao mạch. Ung thư sớm nhất mà tây y chưa thấy, chính là thiếu đường-huyết làm co rút gân cơ, hệ thống mao mạch và thần kinh bên ngoài tạng phủ là những gân cơ vận động co bóp tạng phủ như co bóp cơ tim, co bóp cơ phổi, co bóp bao tử, co bóp gan, co bóp ruột....ngoài chức năng co bóp này chính là trao đổi máu đỏ và màu đen của các mao mạch để trao đổi máu cho các tế bào tạng phủ, nếu không có đủ đường, các cơ co bóp yếu, và các mao mạch teo, nên khi máu đỏ trong ống động mạch đến một tạng phủ nào, bị ứ nghẽn đọng lại không thông qua được mao mạch đã bị teo thì các tế bào bên trong không được nuôi dưỡng sẽ chết dần, còn máu đỏ ứ đọng lại bên ngoài mao mạch chỉ đì một chiều nên khi làm scan chúng ta sẽ thấy 1 khối máu ứ tụ ở tạng phủ phải cắt mổ, còn phía mao mạch bên tĩnh mạch không được đẩy về tim thì chúng ta làm scan cũng thấy những đoạn ống tĩnh mạch bị phình ứ những máu chết mọc thành rễ lúc đó trở thành ung thư ác tính.. Trong những trường hợp này tây y chữa ung thư là cắt, mổ, rồi hóa xạ trị lại làm đứt chết mao mạch gây tắc sự lưu thông khí huyết, giống như cắt bỏ cây cầu nối qua sông giữa 2 tỉnh, 2 quận, từ đó vấn đề giao thông bế tắc khiến đời sống sinh hoạt nơi hai bên cầu khó khăn. B-Tây y nghiên cứu thuốc chữa ung thư như thế nào ? Nói về nghiên cứu thuốc chữa ung thư theo tây y thì hoàn toàn xa rời thực tế, mà đông y đã biết nguyên nhân ung thư giải thích theo máy đo áp huyết và đường-huyết : 1-Máu không chạy : Đông y gọi là Thấp là ứ đọng, do 2 nguyên nhân là Huyết thấp nhiệt do đường cao và huyết thấp hàn do đường-huyết thấp hơn tiêu chuẩn 2-Khí lực tâm thu yếu không đủ sức đẩy máu, hay khí lực mạnh nhưng đường huyết thấp hàn nên máu ứ dồn vào một chỗ. Như vậy ung thư mỗi tạng phủ đều có nhiều tên bệnh ung thư như : Phổi thì có ung thư theo tên gọi đông y như loại Phế hư thấp nhiệt, phế hư thấp hàn, phế thực thấp nhiêt, phế thực thấp hàn. Có nghĩa là phế hư thì tâm thu thấp hơn tiêu chuẩn, thấp-nhiệt hay thấp- hàn là do máu số tâm trương qúa cao hoặc thấp, nhiệt là đường-huyết cao, hàn là đường-huyết thấp, như 100/50mmHg nhịp tim 50 (hư thấp hàn), 90-100/50-55mmHg nhịp tim 100 (hư thấp nhiệt), 90-
  • 22. 22 100/90mmHg nhịp tim 50 (thực thấp hàn), 90-100/95mmHg nhịp tim 100 (thực thấp nhiệt) Gan thì có ung thư loại gan huyết hư hàn, gan huyết hư nhiệt, gan huyết thực hàn, gan huyết thực nhiệt. Như 90/55mmHg nhịp tim 55 (huyết hư hàn), 90/55mmHg nhịp tim 100 (huyết hư nhiệt), 90- 100/100mmHg nhịp tim 55 (hư thấp thực hàn), 90-100/50-60mmHg nhịp tim 120 (hư thấp thực nhiệt) Bao tử có ung thư loại Vị hư thấp nhiệt, vị hư thấp hàn, vị thấp thực nhiệt, vị thấp thực hàn, vị khí hư hàn, vị khí hư nhiệt. Như 90/60mmHg nhịp tim 60 (khí huyết hư thấp hàn), 90/60mmHg nhịp tim 100 (khí huyết hư thấp nhiệt), 105/95mmHg nhịp tim 60 (thấp thực hàn), 100/95mmHg nhịp tim 100 (thấp thực nhiệt)... Đường ruột có ung thư loại đại trường hư thấp hàn, đại trường hư thấp nhiệt, đại trường thấp thực nhiệt, đại trường thấp thực hàn. Thận hay bàng quang cũng có ung thư 4 loại như thế. Tây y đợi bệnh nhân bị ung thư rồi, là nguyên nhân thấy trước hết trong một thời gian dài, nhìn vào áp huyết với đường đều cho là tốt, bình thường thì bệnh nhân thực ra đã ở giai đoạn ung thư sắp thành hình, ăn không tiêu, đau nhức là do chức năng doanh phần không đủ mạnh. Chức năng Doanh Phần http://khicongydaododucngoc.blogspot.ca/2015/04/chuc-nang-doanh-phan-la-fonction.html Khi ung thư đã thành hình thì tây y cắt mẫu tế bào ung thư đi thử nghiệm với các loại thuốc đã nghiên cứu tìm được, tuởng là ung thư chỉ có 1 loại, thực ra ít nhất là 4 loại căn bản khác nhau, cho các tạng phủ khác nhau, khi tìm ra một loại thuốc bỏ vào mẫu tế bào ung thư thấy có kết qủa làm cho tất cả các tế baò ung thư ngưng phát triển hay chết gọn hay phát triển thành tế bào lành khỏe mạnh bình thường, thì cũng giống như một loại thuốc chữa được 1 bệnh như H1N1, còn H2N2, H3N3, hay H1N2....cho các loại ung thư khác....Tuy nhiên nếu tìm được 1 loại trên lý thuyết thật đúng, nhưng khi thực tế trong điều trị có hai cách : Cách tiêm trực tiếp thuốc vào khối u làm khối u chết hay teo như từng làm thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, thì không làm được vào cơ thể, còn cách thứ hai là uống thuốc dù thuốc chữa đúng bệnh, thì nó cũng chỉ nằm ở bao tử, lúc đó boa tử giống như thùng rác chứa thuốc, không có khí lực co bóp bao tử để chuyển hóa thuốc, vì cơ thể khí huyết suy nhược, nó không thể hấp thụ chuyển hóa để theo máu dẫn thuốc qua mao mạch mà vào được khối u, như vậy vẫn là chữa ngọn, còn chữa gốc vẫn cần phải tiếp máu, bổ đường, thông mao mạch mới đưa thuốc vào nơi khối u và nhờ mao mạch bên tĩnh mạch đẩy độc tố và tế bào chết ra khỏi cơ thể. Do đó nguyên nhân ban đầu gây ra ung thư vẫn là nguyên nhân gốc thiếu máu, thiếu đường tắc mao mạch. Còn nếu không chữa vào nguyên nhân gốc, chỉ dùng thuốc chữa ung thư, khi khối u chết teo, phần còn lại của các mô tế bào khác cũng vẫn bị ung thư không phải do lây lan gọi là di căn, mà nguyên nhân gốc vẫn là teo mao mạch và khí huyết thiếu không thông để trao đổi máu cho những tế bào đang thành hình kết khối u từ nơi xa, phần mao mạch bên tĩnh mạch không thông từ động mạch sang tĩnh mạch thành ứ huyết bầm sẽ trở thành rễ của ung thư trở thành ung thư ác tính và tây y gọi là di căn.. Nghiên cứu tìm một loại thuốc chữa ung thư cho một tạng cũng là khó huống chi có nhiều loại ung thư khác nhau bời các số đo áp huyết và đường-huyết khác nhau như ở phần trên đả dẫn giải là do khí lực hư, thực, huyết hư thực, đường-huyết nhiệt hay hàn ở các tạng phủ bị bệnh khác nhau, thì biết đến bao giờ tây y mới khắc phục được nhiều loại ung thư khác nhau, mà thật ra chỉ cần chữa đơn giản phòng ngừa bệnh ung thư bằng cách theo dõi điều chỉnh 3 yếu tố Tinh là ăn uống cho đủ máu, đủ đường, tập luyện khí công cho thông khí thông huyết, thông mao mạch, thì con người sẽ không bao giờ có bệnh ung thư do tự mình tạo ra bệnh do Tinh sai, Khí thiếu, Thần suy. Còn nếu đã kiểm soát được 3 yếu tố đúng tiêu chuẩn mà vẫn bị ung thư ngoài ý muốn do nghiệp bệnh trời kêu ai nấy dạ thì không kể,vì ngoài khả năng con người.... IV-Nguyên tắc phân tích áp huyết biết trước bệnh ung thư của ngành Y Học Bổ Sung Các bệnh theo đông y khí công quan trọng nhất là Doanh Phần là cơ quan tiếp nạp thức ăn, thuốc uống để chuyển hóa và hấp thụ thức ăn thành khí nuôi Khí Phần làm tăng tâm thu, nuôi Huyết Phần
  • 23. 23 làm tăng tâm trương, và đường-huyết là năng lượng cho bộ máy Doanh Phần làm việc. Do đó Doanh Phần có 3 chức năng quan trọng : 1-Mã lực của bộ máy tiêu hóa So sánh áp huyết tay trái và tay phải trước khi ăn, chênh lệch nhau 10mmHg giống như máy tiêu hóa có mã lực mạnh như 10 ngựa. Nếu chênh lệnh 1mmHg là máy chỉ có 1 mã lực. Chiều quay của máy phải thuận chiều, trước khi ăn áp huyết tay trái phải thấp hơn tay phải . 2-Chức năng chuyển hóa của bao tử So sánh áp huyết chênh lệch tay trái trước và sau khi ăn phải cao hơn trước khi ăn 10mmHg là chuyển hóa tốt, thấp hơn trước khi ăn là chức năng bao tử hư, không chuyển hóa làm thức ăn không tiêu sinh ra bệnh bao tử Thí dụ trước khi ăn áp huyết 2 tay đều nằm trong tiêu chuẩn như 130/75mmHg nhịp tim 72, ai cũng tuởng là tốt nhưng thực ra mã lực máy tiêu hóa là Zero 0, đó cũng là nguyên nhân càng ăn bao nhiêu càng không được bao tử chuyển hóa thức ăn thành khí huyết và hấp thụ vào gan, nên thức ăn dư thừa vẫn nằm trong bao tử giống như một thùng rác, càng làm cho bao tử bị ung thư, và liệt ruột. Phân tích sự chuyển hóa thức ăn : Thí dụ trước khi ăn Tay trái 132/75mmHg 73 : Nếu sau khi ăn, áp huyết : 132/75mmHg 73 : là bao tử bị chai, không thay đổi, chức năng bao tử không hoạt động. Nếu : 135/70mmHg 69 là khí bao tử tăng 2mmHg, nhưng làm tâm trương thấp là mất máu, tâm trương tụt thấp 5mmHg, và nhịp tim tụt thấp do thức ăn hàn từ 73 xuống 69 Nếu : 125/68mmHg 80 là chuyển hóa nghịch mất khí lực từ 132 xuống 125, mất thêm máu từ 75 xuống còn 69, đấy là những dấu hiệu ung thư bao tử. So sánh mã lực của bộ máy tiêu hóa với chức năng chuyển hóa của bao tử : Nếu mã lực Zero thì thức ăn còn nguyên sau khi ăn không chuyển hóa Nếu mã lực chênh lệch 5mmHg thì chuyển hóa được 50% thì sau khi ăn áp huyết tay trái lên 137/80mmHg, nhưng nếu ăn ít lượng, mà chuyển hóa nhanh thì mau đói. Thí dụ áp huyết sau khi ăn 130/78mmHg 76, có nghĩa là đã không ăn thức ăn bổ khí mà chỉ uống thuốc bổ sirop bổ máu làm tăng máu, làm tăng nhịp tim là thức ăn nước uống có đường. 3-Chức năng hấp thụ máu vào gan, thì đo áp huyết sau khi ăn bên gan, bên tay phải. Nếu áp huyết sau khi ăn khí lực cao hơn tiêu chuẩn là bệnh của gan không giúp bao tử chuyển hóa vì chưa cung cấp mật và chất chua cho bao tử trước khi ăn để làm cho bao tử biết đói thèm ăn, mà sau khi bao tử ăn rồi, gan mới tiết mật thì đã không đồng bộ giúp thức ăn chuyển hóa, nên thức ăn ứ đọng trong bao tử tạo ra tăng men gan và men bao tử gây ra bệnh trào ngược thực quản, ợ chua, đắng, loét bao tử và ung thư bao tử do vị thấp thực nhiệt, đối với phụ nữ gây ra biến chứng bướu cổ.. Nếu áp huyết xuống thấp 10mmHg so với trước khi ăn thì thức ăn được hấp thụ theo tỷ lệ mã lực của máy tiêu hóa, nhưng do ăn lượng ít, không có chất bổ máu thì gan không có gì để hấp thụ. Như vậy mọi bệnh đều do chức năng Doanh Phần gây ra bệnh. Muốn Doanh Phần không gây ra bệnh phải ăn uống những chất phù hợp với áp huyết tâm thu, tâm trương và đường huyết, và tập 3 trong 4 bài khí công căn bản : a-Bài Kéo Ép Gối Làm Mềm Bụng : tập 300 lần giúp tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn. Sau khi ăn được 30 phút giúp thức ăn hóa lỏng thành dưỡng trấp.. Kéo Ép Gối Làm Mềm Bụng chậm 100-300 lần http://youtu.be/NP-18CNjYC8 Cách tập có 2 cách : Khi áp huyết thấp thì thổi hơi ra bằng miệng khi 2 tay ép gối vào bụng đụng đến bao tử và gan, để cho bụng xẹp mềm ép bao tử co bóp.. Khi áp huyết cao thì thay vì thổi hơi ra bằng miệng thì nói chữ Hà hà hà...kéo dài cho đến hết hơi thì bụng xẹp sát bao tử và gan