Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những tài liệu, những tình tiết có thật tồn tại một cách khách quan được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho Tòa án hoặc Tòa án tự mình thu thập theo quy định của pháp luật. Vây điều kiện để dữ liệu điện tử trở thành chứng cứ trong vụ án dân sự là gì? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin liên quan.
Điều khoản thu nhập từ hiệu suất trong hợp đồng lao động
Điều kiện để dữ liệu điện tử trở thành chứng cứ trong vụ án dân sự
1. Điều kiện để dữ liệu điện tử trở thành chứng
cứ trong vụ án dân sự
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những tài liệu, những tình tiết có thật tồn tại một cách khách
quan được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho Tòa án hoặc Tòa án tự mình thu
thập theo quy định của pháp luật. Vây điều kiện để dữ liệu điện tử trở thành chứng cứ trong vụ
án dân sự là gì? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin liên quan.
Chứng cứ trong vụ án dân sự
>>>Xem thêm: Nguyên tắc xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự
Đặc điểm của chứng cứ điện tử
Ngoài những đặc điểm của chứng cứ truyền thống, chứng cứ điện tử có một số đặc điểm riêng:
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường:
Chứng cứ điện tử được tìm thông qua các lệnh, đôi khi chúng được tìm thấy ở những nơi mà các
chuyên gia mới có thể tìm kiếm hoặc ở những nơi chỉ có thể tiếp cận bằng các công cụ đặc biệt.
Dễ bị ẩn hay biến mất:
Một số thiết bị và một số điều kiện nhất định bộ nhớ máy tính (dữ liệu chứa chứng cứ) có thể bị
đè (hoặc thay đổi) bởi chức năng hoặc hoạt động thông thường của thiết bị. Điều này có thể do
sự dừng đột ngột của hệ thống hay do cài đặt thông tin mới đè lên thông tin cũ do thiếu dung
lượng bộ nhớ hay có thể yếu tố môi trường như nhiệt độ cao, ẩm ướt làm hỏng bộ nhớ lưu trữ.
2. Có thể bị thay đổi hoặc bị phá hủy:
Trong quá trình sử dụng thông thường, các thiết bị điện tử luôn thay đổi trạng thái bộ nhớ của
chúng theo yêu cầu của người sử dụng trong quá trình cập nhật dữ liệu hay lưu các thay đổi hay
do quá trình cập nhật tự động dữ liệu của hệ điều hành thiết bị.
Tính nguyên bản:
Dữ liệu điện tử có thể được sao chép vô thời hạn với bản sao giống hệt như bản gốc. Tức là, mặc
dù bản sao nhưng vẫn có thể xem là chứng cứ bởi mang đầy đủ các đặc tính nguyên bản của bản
gốc.
Điều kiện để dữ liệu điện tử có thể làm chứng cứ trong vụ án
dân sự
Đảm bảo điều kiện về tính toàn vẹn và yêu cầu điện tử
Theo Luật Giao dịch điện tử năm 2005 “Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số,
hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự, quy định này cho thấy “Dữ liệu điện tử” được coi là
nguồn chứng cứ trong giao dịch điện tử.
1. Thông điệp điện tử
“Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng
phương tiện điện tử” (Khoản 12 Điều 4 Luật GDĐT)
“Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư
điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác
Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể
hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu” (Điều 10 Luật GDĐT)
Điều 12 Luật GDĐT khẳng định “Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản”.Không chỉ vậy,
Điều 13 của Luật còn khẳng định mạnh mẽ hơn nữa: “Thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc.
Thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc khi đáp ứng được các điều kiện sau đây:
Nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu
tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh.
Nội dung của thông điệp dữ liệu được xem là toàn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ
những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ
liệu;
Nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh
khi cần thiết.”
Điều 14 Luật GDĐT nhấn mạnh “Thông điệp dữ liệu có giá trị làm chứng cứ
Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông
điệp dữ liệu.
3. Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách
thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì
tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù
hợp khác.”
2. Thông tin trích xuất
Đối với thông tin trích xuất từ trang thông tin điện tử, theo Điều 23 Luật Công nghệ Thông tin
(có hiệu lực ngày 01/01/2007) “Tổ chức, cá nhân có quyền thiết lập trang thông tin điện tử theo
quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm quản lý nội dung và hoạt động trang thông tin điện tử
của mình”.
Như vậy, với các căn cứ pháp lý được viện dẫn như trên, chúng ta có thể rút được 3 kết luận
quan trọng sau:
Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản pháp lý thông thường.
Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản gốc nếu nó được bảo đảm toàn vẹn từ khi khởi
tạo lần đầu, được lưu trữ và có thể truy cập được.
Thông điệp dữ liệu có giá trị làm chứng cứ.
Từ các kết luận trên, trường hợp doanh nhân muốn cung cấp là thông điệp dữ liệu làm chứng cứ
để cơ quan tài phán xem xét giải quyết một vụ tranh chấp, thì việc cung cấp đó phải đảm bảo 2
yêu cầu:
Thông điệp dữ liệu được in ra thành văn bản.
Thông điệp dữ liệu gốc được lưu trữ trong CD, USB kèm đường dẫn để truy cập khi cần
thiết (nếu là email cá nhân thì thông điệp dữ liệu đó phải được bảo toàn nguyên vẹn trong
hộp thư-inbox).
>>>Xem thêm: Mức hình phạt đối với tội lừa đảo qua mạng
Đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ
4. Đặc điểm của chứng cứ điện tử theo quy định của pháp luật
Trong thời đại “kỹ thuật số” hiện nay, việc tạo ra một dữ liệu điện tử chứa đựng thông tin theo ý
chí chủ quan của người tạo ra nó cũng không khó. Do đó, theo quan điểm cá nhân, để dữ liệu
điện tử được sử dụng làm chứng cứ thì cần thiết phải đảm bảo những thuộc tính sau:
Tính khách quan: Dữ liệu này có thật, tồn tại khách quan, có nguồn gốc rõ ràng, không bị
làm cho sai lệch, biến dạng; đã được tìm thấy và đang lưu trên máy tính, điện thoại di
động, email, USB, tài khoản trên mạng, trên máy chủ của nhà cung cấp dịch vụ Internet
(ISP), đang truyền trên mạng…
Tính hợp pháp: Chứng cứ phải được thu thập đúng quy định của pháp luật, sử dụng công
nghệ được pháp luật công nhận, trong cả quá trình khám nghiệm hiện trường, khám xét,
thu giữ vật chứng, sao lưu điện tử, chặn thư trên mạng, bảo quản, phục hồi, phân tích, tìm
kiếm và giám định dữ liệu và khi sử dụng chứng cứ phải kiểm tra tính hợp pháp của biện
pháp thu thập. Từng thiết bị điện tử như máy tính, máy điện thoại, máy chủ, máy tính
bảng, USB, đĩa CD/DVD…phải được ghi cụ thể vào biên bản (không được ghi chung
như: Một bao tải, hộp các tông đã niêm phong), niêm phong theo đúng quy định, để dữ
liệu không thể bị can thiệp, tác động làm thay đổi kể từ khi thu giữ hợp pháp. Chuyên gia
phục hồi dữ liệu sử dụng công nghệ và phần mềm phục hồi dữ liệu, như thiết bị chống
ghi (Read Only ) sao chép dữ liệu điện tử và chỉ sử dụng bản sao này để phục hồi, phân
tích, tìm kiếm dữ liệu, chuyển thành dạng đọc được, nghe được, nhìn thấy được. Bản gốc
phải được bảo quản theo đúng quy định.
Tính liên quan của chứng cứ: Dữ liệu thu được có liên quan đến hành vi phạm tội, đối
tượng phạm tội, nạn nhân, hậu quả…, được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ án.
Tính liên quan thể hiện ở nguyên lý, công nghệ hình thành dấu vết điện tử, thông tin về
không gian, thời gian hình thành dữ liệu (logfile, IP, siêu dữ liệu, hàm hash), địa chỉ lưu
trữ, nội dung thông tin, thời gian phạm tội (nguồn gốc và nội dung thư điện tử, chat, tin
nhắn, công nghệ tấn công, nạn nhân, thiệt hại, camera…), cookies truy cập…
5. Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám xét, niêm phong, ghi lời khai, bản tường trình phải thể
hiện được ba thuộc tính của dữ liệu. Đối tượng phải ký vào tất cả các bản in trên giấy, ảnh, đĩa
CD/VCD ghi dữ liệu điện tử, xác nhận về nội dung, hình thức và nguồn gốc tài liệu có liên quan
đến vụ án. Đây cũng là điều kiện phải có để chuyển hóa chứng cứ thu được trong giai đoạn trinh
sát và xác lập chứng cứ, chuyển dữ liệu điện tử có liên quan thành những văn bản, bút lục, tang
vật có thể sử dụng làm chứng cứ.
Như vậy cũng như tất cả các nguồn chứng cứ khác, dữ liệu điện tử chỉ được sử dụng với tính
chất là một nguồn chứng cứ khi có đủ ba thuộc tính cơ bản nói trên.
>>>Xem thêm: Tin nhắn chụp màn hình có được xem là chứng cứ?
Thông tin liên hệ Luật sư
Thông tin liên hệ Luật sư Chuyên tư vấn luật
Chuyên tư vấn luật nhận hỗ trợ, hướng dẫn trợ giúp pháp luật trực tuyến qua các hình thức như
sau:
Để được hỗ trợ, hướng dẫn trợ giúp pháp luật hình sự qua EMAIL: Thực hiện bằng cách
gửi mail trình bài nội dung tư vấn đính kèm tư liệu/tài liệu liên quan đến E-
mai: chuyentuvanluat@gmail.com, sẽ được Luật sư hình sự trả lời bằng văn bản qua
email, giải quyết nhanh chóng các vấn đề nhất
Để được hỗ trợ, hướng dẫn trợ giúp pháp luật hình sự qua tổng đài điện thoại: Chỉ cần
dùng điện thoại cá nhân gọi về số tổng đài trực tuyến 1900.63.63.87và trình bày nội dung
cần hỗ trợ pháp luật hình sự với luật sư. Mọi vướng mắc pháp lý của bạn sẽ được Luật sư
Chuyên tư vấn luật lắng nghe và tận tình giải đáp.
6. Tư vấn luật hình sự online qua ZALO: Trường hợp quý khách có tài liệu cần gửi nhanh,
và hỗ trợ, hướng dẫn trợ giúp pháp luật hình sự nhanh vui lòng gửi qua Zalo theo số điện
thoại 0819700748 để luật sư xem xét và trả lời.
Hỗ trợ tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến FACEBOOK: Chuyên Tư Vấn Pháp Luật
Hỗ trợ, hướng dẫn trợ giúp pháp luật hình sự trực tiếp tại TRỤ SỞ CÔNG TY: Tầng 14
Tòa nhà HM Town, 412 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, quận 3, TP.HCM
Văn Phòng giao dịch: 277/45 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 15, Bình Thạnh, HCM
Trên đây là một số tư vấn sơ lược về Điều kiện để dữ liệu điện tử trở thành chứng cứ trong vụ án
dân sự. Để tìm hiểu các vấn đề pháp lý liên quan về lĩnh vực lao động quý khách có thể truy cập
TƯ VẤN LUẬT HỢP ĐỒNG để tham khảo một cách chi tiết và kịp thời nhất, đồng thời bạn
đọc vui lòng liên hệ qua số HOTLINE 1900.63.63.87 để được tư vấn và hỗ trợ. Xin cảm ơn!
*Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng
khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui
lòng liên hệ về email: chuyentuvanluat@gmail.com.