Geoff and Michelle Freeman have served with Campus Crusade for Christ since 1998. They met while working in campus ministry at the University of Vermont and married in 2000. They have four children and previously served as campus directors at Brown University. Currently, they are on the regional leadership team in the Northeast. Their ministry focuses on reaching college students who will become tomorrow's leaders and sharing that Jesus Christ can satisfy lives and give real purpose as students search for meaning. They request prayers as Geoff transitions to a new role based in Boston and as they prepare to move there.
Chile has experienced steady economic growth averaging 5% annually over the past decade. GDP per capita reached $9,876 in 2007. Going forward, GDP growth is forecast to moderate to an annual average of 4.1% through 2012, driven by domestic demand and strong investment. Inflation will remain Chile's primary macroeconomic challenge, with consumer price rises averaging 8.4% in 2008 before returning to the 3% target range by 2010. Chile also maintains prudent fiscal balances and a competitive business environment, supported by its extensive network of free trade agreements, making it Latin America's most attractive market for private investment.
6 Performance Based Organization Diagnosis Presentationhsplastic
This document outlines a framework for performance-based organization diagnosis from an organizational and human resource perspective. It discusses diagnosing performance at the organization, process, and job levels using various tools such as relationship maps, surveys, analysis worksheets, process maps, role matrices, and job flows. The goal is to identify performance gaps and improvement actions to enhance organizational effectiveness.
This document provides various worksheets and surveys for organizational diagnosis, problem solving, decision making, and performance management. It includes surveys to assess an organization's mission and goals, SWOT analysis, needs analysis, process mapping, and gap analysis between actual and desired performance. It also includes tools for setting individual objectives and performance agreements. The overall aim is to help organizations diagnose issues, develop improvement plans, and manage performance across multiple levels.
The document outlines Shinichiro Kawaguchi's participative HRM/HRD program at the Vietnam-Japan Center from June 27-30, 2006. It discusses his background and specialty in international management consulting. The program focuses on developing diagnostic, adaptive, and communication capabilities for new managerial skills. It involves lectures, group exercises, and presentations on topics like performance-based organization diagnosis, HRD diagnosis, job analysis, and competency management.
1. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN
Nghiên cứu tình huống
MỘT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CUNG ỨNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VI MÔ:
SOGESOL Ở HAITI
Niên khoá 2007-2008
2. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
MỘT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CUNG ỨNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VI MÔ:
SOGESOL Ở HAITI
Giới thiệu
Haiti đang trải qua một cuộc cách mạng tài chính, thậm chí giữa lúc vùng đất
này đang chịu đựng tình trạng bạo động và bất ổn chính trị. Cuộc cách mạng tài chính
đó bắt đầu bằng việc tự do hoá khu vực ngân hàng năm 1995.1 Cùng lúc ấy, các cơ
quan quản lý ngành ngân hàng đã cấp giấy phép hoạt động cho năm ngân hàng mới.
Những thay đổi này cho phép các ngân hàng có thể cho vay nhiều hơn và với lãi suất
cao hơn. Nhưng họ cho ai vay? Haiti có một khu vực phi chính thức rộng lớn, và một
lực lượng đông đảo các tổ chức tài chính phi chính thức, phần lớn là các hợp tác xã và
các tổ chức phi chính phủ (NGOs).
Khu vực chính thức thì nhỏ bé, ít khách hàng, với nhiều ngân hàng cạnh tranh
hoạt động với nhau. Năm 1997, Ngân hàng Liên hiệp Haiti (BUH) là ngân hàng
thương mại đầu tiên bước vào thị trường phi chính thức với sản phẩm là những khoản
cho vay vi mô nhắm vào khoảng 1,6 triệu cơ sở kinh doanh vừa và nhỏ ở Haiti. Cũng
trong khoảng thời gian đó, Pierre-Marie Boisson, Chuyên gia Kinh tế trưởng của ngân
hàng Sogebank, bắt đầu triển khai ý tưởng của ông về một dự án mà sau này trở thành
Sogesol, một tổ chức tài chính thương mại cung ứng dịch vụ tài chính vi mô, giúp
Sogebank bước vào thị trường phi chính thức. Vào tháng bảy năm 2000, Sogesol khai
trương hoạt động. Chỉ hơn một năm sau, vào cuối tháng 11 năm 2001, tổ chức tài
chính này đã có 2.200 khách hàng và một danh mục đầu tư hơn 15 triệu Gdes (phụ lục
2).2 Cho dù không đạt được mục tiêu đề ra là 3.000 khách hàng vào cuối năm đầu
tiên, nhưng Sogesol đang đi đúng hướng. Thế nhưng vẫn còn nhiều vấn đề, quan
trọng hơn cả là: Liệu tổ chức tài chính này có đạt được lợi nhuận hay không? Và, có
phải những gì Sogesol làm được không chỉ đơn thuần là tạo ra lợi nhuận cho
Sogebank và các nhà đầu tư của họ mà thôi? Cụ thể hơn, tổ chức tài chính này có
đóng góp cho sự phát triển kinh tế của Haiti và phúc lợi của dân chúng hay chăng?
Bối cảnh lịch sử
Năm 1986 là thời điểm kết thúc hai mươi chín năm độc tài của Francoirs
Duvalier, còn được gọi là “Doc Cha” và con trai của ông “Doc Con”. Sau bốn năm
bất ổn, Haiti tổ chức bầu cử dân chủ vào năm 1990, với kết quả là số phiếu áp đảo
được dành cho một linh mục chuyển sang hoạt động chính trị, ông Jean-Bertrand
Aristide. Cương vị tổng thống của ông kéo dài không bao lâu, và chấm dứt bằng một
cuộc đảo chính quân sự tám tháng sau đó vào năm 1991. Năm 1994, lực lượng vũ
trang Hoa Kỳ lật đổ thể chế quân đội và khôi phục quyền lực cho Aristide. Có nhiều
nỗ lực đảo chính tiếp theo đó, nhưng không lần nào thành công.
1
Hai cuộc cải cách then chốt là giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng từ 48 phần trăm
xuống chỉ còn 26 phần trăm, và bãi bỏ trần lãi suất 22 phần trăm.
2
Tỷ giá hối đoái ngày 31 tháng 12 năm 2001 là 26,75 Gourdes trên một đô-la.
Kennedy School of Government 2 Bieân dòch: Kim Chi
3. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Dù vậy, các cuộc bầu cử vẫn còn lâu mới đạt đến mức công bằng. Aristide một
lần nữa lại được bầu làm tổng thống vào tháng 11 năm 2000, sau sáu tháng trời với
những cuộc bầu cử nghị viện và bầu cử địa phương nhiều gian lận và chậm trễ, và
nhiều tháng trời đầy những vụ đe dọa và ám sát các ứng cử viên đối lập. Tất cả những
điều này khiến cho các nhà tài trợ nước ngoài đình chỉ viện trợ cho đất nước đang bần
cùng kiệt quệ.
Các chỉ báo xã hội của Haiti cho thấy đây là quốc gia nghèo nhất ở Tây bán
cầu. Tám mươi phần trăm của tổng dân số 6,8 triệu người sống dưới mức đói nghèo
(CIA World Factbook). Một nửa số dân trưởng thành mù chữ, và không tới một phần
tư trẻ em nông thôn được học tiểu học (The Economist, 2000). Tuổi thọ bình quân là
54 năm so với tuổi thọ bình quân khu vực là 70. Tỷ lệ sinh đẻ là 4,8, cao hơn nhiều so
với bình quân khu vực là 2,8. Tỷ lệ tử vong sơ sinh là 71 trên 1.000 người, cao hơn
gấp đôi so với bình quân khu vực. Ngoài ra, một nửa số trẻ em dưới năm tuổi bị suy
dinh dưỡng (Ngân hàng Thế giới, 1998).
Năm 2000, GDP của Haiti là 3,8 tỷ đô-la, với GDP trên đầu người là 510 đô-
la.3 Nền kinh tế giảm sút và thu hẹp trong những năm 90 với tăng trưởng GDP là -1,2
phần trăm một năm, chủ yếu do trừng phạt thương mại và tài chính trong suốt thời kỳ
quân đội cầm quyền. Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng 1,2 phần trăm trong năm
2000 (EIU Country Report). Năm 2000, tổng thu bằng đô-la của Haiti là 1,1 triệu đô-
la, trong đó hàng xuất khẩu tạo nên 350 triệu đô-la và chuyển nhượng tư nhân ròng
(chủ yếu là chuyển tiền) tạo nên 540 triệu đô-la.
Nền kinh tế nội địa của Haiti chủ yếu là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 49 phần trăm
trong toàn bộ GDP, với lĩnh vực sơ khai chiếm 30 phần trăm, xây dựng 14 phần trăm,
và công nghiệp chế tạo 7 phần trăm (ước lượng năm 1999). Ngoài ra, đa số người lao
động là tự làm chủ, và phụ nữ tạo nên một lực lượng lao động dịch vụ đông đảo. Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước lượng rằng hoạt động chính phủ chiếm khoảng 20 phần
trăm GDP, so với 28 phần trăm ở Hoa Kỳ. Trong khi đó, việc buôn bán ma tuý phát
triển mạnh, ước tính 10-15 phần trăm lượng cô-ca-in đến Hoa Kỳ là đi qua các cảng
Haiti (The Economist, 2000).
Sogebank và nguồn gốc của Sogesol
Sogebank là một ngân hàng tương đối non trẻ. Ngân hàng ra đời vào giữa cuộc
khủng hoảng chính trị năm 1986, khi một nhóm thương nhân người Haiti mua lại tài
sản của Ngân hàng Hoàng gia Canada và trở thành ngân hàng thương mại lớn nhất
của Haiti với 300 triệu đô la tiền gửi và chiếm 27 phần trăm thị phần. Sogebank trải
qua sự phát triển nhanh chóng từ năm 1986, tăng từ 2 đến 28 chi nhánh; ngân hàng có
5 đơn vị thành viên cùng với hội sở chính. Một trong các đơn vị thành viên của ngân
hàng là Sogecarte, đơn vị đầu tiên phát hành thẻ tín dụng ở Haiti với 53 phần trăm thị
phần trên thị trường này. Đây cũng là nhà cung cấp máy rút tiền tự động đầu tiên và
duy nhất ở Haiti.
3
Căn cứ theo CIA’s World Factbook, GDP của Haiti là 12,7 tỷ đô-la năm 2000 sau khi đã điều chỉnh
ngang bằng sức mua (purchasing power parity, PPP) trong khi GDP đầu người là 1.800 đô-la (PPP).
Kennedy School of Government 3 Bieân dòch: Kim Chi
4. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Sogesol là đứa con tinh thần của Pierre-Marie Boisson. Ông đã bán ý tưởng
này cho Ban Quản trị Ngân hàng Sogebank; phần lớn các thành viên Ban Quản trị này
cũng là các thương nhân mà công ty của họ hàng ngày vẫn đang giao dịch với khu
vực phi chính thức gồm các nhà cung ứng và phân phối. Ý tưởng của ông nhận được
sự hưởng ứng về mặt tài chính khi ngân hàng Sogebank nhận được 300.000 đô-la tài
trợ từ Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ (Interamerican Development Bank) vào tháng
giêng năm 1999, thông qua Quỹ Đầu tư Đa phương của ngân hàng này, để “thiết kế,
xây dựng và vận hành có lãi một đơn vị thành viên chuyên cho vay đối với các cơ sở
kinh doanh vừa và nhỏ” (iadb.org).
Bằng một phần nguồn vốn này, Boisson vạch ra một kế hoạch kinh doanh cho
Sogesol từ tập đoàn Bannock. Thoạt đầu, ý tưởng này nhắm vào những người gửi tiền
vào ngân hàng Sogebank, phần lớn đều đáp ứng các tiêu chí của một cơ sở kinh doanh
vừa và nhỏ, thuộc khu vực phi chính thức; Bannock nhận diện được 150.000 người
gửi tiền tiết kiệm qui mô nhỏ tại Sogebank, trong đó có 51 phần trăm đáp ứng được
các tiêu chí của một cơ sở kinh doanh nhỏ. Sogesol hy vọng có thể nâng mối quan hệ
tiền gửi này lên thành quan hệ tín dụng, bằng cách sử dụng mối quan hệ tiền gửi để
quảng bá cho các sản phẩm cho vay vi mô của mình và làm nguồn thông tin trong quá
trình đánh giá tín dụng. Nhưng kế hoạch này được thay đổi vào tháng giêng năm
2000, sau một cuộc họp đầy lạc quan năm 1999 giữa Boisson và Michael Chu, Chủ
tịch và Giám đốc của Accion International vào thời điểm đó, khi Accion trở thành đối
tác trợ giúp kỹ thuật của Sogesol.4 Chính công việc đào tạo nhân viên Sogesol trong
lĩnh vực đánh giá tín dụng và kỹ thuật quản lý rủi ro do Accion tổ chức đã làm cho
các đơn vị thành viên của Accion trên khắp châu Mỹ La tinh đạt được sự thành công
đến thế. Cũng chính công việc trợ giúp phát triển và thực hiện một hệ thống công
nghệ thông tin mới của Accion đã làm nên bộ xương sống cho tất cả những gì Sogesol
thực hiện.
Sự tham gia của Accion đã mang đến nhiều thay đổi cho kế hoạch ban đầu của
Sogesol. Accion muốn Sogesol chọn lọc người vay một cách trực tiếp thông qua nỗ
lực của các nhân viên tín dụng, những người “bán” các “sản phẩm cho vay” của mình
cho các cơ sở kinh doanh đang hoạt động trên thị trường phi chính thức ở Port-au-
Prince và những nơi khác. Họ cũng muốn bắt đầu bằng những khoản cho vay nhỏ hơn
để vươn tới một thị trường rộng lớn hơn, qua đó có thể phát huy tối đa cơ sở khách
hàng và phạm vi hoạt động của Sogesol. Họ sẽ chỉ cung ứng những khoản tiền lớn
hơn cho những người vay nào có thể chứng minh được bản thân mình thông qua việc
hoàn trả đúng hạn những khoản vay trước đây (phụ lục 3).
Cùng lúc đó, Accion phải điều chỉnh phương pháp hoạt động của mình để
thích ứng với môi trường của Haiti và theo như mong muốn của các nhà lãnh đạo cấp
cao của Sogesol, trong đó có Sabine Valles, giám đốc của Sogesol năm 2000. Một vấn
đề quan trọng mà Boisson và Valles nhấn mạnh là toàn bộ việc cho vay được dựa trên
việc đánh giá từng cá nhân đi vay, chứ không phải dựa trên việc đánh giá một nhóm
những người cùng ngành. Theo truyền thống, các đơn vị thành viên của Accion cho
vay dựa trên hệ thống đánh giá nhóm những người cùng ngành, cho dù những năm
sau này nhiều đơn vị đã cung ứng các khoản cho vay dựa trên việc đánh giá từng cá
nhân đi vay.5 Họ cũng nhấn mạnh rằng Sogesol phải duy trì một loại thế chấp nào đó
4
Sogesol và Accion là các đối tác của nhau. Phương thức hoạt động truyền thống của Accion là giúp
mở ra một đơn vị thành viên, mà họ có được sự kiểm soát trực tiếp đối với đơn vị thành viên đó.
5
Lấy ví dụ, 81 phần trăm khách hàng vay tiền của Mibanco ở Peru là cá nhân.
Kennedy School of Government 4 Bieân dòch: Kim Chi
5. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
đối với các khoản cho vay của họ, thậm chí là các vật dụng cá nhân. Ngoài những vấn
đề về chính sách này, còn có hai việc khác nữa mà Accion phải thực hiện: Accion
phải hoạt động kinh doanh bằng tiếng Pháp chứ không phải bằng tiếng Tây Ban Nha
như thường lệ, và Accion phải điều chỉnh để thích ứng với mong muốn của Sogesol là
hoạt động giống như một tổ chức cho vay thương mại hơn so với nhiều đơn vị thành
viên của Accion. Các chi nhánh của Sogesol tọa lạc biệt lập với đường phố, lắp đặt
máy điều hoà, và trang bị nội thất phản ánh tiêu chuẩn của một hoạt động thương mại.
Mỗi chi nhánh cũng có một người bảo vệ trang bị súng hơi đứng trong tiền sảnh.
Cùng với sự trợ giúp về kỹ thuật, Accion International cũng mang đến nguồn
tài chính cho Sogesol thông qua tổ chức quỹ đầu tư vì lợi nhuận của họ, Gateway
Fund. Quỹ này mua 19,5 phần trăm vốn cổ phần trong Sogesol thông qua một khoản
đầu tư 195.000 đô-la. Ngoài ra, Profund, một quỹ đầu tư quốc tế đăng ký tại thành
phố Panama nhưng trụ sở ở San Jose ở Costa Rica, cũng mua 20,5 phần trăm cổ phần
thông qua một khoản đầu tư 205.000 đô-la. Sogebank vẫn là nhà đầu tư lớn nhất, với
35 phần trăm cổ phần, trong khi 25 phần trăm thuộc sở hữu của các nhà đầu tư tư
nhân.6
Quá trình phê duyệt khoản vay
Bước đầu tiên – tìm hiểu Sogesol. Nếu có ai đó muốn có được một khoản vay
từ Sogesol thì trước tiên phải tham dự một trong các buổi họp định hướng của
Sogesol. Các buổi họp này diễn ra mỗi ngày trong tuần vào lúc 9 giờ sáng tại ba chi
nhánh Rue de Quai, Petion Ville và Carrefour. Cuộc họp có hình thức của một buổi
thuyết trình do một nhân viên tín dụng trình bày. Người thuyết trình sử dụng các biểu
đồ đơn giản với các bước chuẩn bị được trình bày trên từng trang giấy.
Sau phần giới thiệu ngắn gọn về Sogesol, nhân viên tín dụng giải thích những
tiêu chuẩn cơ bản mà ứng viên xin tín dụng phải đáp ứng để được xem xét cho vay.
Ứng viên xin tín dụng phải nằm trong độ tuổi từ 21 đến 55, phải có công việc kinh
doanh, và phải kinh doanh trong hơn một năm tại một địa điểm cố định lâu dài. Yêu
cầu rằng khoản vay phải được dành cho việc kinh doanh được lặp lại nhiều lần trong
phần đầu của buổi thuyết trình. Ngay trong giai đoạn đầu của buổi thuyết trình này,
ứng viên xin tín dụng có thể ngắt lời nhân viên tín dụng bằng những câu hỏi về tiêu
chuẩn cần có để được vay; và cũng đã xảy ra tình trạng một số người vay bỏ cuộc họp
ra về ngay thời điểm này vì nhận thấy mình không đáp ứng được các tiêu chí cơ bản.
Viên chức tín dụng tiếp tục buổi thuyết trình bằng một phần giải thích chi tiết
hơn về những yêu cầu đối với một hồ sơ tín dụng. Vào cuối buổi họp, những người
xin tín dụng sẽ điền vào một biểu mẫu nhu cầu vay vốn (phụ lục 4). Sau đó nhân viên
tín dụng sẽ sàng lọc các hồ sơ này dựa theo các yêu cầu cơ bản của Sogesol, và những
hồ sơ nào phù hợp sẽ được chuyển sang khâu tiếp nhận tại chi nhánh. Công việc của
nhân viên tín dụng là sắp xếp từng ứng viên tín dụng vào một vùng địa lý thuộc phạm
vi hoạt động của chi nhánh, dựa vào địa điểm hoạt động của cơ sở kinh doanh. Mỗi
nhân viên tín dụng trong chi nhánh sẽ chịu trách nhiệm đối với một vùng cụ thể, vì thế
quá trình sắp xếp này cũng chỉ định ứng viên cho một nhân viên tín dụng cụ thể phụ
trách.
6
Tổng vốn góp ban đầu, mà toàn bộ đã vượt quá mệnh giá, là 1 triệu đô-la, cùng với 1 triệu đô-la khác
hiện có. Profund có thể rút vốn đầu tư sau năm năm nếu họ muốn.
Kennedy School of Government 5 Bieân dòch: Kim Chi
6. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Điền vào hồ sơ vay
Trong ngày tiếp theo, các nhân viên tín dụng sẽ nhận được một tờ giấy liệt kê
toàn bộ các ứng viên xin vay từ cuộc họp ngày hôm trước đang hoạt động trong khu
vực họ phụ trách. Các nhân viên tín dụng cũng nhận được một danh sách những người
vay đã thanh toán tiền vay trễ hạn một hay nhiều ngày. Danh sách này cho thấy số dư
ban đầu, số dư hiện có, ngày thanh toán gần đây nhất, và khoản thanh toán là toàn bộ
hay một phần. Dựa vào hai danh sách này, các nhân viên tín dụng sẽ lập lộ trình công
tác của họ trong ngày, bắt đầu từ 9 giờ sáng và quay trở về chi nhánh khoảng 2 giờ
chiều. Họ nộp bản lộ trình công tác này cho quản lý chi nhánh trước khi bắt đầu đi
công tác.
Trong vùng địa lý thuộc phạm vi hoạt động của chi nhánh Rue de Quay ở khu
trung tâm Port-au-Prince, khu vực chợ vỉa hè bắt đầu ngay bên ngoài cửa trước của
chi nhánh. Do vậy các nhân viên tín dụng chỉ cần đi bộ đến khu vực của họ qua các
khu phố đông đúc người và hàng hoá. Các nhân viên tín dụng ở khu vực Petion Ville
và Carrefour phải đi qua những đoạn đường dài hơn, thường buộc họ phải đi bằng xe
tap-taps.7 Cho dù như thế, trong những khu vực này vẫn có các khu chợ, nơi tụ tập
các cơ sở kinh doanh, cho dù không phải là khu chợ lớn và liên tục ở khu trung tâm.
Trong khu trung tâm, các khu chợ nằm ngay trên đường phố với các toà nhà
thuộc địa cổ xưa dọc theo hai bên đường. Phần lớn các toà nhà có mái vòm vươn dài
ra vỉa hè; những mái vòm này từng làm mái che cho những người đi mua sắm từ cửa
hàng này sang cửa hàng khác. Về sau, những mái vòm này làm mái che cho những
người buôn bán và hàng hoá của họ. Bản thân các toà nhà giờ đây không còn là các
cửa hàng mua bán nữa, mà được sử dụng để làm kho chứa hàng hay để ở, và có những
bằng chứng cho thấy tầng hai của các toà nhà đã được dùng làm văn phòng.
Các cơ sở kinh doanh hoạt động ngay dưới các mái vòm không phải là những
cơ sở gần phố xá nhất tại khu chợ trung tâm. Ngay phía trước họ còn có những người
bán dạo khác hoạt động ngay trên lòng lề đường, dù vậy, rõ ràng họ vẫn có một địa
điểm kinh doanh cố định; họ có quầy hàng và thùng chứa hàng để cất giữ hàng hoá
qua đêm.8 Và trên một số đường phố, phía trước những người bán dạo này còn có
những người mang hàng hoá trên tay và chạy xuống đường để bán mỗi khi có xe hơi
chạy đến. Những người bán hàng rong này, hầu hết là bán thực phẩm hay nước giải
khát, rao bán hàng hoá của họ cho những người qua đường (phụ lục 5).
Cho dù việc kinh doanh diễn ra dưới mái vòm hay trên đường phố, không ai
trong các nhà kinh doanh này có chủ quyền hợp pháp hay có một hợp đồng thuê đối
với địa điểm nơi họ đang kinh doanh. Tuy nhiên, những người có quầy hàng thì có
một quyền hạn phi chính thức đối với không gian bán hàng của họ, cho phép họ quay
trở lại địa điểm đó mỗi ngày để thực hiện công việc kinh doanh.
7
Tap-taps là một phương tiện giao thông phi chính thức thường có dạng xe tải nhẹ với các tấm vách
bằng sợi thuỷ tinh bọc quanh thùng xe và các băng ghế dài dọc theo sườn xe.
8
Các thùng chứa hàng có thể tích khoảng 3 feet, có bánh xe đẩy, và làm bằng kim loại hay gỗ. Không
thể để các thùng chứa hàng bằng gỗ qua đêm ở ngoài trời vì người ta có thể phá vỡ chúng một cách dễ
dàng, nên những người bán hàng rong trả một khoản phí cho ai đó để gửi cất chúng qua đêm và mang
trở ra điểm kinh doanh của họ vào buổi sáng. Một khách hàng của Sogesol nói bà đã trả 25 Gdes một
tuần cho dịch vụ gửi hàng này. Các thùng chứa kim loại có thể để qua đêm ngoài trời, nhưng trị giá đến
5.000 Gdes.
Kennedy School of Government 6 Bieân dòch: Kim Chi
7. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Ở Petion Ville, tôi đã đến tham quan một khu chợ nằm trên dốc của một con
đường đông đúc, đàng sau một dãy nhà một tầng nhỏ như một lớp vách giữ bờ. Khi
tôi rời khỏi con đường, tôi đi bộ theo một lối mòn bằng đất và đá vây quanh bởi
những quầy hàng được che chắn khỏi ánh nắng mặt trời bằng những cái dù hay những
mái nhà tạm làm bằng gỗ, bằng tôn dợn sóng, hay bằng bìa các-tông. Đi xa hơn theo
lối mòn, khu chợ dần mở rộng ra mỗi bên và tôi đứng trước cơ man nào là quầy hàng
lèn chặt với nhau. Ở đây, lối mòn chẻ ra làm hai, dù vậy vẫn còn nhiều lối đi nhỏ hơn
giữa các quầy hàng.
Có một nhánh song song với con đường trên đây dẫn đến một nhóm quầy
hàng, ở đó người ta bán than củi. Ở phía sau là một đống than lớn, là kho hàng của
một nhà buôn sỉ, và ngay phía trước nhà buôn là một trong những người bán lẻ mà
nhà buôn này cung cấp hàng. Một lối mòn chính khác dẫn đến một lòng sông cạn nơi
nhốt những chú lợn đang say sưa chén những thứ thức ăn bỏ đi.
Một số người bán hàng rong gần như cố định ngay trên lòng sông cạn, và vào
mùa mưa, họ phải chuyển lên phía dốc cao để tránh dòng chảy vừa hồi sinh của con
sông (phụ lục 6). Cũng như trên thị trường khu trung tâm, không một người bán hàng
rong nào trên thị trường này có chủ quyền hợp pháp hay sở hữu một hợp đồng thuê
đối với địa điểm nơi họ đang kinh doanh.
Không phải toàn bộ những người vay đều hoạt động ở một khu chợ tập trung
ngoài trời. Nhiều người kinh doanh ngay bên ngoài nhà của họ, hay trong một căn
phòng nhỏ hay một quầy hàng cạnh nhà trong một vùng dân cư rộng lớn. Đây có thể
là một cửa hàng tạp hoá trong vùng, một nhà buôn sỉ cung cấp hàng cho các cửa hàng
bán lẻ khác, hay một loại hoạt động sản xuất nào đó, như may mặc chẳng hạn. Những
người đi vay này đặt ra thử thách cho các nhân viên tín dụng Sogesol vì họ đòi hỏi các
nhân viên tín dụng phải đi qua những quãng đường dài hơn, và tách biệt khỏi các
nhóm người vay tập trung tại các khu chợ.
Chuyến tham quan chi nhánh Rue de Quay của tôi còn bao hàm cả một chuyến
đi cùng với một nhân viên tín dụng trong lộ trình hoạt động hàng ngày của nhân viên
này. Cùng đi với tôi còn có Giám đốc thương mại của Sogesol, Yves-Hans Bijou, một
người Haiti được đào tạo tại Hoa Kỳ và có kinh nghiệm làm công tác xã hội. Khu vực
phụ trách của người nhân viên tín dụng bắt đầu chỉ cách chi nhánh vài khu nhà, và
chẳng bao lâu sau khi chúng tôi đến, anh bắt đầu giới thiệu tôi với những khách hàng
đang trông coi quầy hàng của họ.
Khi chúng tôi tiếp tục hành trình đi qua khu chợ, người nhân viên tín dụng liên
tục dừng lại để trò chuyện với khách hàng, và đôi khi anh đưa cho họ xem một bản
thông báo thanh toán trễ hạn và cho họ biết lúc nào anh có mặt ở chi nhánh để họ đến
và thông báo chính xác họ cần phải thanh toán bao nhiêu. Nếu khách hàng không có
mặt tại quầy hàng và thanh toán khoản vay trễ hạn, nhân viên tín dụng sẽ nhờ một
trong những người bán hàng cạnh quầy hàng đó trao lại cho khách hàng bản thông
báo thanh toán trễ hạn. Bất kỳ một khoản thanh toán nào trễ hạn một ngày cũng bị
phạt nặng: 50 Gdes và lãi suất 10 phần trăm một tháng đối với dư nợ hiện có. Ngoài
ra, Sogesol có một chính sách thu tiền rất sát sao đối với các khoản nợ trễ hạn, bao
gồm những động cơ khuyến khích mạnh mẽ đối với nhân viên thu hồi nợ để thu hồi
Kennedy School of Government 7 Bieân dòch: Kim Chi
8. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
được càng nhiều càng tốt.9 Cuối cùng, chúng tôi đến một khu phố nơi có quầy hàng
của ứng viên xin tín dụng đầu tiên trong bản danh sách của người nhân viên tín dụng.
Trước khi đến gặp ứng viên, nhân viên tín dụng chuyện trò với hai hay ba người kinh
doanh lân cận để tìm hiểu xem có phải ứng viên đã hoạt động tại cùng một địa điểm
trong một năm và đã kinh doanh được một năm. Những người hàng xóm xác nhận
điều này. Và vì thế người nhân viên tín dụng tiến đến gặp ứng viên và tự giới thiệu về
mình.
Ứng viên xin tín dụng là một người làm đồ kim hoàn. Ông sở hữu một hộp
dụng cụ để chế tác đồ nữ trang, và một cái máy tiện bằng tay để làm mỏng kim loại.
Ông cũng có một chiếc tủ đựng đồ kim hoàn làm bằng gỗ có các mặt lắp kính, đặt trên
một cái bàn ngay trước chỗ làm việc của ông, nhưng chiếc tủ bày hàng này trống
rỗng.
Nhân viên tín dụng bắt đầu phỏng vấn ứng viên bằng cách đưa ra một số câu
hỏi về hoàn cảnh gia đình và về loại hình hoạt động kinh doanh mà ông đang tham
gia. Ứng viên nói với người nhân viên tín dụng rằng ông không chỉ chế tạo và sửa
chữa đồ kim hoàn, mà còn cho những người làm đồ kim hoàn khác thuê máy của ông
để làm dây chuyền. Ông cũng nói rằng ông bán đồ kim hoàn, và vì thế mới có chiếc
tủ. Đến đây, người nhân viên tín dụng yêu cầu ứng viên mang đồ kim hoàn ra bày vào
tủ để anh xem. Anh nói với ứng viên là sẽ quay trở lại sau khi ông ta làm xong việc
này.
Sau khi rời khỏi chỗ ứng viên, Yves giải thích với tôi rằng người nhân viên tín
dụng đã quyết định không tiếp tục việc phỏng vấn nữa vì anh lo ngại việc chiếc tủ bày
hàng trống rỗng. Lẽ ra chiếc tủ phải chứa đầy đồ kim hoàn của người thợ – có người
buôn bán nào lại bỏ lỡ cơ hội bán hàng vì không trưng bày hàng hoá của mình ra bán
chăng? Anh ngờ rằng người thợ kim hoàn đã mượn đồ kim hoàn của người khác để
giúp ông ta kiếm được khoản vay từ Sogesol – ông ta không bày hàng ra vì hàng hoá
không phải của ông nên không thể bày bán được.
Những người vay tiền mà tôi gặp khi chúng tôi đi bộ qua khu chợ là những
người vay điển hình của Sogesol ở chỗ công việc của họ chủ yếu là làm thương mại
(phụ lục 2): một người bán giày dép, một phụ nữ bán các vật dụng trong phòng tắm,
một người đàn ông bán băng đĩa nhạc. Chúng tôi băng qua đường và bước vào khung
cửa của một toà nhà thuộc địa cổ xưa. Chúng tôi bước dọc theo một hành lang ngắn
rồi đến một khoảng sân có tường bao quanh, nơi người ta tập trung đông đúc. Phía
cánh trái của khu vực này là cửa hàng của người bán băng đĩa nhạc đang được vợ ông
trông coi. Bên trong cửa hàng là những chồng băng đĩa và ít nhất là hai dàn nhạc hi-fi.
Người nhân viên tín dụng lại tiếp tục công việc của mình và hướng tới một
ứng viên xin vay khác hiện đang điều hành một quầy hàng bán quần áo. Cũng như với
người thợ làm đồ kim hoàn lúc trước, anh nhân viên tín dụng cũng hỏi những người
khác xung quanh quầy hàng của ứng viên về thời gian kinh doanh của người bán quần
áo tại địa điểm này là bao lâu, và chỉ đến lúc đó, anh mới tiến tới chỗ ứng viên và tự
giới thiệu. Quầy hàng của ứng viên gồm có ba chiếc giá treo bằng kim loại. Trên một
chiếc giá treo đầy những chiếc áo và váy phụ nữ màu sắc sặc sỡ. Trên chiếc giá thứ
9
Người ta không qui định ngày cụ thể mà khoản vay sẽ được giao cho bộ phận thu hồi nợ. Quyết định
này tuỳ vào sự xem xét của giám đốc chi nhánh. Nhưng Sogesol không chờ lâu, thường không đến 60
ngày.
Kennedy School of Government 8 Bieân dòch: Kim Chi
9. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
hai là quần jean với nhiều kiểu dáng, kích cỡ và màu sắc khác nhau. Chiếc giá thứ ba
trống rỗng. Có những tấm bìa các tông lớn che ánh nắng mặt trời phía trên hai chiếc
giá quần áo.
Cuộc phỏng vấn bắt đầu bằng một loạt câu hỏi về hoàn cảnh gia đình của chị
ứng viên. Những câu hỏi này cũng tốn mất một khoảng thời gian và bao hàm những
thông tin như ứng viên đã lập gia đình chưa, có bao nhiêu con, tổng thu nhập và chi
tiêu hàng tháng của gia đình là bao nhiêu. Nhân viên tín dụng cũng yêu cầu cho biết
danh tính ba người có thể bảo đảm cho khoản vay mà chị đang xin vay.
Sau đó nhân viên tín dụng đưa ra những câu hỏi về công việc kinh doanh. Chị
nói chị mở cửa sáu ngày trong tuần, trong đó có hai ngày buôn may bán đắt, ba ngày
doanh số trung bình, và một ngày bán chậm. Vào những ngày đắt hàng nhất, chị kiếm
được 1.750 Gdes, vào những ngày trung bình, chị thu được 1.000 Gdes và vào những
ngày bán chậm chị kiếm được 500 Gdes. Tổng cộng chị kiếm được 7.000 Gdes một
tuần, hay 28.000 Gdes một tháng. Anh nhân viên tín dụng cũng biết rằng những tháng
bán chạy nhất của chị là tháng hai, trong mùa ăn mặn, ngay trước khi trường học khai
giảng vào tháng chín, và trong suốt mùa Giáng sinh vào tháng 12.
Người bán hàng mua quần jean từ một nhà buôn sỉ với giá 4.000 Gdes một tá,
rồi bán lại với giá từ 400 Gdes đến 450 Gdes mỗi chiếc. Chị mua ba chiếc váy với giá
1.000 Gdes rồi bán với giá 350 Gdes mỗi chiếc. Chị nói chị có thể kiếm được nhiều
tiền hơn bằng cách bán kèm quần jean với một vài loại áo, như áo phông hay áo sát
cánh, và vì thế chị muốn vay tiền để mua những mặt hàng này và chị có thể bày bán
trên chiếc giá còn để trống.
Sau khi thu thập thông tin về chi phí và doanh thu của việc kinh doanh, anh
nhân viên tín dụng tìm hiểu thêm thông tin về tình hình tài chính của người vay – liệu
chị có những khoản vay khác chưa thanh toán, các khoản phải thu và phải trả, và
những tài sản khác như số dư tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc hay không.
Sau đó anh nhân viên tín dụng ngồi lại khoảng 10 phút, lặng lẽ xem xét lại các
thông tin. Anh thực hiện các tính toán theo yêu cầu của Sogesol để tính số tiền vay,
thời hạn, và lịch trình thanh toán mà anh có thể cung ứng cho khách hàng. Anh cũng
có trước mặt giá trị khoản vay mà ứng viên đã đề nghị vay khi chị điền vào hồ sơ xin
vay trước đây. Anh đưa ra cho ứng viên một bản chấp thuận cho vay với giá trị thấp
hơn so với yêu cầu ban đầu của chị. Chị không vui với bản chấp thuận cho vay này,
nhưng chị cũng đồng ý.
Để hoàn tất quá trình làm hồ sơ, nhân viên tín dụng phải thực hiện một bước
quan trọng cuối cùng là đến thăm nhà của ứng viên để nhận diện những vật có giá trị
mà ứng viên có thể đưa ra làm vật thế chấp cho khoản vay. Ứng viên nhờ một bạn
hàng đang trông coi quầy hàng kế bên xem chừng quầy hàng cho chị trong lúc chị đi,
và tất cả chúng tôi cùng đi bộ đến giao lộ gần nhất để đón một chiếc xe tap-tap.
Chuyến xe đưa chúng tôi ra khỏi khu chợ nhộn nhịp và chuyến xe thứ hai đưa
chúng tôi đến nhà ứng viên sau khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Nhà của chị là một
căn nhà bê tông nhỏ có hai phòng và một sân nhỏ có tường gạch bao quanh. Để đến
đó, chúng tôi đi qua một lối đi bằng xi măng rộng đủ để hai người đi với rãnh thoát
nước nhỏ chạy dọc ở giữa. Chen chúc phía bên kia là hàng chục căn nhà bê tông
tương tự.
Kennedy School of Government 9 Bieân dòch: Kim Chi
10. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Chúng tôi bước vào nhà, và ngồi bên lối đi để ngỏ để tranh thủ ánh sáng chiếu
vào nhà là người chồng của ứng viên đang vẽ một phong cảnh nông thôn Haiti cổ điển
xinh đẹp. Anh đang sao chép lại phong cảnh này từ bản gốc là một tấm thiếp bưu
điện. Trên các bức tường của gian phòng treo nhiều bức tranh phong cảnh nông thôn
và thành thị khác đã hoàn chỉnh.
Người nhân viên tín dụng nhìn quanh phòng và nhận ra một chiếc tủ lạnh và
vài trang thiết bị điện có thể có giá trị. Anh hỏi xem những món đồ này có hoạt động
không và nhận được câu trả lời là có. Anh cũng phát hiện ra rằng những món đồ này
là thuộc về người chồng, và người chồng nói anh sẵn sàng ký thế chấp các vật dụng
này. Người nhân viên tín dụng dán một mảnh giấy đặc thù của Sogesol (được nhập
khẩu từ Hoa Kỳ) lên các món hàng. Mảnh giấy này dùng để nhận diện món hàng đã
được thế chấp và cũng để nhắc nhở người vay về những gì sẽ bị trưng thu nếu họ
không trả được nợ. Vì khoản vay tương đối nhỏ, nên vật thế chấp cùng với các tài sản
khác của người vay cũng đủ bù cho giá trị khoản vay. Với toàn bộ công việc giấy tờ
đã hoàn tất, và các chữ ký đúng người đúng chỗ, nhân viên tín dụng đã có một hồ sơ
vay hoàn chỉnh sẵn sàng để trình cho hội đồng cho vay.
Cơ cấu khoản vay và đánh giá tín dụng
Toàn bộ các khoản cho vay của Sogesol đều là vay có thời hạn, với lãi suất cố
định và hoa hồng trả trước. Vào tháng 12 năm 2001, lãi suất là 3,5 phần trăm một
tháng tính trên số dư ban đầu, và hoa hồng là 3,5 phần trăm lấy từ giá trị của khoản
vay. Sogesol hoạt động trên cơ sở một tháng có 28 ngày cho nên tất cả những ngày
thanh toán định kỳ đều rơi vào cùng một ngày trong tuần lễ, cho dù việc thanh toán
được thực hiện hàng tuần, hai lần một tháng, hay hàng tháng. Lãi suất hiệu dụng hàng
năm cho một khoản vay thời hạn bốn tháng theo những điều khoản này là vào khoảng
80 phần trăm – thời hạn vay bình quân là khoảng 4,5 tháng (phụ lục 2).
Phương pháp đánh giá tín dụng của Sogesol là phương pháp mà Accion
International đã thử nghiệm trong nhiều năm trên khắp châu Mỹ La tinh thông qua các
đơn vị thành viên cung ứng dịch vụ tài chính vi mô của mình. Nền tảng của phương
pháp này là một triết lý cho vay rõ ràng: các khoản vay nhằm phục vụ cho vốn lưu
động của một cơ sở kinh doanh, và việc đánh giá tín dụng chú trọng vào cách thức mà
vốn lưu động hiện có cũng như số vốn lưu động mới vay sẽ tạo ra thu nhập như thế
nào. Kết quả là, cơ cấu của khoản vay, trong chừng mực có thể, sẽ được tính toán sao
cho phù hợp với dòng doanh thu của cơ sở kinh doanh. Mặc dù chú trọng nhiều vào
công việc kinh doanh, phương pháp của Accion cũng xem xét điều kiện thực tế của
một cơ sở kinh doanh nhỏ, phi chính thức và không chỉ tính đến khả năng tạo thu
nhập của cơ sở, mà cả các thu nhập và chi phí của toàn thể gia đình. Quả thật, trong
bảng đánh giá tín dụng Sogesol, những câu hỏi đầu tiên đưa ra về thu nhập và chi phí
là liên quan đến thu nhập và chi phí của gia đình.
Mục tiếp theo trong bảng đánh giá tín dụng tìm hiểu thông tin về thu nhập
hàng ngày của ứng viên. Bảng đánh giá đòi hỏi ngân viên tín dụng phải hỏi ứng viên
một cách thẳng thắn về doanh thu trong những ngày buôn may bán đắt, những ngày
trung bình, và những ngày ế ẩm để có thể tính được doanh thu bình quân hàng tuần,
và từ đó nhân cho bốn thì sẽ có được số liệu doanh thu bình quân hàng tháng. Tiếp
theo phân tích này, nhân viên tín dụng hỏi ứng viên những tháng đắt hàng, tháng
trung bình, và tháng bán chậm của chị là những tháng nào. Đây là một điều quan
trọng cần biết vì người nhân viên tín dụng muốn bảo đảm rằng anh tính toán giá trị
Kennedy School of Government 10 Bieân dòch: Kim Chi
11. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
khoản vay và thời hạn vay sao cho phản ánh được tình hình mấy tháng sắp tới là sẽ
bán chạy, trung bình hay bán chậm.
Người nhân viên tín dụng tìm hiểu chi tiết công việc kinh doanh để xác định tỷ
suất lợi nhuận (1 – (chi phí hàng bán/tổng doanh số)) cho từng mặt hàng, rồi tính thu
nhập gộp và thu nhập ròng của công việc kinh doanh. Thông qua kết hợp số liệu sau
cùng này với thu nhập và chi phí của gia đình, nhân viên tín dụng có thể tính được
tổng số tiền mà gia đình còn lại vào cuối mỗi tháng. Khi tính toán cụ thể tỷ suất lợi
nhuận của từng mặt hàng, người nhân viên tín dụng lập một danh mục những vật
dụng quan trọng nhất mà ứng viên có và giá trị của những vật dụng ấy. Điều này,
cùng với những câu hỏi mà nhân viên tín dụng đưa ra cho ứng viên về những tài sản
ngắn hạn và dài hạn, dẫn đến việc tính toán tài sản ròng của ứng viên. Cho dù những
thông tin mà nhân viên tín dụng thu thập cũng tương tự như những thông tin mà một
ngân hàng thương mại chính thức thu thập, nhưng phương pháp này tập trung sự chú
ý của nhân viên tín dụng vào khả năng hoàn trả khoản vay của người vay, chứ không
phải chú trọng vào những tài sản mà họ có thể dùng làm vật thế chấp. Năm tỷ số mà
nhân viên tín dụng tính toán ngay tại cơ sở là: tỷ số khả năng sinh lợi của cơ sở kinh
doanh và của gia đình; tỷ số thanh toán nợ dựa vào số tiền đề xuất thanh toán hàng
tháng chia cho số tiền mà gia đình còn lại vào cuối mỗi tháng; khả năng thanh khoản
của cơ sở kinh doanh; và tỷ số giữa giá trị xin vay và giá trị vốn lưu động hiện tại
trong kinh doanh (được tính bằng cách lấy tài sản ngắn hạn trừ đi nợ ngắn hạn của cơ
sở kinh doanh).
Từ những tính toán này và một số tính toán khác được thực hiện ngay tại cơ
sở, nhân viên tín dụng xác định được bốn biến số tạo thành khoản vay để cung cấp
cho người vay: số tiền định kỳ phải trả, thời hạn của khoản vay, tổng giá trị của khoản
vay, và tần số thanh toán. Trong phạm vi qui định của các chính sách tín dụng của
Sogesol về giá trị khoản vay tối đa và thời hạn, nhân viên tín dụng cố gắng cung ứng
cho người vay một khoản vay sao cho đáp ứng được nhu cầu tín dụng của người đi
vay, bố trí các khoản thanh toán định kỳ theo dòng doanh thu của họ sao cho khi đến
hạn thanh toán, họ sẽ có sẵn tiền mặt để trả, và không đòi hỏi một khoản thanh toán
hàng tháng vượt quá một tỷ lệ nào đó trong số tiền mà gia đình còn lại vào cuối mỗi
tháng.
Hội đồng tín dụng
Tuỳ thuộc vào giá trị số tiền xin vay và cấp bậc của người nhân viên phụ trách
hồ sơ vay, buổi họp hội đồng cho vay sẽ bao gồm các cấp nhân sự khác nhau. Người
phụ trách hồ sơ vay và người phải có mặt tại cuộc họp hội đồng cho vay cũng ảnh
hưởng đến khoản tiền ban thưởng khuyến khích mà nhân viên tín dụng nhận được
(phụ lục 7 và 8). Toàn bộ các nhân viên cấp thấp trình bày các trường hợp vay do họ
phụ trách trước một hội đồng phê duyệt khoản vay, nghĩa là những khoản vay không
tự quản. Các nhân viên tự quản được tự quyết định phê duyệt những khoản vay lên
đến 8.000 Gdes, nghĩa là những khoản vay tự quản. Mọi khoản vay vượt quá giá trị
này phải được trình trước một hội đồng; đó là những khoản vay không tự quản.
Các nhân viên cấp cao hơn sẽ phê duyệt toàn bộ những trường hợp xin vay có
giá trị dưới 13.000 Gdes (những khoản vay do chính họ phụ trách và những khoản vay
do các nhân viên khác phụ trách). Những khoản vay nào vượt quá giá trị này phải
được sự phê duyệt của giám đốc chi nhánh. Một hồ sơ vay dưới sự phụ trách của một
nhân viên cấp cao và được sự phê duyệt của chính nhân viên này là một khoản vay tự
Kennedy School of Government 11 Bieân dòch: Kim Chi
12. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
quản, trong khi những khoản vay thuộc phạm vi phụ trách của một nhân viên khác và
được phê duyệt bởi một nhân viên cấp cao thì được gọi là khoản vay được giám sát.
Tuỳ thuộc vào tình trạng phê duyệt khoản vay, nhân viên tín dụng sẽ nhận được một
khoản tiền ban thưởng khuyến khích căn cứ theo những biểu thanh toán khác nhau.
Như vậy, ví dụ như một hồ sơ vay trị giá 5.000 Gdes do một nhân viên cấp thấp phụ
trách đòi hỏi phải có mặt một nhân viên cấp thấp và một nhân viên cấp cao trong hội
đồng cho vay. Khoản tiền ban thưởng gắn liền với khoản vay này được xác định căn
cứ theo biểu thanh toán khoản vay không tự quản dành cho nhân viên cấp thấp và biểu
thanh toán khoản vay được giám sát dành cho nhân viên cấp cao. Nhưng nếu khoản
vay được phụ trách bởi một nhân viên cấp cao hay một nhân viên tự quản thì không
cần phải có hội đồng phê duyệt, và khoản tiền ban thưởng đối với khoản vay này được
xác định theo biểu thanh toán khoản vay tự quản dành cho nhân viên tự quản hay
nhân viên cấp cao đó.
Các hội đồng xét duyệt khác nhau được thành lập căn cứ theo giá trị khoản
vay và người phụ trách hồ sơ tín dụng. Hội đồng này nhóm họp mỗi buổi chiều sau
khi các nhân viên tín dụng quay trở về từ chuyến đi công tác ở khu vực họ phụ trách.
Toàn thể những nhân viên có khoản vay cần được sự phê duyệt của giám đốc chi
nhánh hay của nhân viên cấp cao sẽ cùng họp với giám đốc chi nhánh, chứ không phải
họp riêng, điều này cho phép các nhân viên tín dụng có thể thảo luận từng hồ sơ vay
với các bạn đồng nghiệp, cũng như với người giám sát cấp trên của họ. Từng nhân
viên tín dụng sẽ trình bày hồ sơ vay mà họ phụ trách cho hội đồng, cố gắng hết sức để
hồ sơ của họ được phê duyệt. Sau phần trình bày, họ sẽ trả lời những câu hỏi của giám
đốc chi nhánh hay nhân viên tín dụng cấp cao, và những nhân viên cấp thấp khác
thường đưa ra ý kiến của mình đối với hồ sơ vay. Quyết định cuối cùng thuộc về giám
đốc chi nhánh hay nhân viên cấp cao, nhưng nếu muốn, họ cũng có thể đưa hồ sơ tín
dụng ra cho toàn thể biểu quyết.
Trong một cuộc thảo luận mà tôi đã tham dự, một hội đồng do giám đốc chi
nhánh Rue de Quai đứng đầu đã xem xét hồ sơ tín dụng của một khách hàng cũ xin
vay 15.000 Gdes. Cho dù nhân viên tín dụng tham chiếu các tài liệu ghi chú khi trình
bày, toàn bộ những số liệu thoả đáng vẫn được nhập vào hệ thống “Si Credito” và
được giám đốc chi nhánh đưa vào máy vi tính xách tay trước khi nhân viên tín dụng
bắt đầu phần trình bày.
Trong suốt buổi thảo luận, giám đốc chi nhánh kiểm tra thông tin thanh toán
trong quá khứ của người vay trong hệ thống và phát hiện ra người vay này đã thanh
toán khoản vay cũ trễ 23 ngày. Người ta lo ngại rằng một phần các khoản thanh toán
trễ này không phải do lỗi của người vay mà là do sự cố của hệ thống gây trục trặc
trong chi nhánh suốt mùa hè. Tuy nhiên, những thông tin bổ sung cho thấy rằng có 11
ngày thanh toán trễ là do một trong những đứa con của người vay bị ốm.
Giám đốc chi nhánh quyết định rằng người vay sẽ nhận được số tiền giống
như anh đã nhận trước đây, 13.000 Gdes chứ không phải là 15.000 Gdes như anh đề
nghị. Tới đây, nhân viên tín dụng yêu cầu giám đốc phê duyệt khoản vay để anh có
thể nhận được khoản tiền ban thưởng khuyến khích cho tháng này, vì tháng này sắp
sửa trôi qua. Giám đốc từ chối, và bảo nhân viên tín dụng phải đảm bảo rằng người
vay sẽ đồng ý với khoản vay được duyệt ít hơn này trước khi mang hồ sơ về cho hội
đồng phê duyệt.
Kennedy School of Government 12 Bieân dòch: Kim Chi
13. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Làm việc với Sogebank
Sogebank và Sogesol quan hệ với nhau theo nhiều cách, thể hiện trong một
hợp đồng được ký kết bởi Boisson, đại diện cho Sogesol, và Gerald Moscoso, chủ tích
hội đồng quản trị của Sogebank. Về mặt hoạt động, sự liên kết quan trọng nhất là
những người vay tiền của Sogesol có thể thanh toán khoản vay tại một chi nhánh của
Sogebank. Họ xếp hàng với những khách hàng thường xuyên của Sogebank và trao
tiền trả nợ cho một trong nhiều nhân viên thu ngân phục vụ số đông khách hàng của
ngân hàng. Nhân viên thu ngân thực hiện bút toán giao dịch hai lần: thứ nhất, trong
môđun “Thu ngân” của chi nhánh ngân hàng Sogebank sẽ ghi nhận khoản thanh toán
là một khoản có trong tài khoản của Sogesol, cũng giống như khoản thanh toán của
một người gửi tiền bất kỳ nào đó được ghi có vào tài khoản của họ; và thứ hai, trong
môđun “Si Credito” của Sogesol sẽ ghi nhận giao dịch như khoản thanh toán mà
người vay thanh toán cho món nợ họ đã vay. Hệ thống “Si Credito” được xây dựng
riêng cho các hoạt động của Sogesol, và được trang bị một kho thông tin cho phép
người cho vay quản lý danh mục tín dụng của mình một cách chủ động.
Cho dù Sogebank có một hệ thống mạng cục bộ phục vụ khách hàng ở mỗi chi
nhánh, cho phép mỗi chi nhánh có thể hoạt động một cách độc lập nếu việc kết nối
với máy chủ AS400 tại hội sở chính của Sogebank ở Delmas bị ngắt, nhưng số liệu
cho vay của Sogesol trong hệ thống “Si Credito” không nằm tại máy chủ ở mỗi chi
nhánh; mà số liệu này chỉ nằm tại AS400. Điều này có nghĩa là nếu kết nối giữa chi
nhánh và Delmas bị ngắt, các nhân viên thu ngân không thể truy cập vào dữ liệu của
hệ thống “Si Credito” và không thể nhập vào đó khoản tiền trả nợ của người vay.10
Sự mất kết nối giữa chi nhánh Rue de Quai và Delmas, cùng với những vấn đề đi kèm
với việc nâng cấp phần mềm “Si Credito”của Sogesol đã nhiều lần gây ra những trục
trặc đáng kể vào tháng bảy và tháng tám 2001, và cho thấy tầm quan trọng của nguồn
thông tin tốt và được cập nhật thường xuyên đối với sự thành công của hoạt động kinh
doanh. Hậu quả của những trục trặc này là các nhân viên tín dụng không có được
những bản báo cáo về việc thanh toán trễ và thông tin về những người vay đã trả hết
nợ; đây là một tai họa cho tính thống nhất trong hoạt động của người cho vay.
Phản ứng trước những vấn đề nảy sinh do cấu hình “ngôi sao” mà cơ sở hạ
tầng công nghệ thông tin của Sogesol phải lệ thuộc vào, ban giám đốc và các nhân
viên công nghệ thông tin của Sogebank quyết định thay đổi cấu hình. Bước đầu tiên
trong việc thay đổi này là loại bỏ môđun “Si Credito”trên thiết bị của nhân viên thu
ngân và để cho nhân viên thu ngân ghi giao dịch một lần vào hệ thống của Sogebank.
Hệ thống đủ linh hoạt thông qua việc sử dụng các tài khoản “giả” giúp nhân viên thu
ngân có thể bút toán khoản thanh toán theo một cách thức sao cho sau đó khoản tiền
này sẽ được ghi có vào tài khoản cho vay trong hệ thống “Si Credito”của Sogesol.11
10
Sogebank duy trì những kết nối vi sóng giữa các chi nhánh và hội sở chính vì hệ thống điện thoại địa
phương không đáng tin cậy đến nỗi vi sóng là kết nối cơ bản, và hệ thống điện thoại chỉ là kết nối thứ
cấp. Cho dù thận trọng như vậy, tình trạng mất kết nối giữa một chi nhánh và Delmas vẫn có thể xảy
ra, vì vậy cũng làm ngắt mạch hệ thống mạng cục bộ tại mỗi chi nhánh.
11
Soggebank đã có kinh nghiệm với cách bố trí như vậy. Ngân hàng cung ứng dịch vụ bố trí các buổi
hẹn làm việc cho toà đại sứ Hoa Kỳ. Đã từng có trường hợp những người Haiti muốn xin visa đến Hoa
Kỳ phải xếp hàng bên ngoài toà đại sứ chỉ đơn thuần để được bố trí một cuộc hẹn gặp nhân viên toà đại
sứ. Bây giờ, nếu có ai muốn có một buổi hẹn làm việc với nhân viên đại sứ, chỉ cần đến bất kỳ một chi
nhánh nào đó của Sogebank, đóng lệ phí xin visa và nhận được một thư mời mà họ sẽ mang theo đến
toà đại sứ vào ngày triệu tập.
Kennedy School of Government 13 Bieân dòch: Kim Chi
14. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Số liệu thanh toán khoản vay nằm trong hệ thống của Sogebank và sau đó được xử lý
hàng ngày theo từng “lô” trên cơ sở dữ liệu của Sogesol. Việc xử lý theo “lô” này
(một chế độ thao tác của máy tính, trong đó các chỉ lệnh chương trình được thực hiện
liên tiếp cái này sau cái kia không cần sự can thiệp của người sử dụng máy, thường
dùng để chép dự phòng hệ thống - ND) diễn ra giữa cơ sở dữ liệu trên AS400, và chỉ
yêu cầu là vào một thời điểm nào đó sau khi các chi nhánh Sogebank đã đóng cửa, các
máy phục vụ tại mỗi chi nhánh có kết nối với máy chủ tại Delmas. Sự kết nối này cho
phép chuyển dữ liệu từ nơi này đến nơi khác nếu vì một lý do nào đó, máy trung tâm
AS400 không được cập nhập trên cơ sở thời gian thực suốt ngày (đồng hồ thời gian
thực theo dõi thời gian hiện hành ngay cả khi máy tính tắt điện - ND). Kết quả là,
nhân viên thu ngân không nhập số liệu vào cơ sở dữ liệu của Sogesol một cách trực
tiếp; điều này giúp ta không cần phải có sự liên kết “sống” giữa chi nhánh và máy
trung tâm để ghi nhận một giao dịch trên hệ thống của Sogesol.
Cuối cùng, người ta đã có thể có được số liệu của Sogesol nằm trên một máy
phục vụ tại mỗi chi nhánh. Máy phục vụ có thể là một máy chuyên dụng cho Sogesol,
và với lợi thế là Sogesol và các chi nhánh Sogebank toạ lạc tại những vị trí cận kề
nhau, nó có thể được đặt trong chi nhánh Sogesol. Điều này làm phát sinh khả năng là
nhân viên thu ngân có thể có những thông tin cập nhật về tình trạng tài khoản của một
người vay nào đó, bao gồm thông tin về khoản thanh toán của người này là bao nhiêu,
và các khoản thanh toán này đúng hạn hay chậm trễ. Trong bước đầu tiên của cả hệ
thống cũ và hệ thống mới, nhân viên thu ngân đều không có thông tin về tài khoản
cho vay. Nhìn từ góc độ của cả Sogebank và Sogesol, điều này có lẽ cũng không phải
là một tình huống tồi tệ. Nếu các nhân viên thu ngân có sẵn những thông tin như vậy,
Sogebank sẽ phải huấn luyện nhân viên thu ngân cách sử dụng và họ sẽ đi đến chỗ trở
thành một phần của những nỗ lực quản lý tài khoản cho vay của Sogesol.
Sogesol trả cho Sogebank một khoản phí dịch vụ thu ngân và dịch vụ chi
nhánh tương đương với 0,75 phần trăm danh mục cho vay hiện hành mỗi tháng (dựa
trên số dư bình quân của tháng trước).12 Sogesol cũng quản lý danh mục cho vay
thông qua một tài khoản tại ngân hàng Sogebank, và ngân hàng cung ứng vốn trên
mức vốn tự có của Sogesol để Sogesol cho khách hàng vay. Trong bối cảnh này,
Sogesol cần duy trì yêu cầu vốn tối thiểu theo qui định của Ngân hàng Trung ương là
12 phần trăm trong tổng vốn hoạt động của mình.13 Ngoài ra, hợp đồng với Sogebank
qui định rằng Sogesol phải luôn luôn duy trì một quỹ dự phòng rủi ro cho vay (quỹ dự
phòng nợ xấu) tương đương với 3,5 phần trăm của danh mục cho vay hiện hành.
Sogesol còn thanh toán cho Sogebank các phí dịch vụ khác. Những dịch vụ
này bao gồm nhân lực, pháp lý, hành chính, tin học, kiểm toán, và tiếp thị. Sogesol
nhận hoá đơn thanh toán các dịch vụ này, được ấn định là 150.000 Gdes một tháng
trong năm tài chính 2000-2001, nhưng sau đó hoá đơn tính tiền được tính dựa vào
khối lượng dịch vụ cung ứng, dù vậy cũng được qui định mức trần hàng năm là
15.000 đô la Mỹ (khoảng 400.000 Gdes theo tỷ giá hối đoái tháng 12 năm 2001) trong
năm năm đầu tiên của hợp đồng.
12
Thỏa thuận như vậy chẳng phải là chuyện bất bình thường đối với Sogebank: ngân hàng này hiện có
5 đơn vị thành viên, trong đó có một công ty tín dụng.
13
Nếu tỷ lệ vốn giảm xuống dưới mức yêu cầu tối thiểu, Sogesol sẽ phải thanh toán nợ, tăng vốn, hay
nếu tình hình đòi hỏi, phải giải thể. Nếu sự kiện này xảy ra, Sogebank sẽ tiếp quản trách nhiệm quản lý
danh mục đầu tư.
Kennedy School of Government 14 Bieân dòch: Kim Chi
15. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Kết quả của sự liên kết tài chính này là việc thanh toán hàng tháng của
Sogesol cho Sogebank bao gồm bốn khoản: lãi suất trên vốn vay (lãi suất hàng năm
của nguồn vốn vay này vào cuối năm 2001 là 24 phần trăm);14 thanh toán cho các
dịch vụ quản lý; thanh toán cho các dịch vụ thu ngân và dịch vụ chi nhánh tương
đương 0,75 phần trăm danh mục cho vay hiện hành; và một khoản để duy trì quỹ dự
phòng nợ xấu tương đương 3,5 phần trăm. Khoản thanh toán cuối cùng này buộc
Sogesol hàng tháng phải hạch toán chi phí nợ xấu tương đương 3,5 phần trăm trong
gia tăng ròng của số dư danh mục cho vay, cộng với các khoản thanh toán bù đắp cho
cho việc xoá nợ bằng cách sử dụng nguồn quỹ dự phòng. Còn có một điều khoản
trong hợp đồng qui định rằng nếu phân tích CAMEL cho thấy quỹ dự phòng nợ xấu
cần phải nhiều hơn 3,5 phần trăm danh mục cho vay hiện hành, thì Sogebank và
Sogesol sẽ thanh toán cho quỹ dự phòng những khoản tiền bằng nhau để bù cho mức
chênh lệch giữa 3,5 phần trăm và số liệu mới.15
Thành quả hoạt động tài chính
Trong năm hoạt động đầu tiên, danh mục cho vay của Sogesol tăng đến hơn
15 triệu Gdes và 2.200 khách hàng.16 Trên phương diện luỹ kế, Sogesol đã cung ứng
4.511 khoản vay trị giá hơn 44 triệu Gdes (phụ lục 2). Năng suất của 19 đại lý tín
dụng Sogesol tăng dần theo thời gian, đạt đến 116 khách hàng trên mỗi đại lý tính đến
tháng chín 2001, với dư nợ bình quân là 820.000 Gdes. Giá trị bình quân của một
khoản vay cho một khách hàng mới là hơn 9.000 Gdes vào cuối năm đầu tiên, và giá
trị bình quân của một khoản vay đối với những khách hàng vay tái tục lần thứ nhất,
thứ hai, thứ ba lần lượt là 13.000 Gdes, 16.320 Gdes và 22.650 Gdes. Sogesol theo
dõi tất cả những khoản cho vay trễ hạn (kể cả những khoản vay trễ 1 ngày); vào cuối
tháng chín năm 2001, có 5,85 phần trăm danh mục cho vay hiện hành rơi vào loại
này. Nhưng chỉ có 1,48 phần trăm danh mục bị trễ trong khoảng từ 31 đến 90 ngày, và
chỉ có 0,52 phần trăm bị trễ hạn hơn 90 ngày và được xếp loại là không hiệu quả. Đối
với những khoản vay không hiệu quả, Sogesol đưa 100 phần trăm số dư hiện hành của
khoản vay vào quỹ dự phòng để bù đắp thiệt hại dự kiến từ khoản vay và chuyển hồ
sơ vay sang bộ phận thu hồi công nợ.
Người ta không trông mong rằng Sogesol được hoà vốn trong năm đầu tiên.
Thu nhập ròng của Sogesol có giá trị âm trong năm tài chính kết thúc vào tháng 9 năm
2001, với số tiền là 10,6 triệu Gdes (phụ lục 9 và 10).17 Doanh thu từ lãi của danh mục
cho vay là hơn 3,67 triệu Gdes, và doanh thu từ tiền phạt thanh toán trễ hạn làm tăng
thêm 10 phần trăm cho doanh thu lãi vay của Sogesol. Chi phí lớn nhất mà tổ chức
phải giải quyết là chi phí nhân sự, bao gồm lương và hoa hồng. Trong năm đầu tiên
khoản chi phí này chiếm đến hơn một phần ba tổng chi phí. Một khoản chi phí lớn
khác nữa trong năm đầu tiên là khấu hao, bao gồm khấu hao cả tài sản vật chất lẫn
“tài sản” khác của việc thành lập doanh nghiệp. Khoản khấu hao sau này phản ánh chi
phí trả trước của việc khởi sự, được trải đều cho khoảng hai năm đầu tiên trong vòng
14
Lãi suất này được tính là bình quân của: 1) Lãi suất hiệu dụng của tiền gửi kỳ hạn 3 tháng ở
Sogebank bằng đồng Gourdes (trong đó lãi suất hiệu dụng = lãi suất danh nghĩa chia cho 1 trừ đi hệ số
dự trữ chính thức hiện hành), và 2) Lãi suất trái phiếu của Ngân hàng Dự trữ Haiti kỳ hạn 91 ngày
(được tính bằng cách chia lãi suất trả trước cho số tiền đầu tư ròng của Sogebank).
15
Căn cứ theo hợp đồng, phân tích CAMEL phải được thực hiện theo các qui trình của Accion. Xem
phần mô tả các qui trình này trên theo địa chỉ sau trên mạng www.mip.org
16
Khách hàng đang hoạt động là khách hàng đang có một khoản vay hiện hành.
17
Điều này xảy ra cho dù phần đóng góp còn lại của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ (Inter-American
development Bank) đã được hạch toán là doanh thu.
Kennedy School of Government 15 Bieân dòch: Kim Chi
16. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
đời của doanh nghiệp thông qua khấu hao. Sogesol cũng phát sinh 1,8 triệu Gdes chi
phí văn phòng. Mặt khác, Sogesol chỉ phát sinh lãi phải trả cho hạn mức tín dụng với
Sogesol là 753.000 Gdes.
Nhìn về phía trước
Sogesol đặt nền tảng cho sự tăng trưởng tương lai, nhưng phải đối mặt với
nhiều thử thách nếu muốn trở thành một tổ chức thương mại thành công. Về nội bộ,
Sogesol cần cải thiện hoạt động để có thể cạnh tranh một cách hiệu quả và hữu hiệu
trên những thị trường mà công ty đã bước chân vào, và mở rộng mạng lưới chi nhánh
để tận dụng các cơ hội thị trường vượt ra ngoài đô thị Port-au-Prince. Về đối ngoại,
Sogesol đứng trước hai mối đe dọa. Một là khả năng khách hàng của Sogesol sẽ tiếp
cận với các khoản vay từ những nguồn tài chính vi mô khác cũng giống như Sogesol
và trở nên chìm ngập trong nợ nần quá mức. Đây là một mối đe dọa thực sự do tình
trạng thiếu vắng một hệ thống văn phòng tín dụng. Mối đe dọa thứ hai là môi trường
quản lý không chắc chắn mà Sogesol đang hoạt động trong đó.
Những thách thức bên trong
Sogesol nhìn thấy sự tăng trưởng nhanh chóng trong năng suất của nhân viên
tín dụng từ khi công ty mở cửa hoạt động kinh doanh. Tính đến quí đầu năm 2002,
một nhân viên tín dụng giỏi quản lý khoản 230 khách hàng, nhưng mục tiêu là mỗi
nhân viên tín dụng phải đạt bình quân 300 khách hàng trong năm tài chính 2002-
2003. Là một phần trong sự tiến bộ tự nhiên của tổ chức, số dư bình quân trong các
khoản vay sẽ tăng lên khi những khách hàng hiện hữu tiếp tục vay với giá trị khoản
vay cao hơn. Kết quả là doanh thu ròng trên một khoản vay sẽ tăng do giảm chi phí
trên một khoản vay và tăng thu nhập trên một khoản vay. Nhưng một phần những lợi
ích này sẽ bị bù trừ bởi những kế hoạch mở rộng của Sogesol. Những kế hoạch này
bao gồm việc mở rộng hoạt động trên 10 thị trấn nữa trong năm năm, bắt đầu từ năm
2002 và tiềm năng mở rộng hoạt động vào các vùng nông thôn.
Điều kiện hoạt động tại nhiều thị trấn cũng rất tương tự với điều kiện hoạt
động ở Port-au-Prince, trong đó bao gồm sự hiện diện của một chi nhánh Sogebank,
cho nên việc mở rộng hoạt động vào các thị trấn này không đòi hỏi phải điều chỉnh
hoạt động của Sogebank nhiều. Tuy nhiên, việc mở rộng hoạt động có nghĩa là sẽ phải
đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng vật chất, tạo ra một hệ thống công nghệ thông tin
mạnh có thể hoạt động trong tình hình hệ thống truyền thông không đáng tin cậy, và
đầu tư vào việc đào tạo nhân viên tín dụng.18 Hơn nữa, các vùng nông thôn, với dân
số phân tán và mạng lưới giao thông nghèo nàn, tiêu biểu cho một thách thức mới.
Pierre-Marie Boisson đã đùa nghịch với một số ý tưởng về cách thức vươn tới những
vùng này, bao gồm việc cho các “ngân hàng làng xã” vay tiền. Những ngân hàng làng
xã này đại diện cho một nhóm người đi vay tiền rồi phân phát số tiền vay được cho
những người này. Người ta vẫn chưa rõ liệu Sogesol có đạt được mục tiêu đề ra là
30.000 khách hàng vào năm 2005 nhưng vẫn hạ thấp được chi phí, và liệu một chiến
lược nông thôn có là một phần trong việc đạt được mục tiêu đó hay không.
Những mối đe dọa bên ngoài
18
Các chi nhánh Sogesol nằm ngoài Port-au-Prince chỉ kết nối với hội sở chính Delmas bằng đường
dây điện thoại mà thôi.
Kennedy School of Government 16 Bieân dòch: Kim Chi
17. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Sogesol vẫn chưa hoạt động trong một ngành tài chính vi mô thật sự. Công ty
có một số đông đối thủ cạnh tranh, bao gồm một đơn vị thuộc Unibank, một ngân
hàng thương mại khác và là đối thủ cạnh tranh với Sogebank (đơn vị này và Sogesol
được xếp vào loại “hội tư nhân” trong phụ lục 11). Sự cạnh tranh không chỉ có nghĩa
là Sogesol phải quảng bá các sản phẩm cho vay của mình một cách tích cực cho các
cơ sở kinh doanh trong khu vực phi chính thức và gia tăng năng suất, mà còn phải
vạch ra phương cách để giải quyết mối đe dọa là người vay sẽ trở thành những người
mắc nợ quá nhiều. Haiti không có một hệ thống văn phòng tín dụng để các tổ chức
cho vay có thể báo cáo về một trung tâm lưu trữ những thông tin về giá trị khoản vay
mà họ đã cung ứng cho các khách hàng và diễn tiến trả nợ của khách hàng. Ngân hàng
trung ương Haiti đã có những nỗ lực vào cuối thập niên 90 nhằm thiết lập một hệ
thống như vậy nhưng do những vấn đề kỹ thuật, dự án này thất bại. Không có một hệ
thống văn phòng tín dụng, Sogesol không thể đảm bảo rằng những người vay tiền
không vay mượn từ những nguồn khác và thậm chí còn dùng tiền vay mượn để trả nợ
cho Sogesol. Điều này làm cho Sogesol và tất cả những tổ chức tài chính vi mô khác
trở nên dễ bị thiệt hại bởi tình trạng nợ nần quá mức của khách hàng và có thể gây ra
vỡ nợ trên qui mô lớn. Sogesol phải tìm một phương thức nào đó để lập nên một hệ
thống văn phòng tín dụng. Ngoài ra, Sogesol hoạt động trong một môi trường quản lý
không chắc chắn. Không có những qui định về các tổ chức tài chính vi mô ở Haiti, và
Sogesol hoạt động dưới ô dù che chở của Sogebank trong lĩnh vực này. Sogesol tuân
thủ các qui định hiện hữu về vốn dự trữ trong hoạt động ngân hàng, nhưng tài sản của
công ty rất khác với tài sản của Sogebank, và có thể bị xem là có vấn đề theo những
qui định hiện hành vào lúc đó. Mối nguy hiểm là ở chỗ một cơ quan giám sát ngân
hàng có thể quyết định rằng các khoản cho vay của Sogesol rủi ro hơn nhiều so với
các khoản cho vay của một ngân hàng thương mại thông thường và yêu cầu phải tăng
dự trữ của Sogesol để làm giảm rủi ro lớn hơn này. Chi phí kinh doanh của Sogesol,
đặc biệt là chi phí tài chính, sẽ gia tăng đáng kể, đe dọa khả năng hoạt động bền vững
của công ty. Điều này chưa xảy ra, nhưng vẫn có thể xảy ra nếu làn gió chính trị đổi
chiều bất lợi cho Sogebank hay toàn bộ hệ thống tài chính vi mô. Pierre-Marie
Boisson phải quyết định chiến lược của Sogebank: Liệu ngân hàng có nên thúc đẩy
việc ban hành qui định chính thức về các tổ chức tài chính vi mô hay cứ để mặc tình
hình như thế? Nếu quyết định thúc đẩy việc ban hành qui định, ông nên sử dụng chiến
lược gì và nên thúc đẩy những qui định gì?
Kennedy School of Government 17 Bieân dòch: Kim Chi
18. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Phụ lục 1
Bản đồ Haiti
Kennedy School of Government 18 Bieân dòch: Kim Chi
19. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Phụ lục 2
Sogesol 12-2000 03-2001 06-2001 09-2001
Hoạt động thương mại
Phân phối các khoản vay đã được duyệt 1.640.674 2.620.415 5.164.663 5.344.450
Thương mại
Cung ứng thực phẩm/Cửa hàng 0% 0% 0% 0%
Cung ứng thực phẩm/Cửa hàng/Thức uống 23% 22% 36% 30%
Quần áo/Giày dép/Đồ may sẵn 0% 0% 0% 0%
Quần áo 21% 21% 8% 11%
Giày dép/Va-li 17% 19% 15% 14%
Đồ may sẵn/Vải/Nữ trang/Mỹ phẩm 14% 8% 13% 9%
Linh kiện ô tô/Điện tử/Phần cứng 5% 7% 5% 2%
Đồ dùng trong nhà/Đồ dùng gia đình/Cát-xét 6% 7% 2% 1%
Các lĩnh vực khác 9% 11% 12% 23%
Dịch vụ
Quán rượu và nhà hàng 2% 3% 3% 3%
Thẩm mỹ viện 2% 1% 0% 1%
Các lĩnh vực khác 1% 0% 2% 2%
Sản xuất
Đủ loại 0% 1% 3% 4%
Các yếu tố năng suất
Tổng khách hàng hiện hành 640 900 1882 2200
Số khoản vay đã được giải ngân
Tổng số khoản vay đã giải ngân đến nay 759 1448 3027 4511
Số khoản vay đã giải ngân trong kỳ 201 234 556 400
Khoản vay đã hoàn trả
Số khoản vay đã hoàn trả đến nay 119 548 1145 2311
Số khoản vay đã hoàn trả trong kỳ 78 175 206 443
Khoản vay đã tái tục
Số khoản vay đã tái tục đến nay 96 437 990 1930
Số khoản vay tái tục đã giải ngân lũy kế 85 406 968 1809
Số khoản vay đã tái tục nhưng chưa giải ngân KCSL 31 22 121
Số khoản vay đã tái tục trong kỳ 63 140 187 323
Khoản vay đang tiến hành tái tục
Số khoản vay đang làm thủ tục tái tục KCSL 13 KCSL KCSL
Số khoản vay tái tục chờ duyệt KCSL 22 KCSL KCSL
Từ chối và bỏ trốn
Số khoản vay bị Hội đồng Tín dụng từ chối đến nay KCSL 51 KCSL KCSL
Số khách hàng bỏ trốn đến nay KCSL 25 KCSL KCSL
Tỷ lệ từ chối KCSL 5,67% KCSL KCSL
Tỷ lệ bỏ trốn KCSL 2,78% KCSL KCSL
Tỷ lệ từ chối và bỏ trốn KCSL 8,44% KCSL KCSL
Chú thích: KCSL: Không có số liệu.
Kennedy School of Government 19 Bieân dòch: Kim Chi
20. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Phụ lục 2 (Tiếp theo)
Sogesol 12-2000 03-2001 06-2001 09-2001
Khoản vay tái tục
Số khoản vay tái tục đã giải ngân luỹ kế 85 406 968 1809
Giá trị vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 1) 686.269 1.290.777 1.250259 2.184.767
Số khoản vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 1) 64 105 115 167
Giá trị vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 2) KCSL 250.747 1.233.071 1.126.114
Số khoản vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 2) KCSL 15 82 69
Giá trị vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 3) KCSL KCSL 192.746 317.098
Số khoản vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 3) KCSL KCSL 8 14
Giá trị vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 4)
Số khoản vay tái tục đã giải ngân trong kỳ (lần 4)
Hoàn trả
Hoàn trả luỹ kế 2.490.453 6.893.058 14.548.212 28.590.329
Hoàn trả trong kỳ 1.028.586 1.823.487 3.160.825 4.739.815
Các giá trị bình quân
Giá trị danh mục bình quân 3.290.255 5.499.159 12.325.233 14.922.513
Giá trị khoản vay bình quân (từ số dư danh mục) 5.216 6.301 6.772 7.078
Giá trị bình quân khoản vay mới 7.138 7.175 7.699 9.023
Giá trị bình quân khoản vay tái tục (lần 1) 10.723 12.293 10.872 13.082
Giá trị bình quân khoản vay tái tục (lần 2) KCSL 16.716 15.037 16.320
Giá trị bình quân khoản vay tái tục (lần 3) KCSL KCSL 24.093 22.650
Giá trị bình quân khoản vay tái tục (lần 4)
Số khoản vay hoạt động theo tài khoản 71 100 82 116
Giá trị danh mục theo tài khoản 371.118 630.104 554.110 819.527
Danh mục không trả đúng hạn
Số khoản vay không trả đúng hạn (> 1 ngày) 18 KCSL KCSL KCSL
Số dư của các khoản vay không trả đúng hạn (> 1 ngày) 93.846 KCSL KCSL KCSL
Số khoản vay không trả đúng hạn (> 0 ngày) KCSL 75 94 158
Số dư của các khoản vay không trả đúng hạn (> 0) KCSL 356.894 507.765 910.229
Phần trăm tổng danh mục 0 0 0 0
Số ngày trễ bình quân 22 34 KCSL KCSL
Các số liệu khác
Số đại lý tín dụng 9 9 23 19
Tỷ lệ tăng của danh mục 21,64% 10,44% 21,07% 1,58%
Số liệu về hội đồng tín dụng trong kỳ 903 554 4.031 6.441
Số ngày làm việc 19 22 20 20
Số ngày họp hội đồng 19 20 19 13
Số hồ sơ tín dụng soạn thảo 222 277 597 457
Số khoản vay được duyệt 201 258 534 440
Số khoản vay mới KCSL 121 347 117
Số khoản vay mới (tái tục lần 1) 63 125 101 217
Số khoản vay mới (tái tục lần 2) KCSL 15 79 91
Số khoản vay mới (tái tục lần 3) KCSL KCSL 7 15
Số khoản vay mới (tái tục lần 4)
Số khoản vay bị từ chối 16 3 10 3
Số khoản vay bị đình chỉ 5 16 53 14
Thời hạn của những khoản vay được phê duyệt
Tần số thanh toán hàng tuần 3 7 1 -
Tần số thanh toán hàng nửa tháng 81 45 67 42
Tần số thanh toán hàng tháng 138 206 466 398
Thời hạn bình quân tính theo tháng 4 4,81 4,57 4,57
Phụ lục 2 (Tiếp theo)
Sogesol 12-2000 03-2001 06-2001 09-2001
Số liệu văn phòng hậu kiểm 907
Số khoản vay được giải ngân trong một ngày 11 11 27 20
Số khoản vay được duyệt chưa giải ngân 5 12 26 KCSL
Phân tích tình trạng chậm trễ (hồ sơ hậu kiểm)
Kennedy School of Government 20 Bieân dòch: Kim Chi
21. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Hồ sơ hậu kiểm bị trễ – đầu kỳ KCSL KCSL 21 40
Hồ sơ nhận được trong kỳ KCSL KCSL 544 567
Hồ sơ trả về Hội đồng tín dụng trong kỳ KCSL KCSL 565 449
Hồ sơ hậu kiểm bị trễ – cuối kỳ KCSL KCSL 0 158
Số liệu chi tiết về danh mục chậm trễ
Số khoản vay còn khất lại (từ 2-30 ngày) KCSL KCSL KCSL KCSL
Giá trị danh mục còn khất lại (từ 2-30 ngày) KCSL KCSL KCSL KCSL
Số khoản vay còn khất lại (từ 1-30 ngày) KCSL 48 49 96
Giá trị danh mục còn khất lại (từ 1-30 ngày) KCSL 236.516 317.702 599.452
Tỷ lệ danh mục còn khất lại trong tổng danh mục KCSL 4,17% 2,49% 3,85%
Số khoản vay không trả đúng hạn (từ 31-60 ngày) KCSL KCSL 16 27
Giá trị danh mục không trả đúng hạn (từ 31-60 KCSL KCSL 64.880 182.113
ngày)
Tỷ lệ danh mục không trả đúng hạn trong tổng danh KCSL KCSL 0,51% 1,17%
mục
Số khoản vay không trả đúng hạn (từ 61-90 ngày) KCSL KCSL 4 12
Giá trị danh mục không trả đúng hạn (từ 61-90 KCSL KCSL 15.955 48.290
ngày)
Tỷ lệ danh mục không trả đúng hạn trong tổng danh KCSL KCSL 0,13% 0,31%
mục
Số khoản vay không hiệu quả (trễ hơn 90 ngày) KCSL 6 25 23
Giá trị danh mục không hiệu quả (trễ hơn 90 ngày) KCSL 37.361 109.228 80.375
Tỷ lệ danh mục không hiệu quả trong tổng danh KCSL 0,66% 0,86% 0,52%
mục
Số khoản vay không trả đúng hạn (từ 31-90 ngày) KCSL 21 KCSL KCSL
Giá trị danh mục không trả đúng hạn (từ 31-90 KCSL 83.016 KCSL KCSL
ngày)
Tỷ lệ danh mục không trả đúng hạn trong tổng danh KCSL 1,46% KCSL KCSL
mục
Chú thích: KCSL: Không có số liệu.
Kennedy School of Government 21 Bieân dòch: Kim Chi
22. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Phụ lục 3
Giá trị và thời hạn vay đối với các khoản vay lần đầu và vay tái tục ở Sogesol
Giá trị vay tối thiểu Giá trị vay tối đa Thời hạn vay
Vay lần đầu 2.000 13.000 3 đến 5 tháng
Vay lần hai và lần ba 2.000 26.000 3 đến 6 tháng
Vay từ lần 4 trở lên 2.000 65.000 4 đến 8 tháng
Kennedy School of Government 22 Bieân dòch: Kim Chi
23. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Phụ lục 4
SOGESOL NHU CẦU XIN CẤP TÍN DỤNG
Họ: _________________ Nhũ danh: ____________________
Tên: _________________ Tên lót: ______________________
Phái: Nam Nữ
Tên cơ sở kinh doanh: ___________________ Ngày thành lập cơ sở: __________
Loại hình kinh doanh: ___________________
Số CMND: ____________________________ Hộ chiếu: ____________________
• Tên chồng/vợ:
____________________________________________________
• Số CMND của chồng/vợ: ______________________ Hộ chiếu:
____________
• Tên người bảo lãnh:
_______________________________________________
• Số CMND của người bảo lãnh: _________________ Hộ chiếu:
____________
Địa chỉ cơ sở kinh doanh: Địa chỉ nhà riêng:
Số nhà Số nhà:
Đường: Đường:
Quận huyện: Quận huyện:
Thành phố: Thành phố:
Điện thoại: Điện thoại:
Điện thoại: Điện thoại:
Làm thế nào bạn biết về Sogesol? Điều khoản vay:
Thông tin từ hội họp Đài phát thanh Số tiền:
Tham quan khu vực Tạp chí Thời hạn:
Sogebank Chương trình quảng cáo Tần suất:
Giới thiệu của người khác Nguồn khác Ngày thanh toán:
Tờ rơi quảng cáo
Sơ đồ địa điểm kinh doanh Sơ đồ địa điểm nhà riêng
Đại lý: ______________ Đại diện Sogesol: _______________ Ngày: __________
Thông tin từ hội họp Chương trình quảng cáo Điện thoại
Tham quan khu vực Đại lý
Thời điểm tham quan phù hợp:____________________
Khách hàng: Người bảo lãnh:
Chồng/vợ:
Nhận xét: __________________________________________________________
__________________________________________________________________
Phụ lục 5
Kennedy School of Government 23 Bieân dòch: Kim Chi
24. Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Phaùt trieån Moät ngaân haøng thöông maïi
Nieân khoaù 2007-2008 Nghieân cöùu tình huoáng cung öùng dòch vuï taøi chính vi moâ
Phụ lục 6
Kennedy School of Government 24 Bieân dòch: Kim Chi