SlideShare a Scribd company logo
1 of 88
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------------
TẠ THU HẰNG
TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN
CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864
MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
HÀ NỘI, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------------
TẠ THU HẰNG
TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN
CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Hà Thị Bắc
Bảng đã định dạng
Đã định dạng: Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm, Khoảng cách
Sau: 10 pt
Đã định dạng: Trái, Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm, Khoảng
cách Sau: 10 pt
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Bắc. Các tư liệu, tài liệu được sử dụng
trong luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019
Sinh viên
Tạ Thu Hằng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đại học và viết khóa luận tốt nghiệp này,
tôi xin chân thành cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN, đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa Triết học
– những người dạy dỗ, chỉ bảo cho tôi trong suốt 4 năm qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hà Thị Bắc, người đã
dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận
này.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng song khóa luận vẫn còn có những thiếu
sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô
và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019
Sinh viên
Tạ Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ
VÀ LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO........................................... 7
1.1. Các khái niệm cơ bản...................................................................7
1.1.1. Khái niệm nhập thế ................................................................7
1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế ..................................................9
1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận .....................................................11
1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam .....................12
1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử 12
1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện nay ...27
1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận ..............................................33
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG
THUẬN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY.............................37
2.1. Biểu hiện của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam
hiện nay. ........................................................................................37
2.1.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận
thông qua việc thực hiện các giáo lý, giáo luật. .................................37
2.1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận qua
nghi lễ, tổ chức ............................................................................49
2.1.3. Biểu hiện tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận thông qua tác
động của lễ Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình ...................57
2.2. Ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân, gia đình ở Việt
Nam hiện nay..................................................................................66
2.2.1. Lễ Hằng Thuận – cầu nối giữa đạo và đời................................66
2.2.2. Thực hiện lễ Hằng Thuận góp phần giữ gìn và phát huy những giá
trị tốt đẹp trong hôn nhân, gia đình của người Việt.............................69
KẾT LUẬN........................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................79
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi du nhập vào nước ta, đạo Phật đã nhanh chóng ăn sâu, bám rễ
vào đời sống tinh thần của người dân, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt trong
đời sống xã hội. Dưới các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, tinh thần nhập
thế của Phật giáo đã lấn át những ảnh hưởng vốn có vị thế vững vàng của
Nho giáo trong đời sống xã hội đương thời, bằng chứng là các vị cao Tăng
đạo hạnh và có uy tín của Phật giáo đã đứng ra đảm nhận vai trò quân sự, cố
vấn triều đình lèo lái con thuyền dân tộc.
Thời nhà Đinh, thiền sư Ngô Chấn Lưu được vua Đinh Tiên Hoàng
phong chức Tăng thống, ban hiệu là Khuông Việt Thái Sư, đứng đầu Phật
giáo thời bấy giờ, điều này cho thấy triều đại nhà Đinh đã chính thức công
nhận nhân sự của Phật giáo trực tiếp tham gia chính sự trong vai trò chỉ đạo
tâm linh. Thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành đã cho mời hai thiền sư Pháp Thuận
và Vạn Hạnh làm cố vấn chính trị, thiền sư Vạn Hạnh được vua Lê Đại Hành
đích thân xin ý kiến về cuộc kháng chiến chống quân Tống vào năm 980.
Sang thời nhà Lý, thiền sư Vạn Hạnh đã cố vấn vua Lý Công Uẩn dời đô từ
kinh thành Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày
nay, biến nơi đây thành một trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội. Đến thời
nhà Trần, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm và Giáo hội Trúc Lâm, đã đánh
dấu thời kỳ mở đầu của tổ chức Giáo hội Phật giáo độc lập và thuần Việt tại
nước ta, khẳng định vị thế vững vàng của Phật giáo trong lòng dân tộc.
Hiện nay, tinh thần nhập thế của phật giáo vẫn được phát huy mạnh mẽ.
Phật giáo Việt Nam hôm nay đã có nhiều Phật sự ích đời, lợi đạo. Thông qua
hoằng dương Phật pháp, Phật giáo Việt Nam đã đưa đến cho người dân tư tưởng
sống trong Chính pháp, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, làmtròn nghĩa vụ
của người công dân, tích cực thamgia các hoạt động nhân đạo, thực
1
hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới văn minh tiến bộ. Trên con
đường hành đạo của mình, Phật giáo Việt Nam đã tích cực tham gia các phong
trào như đền ơn đáp nghĩa, tri ân các thương binh liệt sĩ, gắn liền với đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Tham gia các chiến dịch nhân
đạo ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; các công tác từ thiện, nuôi dưỡng, giúp
đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị ảnh
hưởng chất độc da cam, nuôi dạy trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi.
Tinh thần nhập thế của Phật giáo xuất hiện ngay cả trong đời sống xã hội.
Đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối
sống. Trong gia đình, hiện tượng ly hôn, ly thân, bạo lực gia đình,.. diễn ra ngày
càng nhiều, nhất là ở các cặp vợ chồng trẻ. Trước tình hình đó, Phật giáo nhập thế
đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội thì nay càng phải nhập thế vào thế
tục nhiều hơn. Một trong những tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Việt
nam hiện nay là thông qua lễ Hằng Thuận.Đây là nghi lễ đặc biệt dành cho lễ
cưới được tổ chức tạichùa.Ngoàinghilễ truyền thốngcủa đámcướinhư tuyên bố lý
do,trao nhẫn cưới, nhận những lời chúc phúc của hai họ thì nghi thức của lễ Hằng
Thuận trong ngày cưới mang đậmdấu ấn đạo đức tâmlinh và trí tuệ của đạo Phật
cùng vớinhững định hướng cụ thể giúp cho đôi vợ chồng có những kiến thức cần
thiết về cuộc sốnghônnhân,gia đình,từđó nhận thứcrõ ràng về trách nhiệm, nghĩa
vụ và quyền lợicủa vợ chồng và sốnglạc quan hơn trên tinhthầngiác ngộ.Hiện nay,
lễ Hằng Thuận giành đượcsựquantâmrất lớn từ các bạn trẻ và là một trong những
khía cạnh được Giáo hộiPhật giáo rất quan tâm đến. Có thể coi đây là nghi lễ mang
bản sắc văn hóa của dân tộc và cũng chứa đựngnhiều tư tưởngtiến bộ của Phật giáo.
Tinh thần nhập thế tronglễ Hằng Thuận được thể hiện rõ nét trong nghilễ và cả giáo
lý của lễ Hằng Thuận,ngàycàngcó tác động tích cực đến cuộc sống hôn nhân của
nhiều gia đình trẻ ở Việt Nam. Xuất phát từlý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề “Tinh
thầnnhập thế trong lễ Hằng Thuậncủa Phật giáo ở Việt Nam hiện nay” làmluận
văn tốt nghiệp với mong muốn tìmhiểu rõ
Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt
2
hơn những ảnh hưởng của tinh thần nhập thế của Phật giáo thông qua lễ
Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phật giáo là một tôn giáo lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn
hóa, xã hội của Việt Nam. Vì vậy khá nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu
về Phật giáo nói chung và tinh thần nhập thế của Phật giáo nói riêng. Tuy
nhiên, công trình nghiên cứu về lễ Hằng Thuận nói chung và tinh thần nhập
thế của lễ Hằng Thuận nói riêng vẫn còn khá ít, mà chủ yếu là các bài viết đề
cập tới vấn đề này từ các góc độ khác nhau song chưa được nghiên cứu một
cách hệ thống, liên quan đến đề tài có một số công trình tiêu biểu sau:
Về Tinh thần nhập thế của Phật giáo, Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm
hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội
nhân văn số 1/2003) đã chỉ ra tinh thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ
ràng ở hai khía cạnh: “dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành
đạo”. Tác giả nhấn mạnh “tại thế gian giác” - việc giác ngộ thế gian, hiểu rõ
thế gian của người tu sĩ Phật giáo.
Tác giả Đới Thần Kinh với “Thế tục hóa và thần thánh hóa” đã xuất phát từ
phân tích khái niệmthế tục hóa của tôn giáo nói chung khi các tôn giáo đều có xu
hướng chuyển từ lấy thần thánh làm trung tâm sang lấy con người và xã hội loài
người làmtrung tâm, từ đó đi đến khẳng định xu hướng của Phật giáo ở châu
Á là Phật giáo nhập thế. Tác giả dường như đã đồng nhất khái niệm “nhập
thế” với khái niệm “thế tục hóa” và kết luận “dưới sự chỉ đạo của tinh thần
nhập thế, các tôn giáo tích cực tham gia bảo vệ hòa bình thế giới, thúc đẩy
các công cuộc phát triển xã hội, phục vụ xã hội”.
Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với bài viết “Vài nét về vấn đề “nhập thế”
của Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê” trong Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê
trong công cuộc dựng nước và giữ nước (Nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 31-
39) đã định nghĩa nhập thế với hai ý: đem đạo vào đời và đem đời vào đạo,
cách hiểu này đã phản ánh được phần nào khái niệm nhập thế.
3
Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Toan với tên đề tài: “Tinh thần
nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông” đã chỉ ra được tinh
thần nhập thế của Phật giáo ngay từ buổi đầu của Đức Phật Thích Ca và tinh
thần nhập thế của Việt Nam trong tất cả khía cạnh văn hóa, xã hội. Đồng thời
làm sáng tỏ các giá trị trong Tinh thần Nhập thế Trần Nhân Tông.
Tác giả Đỗ Quang Hưng với“Phật giáoViệt Namtrong bối cảnh hộinhập và
toàn cầu hóa”.Trongbàiviết này,tác giả đã rất đề cao vai trò của Phật giáo trong xã
hộihiện đại và những thayđổicủa Phật giáo nóichung chophùhợp vớithời đại mới,
từ đó chỉ ra nhiệmvụ của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn sách do tác giả Nguyễn Kim Sơn làm chủ biên xuất bản năm
2018 với Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại. Cuốn sách tổng
hợp các bài viết tham luận của nhiều học giả về tinh thần nhập thế của Phật
giáo. Trong đó khái niệm nhập thế, vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo nhập
thế được rất nhiều tác giả quan tâm và trình bày trong cuốn sách này.
Nhìn chung,các tác giả khi nghiên cứu về tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam đều nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái niệm
“nhập thế” không đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương Tây.
Về lễ Hằng Thuận, có một số công trình tiêu biểu sau: Trong cuốn
Nghi thức lễ Hằng Thuận của Tỳ kheo Thích Chơn Không xuất bản năm
2014 là một công trình được biên soạn rất công phu dành cho thanh niên nam
nữ Phật tử khi thành hôn. Trong đó có giới thiệu nghi thức truyền Tam quy
Ngũ giới ngắn gọn xúc tích phù hợp với lễ Hằng Thuận và nhiều tiết mục
quan trọng khác, để chư Tôn đức Tăng Ni Trụ trì các tự viện tham khảo
hướng dẫn cho hàng Phật tử tại gia khi thành hôn.
Cuốn sách Những nét văn hóa đạo Phật của hòa thượng Phụng Sơn
xuất bản năm 2015 nói về những đóng góp của Phật giáo trong đời sống xã
hội. Bên cạnh đó, lễ Hằng Thuận được thầy nói đến là một nghi lễ trong
truyền thống văn hóa của người Việt.
4
Trong cuốn sách Đám cưới người Việt xưa và nay (2014), Bùi Xuân Mỹ
đã mô tả và xem "đám cưới tại chùa" là một trong những đámcưới “đặc biệt”.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Hạnh với tên đề tài “ Lễ Hằng
Thuận trong cưới hỏi ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Luận văn tập
trung nghiên cứu đặc điểm và nghi thức tổ chức lễ Hằng Thuận trong phạm
vi Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua luận văn có thể biết được nguồn gốc,
diễn trình và vai trò của lễ Hằng Thuận.
Đề tài về lễ Hằng Thuận hiện nay chủ yếu được nghiên cứu từ các nhà
sư, nhà Phật học nên nguồn tài liệu vẫn chưa phong phú, chỉ được công bố
trong phạm vi Phật giới. Trong giới hạn của một số bài viết ngắn, bài báo tạp
chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng, một số tác giả chưa đi sâu vào
từng vấn đề cụ thể, chưa lý giải nhiều về nghi lễ.
Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích
cho tác giả đi sâu vào tìm hiểu vấn đề “Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng
Thuận của Phật giáoViệt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là: Trên cơ sở làmrõ một số vấn đề lý luận về tinh
thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đề tài tiếp tục phân tích, làmrõ những nội
dung cơ bản của tinh thầnnhập thế tronglễ Hằng Thuận của Phậtgiáo.Từ đó rút ra ý
nghĩa của nghi lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Namhiện nay.
Nhiệm vụ của khóa luận:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt
Nam
- Phân tích nội dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật
giáo Việt Nam hiện nay
- Rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân gia đình ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5
Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu tinh thần nhập thế trong lễ
Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay
Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu: Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ
Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2019 đến 4/2019
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương pháp luận: Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận
và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo.
Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành như phân
tích tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, v.v. để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế
trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó rút ra
ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam
hiện nay.
Đóng góp về mặt thực tiễn của khóa luận: Khóa luận có thể làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, các vấn đề liên quan đến tinh
thần nhập thế của Phật giáo hay nghi lễ Hằng Thuận.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế và lễ Hằng Thuận
của Phật giáo Chương 2: Nội dung
tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay
Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng 0,3 pt
Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt
Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng 0,3 pt
6
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ VÀ
LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm nhập thế
Khái niệm nhập thế là khái niệm khá phổ biến khi nói đến phật giáo
nói riêng và các tôn giáo nói chung. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn
ngữ học xuất bản năm 2004, nhập thế là “dự vào cuộc đời, gánh vác việc đời,
không đi ở ẩn theo quan niệm của nho giáo”. Quan điểm này tiếp cận khái
niệm nhập thế từ quan điểm của Nho gia về “xuất”, “xử”. Các nhà Nho xưa
luôn cho rằng người quân tử phải đem trí óc của mình giúp đời, phò vua để
ổn định đất nước, chăm lo cho nhân dân.
Trong từ điển Nho, Phật, đạo của Lao Tử, Thịnh Lê giải thích khái niệm
nhập thế như sau: “Đạo gia cho rằng, tại gia mà tu đạo, đó có nghĩa là hòa nhập
theo thế tục mà lập thân hành đạo, cho nên gọi là công phu nhập thế. Như Lão
Tử thờ nhà Chu, Trương Lương phò nhà Hán, Lưu Cơ giúp nhà Minh hưng
thịnh, đều gọi là công phu nhập thế, để đối lập với công phu xuất thế. Hơn nữa,
nếu lại làm các việc đời để làm nên công đức sửa mình, giúp đời, độ thế hành
đạo, vì thế gian mà làm mọi đạo đức tế vật, tích lũy công danh để chứng đạo quả
thì đều là công phu nhập thế” [12, tr. 1001]. Khái niệm này mang chất của đạo
giáo, tác giả nhìn nhận nhập thế như một quá trình trong chỉnh thể tương tác biện
chứng giữa chứng đạo và độ thế hành đạo.
Dưới góc độ Phật giáo, ngay từ khi ra đời, tuy chưa đưa ra định nghĩa
cụ thể nhưng Đức Phật đã dẫn thuyết như sau: “Này các tỳ kheo, vì hạnh
phúc và an lạc cho quần sinh, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, hãy đi
mỗi người một ngã, đừng đi hai người trên một đường, vì lòng thương tưởng
cho đời hãy đem chánh pháp” [30, tr. 62]. Như vậy, là người xuất gia phải
đem đức của mình để cứu khổ cứu nạn cho tất cả các chúng sinh.
7
Có thể thấy, trong các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, trong
quá trình hình thành và phát triển luôn phải đối đầu với nghịch lý thần thánh
- thế tục, xuất thế - nhập thế. Những nghịch lý này thường nổi lên thành nhu
cầu cấp bách khi quan hệ tôn giáo với nhà nước, dân tộc có vấn đề làm ảnh
hưởng đến sự sống còn của tôn giáo, dân tộc hoặc đôi khi là của cả hai. Mỗi
lần như vậy, buộc tôn giáo với xã hội thế tục phải xích lại gần nhau hơn bằng
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Sự chủ động tiếp cận thực tế sống
động và vận dụng tư tưởng từ phía tôn giáo để giải quyết các vấn đề của xã
hội thế tục được gọi là nhập thế.
Có một số quan điểm đồng nhất giữa khái niệm nhập thế và thế tục
hóa. Tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau. Thế tục hoá có nguồn gốc từ
tiếng La tinh “seaculum” (the transfer of power to the secular). Khởi đầu từ
này được dùng trong bối cảnh văn hoá Kitô giáo, để chỉ việc chuyển giao
một số quyền lực chính trị, tôn giáo và lãnh địa vốn thuộc Giáo hội thần
thánh cho xã hội thế tục; như việc tách nhà trường, tòa án ra khỏi nhà thờ...
Dần dần, khái niệm thế tục hóa được dùng để mô tả sự tự chủ hóa của các
hoạt động, các hình thức tư tưởng so với nền văn hóa truyền thống mà các
giá trị Kitô giáo làm cơ sở. Đó cũng chính là “quá trình công năng của một
bộ phận tôn giáo bị công năng xã hội có tính chất phi tôn giáo thay thế”.
Theo Tác giả Đỗ Quang Hưng, “quá trình thế tục hóa liên quan đến sự giải
phóng hữu hiệu mối quan hệ giữa con người với thế giới mà không bị các
truyền thống tôn giáo kiềm chế. Kéo theo đó là việc thiết lập mối quan hệ về
luật pháp trong đó nhà nước hoàn toàn trung lập về mặt tôn giáo đồng thời
dẫn đến sự hình thành một xã hội dân sự mà ở đó công dân được hưởng các
quyền về luật pháp cá nhân cũng như được giải phóng một cách tương đối
trong việc thực hành đời sống tôn giáo so với các học thuyết, giáo luật của
tôn giáo đã được giáo hội chế định” [10, tr. 62]. Có thể nói cách khác, đây là
quá trình giải thiêng, giải thần thánh hóa của các tổ chức, thể chế xã hội và
chúng tách dần và độc lập khỏi tôn giáo.
8
Khái niệm nhập thế được dùng với nghĩa chỉ sự tham gia ngày càng
chủ động, tích cực thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo, nhất là
trong bối cảnh xã hội hiện nay khi nhu cầu về tôn giáo ngày càng đa dạng
hóa. Các tôn giáo không chỉ đơn thuần đảm trách nhiệm về phần tâm linh mà
đã thực sự đóng vai trò tinh thần, văn hóa quan trọng của xã hội trong nhiều
phương diện của đời sống. Nói cách khác, nhập thế là sự mở rộng phạm vi
tham gia hoạt động của tôn giáo ra ngoài phạm vi tôn giáo, ví dụ như: chính
trị, kinh tế, ngoại giao, nghệ thuật, giáo dục.
Bên cạnh đó, nhập thế còn là quá trình xử lý mối quan hệ tôn giáo –
thế tục như tính hai mặt của tôn giáo. Một mặt, tôn giáo không tự nhiên sinh
ra, mà đó là kết quả của nhu cầu tinh thần, tâm linh của xã hội thế tục. Tôn
giáo là hình thái ý thức của xã hội, không có tôn giáo nào có thể tồn tại và
phát triển ngoài các nhu cầu tâm linh của đời sống xã hội. Mặt khác, tôn giáo
luôn thể hiện tính tâm linh siêu việt của nó đối với xã hội thế tục bằng sự
thần thánh hóa, thiêng liêng hóa. Xong tính siêu việt ấy không thể tự nó
chiêm ngưỡng mà phải gây sức hấp dẫn đối với xã hội thế tục. Khi tôn giáo
với xã hội thế tục có mối quan hệ tốt, đồng thời khi tôn giáo có thể chia sẻ,
bù đắp hoặc giải quyết nhiều vấn đề của xã hội thế tục thì sự lan tỏa và sức
mạnh của tôn giáo đó càng được củng cố, phát huy. Ngoài ra, tinh thần nhập
thế của các tôn giáo còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên
nhiều phương diện cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội.
Như vậy khái niệm nhập thế chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích
cực, thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo. Đồng thời, đó là quá
trình xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội thế tục.
1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế
Phật giáo nhập thế được hiểu là “Đạo phật vào đời hay đạo phật nhập
cuộc” [17, tr. 222]. Theo Thích Nguyên Đạt, cách lý giải này là lời cổ vũ cho
Phật giáo nhập thế. Đồng thời, nó nói lên hai đặc điểm chính của nhập thế
trong Phật giáo:
9
Nhập thế là bản chất của đạo Phật. Bởi ngay từ khi đạo Phật ra đời, đích
Phật Thích Ca Mâu Ni tuy không nhắc đến khái niệmnhập thế, nhưng ngài luôn
luôn dạy các đệ tử của mình phải “đi vì lợi của nhiều người, vì hạnh phúc của số
đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người.
Các thầy hãy đi, đừng đi hai người cùng một hướng,hãy đi mỗi người một ngả,
hãy truyền bá Chánh Pháp” [27, tr. 1]. Như vậy, Đức Phật chỉ ra hướng đi của
đạo Phật là cuộc đời và xã hội, phương thức hành động phong phú, linh hoạt,
hoạt động đi vào đời và việc giác ngộ cần thực hiện đồng thời. Bàn về quan điểm
này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh tuyên bố “không bùn thì chẳng có hoa sen”, ngụ
ý bùn là trần thế, hoa sen là đạo Phật. Không thamgia việc đời, cứu khổ cứu nạn
thì không thể có đạo Phật được.
Đặc điểm thứ hai khi nói đến Phật giáo nhập thế đó là: Nhập thế là
hình thái Phật giáo của hiện đại và hậu hiện đại. Vào thế kỷ 20, thế kỷ mà thế
giới có rất nhiều biến động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vào đầu
thế kỷ 20 và Cách mạng công nghiệp thứ 3 bắt đầu vào năm 1980 làm cho
thế giới có nhiều chuyển biến. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra kèm theo
là các bất ổn chính trị trên khắp toàn cầu khiến cho chúng sinh rơi vào cảnh
khổ cực. Trước tình hình đó, trào lưu “đạo Phật nhập thế” được khởi xướng
vào giữa thế kỷ này ở châu Á sau đó lan sang châu Âu, châu Mỹ bởi một số
nhà hoạt động Phật giáo đương đại có danh vọng quốc tế trong đó có Thiền
sư Thích Nhất Hạnh. Theo trào lưu này, những Phật tử nhập thể tích cực hiến
dâng cuộc đời của mình phục vụ cho con người và xã hội ở khắp nơi. Từ đó,
quan niệm cho rằng Phật giáo là tôn giáo tiêu cực tránh đời bị bác bỏ. Trào
lưu này phát triển rất mạnh mẽ và ngày càng phát triển đến tận ngày nay.
Chính vì vậy, Phật giáo nhập thế là một hình thái phù hợp của xã hội hiện đại
và hậu hiện đại.
Ở Việt Nam, thập niên 30 của thế kỷ 20 xuất hiện khái niệm liên quan
đến khái niệm “Phật giáo nhập thế” là “Nhân gian Phật giáo”. Khái niệm này
xuất hiện lần đầu trên tờ báo Đuốc Tuệ. Theo đó, “nhân gian phật giáo” được
10
định nghĩa là “đạo Phật đóng vai trò dẫn dắt tinh thần với mục đích đem lại
những điều có lợi cho nhân gian” [22, tr. 349]. Khái niệm này có thể đồng
nhất với khái niệm “Phật giáo nhập thế” bởi vì cả hai khái niệm đều hướng
đến mục đích chung là đưa đạo phật vào trong xã hội thế tục để giúp người,
giúp đời.
Tuy nhiên, khái niệm “đạo Phật nhập thế” dễ gây ngộ nhận về bản chất
của Phật giáo. Bởi vì “nhập thế” nghĩa là vào đời, hiểu là ở một nơi nào đó
ngoài đời đi vào cuộc đời mà đạo Phật vốn ở trong đời và chưa hề ở ngoài
cuộc đời. Hơn nữa, khi nhắc đến “đạo Phật nhập thế” đồng thời cũng hàm chỉ
đến “đạo Phật xuất thế”. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần làm rõ khái niệm “xuất
thế” theo quan niệm của Phật giáo. Nhiều người hiểu sai lệch về khái niệm
“xuất thế”. Họ cho rằng “xuất thế” là tách xa cuộc đời, không màng đến đời
sống thực tiễn xã hội. Sự hiểu sai lệch đó dẫn đến hệ quả hiểu sai về đạo
Phật, cho rằng đây là tôn giáo tiêu cực, kéo lùi sự phát triển. Theo giáo lý
Phật giáo, “xuất thế” mang ý nghĩa ra khỏi những muộn phiền, đẩy những
dục vọng tham, sân, si ra ngoài cơ thể, tránh xa những ngôn ngữ và hành
động mang đến khổ đau cho mình và toàn xã hội.
Như vậy, không thể phủ nhận “xuất thế” theo ý nghĩa trên mang ý
nghĩa tích cực. Khái niệm “xuất thế” tưởng như mâu thuẫn với khái niệm
“nhập thế” nhưng chúng lại đồng nghĩa với nhau. Bởi lẽ muốn cho mình và
tất cả mọi người ra khỏi tham, sân, si, những dục vọng của bản thân thì cần
phải có con đường chính đạo, để tìm ra con đường chính đạo thì không đâu
khác là tìm trong cuộc sống, xã hội và con đường chính đạo là giúp bản thân
mình và giúp đời thoát khổ. Từ đây ta có thể kết luận, đạo Phật lấy trí tuệ hay
giác ngộ làm đầu, cho nên ở mọi khía cạnh đều thể hiện là đạo nhập thế. Phật
giáo nhập thế là quá trình tất yếu, phù hợp với xu thế vận động của thời đại,
sự phát triển của Phật giáo.
1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận
Lễ Hằng Thuận là một "thuật ngữ" khá thông dụng dùng để chỉ nghi
thức tổ chức lễ cưới trang nghiêm ở chùa hoặc thiền viện. Ngoài ra, lễ Hằng
11
Thuận cũng có thể tổ chức tại nhà thờ tổ của dòng họ. “Hằng” là thường
xuyên, là luôn luôn. Nghĩa là hai vợ chồng khi đã nên duyên thì trước thế
nào, sau thế đấy, chỉ sự thủy chung son sắt, đó là một trong các yếu tố quan
trọng để giữ gìn hạnh phúc gia đình. “Thuận” là hòa thuận, là đồng thuận
hướng về những điều cao thượng, chân thiện trong đời sống. Hằng Thuận
nghĩa là tùy thuận chúng sanh mà thực hiện hay Hằng Thuận nghĩa là thường
sống với nhau hòa thuận (được hiểu là theo đạo vợ chồng), tương kính
nhường nhịn lẫn nhau, cùng nhau vừa làm tròn trách nhiệm bổn phận của
người vợ người chồng trong đời sống gia đình, đối với ông bà cha mẹ và con
cái; vừa hướng đến con đường tu tập giác ngộ giải thoát, trên cơ sở giữ gìn
ngũ giới, hành thập thiện và tu tập theo Bát Chính Đạo. Hai từ “Hằng Thuận”
gợi cho ta nhớ đến 10 nguyện của đức Phổ Hiền trong nguyện "tùy thuận
chúng sinh", nói lên tâm nguyện đem đạo vào đời. Đồng thời nó cũng làm ta
liên tưởng đến đạo đức truyền thống của dân tộc: "Thuận vợ thuận chồng tát
biển Đông cũng cạn".
Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới
được tổ chức trang nghiêm, trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận
trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật,
cùng với những định hướng, mục đích giúp cho gia đình hòa thuận, êm ấm,
giữ vững nề nếp gia phong và những giá trị văn hóa tốt đẹp của người Việt.
1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam
1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong
lịch sử
• Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước
Thứ nhất, thời kỳ Bắc thuộc: Thời kỳ đầu khi Phật giáo truyền vào
nước ta cũng là lúc phong kiến phương Bắc xâm lược và đặt ách đô hộ trên
đất nước ta. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã trở thành điểm tựa vững chắc về
tinh thần và tư tưởng của người dân nhằm chống lại sự đồng hóa của chính
12
quyền phương Bắc. Góp phần to lớn trong các phong trào đấu tranh giành
độc lập dân tộc suốt 1000 năm.
Tương truyền, ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam là chùa Thanh Vân Cổ
Tự (nay là chùa Yên Phú, thuộc xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Thành phố
Hà Nội) do bà Phương Dung trụ trì. Nơi đây đã nuôi lớn hai vị tướng tài góp
sức cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là Trung Vũ, Đài Liệu. Hai ông được
Phương Dung nuôi dưỡng, văn tài võ lược, có năm hạn hán, hai vị ra tay cầu
mưa giúp dân, lại có năm lũ lụt, dân kêu cầu liền biến thành khúc đê ngăn lũ
cho dân. Khi Tô Định sang cướp nước, Phương Dung và hai con nuôi tham
gia phò Hai Bà Trưng đánh giặc. Năm Thiên Phúc đời Lê Đại Hành, bà
Phương Dung được phong là Hoàng Thái Hậu Tuệ Tĩnh Phu Nhân, Trinh
Thục Chí Đức Đoan Trang Cẩn Tiết Hoàng Thái Hậu. Trung Vũ, Đài Liệu
được phong là Bản Cảnh Thành Hoàng Linh Phù Chi Thần, Hộ Quốc Khang
Dân Phù Vận Dương Vũ Uy Dực Thánh Bảo Cảnh Hiển Hữu Trợ Thuân
Linh Ứng Đại Vương.
Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nước ta tiếp tục bị chính quyền
phương Bắc đô hộ. Trong thời kỳ này, rất nhiều các cuộc khởi nghĩa của
nhân dân ta nổ ra khiến cho chính quyền phương Bắc điêu đứng. Tuy nhiên
các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại.
Đến thế kỷ thứ VI, Lý Nam Đế cho xây dựng chùa Khai Quốc (nay là
chùa Trấn Quốc, Hà Nội) ngay sau khi đánh thắng quân nhà Lương và thành lập
nước Vạn Xuân. Việc dựng chùa và đặt tên là Khai Quốc thể hiện rõ ý thức văn
hóa, chính trị sâu sắc. Nhà nước Vạn Xuân là nhà nước Phật giáo, Phật giáo là
lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng nhà nước Vạn Xuân. Nhận định về điều
này, Lý Khôi Việt viết: “đây là một sự khẳng định minh bạch, một sự dứt khoát,
một sự tuyên dương công trạng rõ ràng: Phật giáo đã có công trạng rất lớn trong
việc khai sinh ra một nước độc lập (Khai Quốc), Phật giáo là chủ đạo văn hóa –
chính trị của chính quyền mới, là quốc giáo của triều đại. Không những thế, đây
còn là một bản tuyên ngôn hùng hồn, độc
13
lập chính trị cũng như độc lập văn hóa, đối với đế quốc phương Bắc” [13, tr.
18 – 19].
Sau Lý Nam Đế, một thủ lĩnh tự xưng là Lý Phật Tử đã dựng cờ khởi
nghĩa chống lại nhà Tùy. Cuộc khởi nghĩa đã quy tụ được đông đảo Tăng Ni,
Phật tử vào đấu tranh nhằm lấy lại nền độc lập tự chủ của đất nước. Cuộc
khởi nghĩa thất bại, nhưng Lý Phật Tử được nhân dân rất mến phục. Sau khi
chết, nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi.
Thứ hai, thời phong kiến độc lập tự chủ: Sau chiến thắng trên sông
Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, nước ta hoàn toàn độc lập chấm dứt
ách đô hộ gần 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra kỷ nguyên mới
cho dân tộc, đó là kỷ nguyên độc lập tự chủ. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc
này là xây dựng bộ máy chính quyền, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này.
Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển và xâm nhập sâu vào
các tầng lớp trong xã hội. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của các bậc cao tăng
tài đức vẹn toàn, sau này góp phần không nhỏ vào sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của các triều đại sau như Đại sư Khuông Việt, thiền sư Đỗ Pháp
Thuận, thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Viên Thông.
Đại sư Khuông Việt đã từng giúp triều Đinh và triều Tiền Lê trong
việc phục hưng đất nước sau 1000 năm Bắc thuộc. Khi quân Tống kéo sang
xâm lược nước ta, vua Lê Đại Hành sai Đại sư cầu đảo cho quân sĩ ở chùa
Vệ Linh (nay thuộc Hà Nội). Nhờ đó, tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc
càng được giữ vững và tăng cường trong lòng quân sĩ. Trên mặt trận ngoại
giao, Đại sư đã viết bài “Ngọc lang quy” tiễn sứ thần nhà Tống về nước. Sau
này, Lê Quý Đôn đã hết sức ca ngợi bài Ngọc lang quy của Đại sư như sau:
“Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài Từ vua
Tiền Lê tiễn Lý Giác nhà Tống lời lẽ nõn nà, có thể vốc được” [5, tr.24].
Cùng với Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng được
vua Lê Đại Hành mời tham gia vào bộ máy chính quyền triều đình. Ông từng
được vua tham vấn về vận nước, điều đó cho thấy vua Lê Hoàn rất đề cao
14
Phật giáo. Tư tưởng trị nước của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận mang đậm chất từ
bi của đạo Phật, đồng thời đề cao sự bình đẳng tinh thần đoàn kết dân tộc.
Theo ông, để đất nước thái bình, triều đại trường tồn, việc quan trọng nhất là
đoàn kết toàn dân. Để đất nước được yên ổn, không có trộm cướp và bất
công, thì vua và triều đình cần phải hành xử vì quyền lợi của người dân. Năm
1005, ngay sau khi Lê Hoàn mất, một cuộc chém giết kinh hoàng để tranh
giành ngôi báu diễn ra giữa các con của Lê Hoàn. Lê Long Tích bị giết ở
Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh), Lê Long Kích bị giết ở Phù Lan (nay thuộc
huyện Mỹ Văn, Tỉnh Hưng Yên), Lê Long Việt giành ngôi mới được ba ngày
cũng bị giết em ruột Lê Long Đĩnh giết hại ngay và cướp ngôi. Với lịch sử,
Lê Long Đĩnh là một vết nhơ, hơn thế nữa, còn thực sự là một đại họa. Quốc
Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để
giành ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể
được” [18, tr. 5].
Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc, Thiền sư Vạn Hạnh tuy
giúp triều Tiền Lê, nhưng đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi vua
vào năm 1009, lập ra một triều đại thịnh trị trong lịch sử Việt Nam. Lời nhận xét
của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh
vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua
hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầmquyền có lòng độ
lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời
thuần từ nhất trong lịch sử nước ta” [11, tr. 424]. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã
hun đúc nên những ông vua Phật Tử thuần thành.
Dưới triều đại của vua Lý Thần Tông, Thiền sư Viên Thông được
phong Quốc sư và hai lần được trao quyền lãnh đạo đất nước nhưng kiên
quyết từ chối. Sở dĩ ông được vua kính trọng như vậy là bởi ông có tư tưởng
trị Quốc dựa vào đức chứ không dựa vào pháp: “Đức hiếu sinh của nhà vua
thấm nhuần đến nhân dân, thì nhân dân yêu mến vua như cha mẹ, tôn kính
vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy” [31, tr.
183].
15
Dưới triều Trần, Phật giáo vừa là chất xúc tác, vừa là lực lượng chủ
yếu trong việc tạo dựng sự đoàn kết giữa nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất
nước. Các vua nhà Trần đều là Phật tử có trình độ Phật học uyên thâm, lấy tư
tưởng dân vị bản để trị nước. Trần Nhân Tông hiểu sâu sắc về triết lý “Thế
trận lòng dân” và vận dụng rất thành công trong ba cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên – Mông, kẻ thù hung hãn và mạnh nhất thời bấy giờ. Thiền
phái Trúc Lâm ra đời với bậc sơ tổ là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Thiền
phái này đề cao sự tự ngộ, nỗ lực rèn luyện của mọi người. Theo ông, “sống
mà không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”. Từ đó có
thể thấy vì Phật Hoàng này rất đề cao tinh thần nhập thế của Phật giáo.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, nhờ tinh thần nhập
thế của nhà Phật, Trần Nhân Tông đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân. Kế
sách “khoan thư sức dân làm sâu rễ bền gốc” của ông phản ánh tinh thần bao
dung và đặt Quốc gia xã tắc lên trên hết, đó cũng là tinh thần được kế thừa từ vua
ông Trần Thái Tông. Thực tế điều kiện lịch sử Đại Việt lúc đó, thế giặc mạnh
nhưng lòng yêu nước căm thù giặc của quân dân ta đang ngụt cháy.Theo nguyện
vọng tấm lòng của quân sỹ, Trần Nhân Tông đã quyết định cầmquân đánh đuổi
ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Nhưng Phật dạy giới đầu tiên trong Ngũ giới là không
sát sinh. Thượng Sỹ đã lập luận: “đạo Phật cấm sát sinh, song giết giặc cứu dân
không có gì là trái đạo”. Vua Trần Nhân Tông tiếp tục lập luận đó là giết một
người để cứu trăm ngàn người thì không có gì là trái với đạo, mà ngược lại đã
hành rất đúng với đạo từ bi của nhà Phật.
Có thể nói, hai triều đại Lý – Trần là hai triều đại phong kiến tồn tại
lâu dài nhất và cường thịnh nhất trong lịch sử nước ta. Đây cũng là hai triều
đại hiếm hoi về việc chuyển giao quyền lực diễn ra hòa bình. Một trong số
những nguyên nhân dẫn đến điều đó là cả hai triều đại này đều coi Phật giáo
là quốc đạo, trị nước bằng đức với tư tưởng chủ đạo là khoan dung, độ
lượng, hiếu hòa của đạo Phật đã thấm nhuần suốt mấy trăm năm trong mọi
tầng lớp của người Việt.
16
Theo quy luật của lịch sử, vương triều dù có thịnh đến đâu cũng sẽ có
lúc suy tàn. Những năm cuối thời Trần, vua quan chỉ lo ăn chơi không quan
tâm đến việc triều chính, cơ nghiệp nhà Trần dần suy tàn. Năm 1400, Hồ
Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra triều Hồ. Chính quyền của Hồ quý Ly đề
cao Nho giáo. Mặc dù có nhiều cải cách theo các nhà sử học hiện đại đánh
giá là tiến bộ, đi trước thời đại như chính sách hạn điền hạn nô, nhưng Hồ
Quý Ly quên mất một trong những tư tưởng trị nước quan trọng nhất đó là
“lấy dân làm gốc”. Vì vậy chính quyền triều Hồ không được nhân dân tin
theo nên đã thất bại trước sự xâm lược nhà Minh, đất nước ta lại rơi vào
vòng nô lệ. Trong hoàn cảnh đó, với truyền thống yêu nước của nhân dân ta,
rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi, các Tăng Ni Phật tử thời kỳ này
trở thành lực lượng lớn cùng với nhân dân khởi nghĩa. Trong đó, không thể
không kể đến cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc. Sư Phạm Ngọc ở chùa
Đồ Sơn (Hải Phòng) cùng nhóm nghĩa quân thành lập chính quyền kháng
chiến, tự xưng là La Bình Vương. Cuộc khởi nghĩa nhận được sự ủng hộ
đông đảo của quần chúng nhân dân trong vùng trung du và đồng bằng Bắc
Bộ gây tổn thất không nhỏ cho quân Minh.Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại
nhưng ta thấy được tinh thần nhập thế của phật giáo, khi đất nước lâm nguy
Phật giáo không trốn tránh cuộc đời mà đứng ra đấu tranh vì dân vì nước.
Triều Hậu Lê và triều Nguyễn đề cao Nho giáo, coi đó là Quốc giáo
của đất nước, Phật giáo không còn giữ vị trí độc tôn như trước nhưng trên
thực tế, Phật giáo vẫn ảnh hưởng rất lớn trong lòng xã hội Việt Nam.
Thứ ba, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Từ năm 1884,
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp bằng việc ký hiệp ước Harmand
(1883), Patenotre (1884). Tuy nhiên, không vì thế mà nhân dân ta chịu nhục
nhìn đất nước rơi vào tay ngoại bang. Rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp
nổ ra. Phật giáo nhập thế lại lần nữa phát huy truyền thống nhập thế của
mình trong sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc.
17
Một trong các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đó là phong trào Cần Vương.
Lấy danh nghĩa phò vua Hàm Nghi cứu nước, phong trào Cần Vương đã quy
tụ được rất nhiều văn thân sĩ phu yêu nước đứng lên chống Pháp như Hoàng
Diệu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật. Vương Quốc Chính theo
tiếng gọi của vua Hàm Nghi cũng hăng hái ra phò vua giúp nước. Ông là bạn
thân của Nguyễn Thiện thuật, người làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải
Dương (nay thuộc Thành phố Hải Phòng). Ông tham gia phong trào Cần
Vương ngay từ những năm đầu phát động. Sau nhiều lần thất bại của phong
trào, ông bị truy nã phải ẩn vào chùa Ngọc Long Động, nay thuộc Chương
Mỹ, Hà Nội. Năm 1895, ông xuống tóc, khoác áo cà sa, thực chất là đổi
phương thức kháng chiến. Nhận thấy Phật giáo có tác động lớn đến quần
chúng nhân dân, ông lập Hội Thượng Chí với phương pháp “khôi phục nhà
Lý, giành lại độc lập dân tộc”, thực chất là dựa vào uy tín của phật giáo để
huy động sức mạnh dân tộc. Bởi triều Lý là triều đại Phật giáo thịnh nhất.
Sau khi lập Hội Thượng Chí, Vương Quốc chính tìm một người họ Lý là Lý
Thiếu Quân tôn làm minh chủ, còn mình làm quân sư. Khi cuộc khởi nghĩa
Yên Thế nổ ra, Vương Quốc Chính liên lạc với Hoàng Hoa Thám nhằm hiệp
đồng chiến đấu. Ngày 22-10-1989, hội Thượng Thế công bố tuyên cáo, đề
cập đến tư tưởng, nghĩa vụ, kỷ luật, thưởng phạt. Nghĩa quân của Vương
Quốc Chính cho rằng thời cơ khởi nghĩa là lúc Pháp phân mỏng lực lượng để
sang Trung Quốc chiến tranh. Tuy nhiên, Trương Công Bỉnh, một thành viên
trong nghĩa quân bị bắt trên đường đi công cán. Sợ bị bại lộ, nghĩa quân
quyết định khởi nghĩa vào đêm 5-12-1898 nhân dịp có Hội chợ tại Hà Nội.
Cuộc khởi nghĩa quy tụ được rất đông nhân dân tham gia. Tuy thất bại nhưng
thực dân Pháp phải mất rất nhiều công sức mới dập tắt được.
Cùng năm 1898, ở miền Trung diễn ra cuộc khởi nghĩa do nhà sư Võ Trứ
lãnh đạo. Ông là người làng An Nhơn tỉnh Bình Định, là đệ tử của sư trụ trì chùa
Đá Bạc (thầy từng tham gia phong trào Cần Vương). Nhà sư Võ Trứ là người nổi
tiếng nhân hậu và có tài. Ông có trong tay rất nhiều nghề đặc biệt
18
là nghề thầy thuốc. Chính vì vậy, thầy có điều kiện tiếp xúc, vận động mọi
tầng lớp nhân dân tham gia khởi nghĩa. Lực lượng đông đảo nhất của nghĩa
quân là nhân dân hai tỉnh Bình Định và Phú yên. Chính vì vậy, hầu hết các
chùa ở hai tỉnh này đều là căn cứ của nghĩa quân. Dịp lễ Vu Lan năm 1897,
Võ Trứ cùng Trần Cao Vân mở hội nghị tại Tuy An (Phú Yên) để bàn về
việc chuẩn bị lực lượng, sắm khí giới nhằm phát động cuộc khởi nghĩa chống
Pháp. Mậu Tuất năm 1898, nước ta xảy ra mất mùa, đói kém kèm với sưu
cao thuế nặng ở khắp nơi khiến cho lòng dân đã căm phẫn này càng căm
phẫn hơn. Nhận thấy đây là thời cơ thích hợp, hơn nữa nghĩa quân của ông bị
lộ nên ông quyết định khởi nghĩa. Mùa hè 1897, thầy tập hợp nghĩa quân
ở huyện Đồng Xuân, tiến về xuôi đánh chiếm huyện lỵ, sông Cầu. Nhưng
cuộc khởi nghĩa bị đàn áp dữ dội. Các nhà tù ở Phú Yên, Bình Định chật
ních các nhà sư. Vì vậy Thực dân Pháp gọi đây là “Cuộc chiến tranh thầy
chùa” [14, tr. 24].
Hai cuộc khởi nghĩa diễn diễn ra trong năm 1898 đều được sự yểm trợ
của đông đảo Tăng Ni, Phật tử. Tuy thất bại nhưng “Phật giáo đã trở thành
lực lượng chủ yếu trong phong trào kháng chiến” [14, tr. 25] vào những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau thất bại của phong trào Cần Vương.
Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, Tăng Ni, Phật tử đã có những
đóng góp cả về lực lượng lẫn trí tuệ vào thắng lợi của nước nhà. Là nguồn
lực chủ yếu để Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tiếp tục cùng toàn dân đưa sự
nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Phật giáo nhập thế
đã chứng tỏ được mình trong cách mạng. Nhiều Tăng Ni, Phật tử miền Bắc đã
mạnh dạn cởi áo cà sa, khoác chiến bào tòng quân đánh giặc trong kháng chiến
chống Pháp. Ở thời kỳ chống Mỹ nhật là giai đoạn Mỹ - Diệm, cuộc biểu dương
lực lượng của Tăng Ni, Phật tử đấu tranh chống chế độ độc tài của gia đình họ
Ngô - Đình và Mỹ vào miền Nam năm 1963 là một minh chứng đỉnh cao cho
tinh thần và hoạt động nhập thế của Phật giáo. Sự kiện hòa
19
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 10/6/1963 để tố cáo chế độ Ngô
Đình Diệm, đồng thời phản đối chiến tranh phi nghĩa và đòi quyền bình đẳng
tôn giáo đã làm chấn động dư luận trong nước và cả quốc tế. Một làn sóng
biểu tình phản đối chế độ Ngô Đình Diệm diễn ra ở khắp nơi ngay cả ngoài
nước. Sự kiện thầy Thích Quảng Đức chưa nguôi thì năm 1967, vụ tự thiêu
của tập thể 6 tín đồ phật với mục đích đòi hòa bình, độc lập và cuộc sống an
lạc cho nhân dân thể hiện một tinh thần yêu đạo, yêu nước, sẵn sàng hy sinh
vì độc lập dân tộc.
Người Việt Nam ta vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân
tộc ngày từ những buổi đầu dựng nước. Khi Phật giáo du nhập vào, tinh thần
đó không những không mất đi mà còn ngày một phát triển rõ nét. Hình ảnh
nhà sư ra trận đã xuất hiện ngay từ những cuộc khởi nghĩa đầu tiên. Sở dĩ
Phật giáo làm được điều đó là do sự vận dụng giáo lý vào đời một cách khéo
léo. Trước hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm đô hộ, chúng thi hành chính
sách đồng hóa dân ta bằng cách truyền bá Đạo giáo và Nho giáo bằng con
đường ép buộc. Vì vậy khi đạo Phật du nhập với con đường tự nhiên, các nhà
sư không ép buộc mà thâm nhập vào cùng sống với nhân dân, hiểu và cảm
thông cho nỗi thống khổ của họ. Đặc biệt là đạo lý vô ngã đã tác động đến
đạo đức và hành động của con người: “vô ngã là cái không có cái ta, sở hữu
của ta. Mà cái ta chính là trở ngại lớn nhất cho những hành động hy sinh và
dũng cảm vì xã hội, vì dân tộc và lý tưởng. Sống theo nếp sống vô ngã, tức là
không cá nhân, vị kỷ sẽ rất dễ đoàn kết một lòng, cùng nhau hợp tác để
phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc và quốc gia” [16, tr. 1011]. Hơn nữa,
sống theo nếp sống vô ngã sẽ rất dễ đoàn kết một lòng, cùng nhau hợp tác để
phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc và quốc gia.
Ngoài ra, lý thuyết về giải thoát khỏi bể khổ của Phật giáo theo xu
hướng là khuông phò dân tộc, cứu nhân độ thế nơi trần gian trở thành chủ
trương tu tập và tục không tách rời nhau.
20
Phật giáo luôn song hành cùng giá trị truyền thống văn hóa yêu nước
của dân tộc, thể hiện sự gắn bó keo sơn giữa đạo và đời thành một khối thống
nhất, có sự thẩm thấu, tương hỗ lẫn nhau. Đây là mối quan hệ tương đồng,
Phật giáo mang đến cho giá trị văn hóa truyền thống yêu nước một màu sắc
mới, thấm nhuần tinh thần lạc quan và niềm tin chiến thắng mọi kẻ thù cùng
lòng tự hào dân tộc. Phật giáo với căn tính “Khế lý”, “Khế cơ” phù hợp và
tương thích với sự mềm dẻo, hòa đồng của căn tính người Việt. Chính vì vậy,
Phật giáo đã xáo trộn, tiếp biến ngay trong lòng văn hóa dân tộc và trở thành
một thành tố của văn hóa Việt Nam đặc biệt là truyền thống yêu nước, đoàn
kết dân tộc giúp ta đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.
Lịch sử đã chứng minh những đóng góp quan trọng trong công cuộc
dựng nước và giữ của Phật giáo. Khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo sẵn sàng
cùng nhân dân tham gia chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Khi đất
nước hòa bình, Phật giáo tham gia xây dựng đất nước.
• Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong văn hóa
– xã hội
Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam không chỉ thể hiện qua
truyền thống yêu nước lòng tự tôn dân tộc mà còn thể hiện qua mọi khía
cạnh của đời sống xã hội trong đó có văn hóa.
Về ngôn ngữ, rất nhiều từ ngữ Phật giáo được nhân dân Đại Việt sử
dụng trong cuộc sống hàng ngày,thậm chí nó thông dụng đến độ nhiều người
sử dụng như từ thuần Việt mà không biết đó có nguồn gốc xuất xứ từ Phật
giáo. Ví dụ như từ “tội nghiệp”, chỉ sự thương xót cho người có hoàn cảnh
khó khăn hay gặp chuyện không lành. Từ tội nghiệp nghĩa là tội của nghiệp,
mặc dù bày tỏ thái độ thương xót cảm thông nhưng khi dùng từ tội nghiệp đã
ngầm chỉ ra nguyên nhân người đó khổ là vì kiếp trước tạo nghiệp. Đây là
một trong những giáo lý của đạo Phật. Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng
không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất
căn bản của Phật: "Thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu
21
vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp
bão" hay là câu thơ bình dân:
“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau”
Hoặc khi muốn diễn tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ
"hằng hà sa số". Nếu hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính
xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều. Cụm từ đó xuất hiện khi xưa Đức Phật
thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng ở Ấn Độ, cho nên khi cần mô tả
một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những
tiếng ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi đến chùa vào những
ngày sám hối, chùa thường chuyển những hồi trống bát nhã, nhân đó mà phát
sanh ra cụm từ trên. Thiền sư Toàn Nhật đời Tây Sơn trong cuốn Tam Giáo
Nguyên Lưu Ký, có phát biểu rằng:
“Và như sáu giặc trong mình,
Chẳng nên để nó tung hoành khuấy ta”
Còn nhiều từ ngữ khác như từ bi, giác ngộ, sám hối đã được người dân
Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ. Điều đó cho thấy Phật giáo đã làm rất
tốt tinh thần nhập thế của mình đối với đời. Cùng với sự mềm dẻo của người
Việt trong kết hợp giá trị văn hóa truyền thống với tôn giáo, một hệ giá trị
ngôn từ của Phật giáo được người Việt sử dụng hàng ngày. Từ đó ảnh hưởng
đến tính cách, tư tưởng của mình. Chính vì vậy, tinh thần nhập thế của Phật
giáo đã đi vào ca dao, thành ngữ, tục ngữ và ngay cả các tác phẩm văn học.
Trong văn học, Phật giáo cùng với văn hóa dân gian tạo nên “tôn giáo
dân gian” [9, tr. 316]. Đạo Phật xuất hiện từ tiếng hát ru của mẹ đến các tác
phẩm văn học nổi tiếng. Từ khi sinh ra, em bé lọt lòng đã được nghe tiếng
hát ru của mẹ:
“Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng được để giành kiếp sau”
22
Trong các câu chuyện cổ tích hay những chuyện thần thoại xuất hiện
một nhân vật mang đầy màu sắc huyền bí, đó là “Ông Bụt”. Ông Bụt chính là
Đức Phật, được phiên âm từ tiếng Phạn Buddha, dân gian gọi tắt là Bụt. Hình
tượng ông Bụt trong các câu chuyện là một ông già hiền như tiên, râu tóc bạc
phơ, luôn thường dạy người ta nên làm những việc tốt, sống đời lương thiện,
hiếu thảo với gia đình, rồi khi gặp khó khăn, gọi ông thì ông sẽ hiện ra giúp
đỡ. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đã đi sâu vào tâm thức của người Việt. Trong
mắt của họ, đạo Phật và những người theo đạo là người hiền lành, lương
thiện và sẵn sàng giúp đỡ những người ăn ở hiền lành, nhân hậu.
Thời Hậu Lê, dân gian lưu truyền câu Truyện “Quan Âm Thị Kính” đề
cao các hạnh trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục cùng cực. Ngoài ra chuyện còn
đề cập tới hai vấn đề là chữ “hiếu” và chữ “nhân” của người xuất gia theo
đạo Phật. Tiểu Kính Tâm tuy xuất gia nhưng lòng thương nhớ cha mẹ vẫn
tràn đầy. Chữ hiếu của người xuất gia được quan niệm là không chấm dứt
tình cảm với gia đình mà chỉ nâng tình cảm đó lên một bình diện rộng lớn
với một mức độ thắm thiết, sâu sắc và cao cả hơn. Quan niệm hiếu không chỉ
nhắm vào mỗi việc chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất mà còn
phải tìm mọi cách để độ cho cha mẹ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Kính
Tâm mặc dù bị Thị Mầu vu oan, chịu khổ sở, nhưng vẫn hết lòng nuôi con
Thị Mầu chu đáo, tận tình như nuôi con đẻ của chính mình. Bởi vì Đức Phật
dạy người xuất gia phải có lòng từ rộng lớn, phải thương yêu tất cả mọi
chúng sinh như là người mẹ thương yêu con ruột của mình. Đó là điển hình
cho chứ “nhân” mà Phật giáo muốn truyền đạt đến người dân. Như vậy bà
Thị Kính, tức tiểu Kính Tâm, xuất gia tu Đạo Phật đã đền đáp đầy đủ công
ơn cha mẹ, đồng thời lại giúp đời, cứu người. Cả hai chữ hiếu và chữ nhân
đều vẹn toàn. Tinh thần Phật Giáo đã là một ngọn hải đăng chói sáng hướng
dẫn cho bà Thị Kính trong hành trình vượt qua con sông mê để vươn tới bến
bờ giác ngộ, để bà Thị Kính trở thành tiểu Kính Tâm và sau đó tiểu Kính
Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm.
23
Phật giáo nhập thế ăn sâu vào tư tưởng của tầng lớp trí thức, ngay cả
các nhà nho. Nguyễn Trãi trong “Ức trai thi tập” có bài thơ về chùa Yên Tử
như sau:
“Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử
Trên non Yên Tử tròm cao nhất
Trời mới canh năm đã sáng tinh
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
Nói cười người ở giữa mây xanh
Muôn vàng giáo ngọc che gài cửa
Bao dải tua châu đá rủ mành
Dấu cũ Nhân Tôn còn vẫn đấy,
Trùng đồng thấy rữa ảnh quang minh”
Vua Lê Thánh Tông có bài thơ nôm về chùa Non Nước như sau:
“Nơi gọi bồng nơi gọi nhược,
Hai bên góp làm Non Nước
Đá chồng hòn thấp hòn cao
Sóng trục lớp sau lớp trước
Phật hư vô cảnh thiếu thừa.
Khách danh lợi buồm xuôi ngược,
Vẳng nghe trên gác boong boong
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước”
Phong tục tập quán trong dân gian cũng ảnh hưởng rất lớn bởi đạo
Phật, đặc biệt dưới triều Lý – Trần. Dưới thời Lý - Trần, xuất hiện phong tục
thờ các dị vật như cau nhiều thân, rùa nhiều đầu, ngựa nhiều móng, hổ, voi,
sen trắng, hươu trắng, hươu đen do ảnh hưởng từ trong Phật giáo. Đức Phật
khi ra đời gắn liền với những điềm báo như voi trắng, hoa sen, vầng hào
quang. Hơn nữa, dưới thời Lý - Trần, phần lớn các con vật được coi là lạ và
linh thiêng trong phong tục tập quán của người Việt thì đều mang màu trắng
được đặt ở vị thế cao quý, được thờ phụng ở mọi nơi như đình, đền, chùa. Ví
24
dụ, hình tượng voi trắng có nguồn gốc từ chuyện mẹ đức Thích Ca thấy voi
trắng chui vào mình mà hoài thai Phật. Con voi trắng linh thiêng có thể thay
cho con bò thần (trắng) Nadin, vật cưỡi của thần Shiva.
Bên cạnh đó, những phong tục tập, quán của người Việt như thờ cúng
tổ tiên cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Tục thờ cúng tổ tiên là tín
ngưỡng phổ biến nhất của người Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng,
linh hồn người chết vẫn tồn tại trong thế giới chúng ta và ảnh hưởng tới cuộc
sống của những người đang sống, đặc biệt là con cháu trong gia đình. Dưới
ảnh hưởng của Phật giáo, người chết được nhà chùa làm lễ cầu siêu và sau đó
được “gửi” vào chùa để đức Phật che chở. Tuy nhiên, dù linh hồn người chết
được gửi ở chùa nhưng quan niệm phù trợ, che trở cho con cháu vẫn giữ
nguyên trong dân gian. Bằng chứng rõ nét nhất là bàn thờ tổ tiên vẫn duy trì
ở các gia đình; vào ngày giỗ, anh em, thân tộc vẫn quy tụ về nhà trưởng tộc
để tưởng nhớ người đã mất.
Sự “giao duyên” giữa Phật giáo và tôn giáo dân gian còn thể hiện qua
các lễ hội. Trong hội làng, hội chùa có phong tục tập quán thả chim, là một
nghi lễ “phóng sinh” thể hiện tinh thần từ bi hỉ xả của nhà Phật. Ngược lại,
vào ngày mồng 8 tháng Tư (ngày Phật đản) hằng năm, tại các chùa đều tổ
chức lễ tắm Phật - vốn cũng là một lễ thức cầu nước truyền thống của dân
tộc được Phật giáo hóa. Sau lễ tắm Phật là lễ Phóng sinh.
Ngoài ra, văn hóa Phật giáo còn ảnh hưởng đến một số tập quán khác của
người Việt như tục ăn chay, tục đi lễ chùa vào các ngày Rằm, mồng Một. Tục ăn
chay phổ biến ở một bộ phận người Việt, đó là các nhà tu hành, Phật tử, những
tín đồ Phật giáo. Ăn chay xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo, đó là sự
yêu thương muôn loài. Theo Phật giáo, khi trở thành Phật tử, phải thọ giới và trì
giới, trong đó thọ giới quan trọng nhất là không được sát sinh loài vật. Theo đó,
người xuất gia ăn chay trường, còn Phật tử tại gia chỉ ăn chay kỳ. Hình thức ăn
chay phổ biến cho các đối tượng ăn chay kỳ là mỗi tháng hai ngày vào mồng
Một và ngày Rằm. Tục cúng Rằm, mồng Một là tập
25
tục cúng Sóc, Vọng, theo quan niệm truyền thống, vào thời điểm đó Mặt
Trời và Mặt Trăng thông suốt nhau, vì thế mà thần thánh, tổ tiên có thể liên
lạc, thông thương với con người để lắng nghe những lời cầu nguyện, ước
muốn của cõi giới khác. Đối với Phật giáo, đây cũng là ngày trong sạch để
các vị tăng, ni kiểm điểm hành vi của mình, còn gọi là ngày Bồ Tát và ngày
sám hối. Các tín đồ Phật giáo cũng về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu
nguyện, vứt bỏ điều ác, làm điều lành và sửa đổi tâm tính. Quan niệm ngày
Sóc, Vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay, xuất phát từ ảnh
hưởng của Phật giáo Đại thừa.
Tuy nhiên, ở nhiều gia đình vào những ngày này cũng mua hương,
hoa, quả để dâng cúng tổ tiên và kiểm điểm lại việc tu tâm, dưỡng tính của
từng cá nhân. Bên cạnh tập tục đi chùa sám hối vào ngày Rằm, mồng Một,
người Việt còn đi chùa lễ Phật vào những ngày Rằm tháng Giêng, Rằm tháng
Tư (Phật đản) và rằm tháng Bảy (Vu Lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu
không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Trong bối cảnh của sự
khoan dung, hòa hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, giữa giáo lý và thực
tiễn đời sống để hình thành lên một lối sống nhân sinh, nhân bảo cao đẹp. Từ
những ảnh hưởng đến phong tục tập quán, văn hóa Phật giáo đã góp phần
không nhỏ hình thành nên lối sống “từ bi, hỷ xả”, nhập thế tích cực của
người dân Đại Việt thời phong kiến.
Ảnh hưởng đến lối sống, văn hóa Phật giáo mang lại cho người dân
Đại Việt một lối sống dung dị. Đó là sự hòa quyện giữa triết lý nhân sinh từ
bi của Phật giáo và tư tưởng nhân ái cao cả của dân tộc với các đặc điểm sau:
Thứ nhất, lối sống nhân ái, đức thương người truyền thống của tổ tiên
chúng ta mang tính giới hạn ở cộng đồng quốc gia - dân tộc. Đó là tình
thương nảy nở trên cơ sở thực tiễn của đoàn kết chống kẻ thù xâm lược, thể
hiện qua câu: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì
thương nhau cùng”.
26
Thứ hai, lối sống nhân ái, đức thương người truyền thống của tổ tiên
chúng ta đặt trên nền tảng của thực tiễn hiện thực cố kết cộng đồng dân tộc
nhằm thực hiện sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược, cải tạo thiên nhiên, tạo
cuộc sống an lành, hòa bình.
Thứ ba, lối sống, cách sống nhân ái, thương người của truyền thống tổ
tiên chúng ta mang nặng tình cảm nhân ái. Không còn là hiện tượng cộng
hưởng mà đã đạt tới mức độ nâng cao tầm triết học của lối sống nhân ái Việt
Nam nhờ có sự hòa quyện với lối sống từ bi của Thiền tông.
1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện
nay Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong chính trị, tư tưởng xã hội
Sau cuộc Chấn hưng Phật giáo ở thế kỷ trước, hiện nay Phật giáo tiếp
tục giữ vị trí quan trọng của mình trong lòng xã hội Việt Nam. Trong bối
cảnh xã hội ngày một phát triển, đời sống con người ngày một tiến bộ nhưng
cũng nảy sinh rất nhiều bất cập như diễn biến hòa bình, suy thoái đạo đức,
biến đổi khí hậu,… đang đe dọa đến an nguy của con người trong đó có Việt
Nam, vai trò của Phật giáo nhập thế rất quan trọng đặc biệt là ở mặt tư
tưởng. Ảnh hưởng của Phật giáo đã đạt được rất nhiều thành quả to lớn.
Về chính trị, đại hội Phật giáo năm 1981 được tổ chức sau khi Phật
giáo Việt Nam được thống nhất trong Tổ chức chung là Giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã đề ra phương châm hoạt động là “Đạo pháp - dân tộc và Chủ
nghĩa xã hội. Từ đó đề ra 6 điểm trong chương trình hành động như sau:
“1. Thực hiện hợp tác hòa hợp dân tộc giữa các hệ phái phật giáo giữa
Tăng Ni; Phật tử
2. Truyền bá Chánh pháp và nêu rõ tính tích cực của Phật giáo
3. Thiết lập một hệ thống giáo dục cho Tăng, Nivà một lối sống đúng
đắn cho các Phật tử
4. Tăng cường truyền thống yêu nước của phật giáo Việt Nam, mối
liên hệ gắn bó của Phật giáo đối với nhân dân và sự đóng góp tích cực của
Phật giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
27
5. Ổn định kinh tế nhà chùa để cải thiện điều kiện sinh hoạt của Tăng,
Ni và đóng góp tạo phồn vinh cho đất nước
6. Tăng cường mối liên hệ hữu nghị với Phật tử và các tổ chức Phật
giáo trên thế giới, tham gia xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại”
[22, tr. 210].
Sự kiện này đánh dấu bước phát triển đặc biệt của Phật giáo Việt nam
sau thời gian phân tán và chia rẽ. Phương châm hoạt động và sáu điểm cho
thấy Phật giáo tiếp tục nhập thế tích cực trước những vấn đề của dân tộc
cũng như trên thế giới.
Phật giáo vốn không chủ trương về chính trịmà chủ trương hướng đến
giải thoát nhân sinh. Nhưng Đức Phật lại quan tâm đến sự bình an của nhân
dân nên Ngài đã đưa ra phương pháp làm chính trị: “Người lãnh đạo Quốc
gia là người biết đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên trên lợi ích cá
nhân, không được lợi dụng địa vị của mình để hưởng thụ”. Tư tưởng trị nước
của Đức Phật hoàn toàn trùng với tư tưởng của một Đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam. Hiện nay, có nhiều cao tăng tham gia vào hệ thống chính trị
các cấp như Đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân các
cấp, góp tiếng nói trong việc ban hành chính sách của Nhà nước. Giáo hội
phật giáo Việt Nam là cơ quan biểu hiện cho tiếng nói của Tăng Ni, Phật tử,
đây cũng được coi là tổ chức tôn giáo chính thống và hợp pháp trong hệ
thống chính trị Việt Nam. Nhiều Phật tử tích cực tham gia công cuộc xây
dựng xã hội mới trong các đoàn thể, hiệp hội được tổ chức tại địa phương.
Với một cán bộ cộng sản trong thời kỳ hội nhập và phát triển, đức tính của
Phật giáo như cần kiệm, kiên định, bình đẳng bác ái rất cần thiết. Chính sách
bình đẳng và tự do tôn giáo của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam giúp
cho Phật giáo có thể chủ động hơn trong quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước.
Tuy nhiên những diễn biến của đất nước trong thời đại mới rất phực tạp và
tinh vi đòi hỏi các Tăng Ni, Phật tử phải có cái nhìn kiên định, tránh sự lợi
dụng của kẻ thù.
28
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang là xu hướng chính,có rất nhiều
nguồn văn hóa ngoại lai được du nhập vào. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp,
văn hóa ngoại lai đã khiến cho nhiều người có tư tưởng lệch lạc, chạy theo
lợi ích vật chất mà lãng quên đi giá trị tinh thần. Làm cho con người chìm
đóng trong tham – sân – si, mờ mắt bởi dục vọng. Từ đó, phật giáo đóng vai
trò quan trọng trong sự định hướng tư tưởng xã hội. Phật giáo lấy giải thoát
nhân sinh làm trọng tâm và làm mục tiêu hướng tới. Chính vì những mục
đích tốt đẹp mà Phật giáo muốn hướng đến, các tín đồ Phật tử đến chùa tu
học ngày một đông. Đa phần các tín đồ đến đây để tìm sự yên bình, làm cho
thân tâm được thanh thản. Sở dĩ họ cảm thấy như vậy vì những triết lý nhân
sinh của Phật giáo đã giúp ta định hướng trong tư tưởng, lấy việc hành thiện,
tu tâm làm tôn chỉ trong hành động và suy nghĩ hàng ngày.
Phật giáo nhập thế trong giáo dục đạo đức, lối sống
Từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta cho đến nay, tư tưởng của Phật
giáo hòa quyện với tín ngưỡng dân gian tạo nên giá trị truyền thống độc đáo
tồn tại và ảnh hưởng cho đến tận ngày nay.
Việt Nam đã và đang đạt được những tiến bộ vượt bậc kinh tế, khoa
học kỹ thuật... nhưng mặt trái của nền công nghiệp, của kinh tế thị trường
làm cho “môi trường nhân văn” bị ô nhiễm trầm trọng. Đạo đức, lối sống của
nhiều người bị suy thoái, nhiều biểu hiện của lối sống xa lạ, trái với thuần
phong mỹ tục trong một bộ phận cộng đồng dân cư diễn ra ngày càng phổ
biến, đặc biệt là ở giới trẻ, học sinh – sinh viên. Họ có thiên hướng đề cao cá
nhân, sống ích kỷ, lạnh lùng, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm.
Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và học sinh, sinh viên nói
riêng phạm pháp đang gia tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ tội lỗi ngày
càng nghiêm trọng. Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở chốn học
đường gần đây khiến cho chúng ta không thể làm ngơ. Theo thống kê cho thấy
55 – 65% số người phạm tội ở nước ta những năm gần đây là thanh, thiếu niên,
trong đó có không ít học sinh, sinh viên. Theo kết quả điều tra gần
29
đây của Viện nghiên cứu và phát triển Giáo dục Việt Nam, ta có bảng thống
kê sau:
Biểu hiện vi phạm Tiểu học Trung học cơ sở Trung học Cao đẳng,
phổ thông Đại học
Tỉ lệ đi học không
20% 21% 58% 85%
đúng giờ
Tỉ lệ quay cóp 8% 55% 60% 69%
Tỉ lệ nói dối cha mẹ 22% 50% 64% 83%
Tỉ lệ vi phạm Luật
4% 35% 70% 84%
giao thông
Đây là những con số đáng báo động cho thế hệ trẻ. Bởi vì, thanh niên
là chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một
phần là do thanh niên. Chính vì vậy, cần có các biện pháp để giảng dạy đạo
đức cho giới trẻ.
Trước tình hình trên, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc giáo
dục đạo đức, lối sống của thời trẻ hiện nay bằng các giáo lý, tư tưởng tiến bộ
như:
Tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo hướng con người đến việc xây
dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần hướng thiện thực sự.
Đây là một trong những quan niệm giá trị nhất của Phật giáo. Nó không chỉ
giúp con người sống cuộc đời đạo đức, lành mạnh mà còn giúp ngăn ngừa và
vượt qua các tệ nạn xã hội; đồng thời nó kích thích con người yêu thương lẫn
nhau và làm nhiều việc thiện.
Tư tưởngbình đẳng,ôn hòa,tôn trọng lẫn nhau: Tư tưởng bình đẳng trong
những lời dạy của Đức Phật Thích Ca là một trong những điều tốt đẹp và tiến bộ
cho nền Phật học ngày nay. Một trong những lời bình dị đơn giản của Đức Phật
Thích Ca đã nói, nhưng ít ai để ý đến đó là: "Một người trở nên cao quý hay thấp
kém là do ba nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà
30
họ sinh ra" [40, tr. 2]. Vì vậy mọi người đều xuất phát điểm như nhau, không
nên phân biệt, kì thị nhau.
Phật giáo hướng con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi trường
bền vững: Phật giáo đưa chúng ta tới một thái độ đúng hơn đối với vấn đề
môi trường, một trong những vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta. Trong
lời răn không được hủy diệt cuộc sống thì quyền sống của thú vật và cây cỏ
cũng được tôn trọng như con người. Thiên nhiên không những lệ thuộc vào
con người, mà ngược lại con người cũng lệ thuộc vào thiên nhiên.
Hiện nay trên cả nước có “165 cơ sở tuệ tĩnh đường, hàng trăm phòng
chẩn trị y học dân tộc, có trên 10 phòng khám Tây y, Đông Tây y kết hợp đã
khám và phát thuốc miễn phí cho hàng trăm bệnh nhân có hoàn cảnh khó
khăn. Trên 1000 lớp học tình thương, 36 cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú,
nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật,.. với trên 20000 em, trên 20 cơ sở nhà dưỡng
lão, nuôi dưỡng trên 1000 cụ già và có khoảng 10 trường dạy nghề miễn phí”
[22, tr. 161]. Hiện nay, hình thức từ thiện được xem là hoạt động nhập thế
nổi bật của đạo Phật lên đã được nhân rộng ra cả các Phật tử trong và ngoài
nước. Từ đó đã mang lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, giúp mọi người xích lại gần
nhau hơn tăng khối đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, việc đi làm từ thiện còn
giúp cho bạn bạn trẻ thay đổi tâm tính, có tình yêu thương và làm cuộc sống
trở lên ý nghĩa hơn.
Đứng trước biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một số bộ phận
giới trẻ hiện nay như: hiện tượng bạo lực học đường, tệ nạn xã hội, lối sống ăn
chơi đua đòi, hưởng thụ,đã có nhiều cơ sở chùa và thiền viện tổ chức khóa tu tập
cho giới trẻ. Việc tổ chức các khóa tu này giúp cho các em hiểu được lẽ phải và
thay đổi tâm tính. Khóa tu thường diễn ra vào mùa hè trong khoảng một tuần.
Đến đây, các em được sống cuộc sống như một người tu học thiết thực. Được
dạy về cuộc đời đức Phật, giáo lý Phật giáo như kinh Nhân Quả, kinh Vu Lan,
tham gia các hoạt động nhằm phát triển bản thân. Điều này giúp các bạn trẻ phát
triển toàn diện và biết đi theo chính pháp.
31
Giáo dục Phật giáo giàu tính nhân bản, luôn hướng đến mục tiêu đào
tạo con người hướng thiện, có niềm tin chân chính, đem đến lợi lạc cho bản
thân, cùng cộng đồng chung tay xây dựng gia đình hòa thuận, văn minh và
giàu đẹp.
Phật giáo nhập thế trong vấn đề gia đình
Trong xu thế hội nhập và bối cảnh kinh tế, xã hội ngày càng phát triển
đa dạng. Đời sống được nâng cao, con người có điều kiện trau dồi kiến thức.
Tuy nhiên, mặt trái của nó là đạo đức trong gia đình, cơ quan, trường học
xuống cấp nghiêm trọng; xu hướng tranh giành quyền lợi làm ảnh hưởng đến
lối sống của gia đình. Những biến đổi về xã hội đang tác động làm thay đổi
cơ cấu gia đình và đặt ra nhiều vấn đề mới, tình trạng ly hôn, ly thân, bạo lực
có xu hướng tăng.
Theo số liệu từ viện nghiên cứu gia đình và giới, trung bình trên cả
nước có 60.000 vụ ly hôn/năm, tỉ lệ 30%, tức là 10 cặp vợ chồng thì có đến 3
cặp ly hôn, có xu hướng tăng. Điều đáng nói 70% các vụ ly hôn đều thuộc về
các vợ chồng trẻ, trong đó có tới 60% ly hôn sau khi kết hôn từ 1 đến 5 năm.
Nguyên nhân do mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu chiếm
27.7%, ngoài ra còn có các yếu tố: Ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo
lực gia đình (6.7%), sức khỏe (2.2%), xa nhau lâu ngày (1.3%). Hệ quả của
các cuộc ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến gia đình, người thân mà còn cả xã
hội. Ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là những đứa con thiếu đi tình yêu thương
chăm sóc của người bố hoặc mẹ, thậm chí là cả hai. Những đứa trẻ như vậy
không được phát triển hoàn thiện, tuổi thơ không hạnh phúc làm cho nhiều
em bị mắc bệnh tự kỷ, trầm cảm, một số em trở nên hư hỏng. Đây là một
trong những nguyên nhân làm cho tệ nạn xã hội gia tăng. Không chỉ vậy, tỷ
lệ ly hôn lớn còn cho ta thấy một thực trạng là các giá trị truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt đang bị mai một.
Phật giáo can thiệp vào vấn đề gia đình thông qua nghi lễ Hằng Thuận.
Nghi lễ này xuất hiện lần đầu ở Việt Nam trong phong trào Chấn hưng Phật
32
giáo ở thế kỷ XX. Với mục đích đưa giáo lý Phật giáo vào cuộc sống gia đình
nhằm giảm bớt tỷ lệ ly hôn, khôi phục, giữ vững và phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt. Lễ Hằng Thuận được tổ
chức ở rất nhiều nơi như chùa Bằng, chùa Yên Phú, Thiền viện Sùng Phúc
ở Hà Nội, chùa Thiên Phúc ở Ninh Bình, Thiền viện Trúc Lâm ở Yên Tử,..
1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận
Lễ Hằng Thuận bắt nguồn từ khi Đức Phật còn tại thế. Có một lần Đức
Thế Tôn trở về thăm Vương thành Ca Tì La Vệ. Một ngày đặc biệt trong
chuyến về lại cố hương của Đức Thế Tôn, gặp dịp cả kinh thành chuẩn bị
làm lễ thành hôn cho Vương tử Mahanam, có thỉnh Đức Thế Tôn và Tăng
đoàn vào hoàng cung chứng minh cho hôn lễ. Và từ nhân duyên đó, Đức Thế
Tôn dạy người làm chồng phải sống như thế nào để họ hàng nhà vợ tôn
trọng, chấp nhận. Người chồng phải có trách nhiệm với họ hàng nhà vợ làm
sao, trách nhiệm với vợ con trong tương lai như thế nào? Cũng như vậy,
phận làm dâu đối với họ hàng nhà chồng và trách nhiệm đối với người chồng
và những đứa con mình trong tương lai. Đức Phật dạy, điều quan trọng nhất
là hai người gặp nhau và chọn nhau làm bạn đời, có nghĩa là cả hai sẽ cùng
đi bên nhau trọn đời; cùng đối diện với những nghiệp chướng của cuộc đời;
cùng chia sẻ với nhau những gian khó trước những khúc quanh của đời
người; cùng nâng đỡ nhau tạo thiện nghiệp, khuyên can nhau dứt trừ ác
nghiệp và luôn tùy thuận với nhau để cùng tu tập. Mượn nhân duyên vợ
chồng để đồng làm pháp lữ tạo thiện nghiệp. Vui cũng thuận, buồn cũng
thuận. Thành công cũng thuận, thất bại cũng thuận. Giàu cũng thuận, nghèo
kém cũng thuận. Thế nên được gọi là lễ Hằng Thuận nghĩa là, luôn thuận bên
nhau suốt cả cuộc đời. Cho dù nắng hay mưa, hạnh phúc hay đau khổ. Kể từ
đó, trong Phật giáo mới tổ chức lễ Hằng Thuận quy y. Tuy nhiên, lễ cưới
trong chùa không có văn bản hoàn chỉnh trong giáo lý. Khác với đạo Thiên
Chúa, người theo đạo Thiên Chúa lấy chồng/vợ đều bắt buộc phải tổ chức lễ
cưới tại nhà thờ với sự chứng minh của Chúa. Còn với Phật giáo thì tùy vào
duyên mỗi người có nguyện vọng hay không.
33
Ở Việt Nam, chưa có tài liệu nào khẳng định lễ Hằng Thuận ra đời vào
thời điểm nào, do ai đặt ra, ai là người đầu tiên đến chùa làm lễ Hằng Thuận.
Phải chăng, lễ Hằng Thuận chỉ là sự kiện nhỏ trong một thời kỳ đầy biến
động của Phật giáo nên đã dần phai mờ đi trong ký ức của mọi người. Trong
bản Nghi thức lễ thành hôn của Hòa thượng Thích Thiện Hòa, được viết và
in thành sách sớm nhất năm 1971, trong đó, hai chữ "Hằng Thuận" được Hòa
thượng nhắc đến một lần duy nhất ở phần hồi hướng: "Hằng Thuận công đức
thì thắng hạnh", hai bản còn lại không hề nhắc đến chữ này. Vậy phải chăng
Hòa thượng Thiện Hòa là người đầu tiên xác nhận "Hằng Thuận" chính là
nghi thức cử hành hôn lễ tại chùa bằng văn bản. Còn đối với Hòa thượng
Đào Như – Ủy viên Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội phật giáo Việt Nam,
Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Cần Thơ, theo ông
“Truyền thống xa xưa của người Khmer Nam bộ cũng như nhân dân các
nước Phật giáo Nam tông, tất cả Phật tử khi thành hôn đều có lệ thỉnh chư
Tăng tổ chức lễ Chúc phúc cho tân lang, tân nương và hai họ với nội dung
tương tự như lễ Hằng Thuận của Phật tử người Việt”.
Các tư liệu sử chính thống cho rằng, người khởi xướng ra nghi lễ Hằng
Thuận là ông Đồ Nam Tử. Ông tên thật là Nguyễn Trọng Thuật (1883 -
1940) quê ở Hải Dương. Ông vốn là một nhà Nho, sau ông chuyển qua đạo
Phật và là người cổ vũ phong trào Chấn hưng Phật giáo nước nhà. Ông Đồ
Nam Tử cho rằng đạo Phật nên được dấn thân và hoà hợp vào quần chúng.
Vào năm 1930, bác sỹ Tâm Minh, hay còn gọi là Lê Đình Thám là một trong
những cư sĩ tiên phong và có công rất lớn trong công cuộc Chấn hưng Phật
giáo vào những thập niên đầu thế kỷ XX, người sáng lập nên Đoàn Thanh
niên Phật học Đức dục gia đình Phật hóa phổ (1940), tiền thân của Gia đình
Phật tử (1951) đã tổ chức lễ cưới cho con gái đầu lòng là bà Lê Thị Hoành
với ông Hoàng Văn Tâm tại chùa Từ Đàm, Huế. Có thể nói đây là lễ cưới
đầu tiên trước cửa Phật được chư Tăng chứng minh. Hưởng ứng theo lời kêu
gọi của ông Đồ Nam Tử, vào năm 1971 Hoà thượng Thích Thiện Hoa đã
dùng hai chữ Hằng Thuận để chỉ việc kết hôn trước cửa Phật.
34
Qua những điều trình bày trên, có thể nhận thấy lễ Hằng Thuận là một
tập tục đã có từ lâu trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Phật tử, có ý nghĩa
rất quan trọng trong ngày thành hôn của đôi bạn trẻ, mà chư Tăng Ni đã
khuyến khích các bậc phụ huynh nên tích cực động viên và hướng dẫn con
em của mình khi kết hôn về chùa đăng ký tổ chức lễ Hằng Thuận. Mục đích
chính của lễ Hằng Thuận là làm thế nào để cho đôi vợ chồng ý thức được
tầm quan trọng của nền tảng đạo đức tâm linh trong đời sống gia đình, để từ
đó hướng đến một đời sống hôn nhân thật sự an lạc hạnh phúc. Để thực hiện
được điều này, trước hết, đôi vợ chồng phải hết lòng yêu thương nhau, chung
thủy, tôn trọng, quý kính lẫn nhau và luôn luôn hòa thuận với nhau, cùng
nhau hướng đến những điều thánh thiện và cao thượng trong cuộc sống như
hàm nghĩa của hai từ Hằng Thuận đã toát lên. Đó cũng là ý nghĩa của "chiếc
nhẫn" (được cô dâu chú rể trao nhau trong lễ Hằng Thuận) mà tổ tiên ta đã
nêu ra cho mọi người noi theo, cho đôi nam nữ hiểu được ý nghĩa của đời
sống lứa đôi trong tinh thần yêu thương hòa kính theo những lời Phật dạy,
cũng chính là trọng tâm ý nghĩa của buổi lễ, thật sự có tác động mạnh trong
đời sống tâm linh của đôi nam nữ sau này. Trong ngày trọng đại này, sẽ là
bước khởi đầu đầy ý nghĩa cho những ai chuẩn bị bước vào đời sống hôn
nhân nếu được sự chứng minh, chúc phúc và gửi gắm những đạo lý, kinh
nghiệm sống xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc của các bậc đức hạnh. Đây
thật sự là một nghi lễ vô cùng quan trọng đối với người Phật tử.
Tiểu kết chương 1
Từ khi du nhập vào nước ta, Phật giáo luôn thể hiện tinh thần nhập thế
của mình trong mọi mặt. Phật giáo đồng hành cùng nhân dân trong lịch sử
dựng nước và giữ nước. Thời Bắc thuộc có Lý Nam Đế với chùa Khai Quốc
và thiền sư Khuông Việt. Thời lý có thiền sư Vạn Hạnh, người góp công
không nhỏ lập ra nhà Lý.thời Trần có Phật hoàng Trần Nhân Tông nổi tiếng
với “cư trần lạc đạo thả tùy duyên”. Sang đến thời nhà Lê, Nguyễn, mặc dù
nhà nước không có chính sách đề cao phật giáo nhưng Phật giáo vẫn có chỗ
Đã định dạng: Ở tâm
Đã định dạng: Phông: Đậm
35
đứng vững chắc trong lòng xã hội. Thời kỳ chống Pháp, Mỹ, tinh thần nhập
thế được phát huy cao độ. Biểu hiện trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở
thể kỷ XX và tinh thần “cởi áo cà sa khoác chiến bào” thời chống Pháp. Nổi
bật lên là phong trào chống Mỹ - Diệm trong thời kỳ chống Mỹ, Phật giáo đã
góp phần không nhỏ vào sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong suốt 2000 năm du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã
để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống xã hội Việt Nam từ những sự kiện trọng
đại của đất nước đến những điều bình dị nhất có trong dân gian. Phật giáo
nhập thế có trong những câu chuyện cổ tích với ông bụt luôn giúp đỡ người
lương thiện, ngay cả trong ngôn ngữ hàng ngày như từ “tội nghiệp”. Xuất
hiện trong thơ ca của các nhà trí thức lớn như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi,
ngay cả trong các vở chèo như Quan Âm thị kính. Như vậy, Phật giáo nhập
thế ở Việt Nam là một nét đặc trưng, một xu hướng không thể không xảy ra.
Ngày nay, Phật giáo nhập thế tiếp tục khẳng định vai trò của mình
trong tất cả các mặt đời sống xã hội. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa, bên
cạnh các thuận lợi, Phật giáo đã ảnh hưởng đến tất cả khía cạnh trong xã hội
như: Tích cực hội nhập quốc tế, tổ chức từ thiện giúp dân có hoàn cảnh khó
khăn, tham gia giáo dục phong cách sống, Vấn đề gia đình hiện nay đang là
vấn đề xã hội quan tâm khi tỷ lệ ly hôn quá lớn. Như một xu hướng tất yếu,
lễ Hằng Thuận đang ngày một phát triển. Xuất hiện từ phong trào Chấn hưng
phật giáo đầu thế kỷ XX, hiện nay lễ Hằng Thuận đang trở thành xu hướng
của giới trẻ, được rất nhiều gia đình tổ chức. Từ đó, Phật giáo thể hiện tinh
thần nhập thế của mình trong việc giải quyết vấn đề gia đình.
Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới
được tổ chức trang nghiêm trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận
trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật,
cùng với những định hướng với mục đích giúp cho gia đình hòa thuận, êm
ấm, giữ vững phong tục tập quán của người Việt. Xuất hiện từ phong trào
Chấn hưng Phật giáo. Cho đến nay, lễ Hằng Thuận đã ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống gia đình của người Việt.
36
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc

More Related Content

Similar to 60.Khóa luận li hôn.doc

Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...
Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...
Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...nataliej4
 
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - TrầnLuận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - TrầnViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN OnTimeVitThu
 
Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...
Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...
Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...
LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...
LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...OnTimeVitThu
 
Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975
Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975
Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975OnTimeVitThu
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...OnTimeVitThu
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...HanaTiti
 
Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...
Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...
Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...Man_Ebook
 
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...OnTimeVitThu
 

Similar to 60.Khóa luận li hôn.doc (20)

Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...
Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...
Sự dung hợp phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất và Quốc...
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
 
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện...
 
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - TrầnLuận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
 
Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...
Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...
Sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế chúc thánh tại tỉnh Đồng Na...
 
LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...
LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...
LUẬN VĂN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH TẠI TỈ...
 
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
 
Tieu luan Phat giao
Tieu luan Phat giaoTieu luan Phat giao
Tieu luan Phat giao
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
 
Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975
Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975
Khóa luận tốt nghiệp Phật giáo ở Quảng Nam giai đoạn  1930 đến 1975
 
BÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAY
BÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAYBÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAY
BÀI MẪU Khóa luận quản lý nhà nước về Tôn Giáo, HAY
 
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO Ở QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 1930-1975
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Ở Xã ...
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
 
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂMBÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
 
Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...
Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...
Chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và việc thực hiện chính...
 
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAYLuận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
 
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜ...
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 

Recently uploaded (19)

BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 

60.Khóa luận li hôn.doc

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ------------------ TẠ THU HẰNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864 DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864 MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X HÀ NỘI, 2019
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ------------------ TẠ THU HẰNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Hà Thị Bắc Bảng đã định dạng Đã định dạng: Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm, Khoảng cách Sau: 10 pt Đã định dạng: Trái, Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0 cm, Khoảng cách Sau: 10 pt
  • 3.
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Bắc. Các tư liệu, tài liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Tạ Thu Hằng
  • 5. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình đại học và viết khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN, đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa Triết học – những người dạy dỗ, chỉ bảo cho tôi trong suốt 4 năm qua. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hà Thị Bắc, người đã dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng song khóa luận vẫn còn có những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Tạ Thu Hằng
  • 6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ VÀ LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO........................................... 7 1.1. Các khái niệm cơ bản...................................................................7 1.1.1. Khái niệm nhập thế ................................................................7 1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế ..................................................9 1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận .....................................................11 1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam .....................12 1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử 12 1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện nay ...27 1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận ..............................................33 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY.............................37 2.1. Biểu hiện của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay. ........................................................................................37 2.1.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận thông qua việc thực hiện các giáo lý, giáo luật. .................................37 2.1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận qua nghi lễ, tổ chức ............................................................................49 2.1.3. Biểu hiện tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận thông qua tác động của lễ Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình ...................57 2.2. Ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay..................................................................................66 2.2.1. Lễ Hằng Thuận – cầu nối giữa đạo và đời................................66 2.2.2. Thực hiện lễ Hằng Thuận góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong hôn nhân, gia đình của người Việt.............................69 KẾT LUẬN........................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................79
  • 7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi du nhập vào nước ta, đạo Phật đã nhanh chóng ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của người dân, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt trong đời sống xã hội. Dưới các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, tinh thần nhập thế của Phật giáo đã lấn át những ảnh hưởng vốn có vị thế vững vàng của Nho giáo trong đời sống xã hội đương thời, bằng chứng là các vị cao Tăng đạo hạnh và có uy tín của Phật giáo đã đứng ra đảm nhận vai trò quân sự, cố vấn triều đình lèo lái con thuyền dân tộc. Thời nhà Đinh, thiền sư Ngô Chấn Lưu được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống, ban hiệu là Khuông Việt Thái Sư, đứng đầu Phật giáo thời bấy giờ, điều này cho thấy triều đại nhà Đinh đã chính thức công nhận nhân sự của Phật giáo trực tiếp tham gia chính sự trong vai trò chỉ đạo tâm linh. Thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành đã cho mời hai thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh làm cố vấn chính trị, thiền sư Vạn Hạnh được vua Lê Đại Hành đích thân xin ý kiến về cuộc kháng chiến chống quân Tống vào năm 980. Sang thời nhà Lý, thiền sư Vạn Hạnh đã cố vấn vua Lý Công Uẩn dời đô từ kinh thành Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày nay, biến nơi đây thành một trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội. Đến thời nhà Trần, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm và Giáo hội Trúc Lâm, đã đánh dấu thời kỳ mở đầu của tổ chức Giáo hội Phật giáo độc lập và thuần Việt tại nước ta, khẳng định vị thế vững vàng của Phật giáo trong lòng dân tộc. Hiện nay, tinh thần nhập thế của phật giáo vẫn được phát huy mạnh mẽ. Phật giáo Việt Nam hôm nay đã có nhiều Phật sự ích đời, lợi đạo. Thông qua hoằng dương Phật pháp, Phật giáo Việt Nam đã đưa đến cho người dân tư tưởng sống trong Chính pháp, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, làmtròn nghĩa vụ của người công dân, tích cực thamgia các hoạt động nhân đạo, thực 1
  • 8. hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới văn minh tiến bộ. Trên con đường hành đạo của mình, Phật giáo Việt Nam đã tích cực tham gia các phong trào như đền ơn đáp nghĩa, tri ân các thương binh liệt sĩ, gắn liền với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Tham gia các chiến dịch nhân đạo ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; các công tác từ thiện, nuôi dưỡng, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng chất độc da cam, nuôi dạy trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. Tinh thần nhập thế của Phật giáo xuất hiện ngay cả trong đời sống xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. Trong gia đình, hiện tượng ly hôn, ly thân, bạo lực gia đình,.. diễn ra ngày càng nhiều, nhất là ở các cặp vợ chồng trẻ. Trước tình hình đó, Phật giáo nhập thế đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội thì nay càng phải nhập thế vào thế tục nhiều hơn. Một trong những tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Việt nam hiện nay là thông qua lễ Hằng Thuận.Đây là nghi lễ đặc biệt dành cho lễ cưới được tổ chức tạichùa.Ngoàinghilễ truyền thốngcủa đámcướinhư tuyên bố lý do,trao nhẫn cưới, nhận những lời chúc phúc của hai họ thì nghi thức của lễ Hằng Thuận trong ngày cưới mang đậmdấu ấn đạo đức tâmlinh và trí tuệ của đạo Phật cùng vớinhững định hướng cụ thể giúp cho đôi vợ chồng có những kiến thức cần thiết về cuộc sốnghônnhân,gia đình,từđó nhận thứcrõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợicủa vợ chồng và sốnglạc quan hơn trên tinhthầngiác ngộ.Hiện nay, lễ Hằng Thuận giành đượcsựquantâmrất lớn từ các bạn trẻ và là một trong những khía cạnh được Giáo hộiPhật giáo rất quan tâm đến. Có thể coi đây là nghi lễ mang bản sắc văn hóa của dân tộc và cũng chứa đựngnhiều tư tưởngtiến bộ của Phật giáo. Tinh thần nhập thế tronglễ Hằng Thuận được thể hiện rõ nét trong nghilễ và cả giáo lý của lễ Hằng Thuận,ngàycàngcó tác động tích cực đến cuộc sống hôn nhân của nhiều gia đình trẻ ở Việt Nam. Xuất phát từlý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề “Tinh thầnnhập thế trong lễ Hằng Thuậncủa Phật giáo ở Việt Nam hiện nay” làmluận văn tốt nghiệp với mong muốn tìmhiểu rõ Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt 2
  • 9. hơn những ảnh hưởng của tinh thần nhập thế của Phật giáo thông qua lễ Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phật giáo là một tôn giáo lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa, xã hội của Việt Nam. Vì vậy khá nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu về Phật giáo nói chung và tinh thần nhập thế của Phật giáo nói riêng. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu về lễ Hằng Thuận nói chung và tinh thần nhập thế của lễ Hằng Thuận nói riêng vẫn còn khá ít, mà chủ yếu là các bài viết đề cập tới vấn đề này từ các góc độ khác nhau song chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, liên quan đến đề tài có một số công trình tiêu biểu sau: Về Tinh thần nhập thế của Phật giáo, Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội nhân văn số 1/2003) đã chỉ ra tinh thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ ràng ở hai khía cạnh: “dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành đạo”. Tác giả nhấn mạnh “tại thế gian giác” - việc giác ngộ thế gian, hiểu rõ thế gian của người tu sĩ Phật giáo. Tác giả Đới Thần Kinh với “Thế tục hóa và thần thánh hóa” đã xuất phát từ phân tích khái niệmthế tục hóa của tôn giáo nói chung khi các tôn giáo đều có xu hướng chuyển từ lấy thần thánh làm trung tâm sang lấy con người và xã hội loài người làmtrung tâm, từ đó đi đến khẳng định xu hướng của Phật giáo ở châu Á là Phật giáo nhập thế. Tác giả dường như đã đồng nhất khái niệm “nhập thế” với khái niệm “thế tục hóa” và kết luận “dưới sự chỉ đạo của tinh thần nhập thế, các tôn giáo tích cực tham gia bảo vệ hòa bình thế giới, thúc đẩy các công cuộc phát triển xã hội, phục vụ xã hội”. Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với bài viết “Vài nét về vấn đề “nhập thế” của Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê” trong Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước (Nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 31- 39) đã định nghĩa nhập thế với hai ý: đem đạo vào đời và đem đời vào đạo, cách hiểu này đã phản ánh được phần nào khái niệm nhập thế. 3
  • 10. Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Toan với tên đề tài: “Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông” đã chỉ ra được tinh thần nhập thế của Phật giáo ngay từ buổi đầu của Đức Phật Thích Ca và tinh thần nhập thế của Việt Nam trong tất cả khía cạnh văn hóa, xã hội. Đồng thời làm sáng tỏ các giá trị trong Tinh thần Nhập thế Trần Nhân Tông. Tác giả Đỗ Quang Hưng với“Phật giáoViệt Namtrong bối cảnh hộinhập và toàn cầu hóa”.Trongbàiviết này,tác giả đã rất đề cao vai trò của Phật giáo trong xã hộihiện đại và những thayđổicủa Phật giáo nóichung chophùhợp vớithời đại mới, từ đó chỉ ra nhiệmvụ của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách do tác giả Nguyễn Kim Sơn làm chủ biên xuất bản năm 2018 với Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại. Cuốn sách tổng hợp các bài viết tham luận của nhiều học giả về tinh thần nhập thế của Phật giáo. Trong đó khái niệm nhập thế, vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo nhập thế được rất nhiều tác giả quan tâm và trình bày trong cuốn sách này. Nhìn chung,các tác giả khi nghiên cứu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam đều nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái niệm “nhập thế” không đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương Tây. Về lễ Hằng Thuận, có một số công trình tiêu biểu sau: Trong cuốn Nghi thức lễ Hằng Thuận của Tỳ kheo Thích Chơn Không xuất bản năm 2014 là một công trình được biên soạn rất công phu dành cho thanh niên nam nữ Phật tử khi thành hôn. Trong đó có giới thiệu nghi thức truyền Tam quy Ngũ giới ngắn gọn xúc tích phù hợp với lễ Hằng Thuận và nhiều tiết mục quan trọng khác, để chư Tôn đức Tăng Ni Trụ trì các tự viện tham khảo hướng dẫn cho hàng Phật tử tại gia khi thành hôn. Cuốn sách Những nét văn hóa đạo Phật của hòa thượng Phụng Sơn xuất bản năm 2015 nói về những đóng góp của Phật giáo trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, lễ Hằng Thuận được thầy nói đến là một nghi lễ trong truyền thống văn hóa của người Việt. 4
  • 11. Trong cuốn sách Đám cưới người Việt xưa và nay (2014), Bùi Xuân Mỹ đã mô tả và xem "đám cưới tại chùa" là một trong những đámcưới “đặc biệt”. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Hạnh với tên đề tài “ Lễ Hằng Thuận trong cưới hỏi ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm và nghi thức tổ chức lễ Hằng Thuận trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua luận văn có thể biết được nguồn gốc, diễn trình và vai trò của lễ Hằng Thuận. Đề tài về lễ Hằng Thuận hiện nay chủ yếu được nghiên cứu từ các nhà sư, nhà Phật học nên nguồn tài liệu vẫn chưa phong phú, chỉ được công bố trong phạm vi Phật giới. Trong giới hạn của một số bài viết ngắn, bài báo tạp chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng, một số tác giả chưa đi sâu vào từng vấn đề cụ thể, chưa lý giải nhiều về nghi lễ. Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả đi sâu vào tìm hiểu vấn đề “Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáoViệt Nam hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của khóa luận là: Trên cơ sở làmrõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đề tài tiếp tục phân tích, làmrõ những nội dung cơ bản của tinh thầnnhập thế tronglễ Hằng Thuận của Phậtgiáo.Từ đó rút ra ý nghĩa của nghi lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Namhiện nay. Nhiệm vụ của khóa luận: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam - Phân tích nội dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay - Rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5
  • 12. Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay Phạm vi nghiên cứu: - Nội dung nghiên cứu: Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2019 đến 4/2019 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận và phương pháp luận: Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành như phân tích tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, v.v. để làm rõ vấn đề nghiên cứu. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay. Đóng góp về mặt thực tiễn của khóa luận: Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, các vấn đề liên quan đến tinh thần nhập thế của Phật giáo hay nghi lễ Hằng Thuận. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết. Cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế và lễ Hằng Thuận của Phật giáo Chương 2: Nội dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng 0,3 pt Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng 0,3 pt 6
  • 13. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ VÀ LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm nhập thế Khái niệm nhập thế là khái niệm khá phổ biến khi nói đến phật giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2004, nhập thế là “dự vào cuộc đời, gánh vác việc đời, không đi ở ẩn theo quan niệm của nho giáo”. Quan điểm này tiếp cận khái niệm nhập thế từ quan điểm của Nho gia về “xuất”, “xử”. Các nhà Nho xưa luôn cho rằng người quân tử phải đem trí óc của mình giúp đời, phò vua để ổn định đất nước, chăm lo cho nhân dân. Trong từ điển Nho, Phật, đạo của Lao Tử, Thịnh Lê giải thích khái niệm nhập thế như sau: “Đạo gia cho rằng, tại gia mà tu đạo, đó có nghĩa là hòa nhập theo thế tục mà lập thân hành đạo, cho nên gọi là công phu nhập thế. Như Lão Tử thờ nhà Chu, Trương Lương phò nhà Hán, Lưu Cơ giúp nhà Minh hưng thịnh, đều gọi là công phu nhập thế, để đối lập với công phu xuất thế. Hơn nữa, nếu lại làm các việc đời để làm nên công đức sửa mình, giúp đời, độ thế hành đạo, vì thế gian mà làm mọi đạo đức tế vật, tích lũy công danh để chứng đạo quả thì đều là công phu nhập thế” [12, tr. 1001]. Khái niệm này mang chất của đạo giáo, tác giả nhìn nhận nhập thế như một quá trình trong chỉnh thể tương tác biện chứng giữa chứng đạo và độ thế hành đạo. Dưới góc độ Phật giáo, ngay từ khi ra đời, tuy chưa đưa ra định nghĩa cụ thể nhưng Đức Phật đã dẫn thuyết như sau: “Này các tỳ kheo, vì hạnh phúc và an lạc cho quần sinh, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, hãy đi mỗi người một ngã, đừng đi hai người trên một đường, vì lòng thương tưởng cho đời hãy đem chánh pháp” [30, tr. 62]. Như vậy, là người xuất gia phải đem đức của mình để cứu khổ cứu nạn cho tất cả các chúng sinh. 7
  • 14. Có thể thấy, trong các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, trong quá trình hình thành và phát triển luôn phải đối đầu với nghịch lý thần thánh - thế tục, xuất thế - nhập thế. Những nghịch lý này thường nổi lên thành nhu cầu cấp bách khi quan hệ tôn giáo với nhà nước, dân tộc có vấn đề làm ảnh hưởng đến sự sống còn của tôn giáo, dân tộc hoặc đôi khi là của cả hai. Mỗi lần như vậy, buộc tôn giáo với xã hội thế tục phải xích lại gần nhau hơn bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Sự chủ động tiếp cận thực tế sống động và vận dụng tư tưởng từ phía tôn giáo để giải quyết các vấn đề của xã hội thế tục được gọi là nhập thế. Có một số quan điểm đồng nhất giữa khái niệm nhập thế và thế tục hóa. Tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau. Thế tục hoá có nguồn gốc từ tiếng La tinh “seaculum” (the transfer of power to the secular). Khởi đầu từ này được dùng trong bối cảnh văn hoá Kitô giáo, để chỉ việc chuyển giao một số quyền lực chính trị, tôn giáo và lãnh địa vốn thuộc Giáo hội thần thánh cho xã hội thế tục; như việc tách nhà trường, tòa án ra khỏi nhà thờ... Dần dần, khái niệm thế tục hóa được dùng để mô tả sự tự chủ hóa của các hoạt động, các hình thức tư tưởng so với nền văn hóa truyền thống mà các giá trị Kitô giáo làm cơ sở. Đó cũng chính là “quá trình công năng của một bộ phận tôn giáo bị công năng xã hội có tính chất phi tôn giáo thay thế”. Theo Tác giả Đỗ Quang Hưng, “quá trình thế tục hóa liên quan đến sự giải phóng hữu hiệu mối quan hệ giữa con người với thế giới mà không bị các truyền thống tôn giáo kiềm chế. Kéo theo đó là việc thiết lập mối quan hệ về luật pháp trong đó nhà nước hoàn toàn trung lập về mặt tôn giáo đồng thời dẫn đến sự hình thành một xã hội dân sự mà ở đó công dân được hưởng các quyền về luật pháp cá nhân cũng như được giải phóng một cách tương đối trong việc thực hành đời sống tôn giáo so với các học thuyết, giáo luật của tôn giáo đã được giáo hội chế định” [10, tr. 62]. Có thể nói cách khác, đây là quá trình giải thiêng, giải thần thánh hóa của các tổ chức, thể chế xã hội và chúng tách dần và độc lập khỏi tôn giáo. 8
  • 15. Khái niệm nhập thế được dùng với nghĩa chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo, nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay khi nhu cầu về tôn giáo ngày càng đa dạng hóa. Các tôn giáo không chỉ đơn thuần đảm trách nhiệm về phần tâm linh mà đã thực sự đóng vai trò tinh thần, văn hóa quan trọng của xã hội trong nhiều phương diện của đời sống. Nói cách khác, nhập thế là sự mở rộng phạm vi tham gia hoạt động của tôn giáo ra ngoài phạm vi tôn giáo, ví dụ như: chính trị, kinh tế, ngoại giao, nghệ thuật, giáo dục. Bên cạnh đó, nhập thế còn là quá trình xử lý mối quan hệ tôn giáo – thế tục như tính hai mặt của tôn giáo. Một mặt, tôn giáo không tự nhiên sinh ra, mà đó là kết quả của nhu cầu tinh thần, tâm linh của xã hội thế tục. Tôn giáo là hình thái ý thức của xã hội, không có tôn giáo nào có thể tồn tại và phát triển ngoài các nhu cầu tâm linh của đời sống xã hội. Mặt khác, tôn giáo luôn thể hiện tính tâm linh siêu việt của nó đối với xã hội thế tục bằng sự thần thánh hóa, thiêng liêng hóa. Xong tính siêu việt ấy không thể tự nó chiêm ngưỡng mà phải gây sức hấp dẫn đối với xã hội thế tục. Khi tôn giáo với xã hội thế tục có mối quan hệ tốt, đồng thời khi tôn giáo có thể chia sẻ, bù đắp hoặc giải quyết nhiều vấn đề của xã hội thế tục thì sự lan tỏa và sức mạnh của tôn giáo đó càng được củng cố, phát huy. Ngoài ra, tinh thần nhập thế của các tôn giáo còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên nhiều phương diện cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội. Như vậy khái niệm nhập thế chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực, thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo. Đồng thời, đó là quá trình xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội thế tục. 1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế Phật giáo nhập thế được hiểu là “Đạo phật vào đời hay đạo phật nhập cuộc” [17, tr. 222]. Theo Thích Nguyên Đạt, cách lý giải này là lời cổ vũ cho Phật giáo nhập thế. Đồng thời, nó nói lên hai đặc điểm chính của nhập thế trong Phật giáo: 9
  • 16. Nhập thế là bản chất của đạo Phật. Bởi ngay từ khi đạo Phật ra đời, đích Phật Thích Ca Mâu Ni tuy không nhắc đến khái niệmnhập thế, nhưng ngài luôn luôn dạy các đệ tử của mình phải “đi vì lợi của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các thầy hãy đi, đừng đi hai người cùng một hướng,hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá Chánh Pháp” [27, tr. 1]. Như vậy, Đức Phật chỉ ra hướng đi của đạo Phật là cuộc đời và xã hội, phương thức hành động phong phú, linh hoạt, hoạt động đi vào đời và việc giác ngộ cần thực hiện đồng thời. Bàn về quan điểm này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh tuyên bố “không bùn thì chẳng có hoa sen”, ngụ ý bùn là trần thế, hoa sen là đạo Phật. Không thamgia việc đời, cứu khổ cứu nạn thì không thể có đạo Phật được. Đặc điểm thứ hai khi nói đến Phật giáo nhập thế đó là: Nhập thế là hình thái Phật giáo của hiện đại và hậu hiện đại. Vào thế kỷ 20, thế kỷ mà thế giới có rất nhiều biến động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vào đầu thế kỷ 20 và Cách mạng công nghiệp thứ 3 bắt đầu vào năm 1980 làm cho thế giới có nhiều chuyển biến. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra kèm theo là các bất ổn chính trị trên khắp toàn cầu khiến cho chúng sinh rơi vào cảnh khổ cực. Trước tình hình đó, trào lưu “đạo Phật nhập thế” được khởi xướng vào giữa thế kỷ này ở châu Á sau đó lan sang châu Âu, châu Mỹ bởi một số nhà hoạt động Phật giáo đương đại có danh vọng quốc tế trong đó có Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Theo trào lưu này, những Phật tử nhập thể tích cực hiến dâng cuộc đời của mình phục vụ cho con người và xã hội ở khắp nơi. Từ đó, quan niệm cho rằng Phật giáo là tôn giáo tiêu cực tránh đời bị bác bỏ. Trào lưu này phát triển rất mạnh mẽ và ngày càng phát triển đến tận ngày nay. Chính vì vậy, Phật giáo nhập thế là một hình thái phù hợp của xã hội hiện đại và hậu hiện đại. Ở Việt Nam, thập niên 30 của thế kỷ 20 xuất hiện khái niệm liên quan đến khái niệm “Phật giáo nhập thế” là “Nhân gian Phật giáo”. Khái niệm này xuất hiện lần đầu trên tờ báo Đuốc Tuệ. Theo đó, “nhân gian phật giáo” được 10
  • 17. định nghĩa là “đạo Phật đóng vai trò dẫn dắt tinh thần với mục đích đem lại những điều có lợi cho nhân gian” [22, tr. 349]. Khái niệm này có thể đồng nhất với khái niệm “Phật giáo nhập thế” bởi vì cả hai khái niệm đều hướng đến mục đích chung là đưa đạo phật vào trong xã hội thế tục để giúp người, giúp đời. Tuy nhiên, khái niệm “đạo Phật nhập thế” dễ gây ngộ nhận về bản chất của Phật giáo. Bởi vì “nhập thế” nghĩa là vào đời, hiểu là ở một nơi nào đó ngoài đời đi vào cuộc đời mà đạo Phật vốn ở trong đời và chưa hề ở ngoài cuộc đời. Hơn nữa, khi nhắc đến “đạo Phật nhập thế” đồng thời cũng hàm chỉ đến “đạo Phật xuất thế”. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần làm rõ khái niệm “xuất thế” theo quan niệm của Phật giáo. Nhiều người hiểu sai lệch về khái niệm “xuất thế”. Họ cho rằng “xuất thế” là tách xa cuộc đời, không màng đến đời sống thực tiễn xã hội. Sự hiểu sai lệch đó dẫn đến hệ quả hiểu sai về đạo Phật, cho rằng đây là tôn giáo tiêu cực, kéo lùi sự phát triển. Theo giáo lý Phật giáo, “xuất thế” mang ý nghĩa ra khỏi những muộn phiền, đẩy những dục vọng tham, sân, si ra ngoài cơ thể, tránh xa những ngôn ngữ và hành động mang đến khổ đau cho mình và toàn xã hội. Như vậy, không thể phủ nhận “xuất thế” theo ý nghĩa trên mang ý nghĩa tích cực. Khái niệm “xuất thế” tưởng như mâu thuẫn với khái niệm “nhập thế” nhưng chúng lại đồng nghĩa với nhau. Bởi lẽ muốn cho mình và tất cả mọi người ra khỏi tham, sân, si, những dục vọng của bản thân thì cần phải có con đường chính đạo, để tìm ra con đường chính đạo thì không đâu khác là tìm trong cuộc sống, xã hội và con đường chính đạo là giúp bản thân mình và giúp đời thoát khổ. Từ đây ta có thể kết luận, đạo Phật lấy trí tuệ hay giác ngộ làm đầu, cho nên ở mọi khía cạnh đều thể hiện là đạo nhập thế. Phật giáo nhập thế là quá trình tất yếu, phù hợp với xu thế vận động của thời đại, sự phát triển của Phật giáo. 1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận Lễ Hằng Thuận là một "thuật ngữ" khá thông dụng dùng để chỉ nghi thức tổ chức lễ cưới trang nghiêm ở chùa hoặc thiền viện. Ngoài ra, lễ Hằng 11
  • 18. Thuận cũng có thể tổ chức tại nhà thờ tổ của dòng họ. “Hằng” là thường xuyên, là luôn luôn. Nghĩa là hai vợ chồng khi đã nên duyên thì trước thế nào, sau thế đấy, chỉ sự thủy chung son sắt, đó là một trong các yếu tố quan trọng để giữ gìn hạnh phúc gia đình. “Thuận” là hòa thuận, là đồng thuận hướng về những điều cao thượng, chân thiện trong đời sống. Hằng Thuận nghĩa là tùy thuận chúng sanh mà thực hiện hay Hằng Thuận nghĩa là thường sống với nhau hòa thuận (được hiểu là theo đạo vợ chồng), tương kính nhường nhịn lẫn nhau, cùng nhau vừa làm tròn trách nhiệm bổn phận của người vợ người chồng trong đời sống gia đình, đối với ông bà cha mẹ và con cái; vừa hướng đến con đường tu tập giác ngộ giải thoát, trên cơ sở giữ gìn ngũ giới, hành thập thiện và tu tập theo Bát Chính Đạo. Hai từ “Hằng Thuận” gợi cho ta nhớ đến 10 nguyện của đức Phổ Hiền trong nguyện "tùy thuận chúng sinh", nói lên tâm nguyện đem đạo vào đời. Đồng thời nó cũng làm ta liên tưởng đến đạo đức truyền thống của dân tộc: "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn". Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới được tổ chức trang nghiêm, trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật, cùng với những định hướng, mục đích giúp cho gia đình hòa thuận, êm ấm, giữ vững nề nếp gia phong và những giá trị văn hóa tốt đẹp của người Việt. 1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam 1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử • Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước Thứ nhất, thời kỳ Bắc thuộc: Thời kỳ đầu khi Phật giáo truyền vào nước ta cũng là lúc phong kiến phương Bắc xâm lược và đặt ách đô hộ trên đất nước ta. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã trở thành điểm tựa vững chắc về tinh thần và tư tưởng của người dân nhằm chống lại sự đồng hóa của chính 12
  • 19. quyền phương Bắc. Góp phần to lớn trong các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc suốt 1000 năm. Tương truyền, ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam là chùa Thanh Vân Cổ Tự (nay là chùa Yên Phú, thuộc xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội) do bà Phương Dung trụ trì. Nơi đây đã nuôi lớn hai vị tướng tài góp sức cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là Trung Vũ, Đài Liệu. Hai ông được Phương Dung nuôi dưỡng, văn tài võ lược, có năm hạn hán, hai vị ra tay cầu mưa giúp dân, lại có năm lũ lụt, dân kêu cầu liền biến thành khúc đê ngăn lũ cho dân. Khi Tô Định sang cướp nước, Phương Dung và hai con nuôi tham gia phò Hai Bà Trưng đánh giặc. Năm Thiên Phúc đời Lê Đại Hành, bà Phương Dung được phong là Hoàng Thái Hậu Tuệ Tĩnh Phu Nhân, Trinh Thục Chí Đức Đoan Trang Cẩn Tiết Hoàng Thái Hậu. Trung Vũ, Đài Liệu được phong là Bản Cảnh Thành Hoàng Linh Phù Chi Thần, Hộ Quốc Khang Dân Phù Vận Dương Vũ Uy Dực Thánh Bảo Cảnh Hiển Hữu Trợ Thuân Linh Ứng Đại Vương. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nước ta tiếp tục bị chính quyền phương Bắc đô hộ. Trong thời kỳ này, rất nhiều các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nổ ra khiến cho chính quyền phương Bắc điêu đứng. Tuy nhiên các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại. Đến thế kỷ thứ VI, Lý Nam Đế cho xây dựng chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc, Hà Nội) ngay sau khi đánh thắng quân nhà Lương và thành lập nước Vạn Xuân. Việc dựng chùa và đặt tên là Khai Quốc thể hiện rõ ý thức văn hóa, chính trị sâu sắc. Nhà nước Vạn Xuân là nhà nước Phật giáo, Phật giáo là lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng nhà nước Vạn Xuân. Nhận định về điều này, Lý Khôi Việt viết: “đây là một sự khẳng định minh bạch, một sự dứt khoát, một sự tuyên dương công trạng rõ ràng: Phật giáo đã có công trạng rất lớn trong việc khai sinh ra một nước độc lập (Khai Quốc), Phật giáo là chủ đạo văn hóa – chính trị của chính quyền mới, là quốc giáo của triều đại. Không những thế, đây còn là một bản tuyên ngôn hùng hồn, độc 13
  • 20. lập chính trị cũng như độc lập văn hóa, đối với đế quốc phương Bắc” [13, tr. 18 – 19]. Sau Lý Nam Đế, một thủ lĩnh tự xưng là Lý Phật Tử đã dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Tùy. Cuộc khởi nghĩa đã quy tụ được đông đảo Tăng Ni, Phật tử vào đấu tranh nhằm lấy lại nền độc lập tự chủ của đất nước. Cuộc khởi nghĩa thất bại, nhưng Lý Phật Tử được nhân dân rất mến phục. Sau khi chết, nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi. Thứ hai, thời phong kiến độc lập tự chủ: Sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, nước ta hoàn toàn độc lập chấm dứt ách đô hộ gần 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, đó là kỷ nguyên độc lập tự chủ. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là xây dựng bộ máy chính quyền, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này. Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển và xâm nhập sâu vào các tầng lớp trong xã hội. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của các bậc cao tăng tài đức vẹn toàn, sau này góp phần không nhỏ vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của các triều đại sau như Đại sư Khuông Việt, thiền sư Đỗ Pháp Thuận, thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Viên Thông. Đại sư Khuông Việt đã từng giúp triều Đinh và triều Tiền Lê trong việc phục hưng đất nước sau 1000 năm Bắc thuộc. Khi quân Tống kéo sang xâm lược nước ta, vua Lê Đại Hành sai Đại sư cầu đảo cho quân sĩ ở chùa Vệ Linh (nay thuộc Hà Nội). Nhờ đó, tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc càng được giữ vững và tăng cường trong lòng quân sĩ. Trên mặt trận ngoại giao, Đại sư đã viết bài “Ngọc lang quy” tiễn sứ thần nhà Tống về nước. Sau này, Lê Quý Đôn đã hết sức ca ngợi bài Ngọc lang quy của Đại sư như sau: “Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài Từ vua Tiền Lê tiễn Lý Giác nhà Tống lời lẽ nõn nà, có thể vốc được” [5, tr.24]. Cùng với Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng được vua Lê Đại Hành mời tham gia vào bộ máy chính quyền triều đình. Ông từng được vua tham vấn về vận nước, điều đó cho thấy vua Lê Hoàn rất đề cao 14
  • 21. Phật giáo. Tư tưởng trị nước của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận mang đậm chất từ bi của đạo Phật, đồng thời đề cao sự bình đẳng tinh thần đoàn kết dân tộc. Theo ông, để đất nước thái bình, triều đại trường tồn, việc quan trọng nhất là đoàn kết toàn dân. Để đất nước được yên ổn, không có trộm cướp và bất công, thì vua và triều đình cần phải hành xử vì quyền lợi của người dân. Năm 1005, ngay sau khi Lê Hoàn mất, một cuộc chém giết kinh hoàng để tranh giành ngôi báu diễn ra giữa các con của Lê Hoàn. Lê Long Tích bị giết ở Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh), Lê Long Kích bị giết ở Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Tỉnh Hưng Yên), Lê Long Việt giành ngôi mới được ba ngày cũng bị giết em ruột Lê Long Đĩnh giết hại ngay và cướp ngôi. Với lịch sử, Lê Long Đĩnh là một vết nhơ, hơn thế nữa, còn thực sự là một đại họa. Quốc Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để giành ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể được” [18, tr. 5]. Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc, Thiền sư Vạn Hạnh tuy giúp triều Tiền Lê, nhưng đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào năm 1009, lập ra một triều đại thịnh trị trong lịch sử Việt Nam. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầmquyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta” [11, tr. 424]. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã hun đúc nên những ông vua Phật Tử thuần thành. Dưới triều đại của vua Lý Thần Tông, Thiền sư Viên Thông được phong Quốc sư và hai lần được trao quyền lãnh đạo đất nước nhưng kiên quyết từ chối. Sở dĩ ông được vua kính trọng như vậy là bởi ông có tư tưởng trị Quốc dựa vào đức chứ không dựa vào pháp: “Đức hiếu sinh của nhà vua thấm nhuần đến nhân dân, thì nhân dân yêu mến vua như cha mẹ, tôn kính vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy” [31, tr. 183]. 15
  • 22. Dưới triều Trần, Phật giáo vừa là chất xúc tác, vừa là lực lượng chủ yếu trong việc tạo dựng sự đoàn kết giữa nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất nước. Các vua nhà Trần đều là Phật tử có trình độ Phật học uyên thâm, lấy tư tưởng dân vị bản để trị nước. Trần Nhân Tông hiểu sâu sắc về triết lý “Thế trận lòng dân” và vận dụng rất thành công trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, kẻ thù hung hãn và mạnh nhất thời bấy giờ. Thiền phái Trúc Lâm ra đời với bậc sơ tổ là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Thiền phái này đề cao sự tự ngộ, nỗ lực rèn luyện của mọi người. Theo ông, “sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”. Từ đó có thể thấy vì Phật Hoàng này rất đề cao tinh thần nhập thế của Phật giáo. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, nhờ tinh thần nhập thế của nhà Phật, Trần Nhân Tông đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân. Kế sách “khoan thư sức dân làm sâu rễ bền gốc” của ông phản ánh tinh thần bao dung và đặt Quốc gia xã tắc lên trên hết, đó cũng là tinh thần được kế thừa từ vua ông Trần Thái Tông. Thực tế điều kiện lịch sử Đại Việt lúc đó, thế giặc mạnh nhưng lòng yêu nước căm thù giặc của quân dân ta đang ngụt cháy.Theo nguyện vọng tấm lòng của quân sỹ, Trần Nhân Tông đã quyết định cầmquân đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Nhưng Phật dạy giới đầu tiên trong Ngũ giới là không sát sinh. Thượng Sỹ đã lập luận: “đạo Phật cấm sát sinh, song giết giặc cứu dân không có gì là trái đạo”. Vua Trần Nhân Tông tiếp tục lập luận đó là giết một người để cứu trăm ngàn người thì không có gì là trái với đạo, mà ngược lại đã hành rất đúng với đạo từ bi của nhà Phật. Có thể nói, hai triều đại Lý – Trần là hai triều đại phong kiến tồn tại lâu dài nhất và cường thịnh nhất trong lịch sử nước ta. Đây cũng là hai triều đại hiếm hoi về việc chuyển giao quyền lực diễn ra hòa bình. Một trong số những nguyên nhân dẫn đến điều đó là cả hai triều đại này đều coi Phật giáo là quốc đạo, trị nước bằng đức với tư tưởng chủ đạo là khoan dung, độ lượng, hiếu hòa của đạo Phật đã thấm nhuần suốt mấy trăm năm trong mọi tầng lớp của người Việt. 16
  • 23. Theo quy luật của lịch sử, vương triều dù có thịnh đến đâu cũng sẽ có lúc suy tàn. Những năm cuối thời Trần, vua quan chỉ lo ăn chơi không quan tâm đến việc triều chính, cơ nghiệp nhà Trần dần suy tàn. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra triều Hồ. Chính quyền của Hồ quý Ly đề cao Nho giáo. Mặc dù có nhiều cải cách theo các nhà sử học hiện đại đánh giá là tiến bộ, đi trước thời đại như chính sách hạn điền hạn nô, nhưng Hồ Quý Ly quên mất một trong những tư tưởng trị nước quan trọng nhất đó là “lấy dân làm gốc”. Vì vậy chính quyền triều Hồ không được nhân dân tin theo nên đã thất bại trước sự xâm lược nhà Minh, đất nước ta lại rơi vào vòng nô lệ. Trong hoàn cảnh đó, với truyền thống yêu nước của nhân dân ta, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi, các Tăng Ni Phật tử thời kỳ này trở thành lực lượng lớn cùng với nhân dân khởi nghĩa. Trong đó, không thể không kể đến cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc. Sư Phạm Ngọc ở chùa Đồ Sơn (Hải Phòng) cùng nhóm nghĩa quân thành lập chính quyền kháng chiến, tự xưng là La Bình Vương. Cuộc khởi nghĩa nhận được sự ủng hộ đông đảo của quần chúng nhân dân trong vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ gây tổn thất không nhỏ cho quân Minh.Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng ta thấy được tinh thần nhập thế của phật giáo, khi đất nước lâm nguy Phật giáo không trốn tránh cuộc đời mà đứng ra đấu tranh vì dân vì nước. Triều Hậu Lê và triều Nguyễn đề cao Nho giáo, coi đó là Quốc giáo của đất nước, Phật giáo không còn giữ vị trí độc tôn như trước nhưng trên thực tế, Phật giáo vẫn ảnh hưởng rất lớn trong lòng xã hội Việt Nam. Thứ ba, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Từ năm 1884, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp bằng việc ký hiệp ước Harmand (1883), Patenotre (1884). Tuy nhiên, không vì thế mà nhân dân ta chịu nhục nhìn đất nước rơi vào tay ngoại bang. Rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra. Phật giáo nhập thế lại lần nữa phát huy truyền thống nhập thế của mình trong sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc. 17
  • 24. Một trong các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đó là phong trào Cần Vương. Lấy danh nghĩa phò vua Hàm Nghi cứu nước, phong trào Cần Vương đã quy tụ được rất nhiều văn thân sĩ phu yêu nước đứng lên chống Pháp như Hoàng Diệu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật. Vương Quốc Chính theo tiếng gọi của vua Hàm Nghi cũng hăng hái ra phò vua giúp nước. Ông là bạn thân của Nguyễn Thiện thuật, người làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Thành phố Hải Phòng). Ông tham gia phong trào Cần Vương ngay từ những năm đầu phát động. Sau nhiều lần thất bại của phong trào, ông bị truy nã phải ẩn vào chùa Ngọc Long Động, nay thuộc Chương Mỹ, Hà Nội. Năm 1895, ông xuống tóc, khoác áo cà sa, thực chất là đổi phương thức kháng chiến. Nhận thấy Phật giáo có tác động lớn đến quần chúng nhân dân, ông lập Hội Thượng Chí với phương pháp “khôi phục nhà Lý, giành lại độc lập dân tộc”, thực chất là dựa vào uy tín của phật giáo để huy động sức mạnh dân tộc. Bởi triều Lý là triều đại Phật giáo thịnh nhất. Sau khi lập Hội Thượng Chí, Vương Quốc chính tìm một người họ Lý là Lý Thiếu Quân tôn làm minh chủ, còn mình làm quân sư. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế nổ ra, Vương Quốc Chính liên lạc với Hoàng Hoa Thám nhằm hiệp đồng chiến đấu. Ngày 22-10-1989, hội Thượng Thế công bố tuyên cáo, đề cập đến tư tưởng, nghĩa vụ, kỷ luật, thưởng phạt. Nghĩa quân của Vương Quốc Chính cho rằng thời cơ khởi nghĩa là lúc Pháp phân mỏng lực lượng để sang Trung Quốc chiến tranh. Tuy nhiên, Trương Công Bỉnh, một thành viên trong nghĩa quân bị bắt trên đường đi công cán. Sợ bị bại lộ, nghĩa quân quyết định khởi nghĩa vào đêm 5-12-1898 nhân dịp có Hội chợ tại Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa quy tụ được rất đông nhân dân tham gia. Tuy thất bại nhưng thực dân Pháp phải mất rất nhiều công sức mới dập tắt được. Cùng năm 1898, ở miền Trung diễn ra cuộc khởi nghĩa do nhà sư Võ Trứ lãnh đạo. Ông là người làng An Nhơn tỉnh Bình Định, là đệ tử của sư trụ trì chùa Đá Bạc (thầy từng tham gia phong trào Cần Vương). Nhà sư Võ Trứ là người nổi tiếng nhân hậu và có tài. Ông có trong tay rất nhiều nghề đặc biệt 18
  • 25. là nghề thầy thuốc. Chính vì vậy, thầy có điều kiện tiếp xúc, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia khởi nghĩa. Lực lượng đông đảo nhất của nghĩa quân là nhân dân hai tỉnh Bình Định và Phú yên. Chính vì vậy, hầu hết các chùa ở hai tỉnh này đều là căn cứ của nghĩa quân. Dịp lễ Vu Lan năm 1897, Võ Trứ cùng Trần Cao Vân mở hội nghị tại Tuy An (Phú Yên) để bàn về việc chuẩn bị lực lượng, sắm khí giới nhằm phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Mậu Tuất năm 1898, nước ta xảy ra mất mùa, đói kém kèm với sưu cao thuế nặng ở khắp nơi khiến cho lòng dân đã căm phẫn này càng căm phẫn hơn. Nhận thấy đây là thời cơ thích hợp, hơn nữa nghĩa quân của ông bị lộ nên ông quyết định khởi nghĩa. Mùa hè 1897, thầy tập hợp nghĩa quân ở huyện Đồng Xuân, tiến về xuôi đánh chiếm huyện lỵ, sông Cầu. Nhưng cuộc khởi nghĩa bị đàn áp dữ dội. Các nhà tù ở Phú Yên, Bình Định chật ních các nhà sư. Vì vậy Thực dân Pháp gọi đây là “Cuộc chiến tranh thầy chùa” [14, tr. 24]. Hai cuộc khởi nghĩa diễn diễn ra trong năm 1898 đều được sự yểm trợ của đông đảo Tăng Ni, Phật tử. Tuy thất bại nhưng “Phật giáo đã trở thành lực lượng chủ yếu trong phong trào kháng chiến” [14, tr. 25] vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau thất bại của phong trào Cần Vương. Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, Tăng Ni, Phật tử đã có những đóng góp cả về lực lượng lẫn trí tuệ vào thắng lợi của nước nhà. Là nguồn lực chủ yếu để Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tiếp tục cùng toàn dân đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Phật giáo nhập thế đã chứng tỏ được mình trong cách mạng. Nhiều Tăng Ni, Phật tử miền Bắc đã mạnh dạn cởi áo cà sa, khoác chiến bào tòng quân đánh giặc trong kháng chiến chống Pháp. Ở thời kỳ chống Mỹ nhật là giai đoạn Mỹ - Diệm, cuộc biểu dương lực lượng của Tăng Ni, Phật tử đấu tranh chống chế độ độc tài của gia đình họ Ngô - Đình và Mỹ vào miền Nam năm 1963 là một minh chứng đỉnh cao cho tinh thần và hoạt động nhập thế của Phật giáo. Sự kiện hòa 19
  • 26. thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 10/6/1963 để tố cáo chế độ Ngô Đình Diệm, đồng thời phản đối chiến tranh phi nghĩa và đòi quyền bình đẳng tôn giáo đã làm chấn động dư luận trong nước và cả quốc tế. Một làn sóng biểu tình phản đối chế độ Ngô Đình Diệm diễn ra ở khắp nơi ngay cả ngoài nước. Sự kiện thầy Thích Quảng Đức chưa nguôi thì năm 1967, vụ tự thiêu của tập thể 6 tín đồ phật với mục đích đòi hòa bình, độc lập và cuộc sống an lạc cho nhân dân thể hiện một tinh thần yêu đạo, yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. Người Việt Nam ta vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc ngày từ những buổi đầu dựng nước. Khi Phật giáo du nhập vào, tinh thần đó không những không mất đi mà còn ngày một phát triển rõ nét. Hình ảnh nhà sư ra trận đã xuất hiện ngay từ những cuộc khởi nghĩa đầu tiên. Sở dĩ Phật giáo làm được điều đó là do sự vận dụng giáo lý vào đời một cách khéo léo. Trước hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm đô hộ, chúng thi hành chính sách đồng hóa dân ta bằng cách truyền bá Đạo giáo và Nho giáo bằng con đường ép buộc. Vì vậy khi đạo Phật du nhập với con đường tự nhiên, các nhà sư không ép buộc mà thâm nhập vào cùng sống với nhân dân, hiểu và cảm thông cho nỗi thống khổ của họ. Đặc biệt là đạo lý vô ngã đã tác động đến đạo đức và hành động của con người: “vô ngã là cái không có cái ta, sở hữu của ta. Mà cái ta chính là trở ngại lớn nhất cho những hành động hy sinh và dũng cảm vì xã hội, vì dân tộc và lý tưởng. Sống theo nếp sống vô ngã, tức là không cá nhân, vị kỷ sẽ rất dễ đoàn kết một lòng, cùng nhau hợp tác để phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc và quốc gia” [16, tr. 1011]. Hơn nữa, sống theo nếp sống vô ngã sẽ rất dễ đoàn kết một lòng, cùng nhau hợp tác để phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc và quốc gia. Ngoài ra, lý thuyết về giải thoát khỏi bể khổ của Phật giáo theo xu hướng là khuông phò dân tộc, cứu nhân độ thế nơi trần gian trở thành chủ trương tu tập và tục không tách rời nhau. 20
  • 27. Phật giáo luôn song hành cùng giá trị truyền thống văn hóa yêu nước của dân tộc, thể hiện sự gắn bó keo sơn giữa đạo và đời thành một khối thống nhất, có sự thẩm thấu, tương hỗ lẫn nhau. Đây là mối quan hệ tương đồng, Phật giáo mang đến cho giá trị văn hóa truyền thống yêu nước một màu sắc mới, thấm nhuần tinh thần lạc quan và niềm tin chiến thắng mọi kẻ thù cùng lòng tự hào dân tộc. Phật giáo với căn tính “Khế lý”, “Khế cơ” phù hợp và tương thích với sự mềm dẻo, hòa đồng của căn tính người Việt. Chính vì vậy, Phật giáo đã xáo trộn, tiếp biến ngay trong lòng văn hóa dân tộc và trở thành một thành tố của văn hóa Việt Nam đặc biệt là truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc giúp ta đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử đã chứng minh những đóng góp quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ của Phật giáo. Khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo sẵn sàng cùng nhân dân tham gia chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Khi đất nước hòa bình, Phật giáo tham gia xây dựng đất nước. • Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong văn hóa – xã hội Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam không chỉ thể hiện qua truyền thống yêu nước lòng tự tôn dân tộc mà còn thể hiện qua mọi khía cạnh của đời sống xã hội trong đó có văn hóa. Về ngôn ngữ, rất nhiều từ ngữ Phật giáo được nhân dân Đại Việt sử dụng trong cuộc sống hàng ngày,thậm chí nó thông dụng đến độ nhiều người sử dụng như từ thuần Việt mà không biết đó có nguồn gốc xuất xứ từ Phật giáo. Ví dụ như từ “tội nghiệp”, chỉ sự thương xót cho người có hoàn cảnh khó khăn hay gặp chuyện không lành. Từ tội nghiệp nghĩa là tội của nghiệp, mặc dù bày tỏ thái độ thương xót cảm thông nhưng khi dùng từ tội nghiệp đã ngầm chỉ ra nguyên nhân người đó khổ là vì kiếp trước tạo nghiệp. Đây là một trong những giáo lý của đạo Phật. Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn bản của Phật: "Thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu 21
  • 28. vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão" hay là câu thơ bình dân: “Người trồng cây hạnh người chơi Ta trồng cây đức để đời mai sau” Hoặc khi muốn diễn tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều. Cụm từ đó xuất hiện khi xưa Đức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng ở Ấn Độ, cho nên khi cần mô tả một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi đến chùa vào những ngày sám hối, chùa thường chuyển những hồi trống bát nhã, nhân đó mà phát sanh ra cụm từ trên. Thiền sư Toàn Nhật đời Tây Sơn trong cuốn Tam Giáo Nguyên Lưu Ký, có phát biểu rằng: “Và như sáu giặc trong mình, Chẳng nên để nó tung hoành khuấy ta” Còn nhiều từ ngữ khác như từ bi, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ. Điều đó cho thấy Phật giáo đã làm rất tốt tinh thần nhập thế của mình đối với đời. Cùng với sự mềm dẻo của người Việt trong kết hợp giá trị văn hóa truyền thống với tôn giáo, một hệ giá trị ngôn từ của Phật giáo được người Việt sử dụng hàng ngày. Từ đó ảnh hưởng đến tính cách, tư tưởng của mình. Chính vì vậy, tinh thần nhập thế của Phật giáo đã đi vào ca dao, thành ngữ, tục ngữ và ngay cả các tác phẩm văn học. Trong văn học, Phật giáo cùng với văn hóa dân gian tạo nên “tôn giáo dân gian” [9, tr. 316]. Đạo Phật xuất hiện từ tiếng hát ru của mẹ đến các tác phẩm văn học nổi tiếng. Từ khi sinh ra, em bé lọt lòng đã được nghe tiếng hát ru của mẹ: “Ai ơi hãy ở cho lành Kiếp này chẳng được để giành kiếp sau” 22
  • 29. Trong các câu chuyện cổ tích hay những chuyện thần thoại xuất hiện một nhân vật mang đầy màu sắc huyền bí, đó là “Ông Bụt”. Ông Bụt chính là Đức Phật, được phiên âm từ tiếng Phạn Buddha, dân gian gọi tắt là Bụt. Hình tượng ông Bụt trong các câu chuyện là một ông già hiền như tiên, râu tóc bạc phơ, luôn thường dạy người ta nên làm những việc tốt, sống đời lương thiện, hiếu thảo với gia đình, rồi khi gặp khó khăn, gọi ông thì ông sẽ hiện ra giúp đỡ. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đã đi sâu vào tâm thức của người Việt. Trong mắt của họ, đạo Phật và những người theo đạo là người hiền lành, lương thiện và sẵn sàng giúp đỡ những người ăn ở hiền lành, nhân hậu. Thời Hậu Lê, dân gian lưu truyền câu Truyện “Quan Âm Thị Kính” đề cao các hạnh trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục cùng cực. Ngoài ra chuyện còn đề cập tới hai vấn đề là chữ “hiếu” và chữ “nhân” của người xuất gia theo đạo Phật. Tiểu Kính Tâm tuy xuất gia nhưng lòng thương nhớ cha mẹ vẫn tràn đầy. Chữ hiếu của người xuất gia được quan niệm là không chấm dứt tình cảm với gia đình mà chỉ nâng tình cảm đó lên một bình diện rộng lớn với một mức độ thắm thiết, sâu sắc và cao cả hơn. Quan niệm hiếu không chỉ nhắm vào mỗi việc chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất mà còn phải tìm mọi cách để độ cho cha mẹ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Kính Tâm mặc dù bị Thị Mầu vu oan, chịu khổ sở, nhưng vẫn hết lòng nuôi con Thị Mầu chu đáo, tận tình như nuôi con đẻ của chính mình. Bởi vì Đức Phật dạy người xuất gia phải có lòng từ rộng lớn, phải thương yêu tất cả mọi chúng sinh như là người mẹ thương yêu con ruột của mình. Đó là điển hình cho chứ “nhân” mà Phật giáo muốn truyền đạt đến người dân. Như vậy bà Thị Kính, tức tiểu Kính Tâm, xuất gia tu Đạo Phật đã đền đáp đầy đủ công ơn cha mẹ, đồng thời lại giúp đời, cứu người. Cả hai chữ hiếu và chữ nhân đều vẹn toàn. Tinh thần Phật Giáo đã là một ngọn hải đăng chói sáng hướng dẫn cho bà Thị Kính trong hành trình vượt qua con sông mê để vươn tới bến bờ giác ngộ, để bà Thị Kính trở thành tiểu Kính Tâm và sau đó tiểu Kính Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm. 23
  • 30. Phật giáo nhập thế ăn sâu vào tư tưởng của tầng lớp trí thức, ngay cả các nhà nho. Nguyễn Trãi trong “Ức trai thi tập” có bài thơ về chùa Yên Tử như sau: “Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử Trên non Yên Tử tròm cao nhất Trời mới canh năm đã sáng tinh Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả Nói cười người ở giữa mây xanh Muôn vàng giáo ngọc che gài cửa Bao dải tua châu đá rủ mành Dấu cũ Nhân Tôn còn vẫn đấy, Trùng đồng thấy rữa ảnh quang minh” Vua Lê Thánh Tông có bài thơ nôm về chùa Non Nước như sau: “Nơi gọi bồng nơi gọi nhược, Hai bên góp làm Non Nước Đá chồng hòn thấp hòn cao Sóng trục lớp sau lớp trước Phật hư vô cảnh thiếu thừa. Khách danh lợi buồm xuôi ngược, Vẳng nghe trên gác boong boong Lẩn thẩn dưới chùa lần bước” Phong tục tập quán trong dân gian cũng ảnh hưởng rất lớn bởi đạo Phật, đặc biệt dưới triều Lý – Trần. Dưới thời Lý - Trần, xuất hiện phong tục thờ các dị vật như cau nhiều thân, rùa nhiều đầu, ngựa nhiều móng, hổ, voi, sen trắng, hươu trắng, hươu đen do ảnh hưởng từ trong Phật giáo. Đức Phật khi ra đời gắn liền với những điềm báo như voi trắng, hoa sen, vầng hào quang. Hơn nữa, dưới thời Lý - Trần, phần lớn các con vật được coi là lạ và linh thiêng trong phong tục tập quán của người Việt thì đều mang màu trắng được đặt ở vị thế cao quý, được thờ phụng ở mọi nơi như đình, đền, chùa. Ví 24
  • 31. dụ, hình tượng voi trắng có nguồn gốc từ chuyện mẹ đức Thích Ca thấy voi trắng chui vào mình mà hoài thai Phật. Con voi trắng linh thiêng có thể thay cho con bò thần (trắng) Nadin, vật cưỡi của thần Shiva. Bên cạnh đó, những phong tục tập, quán của người Việt như thờ cúng tổ tiên cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Tục thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến nhất của người Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng, linh hồn người chết vẫn tồn tại trong thế giới chúng ta và ảnh hưởng tới cuộc sống của những người đang sống, đặc biệt là con cháu trong gia đình. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, người chết được nhà chùa làm lễ cầu siêu và sau đó được “gửi” vào chùa để đức Phật che chở. Tuy nhiên, dù linh hồn người chết được gửi ở chùa nhưng quan niệm phù trợ, che trở cho con cháu vẫn giữ nguyên trong dân gian. Bằng chứng rõ nét nhất là bàn thờ tổ tiên vẫn duy trì ở các gia đình; vào ngày giỗ, anh em, thân tộc vẫn quy tụ về nhà trưởng tộc để tưởng nhớ người đã mất. Sự “giao duyên” giữa Phật giáo và tôn giáo dân gian còn thể hiện qua các lễ hội. Trong hội làng, hội chùa có phong tục tập quán thả chim, là một nghi lễ “phóng sinh” thể hiện tinh thần từ bi hỉ xả của nhà Phật. Ngược lại, vào ngày mồng 8 tháng Tư (ngày Phật đản) hằng năm, tại các chùa đều tổ chức lễ tắm Phật - vốn cũng là một lễ thức cầu nước truyền thống của dân tộc được Phật giáo hóa. Sau lễ tắm Phật là lễ Phóng sinh. Ngoài ra, văn hóa Phật giáo còn ảnh hưởng đến một số tập quán khác của người Việt như tục ăn chay, tục đi lễ chùa vào các ngày Rằm, mồng Một. Tục ăn chay phổ biến ở một bộ phận người Việt, đó là các nhà tu hành, Phật tử, những tín đồ Phật giáo. Ăn chay xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo, đó là sự yêu thương muôn loài. Theo Phật giáo, khi trở thành Phật tử, phải thọ giới và trì giới, trong đó thọ giới quan trọng nhất là không được sát sinh loài vật. Theo đó, người xuất gia ăn chay trường, còn Phật tử tại gia chỉ ăn chay kỳ. Hình thức ăn chay phổ biến cho các đối tượng ăn chay kỳ là mỗi tháng hai ngày vào mồng Một và ngày Rằm. Tục cúng Rằm, mồng Một là tập 25
  • 32. tục cúng Sóc, Vọng, theo quan niệm truyền thống, vào thời điểm đó Mặt Trời và Mặt Trăng thông suốt nhau, vì thế mà thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người để lắng nghe những lời cầu nguyện, ước muốn của cõi giới khác. Đối với Phật giáo, đây cũng là ngày trong sạch để các vị tăng, ni kiểm điểm hành vi của mình, còn gọi là ngày Bồ Tát và ngày sám hối. Các tín đồ Phật giáo cũng về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện, vứt bỏ điều ác, làm điều lành và sửa đổi tâm tính. Quan niệm ngày Sóc, Vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay, xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, ở nhiều gia đình vào những ngày này cũng mua hương, hoa, quả để dâng cúng tổ tiên và kiểm điểm lại việc tu tâm, dưỡng tính của từng cá nhân. Bên cạnh tập tục đi chùa sám hối vào ngày Rằm, mồng Một, người Việt còn đi chùa lễ Phật vào những ngày Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Tư (Phật đản) và rằm tháng Bảy (Vu Lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Trong bối cảnh của sự khoan dung, hòa hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, giữa giáo lý và thực tiễn đời sống để hình thành lên một lối sống nhân sinh, nhân bảo cao đẹp. Từ những ảnh hưởng đến phong tục tập quán, văn hóa Phật giáo đã góp phần không nhỏ hình thành nên lối sống “từ bi, hỷ xả”, nhập thế tích cực của người dân Đại Việt thời phong kiến. Ảnh hưởng đến lối sống, văn hóa Phật giáo mang lại cho người dân Đại Việt một lối sống dung dị. Đó là sự hòa quyện giữa triết lý nhân sinh từ bi của Phật giáo và tư tưởng nhân ái cao cả của dân tộc với các đặc điểm sau: Thứ nhất, lối sống nhân ái, đức thương người truyền thống của tổ tiên chúng ta mang tính giới hạn ở cộng đồng quốc gia - dân tộc. Đó là tình thương nảy nở trên cơ sở thực tiễn của đoàn kết chống kẻ thù xâm lược, thể hiện qua câu: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng”. 26
  • 33. Thứ hai, lối sống nhân ái, đức thương người truyền thống của tổ tiên chúng ta đặt trên nền tảng của thực tiễn hiện thực cố kết cộng đồng dân tộc nhằm thực hiện sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược, cải tạo thiên nhiên, tạo cuộc sống an lành, hòa bình. Thứ ba, lối sống, cách sống nhân ái, thương người của truyền thống tổ tiên chúng ta mang nặng tình cảm nhân ái. Không còn là hiện tượng cộng hưởng mà đã đạt tới mức độ nâng cao tầm triết học của lối sống nhân ái Việt Nam nhờ có sự hòa quyện với lối sống từ bi của Thiền tông. 1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện nay Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong chính trị, tư tưởng xã hội Sau cuộc Chấn hưng Phật giáo ở thế kỷ trước, hiện nay Phật giáo tiếp tục giữ vị trí quan trọng của mình trong lòng xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh xã hội ngày một phát triển, đời sống con người ngày một tiến bộ nhưng cũng nảy sinh rất nhiều bất cập như diễn biến hòa bình, suy thoái đạo đức, biến đổi khí hậu,… đang đe dọa đến an nguy của con người trong đó có Việt Nam, vai trò của Phật giáo nhập thế rất quan trọng đặc biệt là ở mặt tư tưởng. Ảnh hưởng của Phật giáo đã đạt được rất nhiều thành quả to lớn. Về chính trị, đại hội Phật giáo năm 1981 được tổ chức sau khi Phật giáo Việt Nam được thống nhất trong Tổ chức chung là Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đề ra phương châm hoạt động là “Đạo pháp - dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Từ đó đề ra 6 điểm trong chương trình hành động như sau: “1. Thực hiện hợp tác hòa hợp dân tộc giữa các hệ phái phật giáo giữa Tăng Ni; Phật tử 2. Truyền bá Chánh pháp và nêu rõ tính tích cực của Phật giáo 3. Thiết lập một hệ thống giáo dục cho Tăng, Nivà một lối sống đúng đắn cho các Phật tử 4. Tăng cường truyền thống yêu nước của phật giáo Việt Nam, mối liên hệ gắn bó của Phật giáo đối với nhân dân và sự đóng góp tích cực của Phật giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước 27
  • 34. 5. Ổn định kinh tế nhà chùa để cải thiện điều kiện sinh hoạt của Tăng, Ni và đóng góp tạo phồn vinh cho đất nước 6. Tăng cường mối liên hệ hữu nghị với Phật tử và các tổ chức Phật giáo trên thế giới, tham gia xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại” [22, tr. 210]. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển đặc biệt của Phật giáo Việt nam sau thời gian phân tán và chia rẽ. Phương châm hoạt động và sáu điểm cho thấy Phật giáo tiếp tục nhập thế tích cực trước những vấn đề của dân tộc cũng như trên thế giới. Phật giáo vốn không chủ trương về chính trịmà chủ trương hướng đến giải thoát nhân sinh. Nhưng Đức Phật lại quan tâm đến sự bình an của nhân dân nên Ngài đã đưa ra phương pháp làm chính trị: “Người lãnh đạo Quốc gia là người biết đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên trên lợi ích cá nhân, không được lợi dụng địa vị của mình để hưởng thụ”. Tư tưởng trị nước của Đức Phật hoàn toàn trùng với tư tưởng của một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hiện nay, có nhiều cao tăng tham gia vào hệ thống chính trị các cấp như Đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân các cấp, góp tiếng nói trong việc ban hành chính sách của Nhà nước. Giáo hội phật giáo Việt Nam là cơ quan biểu hiện cho tiếng nói của Tăng Ni, Phật tử, đây cũng được coi là tổ chức tôn giáo chính thống và hợp pháp trong hệ thống chính trị Việt Nam. Nhiều Phật tử tích cực tham gia công cuộc xây dựng xã hội mới trong các đoàn thể, hiệp hội được tổ chức tại địa phương. Với một cán bộ cộng sản trong thời kỳ hội nhập và phát triển, đức tính của Phật giáo như cần kiệm, kiên định, bình đẳng bác ái rất cần thiết. Chính sách bình đẳng và tự do tôn giáo của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam giúp cho Phật giáo có thể chủ động hơn trong quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước. Tuy nhiên những diễn biến của đất nước trong thời đại mới rất phực tạp và tinh vi đòi hỏi các Tăng Ni, Phật tử phải có cái nhìn kiên định, tránh sự lợi dụng của kẻ thù. 28
  • 35. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang là xu hướng chính,có rất nhiều nguồn văn hóa ngoại lai được du nhập vào. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp, văn hóa ngoại lai đã khiến cho nhiều người có tư tưởng lệch lạc, chạy theo lợi ích vật chất mà lãng quên đi giá trị tinh thần. Làm cho con người chìm đóng trong tham – sân – si, mờ mắt bởi dục vọng. Từ đó, phật giáo đóng vai trò quan trọng trong sự định hướng tư tưởng xã hội. Phật giáo lấy giải thoát nhân sinh làm trọng tâm và làm mục tiêu hướng tới. Chính vì những mục đích tốt đẹp mà Phật giáo muốn hướng đến, các tín đồ Phật tử đến chùa tu học ngày một đông. Đa phần các tín đồ đến đây để tìm sự yên bình, làm cho thân tâm được thanh thản. Sở dĩ họ cảm thấy như vậy vì những triết lý nhân sinh của Phật giáo đã giúp ta định hướng trong tư tưởng, lấy việc hành thiện, tu tâm làm tôn chỉ trong hành động và suy nghĩ hàng ngày. Phật giáo nhập thế trong giáo dục đạo đức, lối sống Từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta cho đến nay, tư tưởng của Phật giáo hòa quyện với tín ngưỡng dân gian tạo nên giá trị truyền thống độc đáo tồn tại và ảnh hưởng cho đến tận ngày nay. Việt Nam đã và đang đạt được những tiến bộ vượt bậc kinh tế, khoa học kỹ thuật... nhưng mặt trái của nền công nghiệp, của kinh tế thị trường làm cho “môi trường nhân văn” bị ô nhiễm trầm trọng. Đạo đức, lối sống của nhiều người bị suy thoái, nhiều biểu hiện của lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục trong một bộ phận cộng đồng dân cư diễn ra ngày càng phổ biến, đặc biệt là ở giới trẻ, học sinh – sinh viên. Họ có thiên hướng đề cao cá nhân, sống ích kỷ, lạnh lùng, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm. Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng phạm pháp đang gia tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ tội lỗi ngày càng nghiêm trọng. Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở chốn học đường gần đây khiến cho chúng ta không thể làm ngơ. Theo thống kê cho thấy 55 – 65% số người phạm tội ở nước ta những năm gần đây là thanh, thiếu niên, trong đó có không ít học sinh, sinh viên. Theo kết quả điều tra gần 29
  • 36. đây của Viện nghiên cứu và phát triển Giáo dục Việt Nam, ta có bảng thống kê sau: Biểu hiện vi phạm Tiểu học Trung học cơ sở Trung học Cao đẳng, phổ thông Đại học Tỉ lệ đi học không 20% 21% 58% 85% đúng giờ Tỉ lệ quay cóp 8% 55% 60% 69% Tỉ lệ nói dối cha mẹ 22% 50% 64% 83% Tỉ lệ vi phạm Luật 4% 35% 70% 84% giao thông Đây là những con số đáng báo động cho thế hệ trẻ. Bởi vì, thanh niên là chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần là do thanh niên. Chính vì vậy, cần có các biện pháp để giảng dạy đạo đức cho giới trẻ. Trước tình hình trên, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, lối sống của thời trẻ hiện nay bằng các giáo lý, tư tưởng tiến bộ như: Tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo hướng con người đến việc xây dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần hướng thiện thực sự. Đây là một trong những quan niệm giá trị nhất của Phật giáo. Nó không chỉ giúp con người sống cuộc đời đạo đức, lành mạnh mà còn giúp ngăn ngừa và vượt qua các tệ nạn xã hội; đồng thời nó kích thích con người yêu thương lẫn nhau và làm nhiều việc thiện. Tư tưởngbình đẳng,ôn hòa,tôn trọng lẫn nhau: Tư tưởng bình đẳng trong những lời dạy của Đức Phật Thích Ca là một trong những điều tốt đẹp và tiến bộ cho nền Phật học ngày nay. Một trong những lời bình dị đơn giản của Đức Phật Thích Ca đã nói, nhưng ít ai để ý đến đó là: "Một người trở nên cao quý hay thấp kém là do ba nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà 30
  • 37. họ sinh ra" [40, tr. 2]. Vì vậy mọi người đều xuất phát điểm như nhau, không nên phân biệt, kì thị nhau. Phật giáo hướng con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi trường bền vững: Phật giáo đưa chúng ta tới một thái độ đúng hơn đối với vấn đề môi trường, một trong những vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta. Trong lời răn không được hủy diệt cuộc sống thì quyền sống của thú vật và cây cỏ cũng được tôn trọng như con người. Thiên nhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ thuộc vào thiên nhiên. Hiện nay trên cả nước có “165 cơ sở tuệ tĩnh đường, hàng trăm phòng chẩn trị y học dân tộc, có trên 10 phòng khám Tây y, Đông Tây y kết hợp đã khám và phát thuốc miễn phí cho hàng trăm bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn. Trên 1000 lớp học tình thương, 36 cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú, nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật,.. với trên 20000 em, trên 20 cơ sở nhà dưỡng lão, nuôi dưỡng trên 1000 cụ già và có khoảng 10 trường dạy nghề miễn phí” [22, tr. 161]. Hiện nay, hình thức từ thiện được xem là hoạt động nhập thế nổi bật của đạo Phật lên đã được nhân rộng ra cả các Phật tử trong và ngoài nước. Từ đó đã mang lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, giúp mọi người xích lại gần nhau hơn tăng khối đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, việc đi làm từ thiện còn giúp cho bạn bạn trẻ thay đổi tâm tính, có tình yêu thương và làm cuộc sống trở lên ý nghĩa hơn. Đứng trước biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một số bộ phận giới trẻ hiện nay như: hiện tượng bạo lực học đường, tệ nạn xã hội, lối sống ăn chơi đua đòi, hưởng thụ,đã có nhiều cơ sở chùa và thiền viện tổ chức khóa tu tập cho giới trẻ. Việc tổ chức các khóa tu này giúp cho các em hiểu được lẽ phải và thay đổi tâm tính. Khóa tu thường diễn ra vào mùa hè trong khoảng một tuần. Đến đây, các em được sống cuộc sống như một người tu học thiết thực. Được dạy về cuộc đời đức Phật, giáo lý Phật giáo như kinh Nhân Quả, kinh Vu Lan, tham gia các hoạt động nhằm phát triển bản thân. Điều này giúp các bạn trẻ phát triển toàn diện và biết đi theo chính pháp. 31
  • 38. Giáo dục Phật giáo giàu tính nhân bản, luôn hướng đến mục tiêu đào tạo con người hướng thiện, có niềm tin chân chính, đem đến lợi lạc cho bản thân, cùng cộng đồng chung tay xây dựng gia đình hòa thuận, văn minh và giàu đẹp. Phật giáo nhập thế trong vấn đề gia đình Trong xu thế hội nhập và bối cảnh kinh tế, xã hội ngày càng phát triển đa dạng. Đời sống được nâng cao, con người có điều kiện trau dồi kiến thức. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đạo đức trong gia đình, cơ quan, trường học xuống cấp nghiêm trọng; xu hướng tranh giành quyền lợi làm ảnh hưởng đến lối sống của gia đình. Những biến đổi về xã hội đang tác động làm thay đổi cơ cấu gia đình và đặt ra nhiều vấn đề mới, tình trạng ly hôn, ly thân, bạo lực có xu hướng tăng. Theo số liệu từ viện nghiên cứu gia đình và giới, trung bình trên cả nước có 60.000 vụ ly hôn/năm, tỉ lệ 30%, tức là 10 cặp vợ chồng thì có đến 3 cặp ly hôn, có xu hướng tăng. Điều đáng nói 70% các vụ ly hôn đều thuộc về các vợ chồng trẻ, trong đó có tới 60% ly hôn sau khi kết hôn từ 1 đến 5 năm. Nguyên nhân do mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu chiếm 27.7%, ngoài ra còn có các yếu tố: Ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6.7%), sức khỏe (2.2%), xa nhau lâu ngày (1.3%). Hệ quả của các cuộc ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến gia đình, người thân mà còn cả xã hội. Ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là những đứa con thiếu đi tình yêu thương chăm sóc của người bố hoặc mẹ, thậm chí là cả hai. Những đứa trẻ như vậy không được phát triển hoàn thiện, tuổi thơ không hạnh phúc làm cho nhiều em bị mắc bệnh tự kỷ, trầm cảm, một số em trở nên hư hỏng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tệ nạn xã hội gia tăng. Không chỉ vậy, tỷ lệ ly hôn lớn còn cho ta thấy một thực trạng là các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt đang bị mai một. Phật giáo can thiệp vào vấn đề gia đình thông qua nghi lễ Hằng Thuận. Nghi lễ này xuất hiện lần đầu ở Việt Nam trong phong trào Chấn hưng Phật 32
  • 39. giáo ở thế kỷ XX. Với mục đích đưa giáo lý Phật giáo vào cuộc sống gia đình nhằm giảm bớt tỷ lệ ly hôn, khôi phục, giữ vững và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt. Lễ Hằng Thuận được tổ chức ở rất nhiều nơi như chùa Bằng, chùa Yên Phú, Thiền viện Sùng Phúc ở Hà Nội, chùa Thiên Phúc ở Ninh Bình, Thiền viện Trúc Lâm ở Yên Tử,.. 1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận Lễ Hằng Thuận bắt nguồn từ khi Đức Phật còn tại thế. Có một lần Đức Thế Tôn trở về thăm Vương thành Ca Tì La Vệ. Một ngày đặc biệt trong chuyến về lại cố hương của Đức Thế Tôn, gặp dịp cả kinh thành chuẩn bị làm lễ thành hôn cho Vương tử Mahanam, có thỉnh Đức Thế Tôn và Tăng đoàn vào hoàng cung chứng minh cho hôn lễ. Và từ nhân duyên đó, Đức Thế Tôn dạy người làm chồng phải sống như thế nào để họ hàng nhà vợ tôn trọng, chấp nhận. Người chồng phải có trách nhiệm với họ hàng nhà vợ làm sao, trách nhiệm với vợ con trong tương lai như thế nào? Cũng như vậy, phận làm dâu đối với họ hàng nhà chồng và trách nhiệm đối với người chồng và những đứa con mình trong tương lai. Đức Phật dạy, điều quan trọng nhất là hai người gặp nhau và chọn nhau làm bạn đời, có nghĩa là cả hai sẽ cùng đi bên nhau trọn đời; cùng đối diện với những nghiệp chướng của cuộc đời; cùng chia sẻ với nhau những gian khó trước những khúc quanh của đời người; cùng nâng đỡ nhau tạo thiện nghiệp, khuyên can nhau dứt trừ ác nghiệp và luôn tùy thuận với nhau để cùng tu tập. Mượn nhân duyên vợ chồng để đồng làm pháp lữ tạo thiện nghiệp. Vui cũng thuận, buồn cũng thuận. Thành công cũng thuận, thất bại cũng thuận. Giàu cũng thuận, nghèo kém cũng thuận. Thế nên được gọi là lễ Hằng Thuận nghĩa là, luôn thuận bên nhau suốt cả cuộc đời. Cho dù nắng hay mưa, hạnh phúc hay đau khổ. Kể từ đó, trong Phật giáo mới tổ chức lễ Hằng Thuận quy y. Tuy nhiên, lễ cưới trong chùa không có văn bản hoàn chỉnh trong giáo lý. Khác với đạo Thiên Chúa, người theo đạo Thiên Chúa lấy chồng/vợ đều bắt buộc phải tổ chức lễ cưới tại nhà thờ với sự chứng minh của Chúa. Còn với Phật giáo thì tùy vào duyên mỗi người có nguyện vọng hay không. 33
  • 40. Ở Việt Nam, chưa có tài liệu nào khẳng định lễ Hằng Thuận ra đời vào thời điểm nào, do ai đặt ra, ai là người đầu tiên đến chùa làm lễ Hằng Thuận. Phải chăng, lễ Hằng Thuận chỉ là sự kiện nhỏ trong một thời kỳ đầy biến động của Phật giáo nên đã dần phai mờ đi trong ký ức của mọi người. Trong bản Nghi thức lễ thành hôn của Hòa thượng Thích Thiện Hòa, được viết và in thành sách sớm nhất năm 1971, trong đó, hai chữ "Hằng Thuận" được Hòa thượng nhắc đến một lần duy nhất ở phần hồi hướng: "Hằng Thuận công đức thì thắng hạnh", hai bản còn lại không hề nhắc đến chữ này. Vậy phải chăng Hòa thượng Thiện Hòa là người đầu tiên xác nhận "Hằng Thuận" chính là nghi thức cử hành hôn lễ tại chùa bằng văn bản. Còn đối với Hòa thượng Đào Như – Ủy viên Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Cần Thơ, theo ông “Truyền thống xa xưa của người Khmer Nam bộ cũng như nhân dân các nước Phật giáo Nam tông, tất cả Phật tử khi thành hôn đều có lệ thỉnh chư Tăng tổ chức lễ Chúc phúc cho tân lang, tân nương và hai họ với nội dung tương tự như lễ Hằng Thuận của Phật tử người Việt”. Các tư liệu sử chính thống cho rằng, người khởi xướng ra nghi lễ Hằng Thuận là ông Đồ Nam Tử. Ông tên thật là Nguyễn Trọng Thuật (1883 - 1940) quê ở Hải Dương. Ông vốn là một nhà Nho, sau ông chuyển qua đạo Phật và là người cổ vũ phong trào Chấn hưng Phật giáo nước nhà. Ông Đồ Nam Tử cho rằng đạo Phật nên được dấn thân và hoà hợp vào quần chúng. Vào năm 1930, bác sỹ Tâm Minh, hay còn gọi là Lê Đình Thám là một trong những cư sĩ tiên phong và có công rất lớn trong công cuộc Chấn hưng Phật giáo vào những thập niên đầu thế kỷ XX, người sáng lập nên Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục gia đình Phật hóa phổ (1940), tiền thân của Gia đình Phật tử (1951) đã tổ chức lễ cưới cho con gái đầu lòng là bà Lê Thị Hoành với ông Hoàng Văn Tâm tại chùa Từ Đàm, Huế. Có thể nói đây là lễ cưới đầu tiên trước cửa Phật được chư Tăng chứng minh. Hưởng ứng theo lời kêu gọi của ông Đồ Nam Tử, vào năm 1971 Hoà thượng Thích Thiện Hoa đã dùng hai chữ Hằng Thuận để chỉ việc kết hôn trước cửa Phật. 34
  • 41. Qua những điều trình bày trên, có thể nhận thấy lễ Hằng Thuận là một tập tục đã có từ lâu trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Phật tử, có ý nghĩa rất quan trọng trong ngày thành hôn của đôi bạn trẻ, mà chư Tăng Ni đã khuyến khích các bậc phụ huynh nên tích cực động viên và hướng dẫn con em của mình khi kết hôn về chùa đăng ký tổ chức lễ Hằng Thuận. Mục đích chính của lễ Hằng Thuận là làm thế nào để cho đôi vợ chồng ý thức được tầm quan trọng của nền tảng đạo đức tâm linh trong đời sống gia đình, để từ đó hướng đến một đời sống hôn nhân thật sự an lạc hạnh phúc. Để thực hiện được điều này, trước hết, đôi vợ chồng phải hết lòng yêu thương nhau, chung thủy, tôn trọng, quý kính lẫn nhau và luôn luôn hòa thuận với nhau, cùng nhau hướng đến những điều thánh thiện và cao thượng trong cuộc sống như hàm nghĩa của hai từ Hằng Thuận đã toát lên. Đó cũng là ý nghĩa của "chiếc nhẫn" (được cô dâu chú rể trao nhau trong lễ Hằng Thuận) mà tổ tiên ta đã nêu ra cho mọi người noi theo, cho đôi nam nữ hiểu được ý nghĩa của đời sống lứa đôi trong tinh thần yêu thương hòa kính theo những lời Phật dạy, cũng chính là trọng tâm ý nghĩa của buổi lễ, thật sự có tác động mạnh trong đời sống tâm linh của đôi nam nữ sau này. Trong ngày trọng đại này, sẽ là bước khởi đầu đầy ý nghĩa cho những ai chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân nếu được sự chứng minh, chúc phúc và gửi gắm những đạo lý, kinh nghiệm sống xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc của các bậc đức hạnh. Đây thật sự là một nghi lễ vô cùng quan trọng đối với người Phật tử. Tiểu kết chương 1 Từ khi du nhập vào nước ta, Phật giáo luôn thể hiện tinh thần nhập thế của mình trong mọi mặt. Phật giáo đồng hành cùng nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thời Bắc thuộc có Lý Nam Đế với chùa Khai Quốc và thiền sư Khuông Việt. Thời lý có thiền sư Vạn Hạnh, người góp công không nhỏ lập ra nhà Lý.thời Trần có Phật hoàng Trần Nhân Tông nổi tiếng với “cư trần lạc đạo thả tùy duyên”. Sang đến thời nhà Lê, Nguyễn, mặc dù nhà nước không có chính sách đề cao phật giáo nhưng Phật giáo vẫn có chỗ Đã định dạng: Ở tâm Đã định dạng: Phông: Đậm 35
  • 42. đứng vững chắc trong lòng xã hội. Thời kỳ chống Pháp, Mỹ, tinh thần nhập thế được phát huy cao độ. Biểu hiện trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở thể kỷ XX và tinh thần “cởi áo cà sa khoác chiến bào” thời chống Pháp. Nổi bật lên là phong trào chống Mỹ - Diệm trong thời kỳ chống Mỹ, Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong suốt 2000 năm du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống xã hội Việt Nam từ những sự kiện trọng đại của đất nước đến những điều bình dị nhất có trong dân gian. Phật giáo nhập thế có trong những câu chuyện cổ tích với ông bụt luôn giúp đỡ người lương thiện, ngay cả trong ngôn ngữ hàng ngày như từ “tội nghiệp”. Xuất hiện trong thơ ca của các nhà trí thức lớn như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, ngay cả trong các vở chèo như Quan Âm thị kính. Như vậy, Phật giáo nhập thế ở Việt Nam là một nét đặc trưng, một xu hướng không thể không xảy ra. Ngày nay, Phật giáo nhập thế tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tất cả các mặt đời sống xã hội. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa, bên cạnh các thuận lợi, Phật giáo đã ảnh hưởng đến tất cả khía cạnh trong xã hội như: Tích cực hội nhập quốc tế, tổ chức từ thiện giúp dân có hoàn cảnh khó khăn, tham gia giáo dục phong cách sống, Vấn đề gia đình hiện nay đang là vấn đề xã hội quan tâm khi tỷ lệ ly hôn quá lớn. Như một xu hướng tất yếu, lễ Hằng Thuận đang ngày một phát triển. Xuất hiện từ phong trào Chấn hưng phật giáo đầu thế kỷ XX, hiện nay lễ Hằng Thuận đang trở thành xu hướng của giới trẻ, được rất nhiều gia đình tổ chức. Từ đó, Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế của mình trong việc giải quyết vấn đề gia đình. Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới được tổ chức trang nghiêm trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật, cùng với những định hướng với mục đích giúp cho gia đình hòa thuận, êm ấm, giữ vững phong tục tập quán của người Việt. Xuất hiện từ phong trào Chấn hưng Phật giáo. Cho đến nay, lễ Hằng Thuận đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình của người Việt. 36