Cơ sở lý luận về liên hợp quốc trong luận văn thạc sĩ. Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của LHQ mang tính bao quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Thời gian đầu khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, LHQ tập trung vào các vấn đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apácthai. Trong thời kỳ gần đây LHQ ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của LHQ trong gần 70 năm qua cho thấy trọng tâm chính của LHQ là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên.
Cơ sở lý luận về các ủy ban giám sát công ước về quyền con người của liên hợp quốc. Việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người theo cơ chế dựa trên điều ước được các Ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế về nhân quyền (Ủy ban giám sát công ước/Ủy ban) thực hiện. Các Ủy ban này được lập ra với nhiệm vụ giám sát, thúc đẩy việc thực hiện những điều ước quốc tế về quyền con người, thông qua việc nhận, xem xét báo cáo và ra khuyến nghị liên quan đến báo cáo của của các quốc gia thành viên.
Cơ sở lý luận về quyền tự do lập hội trong pháp luật quốc tế. Hội đã xuất hiện trên thế giới từ thuở xa xưa, dưới nhiều hình thức đa dạng. “Ngay từ thời cổ đại, ở phương Tây, Plato đã mô tả “câu lạc bộ” là những nơi thị dân Hy Lạp lui tới để thưởng thức nghệ thuật, nghe giảng về thiên văn học và khoa học” [1]. Cùng với thời gian, các hình thức hiệp hội trên thế giới ngày càng phát triển, bao gồm các hội không có hoặc có tư cách pháp nhân, với các tên gọi như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty...Vậy “hội” là gì?
Cơ sở lý luận về các ủy ban giám sát công ước về quyền con người của liên hợp quốc. Việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người theo cơ chế dựa trên điều ước được các Ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế về nhân quyền (Ủy ban giám sát công ước/Ủy ban) thực hiện. Các Ủy ban này được lập ra với nhiệm vụ giám sát, thúc đẩy việc thực hiện những điều ước quốc tế về quyền con người, thông qua việc nhận, xem xét báo cáo và ra khuyến nghị liên quan đến báo cáo của của các quốc gia thành viên.
Cơ sở lý luận về quyền tự do lập hội trong pháp luật quốc tế. Hội đã xuất hiện trên thế giới từ thuở xa xưa, dưới nhiều hình thức đa dạng. “Ngay từ thời cổ đại, ở phương Tây, Plato đã mô tả “câu lạc bộ” là những nơi thị dân Hy Lạp lui tới để thưởng thức nghệ thuật, nghe giảng về thiên văn học và khoa học” [1]. Cùng với thời gian, các hình thức hiệp hội trên thế giới ngày càng phát triển, bao gồm các hội không có hoặc có tư cách pháp nhân, với các tên gọi như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty...Vậy “hội” là gì?
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận về liên hợp quốc trong luận văn thạc sĩ.docx
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ. Công tác lưu trữ ra đời là do đòi hỏi khách quan đối với việc bảo quản và tổ chức sử dụng tài liệu. Nhà nước ta luôn coi công tác này, đây là một ngành hoạt động trong công tác quản lý nhà nước đồng thời là một mắt xích không thể thiếu được trong bộ máy quản lý của mình. Ngày nay, những yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, công tác lưu trữ cần được xem xét từ những yêu cầu bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý, bởi thông tin trong tài liệu lưu trữ là loại thông tin có tính dự báo cao, dạng thông tin cấp một, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, có độ tin cậy cao do nguồn gốc hình thành, do đặc trưng pháp lý, tính chất làm bằng chứng lịch sử của tài liệu lưu trữ quy định.
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các công ty buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh.Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác.Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. (Thư viện Học liệu Mở Việt Nam , 2012)
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 20/04/1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật DNNN năm 1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu tư trong các DNNN, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định và hướng dẫn của Chính phủ. Theo đó, tại Điều 1 Luật DNNN 1995 quan niệm: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.Các DNNN được tổ chức theo mô hình quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp tư nhân.
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ sinh lao động. Trong hoạt động sản xuất thì vì những lý do khách quan và chủ quan có thể dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Do đó, yêu cầu về ATLĐ và VSLĐ trong lao động được đặt lên hàng đầu. Hiện nay,, An toàn, vệ sinh lao động là những quy định của luật lao động bao gồm những quy phạm pháp luật về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc lâu dài của người lao động.
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay. Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ. NLĐ dù là nam hay nữ đều được pháp luật ở mỗi quốc gia bảo vệ dưới góc độ quyền công dân và được pháp luật quốc tế công nhận và đảm bảo. Ủy ban Quyền con người của Liên Hợp quốc đã có sự phân chia nhóm quyền con người trong lĩnh vực lao động thuộc nhóm quyền dân sự và dưới góc độ pháp luật lao động “Quyền của người lao động phải được bảo đảm như quyền con người” [9].
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân quận. Văn bản hành chính dùng để truyền đạt thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước như : công bố hoặc thông báo về một chủ trương, quyết định hay nội dung và kết quả hoạt động của một cơ quan, tổ chức; ghi chép lại các ý kiến và kết luận trong các hội nghị ; thông tin giao dịch chính giữa các cơ quan, tổ chức với nhau hoặc giữa tổ chức và công nhân. Văn bản hành chính đưa ra các quyết định quản lý quy phạm, do đó không dùng để thay thế cho văn bản QPPL [21, tr 36]
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của viện kiểm sát nhân dân. Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua năm 1999 không tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận. Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiếp lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở. Với quy định của pháp luật, đất đai được chia ra làm nhiều loại khác nhau: theo Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam được chia ra làm sáu loại, bao gồm: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Sự phân chia này dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế này, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai 2003 và hiện nay là Luật Đất đai 2013 đã chia đất đai làm ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu gồm các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp huyện. Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh…Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển từ rất lâu, do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một khái niệm đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủiro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính. Báo cáo tài chính là các chứng từ cần thiết trong kinh doanh. Các nhà quản lý sử dụng chúng để đánh giá năng lực thực hiện và xác định các lĩnh vực cần thiết phải được can thiệp. Các cổ đông sử dụng chúng để theo dõi tình hình vốn đầu tư của mình đang được quản lý như thế nào. Các nhà đầu tư bên ngoài dùng chúng để xác định cơ hội đầu tư. Còn người cho vay và nhà cung ứng lại thường xuyên kiểm tra báo cáo tài chính để xác định khả năng thanh toán của những công ty mà họ đang giao dịch.
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn được đánh giá rất quan trọng trong kinh doanh bởi nó sẽ được sử dụng rất thương xuyên, sử dụng hàng ngày để chi trả cho các chi phí phát sinh khác trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó cũng là thước đo dùng để phản ánh các giá trị hiện có và tình hình biến động về kinh tế của doanh nghiệp tăng hau giảm.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường. Chúng ta biết rằng hàng hóa sản xuất ra là để bán. Chúng được bán ở thị trường. Theo cách hiểu cổ điển, thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán, nơi mà các người mua và bán đến với nhau để mua bán các sản phẩm và dịch vụ. Thị trường thể hiện đặc tính riêng của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Không thể coi thị trường chỉ là các chợ, các cửa hàng…mặc dù nơi đó có mua bán hàng hóa. [2_trang 16]
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet. Đầu tiên để tiếp cận một cách cụ thể về khái niệm chất lượng dịch vụ thì chúng ta cũng cần biết đôi chút về “dịch vụ” là gì. Theo đó thì dịch vụ là những hoạt động hoặc là chuỗi hoạt động mà thông thường ít hoặc nhiều chúng ta không thể sờ thấy về mặt tự nhiên được, nhưng không nhất thiết, xảy ra sự tác động qua lại giữa một bên là khách hàng và một bên là người cung cấp dịch vụ và / hoặc tiềm lực về mặt vật lý của sản phẩm và / hoặc hệ thống người cung cấp mà nó được cung cấp như là những giải pháp cho vấn đề của người tiêu dùng (Gronroos, 1990).
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartBiz
Cách Hệ thống MES giúp tối ưu Quản lý Sản xuất trong ngành May mặc như thế nào?
Ngành may mặc, với đặc thù luôn thay đổi theo xu hướng thị trường và đòi hỏi cao về chất lượng, đang ngày càng cần những giải pháp công nghệ tiên tiến để duy trì sự cạnh tranh. Bạn đã bao giờ tự hỏi làm thế nào mà những thương hiệu hàng đầu có thể sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối và thời gian giao hàng nhanh chóng? Bí mật nằm ở hệ thống Quản lý Sản xuất (MES - Manufacturing Execution System).
Hãy cùng khám phá cách hệ thống MES đang cách mạng hóa ngành may mặc và mang lại những lợi ích vượt trội như thế nào.
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
Cơ sở lý luận về liên hợp quốc trong luận văn thạc sĩ.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
CÁC VẤN ĐỀ TỔNG QUAN CHUNG VỀ LHQ
1.1. Lịch sử thành lập của LHQ
Việc LHQ ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác
nhau, như vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc giữ gìn hoà bình, an ninh
quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai cùng những hậu quả thảm khốc đối với
loài người . Với nỗ lực lớn lao của các nước,LHQ chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945
khi Hiến chương LHQ được Trung quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng
quốc Hoa kỳ và đa số các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Tên gọi "LHQ" đã được Tổng
thống Mỹ Franklin D. Roosevelt sáng lập ra và được sử dụng lần đầu tiên trong "Tuyên
ngôn của LHQ" vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục
cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít.
Sự thất bại của Hội Quốc Liên (tiền thân của LHQ) đã đặt ra yêu cầu phải thiết
lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính toàn cầu, nhằm duy trì hoà bình và an ninh
quốc tế. Trong một thời gian dài, hệ thống an ninh tập thể của Hội Quốc Liên tỏ ra không
hiệu quả vì không được sự quan tâm ủng hộ của các cường quốc. Những nỗi kinh hoàng
của Chiến tranh thế giới thứ nhất chưa đủ sức thuyết phục các quốc gia hiểu rằng quyền
lợi hoà bình của họ đòi hỏi cần có một trật tự quốc tế với các quyền lợi quốc gia truyền
thống làm ưu tiên hàng đầu. Hội Quốc Liên trở thành một thể chế cứng nhắc, không thể
hiện được chức năng dàn xếp hoặc thiết lập các liên minh năng động, nhằm ngăn chặn
các hoạt động bành trướng quyền lực của một số cường quốc.
Với ý định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một
cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ quốc
tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh - Anh, Mỹ và Liên Xô - đã
tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Teheran (tháng 11/1943) và Yalta
(tháng 2/1945). Nội dung trao đổi chính giữa Churchiu, Stalin và Rudven bao gồm số
phận châu Âu và tương lai của LHQ. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức LHQ tại
Hội nghị Yalta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây dựng
một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại Yalta, ba cường quốc trên đã thống nhất với
nhau về một số điểm then chốt trong việc thiết lập tổ chức LHQ: chấp nhận ghế thành
viên riêng rẽ của Ucraina và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành quyền phủ
6
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quyết cho các thành viên thường trực của HĐBA, LHQ có quyền giám sát việc tạo dựng
trật tự châu Âu. Đến Hội nghị Postdam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc (thực chất
chủ yếu là Mỹ và Liên Xô, vì Anh đã bị suy yếu) thoả thuận thành lập cơ chế để giải
quyết các vấn đề sau chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của Đức và xác
định lại biên giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp
và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị Yalta, đại biểu của
50 quốc gia đã tham dự Hội nghị San Franciscotháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương
LHQ. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ chức LHQ đã chính thức được thành lập với sự tham
gia của 51 quốc gia sáng lập. Sự ra đời của LHQ đã chấm dứt hoàn toàn cơ chế cân bằng
quyền lực giữa các cường quốc châu Âu dựa trên cơ sở của Hội nghị Viên năm 1815.
Cân bằng quyền lực trên cơ sở LHQ là thế cân bằng linh hoạt dựa trên tương tác trong
từng vấn đề giữa ba cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5 thành viên thường trực HĐBA (còn
gọi là P5), tập hợp các nước phương Tây/phát triển, tập hợp các nước Á–Phi–Mỹ La-
tinh/đang phát triển, trong đó tiếng nói của các nước P5 có trọng lượng đặc biệt.
1.2. Tôn chỉ mục đích và nguyên tắc hoạt động
Năm 1945, những người sáng lập LHQ đã soạn thảo một chương trình nghị sự to
lớn và đầy tham vọng cho tổ chức mới này của thế giới. Theo Hiến chương LHQ, các
quốc gia sáng lập đã quyết tâm thiết lập LHQ thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với
mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền vững. Theo Điều
1 của Hiến chương, LHQ được thành lập nhằm 4 mục tiêu: (1) Duy trì hoà bình và an
ninh quốc tế; (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; (3)
Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do
cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo;
(4) Xây dựng LHQ làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung.Cả
bốn nhiệm vụ trên đều không có giới hạn. Mỗi nhiệm vụ đều đòi hỏi chúng ta phải liên
tục kiên trì theo đuổi và nỗ lực chừng nào LHQ còn tồn tại [6].
Để bảo đảm LHQ là một tổ chức quốc tế thực sự phục vụ mục tiêu chung của
cộng đồng quốc tế, Hiến chương LHQ cũng quy định các nguyên tắc hoạt động của Tổ
7
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chức LHQ, các nguyên tắc chủ đạo gồm: (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; (2) Tôn
trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực
hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ
các nước; (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; (6) Giải quyết các
tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình [8].
Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của LHQ mang tính bao quát, phản
ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ
theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Thời gian đầu
khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, LHQ tập trung vào các vấn
đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apácthai.
Trong thời kỳ gần đây LHQ ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề kinh tế và
phát triển. Hoạt động của LHQ trong gần 70 năm qua cho thấy trọng tâm chính của LHQ
là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia
thành viên.
1.3. Cơ cấu tổ chức của LHQ
LHQ gồm 6 cơ quan chính là: ĐHĐ, HĐBA, Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng
Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư ký và các cơ quan chuyên môn:
1.3.1. ĐHĐLHQ
Các qui định của Hiến chương liên quan đến ĐHĐ được đề cập trong chương IV
(từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn, bầu cử và thủ tục.
Những qui định khác liên quan đến ĐHĐ còn được nêu ở một số điều khoản khác.
1.3.1.1. Thành viên
ĐHĐ là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của LHQ. Từ 51 thành viên ban đầu (những
nước có đại diện dự Hội nghị tại San Fransico hoặc đã ký Tuyên ngôn của LHQ ngày
1/1/1942, và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương LHQ), số thành viên LHQ
cho đến nay là 193. Khác với HĐBA, các thành viên ĐHĐ đều là các thành viên bình
đẳng, không phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu
bầu.
Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu vào
các cơ quan cơ chế LHQ. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á, châu Phi, Mỹ La-
8
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, phương Tây và các nước khác. Cho đến ngày 31/5/2003, E-
xtô-ni-a, Ki-ri-ba-ti, Đông Ti-mo và Pa-lau không thuộc nhóm khu vực nào.
1.3.1.2. Chức năng quyền hạn
ĐHĐ có chức năng và quyền hạn như sau:
- Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà bình và
an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ quân bị và các qui định
về quân bị;
- Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ trường hợp
tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại HĐBA, và đưa ra các khuyến
nghị về các vấn đề đó;
- Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có tác
động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc LHQ;
- Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát triển và
pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ
bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo
dục và y tế;
- Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm phương
hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
- Nhận và xem xét các báo cáo của HĐBA LHQ và các cơ quan khác thuộc
LHQ;
- Xem xét, thông qua ngân sách LHQ và phân bổ đóng góp của các nước thành viên;
- Bầu các thành viên không thường trực HĐBALHQ, các thành viên Hội đồng
Kinh tế - Xã hội , các thành viên được bầu vào Hội đồng Quản thác, cùng HĐBA bầu
các thẩm phán Toà án quốc tế, và bầu Tổng thư ký LHQ (nhiệm kỳ 5 năm) theo khuyến
nghị của HĐBA.
Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại ĐHĐ
tháng 11/1950, ĐHĐ có thể hành động nếu HĐBA, vì không đạt được sự nhất trí giữa
các thành viên, không thể có hành động trong một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà
bình, phá vỡ hoà bình hoặc hành động xâm lược. ĐHĐ được quyền xem xét vấn đề
ngay lập tức để có khuyến nghị với các nước thành viên thực hiện các biện pháp tập 9
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
thể, trong trường hợp phá hoại hoà bình hoặc xâm lược, bao gồm biện pháp sử dụng
vũ lực khi cần thiết, để duy trì và khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
1.3.1.3. Các khoá họp và Cơ cấu
a. Các khoá họp: Có các loại là khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt thường kỳ
và khoá họp đặc biệt khẩn cấp của ĐHĐLHQ.
* Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), ĐHĐ quyết định khoá
họp thường kỳ hàng năm của ĐHĐ sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3 của tháng
9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Nghị quyết cũng quy định buổi
thảo luận chung của ĐHĐ sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 sau khi khai mạc khoá họp
thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục trong 9 ngày. Các quy định này được áp dụng từ khóa
họp thường kỳ thứ 58 của ĐHĐLHQ. Các khoá họp sẽ được tổ chức tại trụ sở của
LHQ ở New York, trừ khi tại khoá họp trước đó ĐHĐ quyết định hoặc đa số các thành
viên LHQ yêu cầu tổ chức họp ở nơi khác. Mỗi khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do
các nhóm khu vực luân phiên đề cử. Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị sự, ĐHĐ
sẽ tiến hành thảo thuận chung của các trưởng đoàn. Cấp tham gia thường ở cấp cao như
Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng ngoại giao...
Các nước thành viên bày tỏ lập trường quan điểm về những vấn đề quốc tế quan tâm.
Sau đó, 6 Ủy ban của ĐHĐ bắt đầu nhóm họp song song với ĐHĐ. Phần lớn các đề mục
được thảo luận tại Ủy ban trước khi đưa ra ĐHĐ, một số được thảo luận thẳng tại ĐHĐ.
* Khoá đặc biệt thường kỳ: Do Tổng thư ký LHQ triệu tập, theo yêu cầu của
HĐBA hoặc đa số các nước thành viên LHQ. Khoá họp đặc biệt thường kỳ sẽ được tổ
chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu trừ khi ĐHĐ đã ấn
định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Sau đó, Tổng thư ký sẽ thông báo cho các
nước thành viên ít nhất 14 ngày trước khi khai mạc khoá họp đặc biệt, nếu không thì
phải trước 10 ngày. Cho tới nay, đã có 27 khoá họp đặc biệt thường kỳ trong đó chủ yếu
là theo yêu cầu của ĐHĐ. Chủ đề của các khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị, kinh
tế, môi trường, xã hội. Từ năm 1990 trở lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của
ĐHĐ chủ yếu xoay quanh các vấn đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi
trường, bình đẳng giới, HIV/AIDS. Điều này cho thấy rõ xu thế của của LHQ
sau chiến tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát triển.
10
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp: Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ khi
Tổng thư ký nhận được yêu cầu của HĐBA, hoặc yêu cầu hoặc thông báo của đa số các
nước thành viên LHQ. Khoá họp này phải được thông báo cho các nước thành viên ít
nhất trước 12 giờ. Cho tới nay đã có 10 khóa họp đặc biệt khẩn cấp được triệu tập, trong
đó đa số được triệu tập theo yêu cầu của HĐBA còn lại là của các nước đặc biệt quan
tâm đến tình hình xung đột. Vì mang tính khẩn cấp nên chủ đề của các khoá họp này
cũng có những nét khác so với các khoá họp đặc biệt thường kỳ ở chỗ các khoá họp đặc
biệt khẩn cấp thường bàn về các vấn đề chính trị cụ thể như giải quyết xung đột khu vực
hoặc trong bản thân một nước (vấn đề Trung đông 1956, Hungary 1956, Trung đông
1958, Congo 1960...).
Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, HĐBA phải có một quyết định
chính thức về vấn đề này được 9 thành viên HĐBA bỏ phiếu ủng hộ. Mặc dù Hiến
chương quy định các khoá họp đặc biệt được triệu tập theo yêu cầu của đa số thành viên
LHQ nhưng trên thực tế cho đến nay chưa có một yêu cầu nào được đưa ra và có chữ ký
của đa số nước thành viên. Thay vào đó, một nước thành viên sẽ trình yêu cầu triệu tập
khoá họp đặc biệt lên Tổng thư ký LHQ. Tổng thư ký sẽ ngay lập tức thông báo các
nước thành viên khác và hỏi ý kiến của họ về yêu cầu này. Nếu đa số các nước bỏ phiếu
thuận trong vòng 30 ngày thì một khoá họp đặc biệt sẽ được triệu tập [7].
* Kết quả của các khoá họp thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được
thông qua (các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt động).
Các nghị quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá trị
khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của đông đảo các nước thành
viên LHQ.
b. Cơ cấu
Có 6 Ủy ban chính:Ủy ban Giải trừ quân bị và An ninh quốc tế,Ủy ban Kinh tế
- Tài chính,Ủy ban Văn hoá - Xã hội - Nhân đạo,Ủy ban Chính trị đặc biệt và Phi thực
dân hoá,Ủy ban Hành chính - Ngân sách LHQ,Ủy ban Luật pháp quốc tế.
Ngoài ra còn có các Ủy ban sau được thành lập theo các nguyên tắc thủ tục của
ĐHĐ:Các Ủy ban thủ tục; Các Ủy ban thường trực;Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ.
1.3.2. HĐBA
11
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Theo Điều 24 của Hiến chương LHQ, các nước thành viên LHQ trao cho HĐBA
trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Theo đó, HĐBA có
thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột và khi cần
thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe
doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược.
Các quy định của Hiến chương liên quan đến HĐBA nằm trong các chương V,
VI, VII, VIII và XII.
1.3.2.1. Thành viên
HĐBA gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước Ủy viên thường trực là: Mỹ,
Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường trực do ĐHĐ LHQ bầu ra
với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công bằng về mặt địa lý và có tính tới sự
đóng góp của những nước này cho tôn chỉ và mục đích của LHQ và không được bầu lại
nhiệm kỳ kế ngay sau khi mãn nhiệm. 10 nước thành viên không thường trực được bầu
theo sự phân bổ khu vực địa lý như sau: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á; 1 nước thuộc
Đông Âu; 2 nước thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây Âu và các nước
khác.
1.3.2.2. Chức năng, quyền hạn
Là một trong sáu cơ quan chính của LHQ, Hội đồng Bảo an được thành lập nhằm
duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Điều 39 của Hiến chương LHQ, HĐBA là cơ
quan duy nhất của LHQ có quyền quyết định đánh giá thực tại của các mối đe doạ đối
với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm lược, và sẽ khuyến nghị hoặc quyết
định các biện pháp cần được tiến hành phù hợp với các Điều 41 và 42, để duy trì hoặc
khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Trong khi thực thi chức năng này, HĐBA được
coi là hành động với tư cách thay mặt cho tất cả các thành viên LHQ. Trên thực tế,
những chức năng mà HĐBA được trao có thể được coi là để nhằm 3 mục tiêu: gìn giữ
hoà bình, vãn hồi hoà bình và kiến tạo hoà bình.
Trong khi các cơ quan khác của LHQ chỉ có thể đưa ra các quyết định mang tính
khuyến nghị đối với các chính phủ của các quốc gia thành viên LHQ, các quyết định và
nghị quyết của HĐBA, theo chương VII Hiến chương, khi đã được thông qua đềumang
tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của LHQ đều có trách nhiệm phải tôn trọng
và thi hành.Những quyền hạn cụ thể giao cho HĐBA được quy định ở
12
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
các chương VI, VII, XII của Hiến chương LHQ, song những điều khoản quan trọng nhất
có liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là việc giải quyết hoà
bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng những biện pháp an ninh tập thể cưỡng chế, được
quy định cụ thể và chi tiết nhất ở chương VI và VII.
HĐBA có thể tiến hành điều tra bất cứ một tranh chấp nào hoặc bất cứ một tình
thế nào có thể dẫn tới những xung đột quốc tế hoặc đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế,
và có thể đưa ra những khuyến nghị về các phương thức cũng như nội dung cụ thể để
giải quyết những xung đột đó. Những xung đột và những tình huống có khả năng đe doạ
hoà bình và an ninh quốc tế có thể do các nước thành viên LHQ, ĐHĐ hoặc Tổng thư
ký LHQ nêu ra trước HĐBA. Một nước không phải thành viên LHQ cũng có thể đưa
cuộc tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh chấp, ra trước
HĐBA để cơ quan này xem xét giải quyết, với điều kiện là nước đó phải thừa nhận trước
là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp theo quy định của Hiến
chương LHQ.
Theo Hiến chương, tất cả các nước thành viên LHQ phải cam kết cung ứng cho
HĐBA, căn cứ theo những thoả thuận đặc biệt thông qua thương lượng đối với những
đề xuất của HĐBA, những lực lượng vũ trang, những trợ giúp và các phương tiện cần
thiết khác để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế [7].
1.3.2.3. Cơ cấu
HĐBA có các Ủy ban sau:Các Ủy ban thường trực; Ban Tham mưu quân sự;Ủy
ban chống khủng bố; Các Ủy ban cấm vậnCác hoạt động và lực lượng gìn giữ hoà bình;
Các lực lượng chính trị và kiến tạo hoà bình.
Các Ủy ban khác: gồm Ủy ban đền bù LHQ (UNCC) (1991), Ủy ban giám sát,
kiểm tra và thanh tra (UNMOVIC) (1999).
1.3.2.4. Thủ tục hoạt động của HĐBA
Theo Hiến chương, HĐBA phải được tổ chức một cách phù hợp để có thể hoạt
động thường xuyên và liên tục nhằm ứng phó với các tình huống liên quan đến hoà bình
và an ninh quốc tế có thể đặt ra ở bất cứ thời điểm nào. Hiện tại, hoạt động của HĐBA
được tiến hành dựa trên Các qui tắc thủ tục tạm thời (gồm 61 qui tắc) được HĐBA thông
qua và liên tục cập nhật tại các phiên họp.
13
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
* Các phiên họp: Các hình thức họp của HĐBA bao gồm họp chính thức, họp kín
và trao đổi không chính thức. HĐBA có thể triệu tập phiên họp bất thường theo yêu cầu
của các quốc gia thành viên LHQ hoặc của Tổng thư ký LHQ khi có những xung đột
hoặc những tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế. Một nước không
phải thành viên LHQ cũng có thể đưa cuộc tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một
bên tham gia tranh chấp, ra trước HĐBA để cơ quan này xem xét giải quyết với điều
kiện là nước đó phải thừa nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc
tranh chấp theo qui định của Hiến chương LHQ. Sau khi nhận được yêu cầu như vậy
của các đối tượng trên, Chủ tịch HĐBA sẽ lập tức thông báo cho các nước Ủy viên tình
hình trên và tiến hành các thủ tục khác để tổ chức cuộc họp của HĐBA để xem xét vấn
đề. Ngoài những cuộc họp thuộc dạng trên, HĐBA còn tiến hành các cuộc họp trên cơ
sở thường xuyên (continuous basis) nhằm có thể ứng phó được một cách nhanh chóng
những biến chuyển của tình hình và để kiểm phối các hoạt động gìn giữ hoà bình của
LHQ trên cơ sở các báo cáo của Tổng thư ký LHQ.
Các cuộc họp của HĐBA có thể được tổ chức tại trụ sở LHQ hoặc ở bất cứ nơi
nào ngoài trụ sở mà Hội đồng xét thấy thuận tiện.
* Mỗi Ủy viên HĐBA phải luôn có một đại diện tại Trụ sở LHQ. Chức Chủ tịch
HĐBA được luân phiên hàng tháng giữa các nước Ủy viên theo thứ tự vần chữ cái của
tiếng Anh.
* Tham gia các phiên họp: Ngoài các thành viên HĐBA, bất cứ thành viên nào
của LHQ, hay một quốc gia nào không phải thành viên LHQ, nếu là đương sự trong vụ
tranh chấp mà HĐBA đang xem xét, cũng được mời đến tham dự nhưng không có quyền
biểu quyết trong những cuộc thảo luận liên quan đến vụ tranh chấp ấy. HĐBA ấn định
những điều kiện mà Hội đồng xét thấy để cho một nước không phải thành viên
LHQ được tham gia các cuộc thảo luận ấy là hợp lý. Trong các phiên họp kín, chỉ có các
nước Ủy viên và các nước mà HĐBA thấy trực tiếp có liên quan hoặc cần thiết phải
tham dự mới được tham dự theo thoả thuận chung của thành viên HĐBA.
* Kết quả phiên họp: Trong tất cả các phiên họp như vậy, HĐBA có thể thông
qua những nghị quyết, khuyến nghị, hoặc đơn thuần chỉ là tuyên bố của chủ tịch. Hàng
năm, HĐBA còn phải đệ trình lên ĐHĐLHQ một bản báo cáo về công việc của mình để
thành viên Hội đồng xem xét, thảo luận và đưa ra những khuyến nghị.
14
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
* Bỏ phiếu: Mỗi thành viên HĐBA có một phiếu. Các quyết định liên quan đến
thủ tục được thông qua với số phiếu thuận của ít nhất là 9 trong số 15 thành viên bất kể
là thường trực hay không thường trực. Các quyết định về các vấn đề thực chất chỉ được
thông qua khi có ít nhất 9 phiếu thuận, trong đó theo Hiến chương phải gồm các phiếu
tán thành (concurring vote) của tất cả các nước thành viên thường trực.
* Quyền phủ quyết (veto): Là việc một nước thành viên thường trực HĐBA có
khả năng ngăn cản việc thông qua một nghị quyết không liên quan đến thủ tục bằng một
phiếu chống của mình kể cả khi tất cả các nước thành viên khác, thường trực và không
thường trực, bỏ phiếu tán thành. Nói cách khác, đây là việc thực hiện nguyên tắc nhất
trí giữa năm nước lớn Ủy viên thường trực. Trong suốt quá trình hoạt động của mình
với tư cách Ủy viên thường trực, tất cả năm nước này đều đã áp dụng quyền phủ quyết
của mình trong đó hai nước Mỹ và Liên Xô (cũ) là những nước sử dụng nhiều nhất.
1.3.3. Hội đồng Kinh tế - Xã hội LHQ
1.3.3.1. Cơ sở pháp lý và tôn chỉ mục đích
Hội Đồng Kinh tế Xã Hội LHQ (Economic and Social Council - ECOSOC) là
một trong 6 cơ quan chính của LHQ. Theo Hiến chương LHQ, một trong những mục
tiêu chính của Tổ chức này là: "Thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những
vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự
tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không phân
biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo" (Chương I, điều 1, điểm 3). Cụ thể,
LHQ sẽ thúc đẩy (Chương IX, điều 55, điểm a,b,c):
- Nâng cao mức sống, đầy đủ việc làm, tiến bộ và phát triển kinh tế xã hội
- Giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế và các vấn đề liên
quan, và sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và
- Tôn trọng và thực hiện quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả
mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Trách nhiệm
thực hiện những chức năng trên trước hết thuộc về ĐHĐ LHQ. Theo điều 60 của Hiến
chương LHQ, ECOSOC được đặt dưới quyền của ĐHĐ và được ĐHĐ giao trách nhiệm
trực tiếp thực hiện các chức năng về kinh tế, xã hội của LHQ.
1.3.3.2. Thành viên
15
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Số thành viên ban đầu của ECOSOC là 18. Từ tháng 8/1965 tăng lên 27 và từ
tháng 10/1973 cho đến nay là 54 nước thành viên LHQ do ĐHĐ bầu. Các ghế được phân
theo khu vực địa lý : 14 nước Châu Phi, 11 nước Châu Á, 6 nước Đông Âu, 10 nước Mỹ
La tinh và Caribe, 13 nước Tây Âu và các nước khác. Hàng năm ĐHĐ LHQ phải bầu
lại 18 nước thành viên ECOSOC với nhiệm kỳ 3 năm, thông thường bắt đầu từ 1/1 đến
31/12. Nước thành viên vừa hết nhiệm kỳ có thể tái ứng cử. ĐHĐ thường thông qua
không bỏ phiếu bầu các nước đã được các nhóm khu vực nhất trí đề cử (Endorsement).
Nếu các nước không thống nhất được trong nhóm thì ĐHĐ phải bỏ phiếu bầu.
1.3.3.3. Chức năng và quyền hạn
ECOSOC là cơ quan soạn thảo và điều phối các chính sách thúc đẩy hợp tác quốc
tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và nhân quyền của LHQ. Phần lớn các Nghị quyết
và Quyết định của ĐHĐ LHQ về kinh tế, xã hội, nhân quyền, nhân đạo đều bắt nguồn
từ các khuyến nghị do ECOSOC trình lên.
Theo Hiến chương LHQ, ECOSOC có những chức năng và quyền hạn chính sau:
- Thực hiện hoặc đề xuất những nghiên cứu, điều tra và làm báo cáo về các vấn
đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, và giáo dục, y tế và những vấn đề liên
quan khác, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các vấn đề đó đối với ĐHĐ, các nước
thành viên LHQ và các tổ chức chuyên môn hữu quan;
- ECOSOC có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm thúc đẩy tôn trọng và thực
hiện quyền con người;
- ECOSOC soạn thảo các văn kiện và điều ước quốc tế về những vấn đề thuộc
thẩm quyền của mình để trình ĐHĐ và có thể triệu tập các Hội nghị quốc tế về những
vấn đề đó, theo các thủ tục của LHQ;
- ECOSOC có thể phối hợp hoạt động với những tổ chức chuyên môn của LHQ,
thông qua tham khảo và khuyến nghị với các tổ chức đó, cũng như bằng cách khuyến
nghị với ĐHĐ và các thành viên LHQ;
- ECOSOC có quyền tiến hành mọi biện pháp thích hợp để các tổ chức chuyên
môn phải báo cáo đều đặn cho mình những công việc của họ. Hội đồng có thể thỏa thuận
với các thành viên LHQ và các tổ chức chuyên môn về việc các thành viên và các tổ
chức này báo cáo về những biện pháp đã được áp dụng trong việc thi hành
16
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
những khuyến nghị của Hội đồng và trong việc thi hành những khuyến nghị của ĐHĐ
về những vấn đề thuộc thẩm quyền của ECOSOC;
- Với sự đồng ý của ĐHĐ, ECOSOC có thể làm những việc do các thành viên
LHQ, hoặc các tổ chức chuyên môn yêu cầu;
- ECOSOC sẽ mời bất cứ nước thành viên LHQ nào tham dự, không bỏ phiếu,
các cuộc thảo luận của ĐHĐ về vấn đề liên quan đến nước thành viên đó;
- ECOSOC có thể thu xếp cho đại diện các tổ chức chuyên môn LHQ tham dự,
không bỏ phiếu, các cuộc thảo luận của ĐHĐ và các cuộc thảo luận của các Ủy ban do
HĐ lập ra, và cho các đại diện của ĐHĐ tham gia các cuộc thảo luận của các tổ chức
chuyên môn LHQ;
- ECOSOC có thể có những thu xếp thích hợp để tham khảo các tổ chức phi chính
phủ liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐ, thu xếp qua các tổ chức
quốc tế và khi thích hợp, có thể qua các tổ chức quốc gia của nước thành viên sau khi
đã tham khảo nước thành viên đó;
- ECOSOC có nghĩa vụ thực hiện những chức năng khác được quy định trong
Hiến chương LHQ, hoặc có thể được ĐHĐ giao cho.
1.3.3.4. Hoạt động và thủ tục ra quyết định
Mỗi nước thành viên ECOSOC có một phiếu. ECOSOC thông qua quyết định
theo đa số những thành viên có mặt tham gia bỏ phiếu. ECOSOC có 2 phiên họp trong
một năm: phiên họp về nội dung (substantive session) được tổ chức trong vòng 4 tuần
vào khoảng tháng 7, luân phiên ở New York và Geneva, và trước đó là phiên họp về tổ
chức (organizational session) diễn ra trong 4 ngày thường vào đầu tháng 2 và được họp
lại vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5 hàng năm.
1.3.3.5. Các cơ quan trực thuộc ECOSOC
Điều 68 của Hiến chương LHQ quy định rằng: "ECOSOC sẽ thành lập những Ủy
ban trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và thúc đẩy nhân quyền, và các Ủy ban khác theo nhu
cầu để thực hiện chức năng của HĐ".
Có 5 loại cơ quan trực thuộc ECOSOC:Ủy ban chức năng (Funtional
Commission);Ủy ban khu vực (Regional Commission);Ủy ban thường trực (Standing
Committee);Cơ quan chuyên môn (Expert Bodies) Ủy ban hành chính điều phối
(Administrative Committee on Coordination).
17
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
1.3.4. Hội đồng Quản thác
1.3.4.1. Cơ sở pháp lý
Theo Chương XII Hiến chương LHQ, Hệ thống Quản thác với nhiệm vụ giám
sát các vùng Lãnh thổ quản thác được đặt trong Hệ thống theo các thoả thuận riêng với
quốc gia quản lý các vùng lãnh thổ này. Hệ thống này áp dụng với: (i) các vùng lãnh thổ
nằm trong nhiệm vụ quản lý do Hội quốc liên đưa ra; (ii) các vùng lãnh thổ tách ra từ
các quốc gia kẻ thù sau Chiến tranh thế giới thứ hai; các vùng lãnh thổ do các quốc gia
có trách nhiệm quản lý được tự nguyện đặt trong Hệ thống. Mục tiêu căn bản của Hệ
thống là thúc đẩy tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội tại các vùng lãnh thổ quản thác và sự
phát triển của các vùng này hướng tới chính phủ tự quản và độc lập.
1.3.4.2. Thành phần
Hội đồng Quản thác gồm những thành viên sau đây của LHQ:
* Những thành viên được quyền quản lý những vùng lãnh thổ quản thác;
* Những thành viên thường trực của HĐBA;
* Một số thành viên do ĐHĐ bầu ra trong thời hạn 3 năm để đảm bảo đủ số
lượng thành viên của Hội đồng;
* Quản thác được phân bổ ngang nhau giữa những thành viên LHQ quản lý các
lãnh thổ quản thác và những thành viên không quản lý những lãnh thổ đó.
1.3.4.3. Chức năng, quyền hạn
* Xem xét những báo cáo của bên được giao quản lý lãnh thổ quản thác;
* Nhận xét và đơn thỉnh cầu sau khi tham khảo ý kiến nhà đương cục nói trên;
* Cử người đến quan sát định kỳ từng lãnh thổ do nhà đương cục nói trên quản
lý theo thời hạn được thoả thuận với nhà đương cục ấy;
* Tiến hành những việc trên hay những việc khác theo đúng những điều khoản
của các hiệp định về quản thác.
1.3.5. Tòa án Công lý Quốc tế
1.3.5.1. Cơ sở pháp lý
Cùng với sự ra đời của LHQ, ngày 6/2/1946, TACLQT - cơ quan
pháp lý chính của LHQchính thức đi vào hoạt động. TACLQT là một trong sáu cơ
18
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quan chuyên môn chính của LHQ. TACLQT được thành lập và hoạt động dựa trên cơ
sở Hiến chương LHQ và quy chế TACLQT. Hiến chương LHQ dành toàn bộ chương
XIV từ Điều 92 đến Điều 96 để qui định những vấn đề cơ bản về tổ chức, thẩm quyền
và hoạt động của Tòa. Quy chế TACLQT gồm 70 điều được coi là phần phụ lục gắn bó
hữu cơ với Hiến chương LHQ. TACLQT có trụ sở đặt tại Lahaye, Hà Lan. Điều 92 Hiến
chương LHQ quy định: “Tòa án quốc tế là cơ quan tư pháp chính của LHQ. Tòa án này
hoạt động theo một quy chế, được xây dựng trên cơ sở quy chế tòa án quốc tế thường
trực. Quy chế của tòa án quốc tế thường trực. Quy chế của Tòa án quốc tế kèm theo Hiến
chương này là một bộ phận cấu thành hiến chương.” TACLQT trước hết là một cơ quan
chính của LHQ. Điều 7 Hiến chương LHQ qui định các cơ quan chính của LHQ là ĐHĐ,
HĐBA, Hội đồng kinh tế và xã hội (ACOSOC), Hội đồng quản thác, Ban thư ký và
TACLQT (Tòa án quốc tế).
1.3.5.2. Thành phần
Toà án quốc tế gồm 15 thẩm phán, là công dân của các quốc gia thành viên LHQ,
do ĐHĐ và HĐBA cùng bầu ra.
1.3.5.3. Chức năng
Chức năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc
tế, vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục tiêu của toà án
là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được các quốc gia liên quan
chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế được chấp nhận như luật; các nguyên tắc
chung của luật pháp được các quốc gia công nhận; các phán quyết của tòa án...
Tòa án cũng khuyến nghị ĐHĐ, HĐBA về lĩnh vực luật pháp, các vấn đề luật
pháp nổi lên trong phạm vi hoạt động của các cơ quan này, khuyến nghị các cơ quan
khác của LHQ, các cơ quan chuyên môn với sự Ủy quyền của ĐHĐ.
1.3.5.4. Hoạt động
Cơ quan chính của LHQ giải quyết các tranh chấp là Toà án quốc tế. Kể từ khi thành
lập năm 1946, đến nay đã có 72 vụ được các nước đưa ra trước Toà án quốc tế, 22 trường
hợp hỏi ý kiến của các tổ chức quốc tế. Hầu hết các trường hợp được Toà giải quyết song
kể từ năm 1981, đã có 4 trường hợp được chuyển cho các Ủy ban đặc biệt giải quyết theo
đề nghị của các bên liên quan. 11 trường hợp vẫn chưa được giải quyết.
1.3.6. Ban Thư ký Liên hiệp quốc
1.3.6.1. Khái quát
19
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Ban thư ký LHQ (gọi tắt là Ban thư ký) là một trong sáu cơ quan chính của LHQ.
Trụ sở chính của Ban thư ký đặt tại Niu Oóc, Mỹ. Ngoài ra có hai Văn phòng tại Geneva
và Viên.
1.3.6.2. Cơ cấu tổ chức
Theo Chương XV của Hiến chương LHQ, Ban thư ký gồm có một Tổng thư ký
và một số nhân viên tuỳ theo nhu cầu của tổ chức. Tổng thư ký do ĐHĐ bổ nhiệm, theo
kiến nghị của HĐBA. Tổng thư ký là viên chức cao cấp nhất của Tổ chức LHQ (Điều
97).
1.3.6.3. Chức năng, nhiệm vụ
* Tổng thư ký hoạt động với tư cách là người có cương vị cao nhất của Ban thư
ký trong tất cả các cuộc họp của ĐHĐ, của HĐBA, của Hội đồng Kinh tế - Xã hội và
của Hội đồng Quản thác. Tổng thư ký thực hiện các chức năng theo quy định của Hiến
chương LHQ và các nhiệm vụ khác do các cơ quan này giao phó. Tổng thư ký trình
ĐHĐ báo cáo hàng năm về hoạt động của LHQ (Điều 98).
* Tổng thư ký có thẩm quyền lưu ý HĐBA về bất cứ vấn đề nào mà theo ông,
có thể đe doạ việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (Điều 99).
* Trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, Tổng thư ký và các nhân viên không
được tìm kiếm hay chấp nhận những chỉ thị của bất cứ một chính phủ nào hoặc của một
cơ quan quyền lực nào ngoài LHQ. Tổng thư ký và các nhân viên không được
hành động trái với địa vị viên chức quốc tế của họ và chỉ chịu trách nhiệm trước LHQ
(Điều 100, khoản 1).
* Tổng thư ký bổ nhiệm các nhân viên của mình theo những quy định do ĐHĐ
xác lập (Điều 101, khoản 1).
* Một số nhân viên thích hợp được bổ nhiệm để phục vụ thường trực Hội đồng
Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác và nếu cần, các cơ quan khác của LHQ. Số nhân
viên này thuộc biên chế cơ quan Tổng thư ký (Điều 101, khoản 2).
1.3.7. Các chương trình và các cơ quan chuyên môn của LHQ
LHQ có 32 chương trình và cơ quan chuyên môn: Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp LHQ (FAO)
Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO)
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO)
20
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC)
Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC)
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAFA)
Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ (UNIDO)
Liên Minh Viễn thông Quốc tế (ITU)
Chương trình chung của LHQ về HIV/AIDS (UNAIDS)
Ủy ban LHQ về Luật thương mại Quốc tế (UNCITRAL)
Chương trình phát triển LHQ (UNDP)
Chương trình Môi trường LHQ (UNEP)
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO)
Quỹ Dân số LHQ (UNFPA)
(UN-HABITAT)
Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ (OHCHR)
Cao ủy LHQ về Người tị nạn (UNHCR)
Hội đồng Nhân quyền LHQ (UNHRC)
Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF)
Viện Nghiên cứu Giải trừ Quân bị LHQ (UNDIR)
Văn phòng LHQ về Ma túy và Tội phạm (UNODC)
Đại học LHQ (UNU)
Tình nguyên viên LHQ (UNV)
Phụ nữ LHQ (UNW)
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO)
Liên minh Bưu chính LHQ (UPU)
Chương trình Lương thực Thế giới (WFP)
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO)