Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...Thích Hô Hấp
++++++++++++ CÁC BẠN DOWNLOAD TÀI LIỆU TẠI ĐÂY ++++++++++++
http://congtuthich.blogspot.com/2014/09/tong-hop-tieu-luan-tu-tuong-hcm-triet.html
+++++++++++++++ CHÚC CÁC BẠN LÀM BÀI TỐT ++++++++++++++++++
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...Thích Hô Hấp
++++++++++++ CÁC BẠN DOWNLOAD TÀI LIỆU TẠI ĐÂY ++++++++++++
http://congtuthich.blogspot.com/2014/09/tong-hop-tieu-luan-tu-tuong-hcm-triet.html
+++++++++++++++ CHÚC CÁC BẠN LÀM BÀI TỐT ++++++++++++++++++
Governance - a citizen’s jury | Biocity StudioBiocity Studio
There is a very complex structure of the relationship between the different governances, e.g. State, Federal, Local and Community. The crisis issue is the potential for corruption, power of political donations, lack of community consultation, transparency and accountability. This presentation discusses a proposal for a citizen’s jury in the part 3a process in NSW.
The goal of the brainstorm is to gather input for a good, easy and straightforward methodology to conduct structured tests of web applications / websites we develop.
Social Media Meeting – это конференция, во время которой стартаперы и начинающие предприниматели смогли получить дополнительные знания из разных областей работы с социальными медиа (социальные сети, блогосфера, фото- и видеохостинги и др.), а также посмотреть реальные примеры проведения успешных кампаний в этой сфере.
Hi Brandi & Joni - this is just a rough start to a power point but i wanted to get started. We need to collaborate. Our presentation has to be 75 minutes long so we need a lot more info.
University of California Center for Health Leadership Mobile workshopmikekirkwood
Workshop building baseline mobile health landscape, scenario description, and development workshop given by Mike Kirkwood in Oakland California on 11/17/2010.
Download luận văn đồ án tốt nghiệp với đề tài: Thực trạng chi ngân sách nhà nước và giải pháp nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước, cho các bạn tham khảo
Luận Văn Tốt Nghiệp Pháp Luật Về Ngân Sách Nhà Nước Cho Chi Thường Xuyên Qua Thực Tiễn Thực Hiện Tại Ubnd Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được hỗ trợ tải nhé.
Luận Văn Vị Trí Kinh Tế Của Chính Phủ Ở Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam Trong Giai Đoạn Từng Bước Công Nghiệp Hoá Và Hiện Đại Hoá Đất Nước đã chia sẻ đến cho các bạn học viên nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo mà các bạn không nên bỏ qua nhé! Nếu các bạn muốn tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Luận Văn Tốt Nghiệp Pháp Luật Về Ngân Sách Nhà Nước Cho Chi Thường Xuyên Qua Thực Tiễn Thực Hiện Tại Ubnd Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được hỗ trợ tải nhé!
Tải báo cáo thực tập ngành phát triển kinh tế với đề tài: Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ ở Việt Nam. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Luận Văn Nhiệm Vụ Thu, Chi Ngân Sách Địa Phương Theo Luật Ngân Sách Nhà Nước Năm 2015 Từ Thực Tiễn Quận Phú Nhuận, Thành Phố Hồ Chí Minh. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn đồ án tốt nghiệp với đề tài: Hoàn thiện kiểm toán thuế trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty kiểm toán và định giá Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về thành phần kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế được đặc trưng bởi hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định. Căn cứ để xác định từng thành phần cụ thể: (một tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế nào)là: Hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, trình độ của lực lượng sản xuất, tính chất quản lý và phân phối sản phẩm, tính chất lao động. Trong đó quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị là quyết định nhất.
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCNGTRC3
Cháy, nổ trong công nghiệp không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, con người mà còn gây ra bất ổn, mất an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Vì vậy phòng chông cháy nổ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, của mổi công dân và của toàn thể xã hội. Để hạn chế các vụ tai nạn do cháy, nổ xảy ra thì chúng ta cần phải đi tìm hiểu nguyên nhân gây ra các vụ cháy nố là như thế nào cũng như phải hiểu rõ các kiến thức cơ bản về nó từ đó chúng ta mới đi tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống và sử lý sự cố cháy nổ.
Mục tiêu:
- Nêu rõ các nguy cơ xảy ra cháy, nổ trong công nghiệp và đời sống; nguyên nhân và các biện pháp đề phòng phòng;
- Sử dụng được vật liệu và phương tiện vào việc phòng cháy, chữa cháy;
- Thực hiện được việc cấp cứa khẩn cấp khi tai nạn xảy ra;
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực sáng tạo trong học tập.
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfLngHu10
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về triết học nói chung,
những điều kiện ra đời của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, giúp sinh viên nhận thức được
thực chất cuộc cách mạng trong triết học do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và các giai đoạn hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin;
vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong thời đại ngày nay.
2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng tri thức đã học làm cơ sở cho việc nhận
thức những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin; biết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái phủ nhận sự hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin.
3. Về tư tưởng: Giúp sinh viên củng cố niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
B. NỘI DUNG
I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện
không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của
sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu
cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung
nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết
học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân
loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch
sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu
biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgích... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang
tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn
9
giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là
thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo
nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và có
tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến
bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn
trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống
1. Vai trò của tài chính công trong xã hội
Tài chính công hiện đại ngày nay là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử,
vì cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, tài chính công
đã tham gia vào quá trình quản lý nền kinh tế, tức là nhà nước đã khai thác, vận
dụng công cụ để điều hành nền kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát
triển.
Chúng ta có thể thấy bản chất của tài chính trong nền kinh tế thị trường là
tổng thể hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa các thực thể tài chính phát
sinh trong quá trình hình thành phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.
Vai trò của tài chính công luôn gắn liền với vai trò của nhà nước trong từng
thời kì nhất định. Mỗi nhà nước đều có sứ mạng chính trị riêng, có những quan
điểm khác nhau trong việc quản lý điều hành các hoạt động kinh tế xã hội từ đó
tài chính công là một trong các công cụ được nhà nước sử dụng nhằm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước phù hợp với từng thời kì. Có thể khẳng
định 1 điều rằng vai trò của tài chính công là không thể phủ nhận. Xét ở góc độ
vĩ mô tài chính có những vai trò chủ đạo sau :
1 -Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Bất cứ nhà nước nào cũng sử
dụng tài chính công trong mọi mô hình tài chính công để phục vụ
cho công việc quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội. Tài chính
công được sử dụng để huy động một phần nguồn tài chính của quốc
gia thông qua đống góp bắt buộc hoặc tự nguyện của cách chủ thể
trong nền kinh tế tạo lập quỹ tài chính công. Tài chính công phân
phối sử dụng nguồn tài chính huy động từ các quỹ công để phục vụ
đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Phân phối sản phẩm
quốc dân theo hướng tích lũy để ổn định và phát triển kinh tế đồng
thời cung cấp các nguồn vốn để thỏa mãn các yêu cầu về hàng hóa
và dịch vụ công cộng mà tài chính của khu vực tư nhân không thể
thực hiện được do một số đặc điểm đặc biệt của hàng hóa công.
Ngoài ra phân phối của tài chính công còn đảm bảo duy trì hoạt
động của bộ máy nhà nước và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Các con số về mức thu nhập không phản ánh được một thực tế là những
người có thu nhập cao phải trả thuế cao hơn những người có thu nhập thấp,
hoặc rất nhiều các gia đình có thu nhập thấp được hưởng lợi từ các chương
trình hỗ trợ của chính phủ như vùng 135 …. Việc điều chỉnh sự chênh lệch này
sẽ tăng phần được hưởng trong tổng thu nhập quốc gia cho các gia đình nghèo
nhất và giảm phần hưởng trong tổng thu nhập của các gia đình có thu nhập cao
nhất xuống .Nhưng đây vẫn là một mức chênh lệch rất lớn về thu nhập và nhiều
người vẫn thắc mắc vì sao lại có điều này.
Còn một số lý do để giải thích sự chênh lệch về thu nhập này của các gia đình
ngoài sự khác biệt về lương và tiền công cơ bản như đã nói ở trên và giải thích
vì sao có sự thay đổi lên xuống theo thời gian trong thu nhập của các gia đình
khác nhau. Ví dụ, các công nhân vừa mới gia nhập thị trường lao động (điển
2. hình là những công nhân trẻ ít kinh nghiệm làm việc) và các công nhân già hơn
đã nghỉ hưu hoặc chỉ nhận các công việc bán thời gian thường là đại diện
thường xuyên của nhóm các gia đình có thu nhập thấp nhất, và điều này không
gây nhiều ngạc nhiên. Hầu hết các công nhân - và đặc biệt là những người có
học vấn và được đào tạo cao hơn - có thu nhập tăng hàng năm theo nghề
nghiệp của họ. Những công nhân khác đôi khi bị giảm lương hoặc tiền công tạm
thời khi họ tạm nghỉ việc ngắn hạn, bị ốm đau hoặc là thương tích hay các lý do
khác.
Vì tất cả những lý do này, và mặc dù có sự ổn định cơ bản trong việc phân
phối thu nhập nói chung, vẫn tồn tại một cơ hội lớn trong việc huy động vốn
trong nền kinh tế thị trường. Điều này có nghĩa là chúng ta luôn nhìn thấy các gia
đình tăng hoặc giảm các khoản thu nhập trên của họ qua từng năm. Kinh tế càng
tăng trưởng, chênh lệch thu nhập giữa các dân cư, các vùng miền ngày càng gia
tăng. Vậy vấn đề đặt ra là Chính Phủ sử dụng tài chính công thông qua những
hình thức nào để thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa người
giàu và người nghèo?
Liệu thuế chỉ có vai trò là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
không?
Ngoài vai trò là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế còn có
một vai trò quan trọng không kém đó là: điều chỉnh thu nhập của dân cư. Vai trò
này được thể hiện ở những mặt cụ thể sau:
- Thuế trực thu mà cụ thể là thuế thu nhập cá nhân với thuế suất
lũy tiến từng phần có vai trò điều tiết mạnh của những người có thu nhập
cao và điều tiết ở mức hợp lý đối với các cá nhân có thu nhập trung bình.
Việc thu thuế này vừa tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước lại vừa
thực hiện được công bằng xã hội và giảm bớt được một phần nào đó(không
lớn lắm) khoảng cách giàu nghèo.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng góp phần điều chỉnh thu nhập
của các chủ thể đầu tư thông qua thuế suất tỷ lệ cố định. Thuế thu nhập
doanh nghiệp được đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, vì vậy doanh
nghiệp nào thu được lợi nhuận càng lớn thì số thuế phải nộp càng nhiều.
- Các loại thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng,
thuế xuất nhập khẩu cũng có vai trò lớn trong việc điều chỉnh thu nhập thực tế có
khả năng thanh toán của dân cư bằng việc đanh giá cao đối với hàng hóa dịch
vụ cao cấp,đánh giá thấp đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống
dân cư. Một ví dụ điển hình đó là việc đánh thuế cao đối với mật hàng ô tô- một
thứ hàng hóa mà chỉ những người có thu nhập cao mới mua được, mặt hàng
naỳ phải chịu thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt với
3. những tỷ lệ rất cao. Trong khi đó lương thực, thực phẩm- những mặt hàng thiết
yếu cho cuộc sống lại bị đánh thuế rất ít hoặc không đánh thuế.
Quốc phòng là một ví dụ về vai trò không thể loại bỏ được của chính phủ -
tài chính công. Tại sao? Bởi vì việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng
hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với cam, máy vi tính hay nhà ở: con người
không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua
một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá
nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực
tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên
thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một
quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một cách
làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã hay
các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản xuất máy bay chiến đấu phản lực.
Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một doanh
nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của một
quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là không
thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ những
người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được bảo vệ
mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều này được
coi là vấn đề "kẻ ăn không", và đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải
điều hành quốc phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng.
Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có
thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các
hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty tư
nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng hóa
công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí
cả băng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi trong
không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng
cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một
mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các chương
trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát
sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín hiệu phát
sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền
bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các
chương trình này.
Tài chính công còn được sử dụng để kiểm tra giám sát các hoạt động kinh
tế xã hội từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước. Từ các
hoạt động này tài chính công đã tạo ra nguồn tài chính một cách kịp thời để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước giúp cho bộ máy nhà nước
được vận hành hiệu quả.
2 – Điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội. Vai
trò điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế xã hội của tài chính công
được chú trọng hơn trong cơ chế thị trường nhằm khắc phục những
thất bại của thị trường. Việc sử dụng tài chính công để thực hiện
những mục tiêu kinh tế vĩ mô rất linh hoạt ở mỗi quốc gia và mỗi thời
kì là một điều khó khăn.
4. + Về kinh tế : Tài chính công có vai trò thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn
định và bền vững. Với chức năng phân bổ nguồn lực tài chính thông qua quá
trình tạo lập và sử dụng quỹ công, tài chính công tác động đến việc phân bổ và
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trong toàn bộ nền
kinh tế. Công cụ thuế với các mức thuế suất và ưu đãi khác nhau đối với từng
loại sản phẩm ngành nghề vùng lãnh thổ … tài chính công có vai trò định hướng
đầu tư điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế kích thích hoặc hạn chế phát triển sản xuất
kinh doanh theo từng loại sản phẩm. Hay như với việc phân bổ nguồn tài chính
cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư vào các ngành nghề then chốt các
công trình mũi nhọn hỗ trợ tài chính cho các thành phần kinh tế trong các
trường hợp cần thiết như trợ giá trợ cấp … tài chính công góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh hình thành và hoàn thiện cơ
cấu sản xuất cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Cùng với việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng tài chính công còn có vai trò
quan trọng trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô như : đảm bảo tốc độ tăng trưởng
kinh tế hợp lý, duy trì việc sử dụng lao động ở tỷ lệ cao, hạn chế sự tăng giá đột
ngột đồng loạt và kéo dài … Vai trò này được thực hiện thông qua các biện
pháp như tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ quốc gia, quỹ hỗ trợ việc làm điều chỉnh
thuế điều chỉnh chi tiêu chính phủ, phát hành trái phiếu …
Chúng ta có thể thấy vai trò này thông qua hoạt động dữ trữ quốc gia. Hoạt
động dự trữ quốc gia hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Nó tác động đến
mặt cung hoặc cầu của thị trường. Khi vào vụ mùa. Người trồng lúa được mùa.
Nhưng nó lại làm cho giá bán xuống thấp vì cung tăng mạnh. Chính phủ tung
tiền ra mua với mức giá hợp lý để đảm bảo dự trữ và giá không rớt xuống nữa.
Ngày 20-6-2008, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao Bộ Tài chính trích 440 tỷ
đồng từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương năm 2008 để mua 70.000 tấn
lương thực tăng dự trữ quốc gia.Ngoài ra, theo website Chính phủ, 11 tỷ đồng từ
nguồn chi sự nghiệp kinh tế năm 2008 sẽ được chi cho phí nhập và bảo quản số
lương thực này. Và cơn bão số 2 năm 2007 đổ bộ. Chính phủ đã hỗ trợ 85 tỷ và
3000 tấn gạo để các địa phương khắc phục hậu quả lũ lụt. Nhờ có động thái của
chính sách tài chính công mà người tiêu dùng hay người sản xuất có thể yên
tâm về lợi ích của mình được đảm bảo.
Khi gia nhập WTO chúng ta nhà nước đã giúp đỡ cho các doanh nghiệp
bằng các bảo hộ mậu dịch thương mại, hàng rào thuế quan… đề cho những
doanh nghiệp nhỏ lẻ của chúng ta có thể có điều kiện tạo lập vững mạnh hơn.
Như nghành ô tô. Khi ngành ô tô trong nước của chúng ta mới chỉ dừng lại ở lắp
ráp. Nhà nước đã tìm các để cho nền công nghiệp ô tô của chúng ta có thể
đương đầu với ô tô ngoại nhập. Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu… đã làm
cho nền công nghiệp ô tô có thể vươn vai để phát triển. Nhưng nền công nghiệp
ô tô trong nước vẫn lẹt đẹt, có trách thì trách chính họ khi đã quá dựa dẫm vào
cơ hội mà nhà nước dành cho. Không thể phát huy được ưu thế của mình, làm
cho nền công nghiệp ô tô chưa thể phát triển với những gì mà chúng ta mong
muốn chờ đợi. Chuyển qua 1 ví dụ về trợ giá giá xăng dầu. Nhà nước trợ giá
cho xăng dầu và sau đó là bù lỗ. Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó. Ngân
5. sách nhà nước không phải là 1 cái kho vàng không đáy, sức chịu đựng thì cũng
có hạn. Nhà nước không thể bù lỗ được mãi. Phải đưa cho họ cần câu chứ
không phải là con cá. Nhà nước đã để cho họ tự định giá xăng dầu trong hạn
mức cho phép theo giá của thế giới, để tránh những cơn sốc giá gây nên những
biến động xấu cho nền kinh tế.
Hay như trong trường hợp để tạo việc làm cho người lao động chính phủ
đã sử dụng quỹ hỗ trợ việc làm, hộ trợ lãi suất cho vay, hỗ trợ đào tạo nghề…
Liên bộ Tài chính, Lao động-Thương binh và Xã hội vừa có thông tư liên tịch
hướng dẫn thực hiện đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động giai đoạn 2009-2020”.
Theo đó, từ ngày 24-10, người lao động sinh sống tại huyện nghèo (có hộ
khẩu thường trú hoặc tạm trú đủ 12 tháng trở lên) được hỗ trợ kinh phí để đi
xuất khẩu lao động. Cụ thể, người lao động đã tốt nghiệp từ bậc tiểu học trở lên,
cần bổ túc thêm về văn hóa được hỗ trợ toàn bộ học phí, tài liệu học tập, chi phí
sinh hoạt trong thời gian học. Về hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ sẽ thực hiện
theo hai mức: người dân tộc thiểu số được hỗ trợ toàn bộ kinh phí; các đối
tượng khác được hỗ trợ 50%.
Thông tư cũng quy định người lao động thuộc các hộ nghèo, người dân tộc
thiểu số đi xuất khẩu lao động được vay vốn với lãi suất bằng 50% lãi suất cho
vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội…
Với những chính sách gắn liền với tài chính công nhà nước đã phát huy vai
trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế hạn chế đà suy giảm kinh tế trước các
tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu trước đó và vừa qua. Dù chịu tác
động bất lợi của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng Việt Nam vẫn đạt được tăng
trưởng ở mức 4,5% năm 2009 và hồi phục 6,5% trong năm 2010.
+ Về mặt xã hội : Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc
thực hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.
Kinh tế càng tăng trưởng chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền, vùng
dân cư càng gia tăng. Để thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách
giữa người giàu và người nghèo chính phủ sử dụng những chính sách tài chính
công thông qua công cụ thuế và chi tài chính công. Thuế trực thu mà cụ thể là
thuế thu nhập cá nhân lũy tiến từng phần có vai trò điều tiết mạnh thu nhập của
những người có thu nhập cao và điều tiết ở mức hợp lý đối với các cá nhân có
thu nhập trung bình hoặc thấp. Bên cạnh đó thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế giá trị gia tăng thuế xuất nhập khẩu có vai trò điều tiết thu nhập thực tế
có khả năng thanh toán của dân cư bằng việc đánh thuế cao với hàng hóa dịch
vụ cao cấp, đánh thuế thấp với các mặt hàng dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống
dân cư.
Với các chính sách trợ cấp trợ giá chi các chương trình mục tiêu sẽ làm
giảm bớt khó khăn của người nghèo những người thuộc diện chính sách đối
tượng khó khăn… thường phát huy tác dụng cao vì đối tượng xác được hưởng
rất dễ xách định. Tuy nhiên điều tiết thu nhập của dân cư cần chú ý duy trì mức
6. độ chênh lệch vừa phải để tạo điều kiện cho các cá nhân có thu nhập chính
đáng được hưởng thu nhập của mình, không cao bằng thu nhập thông qua phân
phối tài chính.
Hay như với các chính sách để người nghèo có khả năng phát huy hết khả
năng của mình thì nhà nước thông qua những chính sách như cho sinh viên
nghèo vay vốn, cho người nghèo vay vốn… Ngày 16.7.2009 Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi
suất đối với các khoản vay của người nghèo và các đối tượng chính sách khác
tại Ngân hàng Chính sách xã hội.
Theo đó, toàn bộ khách hàng vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo cơ
chế cho vay hiện hành được hỗ trợ lãi suất theo quy định của Thủ tướng Chính
phủ và Thông tư này.
Loại cho vay được hỗ trợ lãi suất là các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn của khách hàng vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Đối với các khoản
vay thuộc diện được ân hạn (Chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh
viên…), Ngân hàng Chính sách xã hội được thực hiện giảm lãi suất tương ứng
với mức và thời gian hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Thông tư này ở thời điểm
thu lãi.
- Cạnh tranh. Mỗi tháng, gia đình chúng thường thanh toán các hóa đơn
cho công ty cung cấp nước thành phố ( điện, vệ sinh, …. ). Không giống như hầu
hết các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, công ty cấp nước không
phải cạnh tranh với các doanh nghiệp đối thủ khác trong việc cung cấp nước.
Công ty cấp nước được gọi là "độc quyền tự nhiên" bởi vì chỉ một công ty cấp
nước là có tính kinh tế nhất. Cho phép có hai hệ thống nước, hoặc hai hệ thống
dây điện hoàn toàn tách biệt trong trường hợp của hai công ty điện lực, sẽ là
lãng phí và rất không hiệu quả. Thay vì phải kiểm soát chi phí và tối đa hóa hiệu
quả thông qua cạnh tranh, các cơ quan chính phủ quy định mức giá và các dịch
vụ của các công ty này nhằm đảm bảo rằng họ đưa ra các mức giá tốt nhất có
thể đối với khách hàng và vẫn nhận được mức doanh thu thỏa đáng cho khoản
đầu tư của họ.
Số các công ty độc quyền tự nhiên như vậy thực sự rất ít và chỉ chiếm một phần
nhỏ trong các hoạt động kinh tế ở hầu hết các nền kinh tế thị trường. Một vấn đề
phổ biến hơn và nhìn chung phức tạp hơn phát sinh khi một ngành nghề chỉ do
một vài công ty lớn khống chế. Thực sự sẽ nguy hiểm nếu những công ty này
cấu kết với nhau để đặt mức giá cao hơn và hạn chế các công ty cạnh tranh mới
gia nhập thị trường. Để ngăn chặn những sự độc quyền và các hành vi cấu kết
đó, và để duy trì mức cạnh tranh hiệu quả hơn trong hệ thống kinh tế, các bộ luật
gọi là chống độc quyền được ban bố trong hầu hết các nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh có giới hạn có thể xảy ra ở một vài ngành nghề, ví dụ như hàng
không, do mức cầu của thị trường chỉ đủ cho một số công ty lớn có các công
nghệ sản xuất hiệu quả nhất cho các sản phẩm như vậy. (Tuy nhiên, các sự kiện
bất ngờ như vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 và sự xuất hiện của các
hãng vận tải nhỏ chi phí thấp "không cầu kỳ trong dịch vụ" đe dọa các hãng
7. truyền thống hàng đầu trên thị trường). Do đó các nhà hoạch định chính sách
phải quyết định xem liệu sự cạnh tranh giữa một số ít các công ty lớn sản xuất
các sản phẩm như vậy có thích hợp để giữ giá cả và lợi nhuận thấp xuống mức
hợp lý và giữ chất lượng sản phẩm cao. Nếu không, họ có thể lại phải sử dụng
các quy định về giá cả và dịch vụ hoặc chia nhỏ một cách hợp pháp các công ty
lớn thành các công ty nhỏ hơn, nếu có thể thực hiện điều đó mà về cơ bản
không tăng chi phí sản xuất lên. Nếu thất bại trong việc này, các nhà hoạch định
chính sách ít nhất cũng có thể khiến việc các công ty lớn này cấu kết với nhau là
bất hợp pháp, và cưỡng chế thực hiện các điều luật này nhằm đảm bảo rằng
càng có nhiều cạnh tranh trực tiếp giữa các công ty này càng tốt.
Thật không may là nhiều quy định và chính sách chống độc quyền của chính phủ
thực sự đã làm giảm thay vì gia tăng sự cạnh tranh. Các chính sách này bao
gồm các giấy phép độc quyền để sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ, thuế, hạn
ngạch nhằm hạn chế hàng hóa và dịch vụ nước ngoài nhập khẩu vào nội địa, và
các yêu cầu về giấy phép hành nghề và lệ phí cho người lao động có tay nghề
và chuyên môn. Một số trong các chính sách này, ví dụ như cấp bằng sáng chế
và bản quyền có thể được biện minh bằng các cơ sở kinh tế khác. Tuy nhiên,
các hạn chế khác không thật thích đáng và được áp dụng chỉ bởi vì chúng mang
lại lợi ích lớn hơn cho số ít thành viên của các nhóm nhỏ có quyền lợi đặc biệt.
Do thiệt hại gây ra bởi các hạn chế này được phân tán rộng rãi cho phần còn lại
của toàn dân nên chúng không thu hút hoặc thu hút rất ít sự phản đối của công
luận.
Cân nhắc cho kỹ thì mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng điểm nhất trí chung
của các nhà kinh tế học về nền kinh tế thị trường là chúng ta sẽ phải trả giá đắt
nếu cho phép các hãng lớn (hoặc là một nhóm các hãng cố kết với nhau) đạt
được vị trí độc quyền trong một số ngành chủ chốt. Cài giá này đủ lớn để giải
thích cho việc chính phủ phải có một vai trò giới hạn trong việc xây dựng các luật
lệ và quy định để duy trì sự cạnh tranh.
- Chính sách giáo dục của nhà nước. Khi bạn đến với trường học cuả
mình, bạn đang tìm kiếm cách cải thiện cho chính mình và gia đình chứ không
cần thiết phải cải thiện cho cả một cộng đồng lớn. Nhưng kết quả từ sự nâng
cao học vấn của bạn đã trở thành một thành viên hữu ích và được đào tạo cao
hơn trong cộng đồng của bạn. Bạn hiện giờ có những kỹ năng mới và đã xây
dựng được một doanh nghiệp mới tạo cơ hội và việc làm cho những người khác.
Như vậy, học vấn của bạn đã làm lợi cho những người khác, điều này khác
với quan hệ giữa những người sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Giáo
dục thường được coi là đưa lại những lợi ích ngoại sinh cho một quốc gia do
những nhân công có học vấn thường linh hoạt và năng suất hơn, và chắc chắn
là ít khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo
dục ngày hôm nay có thể sẽ dẫn đến những khoản tiết kiệm của xã hội và cá
nhân không phải chi tiêu vào việc phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn
đề xã hội khác, cũng như tăng mức độ kỹ năng, tính linh hoạt và năng suất của
8. lực lượng lao động.
Mở rộng ra, bất cứ sản phẩm nào đưa lại những lợi ích ngoại sinh đáng kể hoặc
lợi ích vượt trội thì chính phủ có thể xem xét đến việc trợ cấp hoặc khuyến khích
tiêu dùng, sản xuất sản phẩm đó để giá trị của các lợi ích ngoại sinh đó có thể
được tính bằng giá cả thị trường và sản lượng đầu ra của các sản phẩm đó.
Trong khi chi phí ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dư thừa một số hàng hóa
nhất định thì việc tồn tại lợi ích ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dưới mức
cầu các hàng hóa và dịch vụ khác.
Giáo dục công lập có lẽ là ví dụ lớn nhất và đặc trưng nhất về chi tiêu và trợ
cấp của chính phủ cho một dịch vụ được xem là có lợi ích ngoại sinh đáng kể.
Chúng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. 1 đặc điểm xuyên suốt của hàng
hóa công. Nó hoạt động để cung cấp lợi ích cho mọi người. Tất cả mọi người
đều có được lợi ích như nhau.
- Hoạt động phúc lợi xã hội. Trong một nền kinh tế thị trường,
một số người không có các khả năng hoặc các nguồn lực khác
để kiếm sống. Trái lại, một số khác lại được hưởng nhiều lợi lộc
vì thừa hưởng tài sản hay có tài năng, hoặc do họ biết kết hợp
với gia đình và bạn bè về mặt kinh doanh, chính trị hay xã hội.
Chính phủ trong các nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ can
thiệp bằng các chương trình tái phân phối thu nhập, và thường
hành động với ý định khá rõ ràng là dùng các chính sách thuế để
vấn đề phân phối thu nhập sau thuế trở nên công bằng hơn.
Những người đề xướng việc tái phân phối mở rộng cho rằng vai
trò này của chính phủ khi làm như vậy là nhằm hạn chế việc tập
trung tài sản và duy trì sự phân chia quyền lực kinh tế rộng rãi
giữa các hộ gia đình, cũng như luật chống độc quyền được thiết
kế để duy trì cạnh tranh và phân chia quyền lực và các nguồn lực
rộng rãi hơn giữa các nhà sản xuất. Còn những người chống lại
các chương trình tái phân phối lớn lại phản đối rằng thuế gia tăng
đối với các gia đình có thu nhập cao sẽ làm giảm động cơ làm
việc, tích lũy và đầu tư của các nhóm này, và như vậy là làm tổn
hại đến toàn bộ nền kinh tế.
Những tranh luận về tái phân phối thu nhập đều dựa trên quan
điểm cơ bản của con người về thế nào là công bằng và hợp lý.
Và trong lĩnh vực này, cả các nhà kinh tế học lẫn các chuyên gia
khác nghiên cứu về vấn đề này đều chưa có lập trường nào đặc
biệt.
Tất cả những gì mà họ có thể làm là tập hợp tài liệu về những gì
đã xảy ra đối với việc phân phối thu nhập và tài sản qua thời gian
trong các hệ thống kinh tế khác nhau, và sử dụng các thông tin
đó để cố gắng xác định các chính sách khác nhau ảnh hưởng
như thế nào đến các biến số như mức sản lượng, mức tích lũy và
đầu tư quốc gia.
9. Trong thế kỷ này, mọi người đã dần dần cùng nhất trí rằng chính
phủ trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, vì lòng trắc ẩn và
tính công bằng, nên có trách nhiệm hỗ trợ cho các gia đình nghèo
túng nhất trong nước và giúp họ cố gắng thoát khỏi cuộc sống đói
nghèo. Chính phủ trong tất cả các nền kinh tế thị trường thực sự
đều hỗ trợ cho những người thất nghiệp, chăm sóc y tế cho
người nghèo và trợ cấp hưu trí cho người nghỉ hưu. Toàn bộ các
chương trình này tạo thành cái gọi là "mạng lưới an sinh xã hội".
Trong 40 năm qua, các chương trình xã hội này đã chiếm một
phần ngày càng tăng trong chi tiêu của chính phủ và các chương
trình thuế tại hầu hết các nước công nghiệp hóa. Do vậy ngày
nay người ta không còn tranh luận xem các chương trình này có
nên tồn tại hay không, mà là về mức độ mở rộng của chúng và
cần phải quản lý chương trình tái phân phối thu nhập như thế nào
để vẫn giữ được những động cơ cá nhân kích thích con người
làm việc và tích lũy.
- Trong vấn đề môi trường. Nhà nước đã bỏ ra hàng tỷ đồng
để có thể cải tạo môi trường sống cho chúng ta. Chỉ có tài chính
công mới có thể làm được việc này. Hãy lấy một ví dụ về một
công ty sản xuất các sản phẩm giấy - từ giấy viết đến thùng các-
tông - tại một nhà máy bên cạnh một con sông. Vấn đề là nhà
máy đã đổ xuống sông các hóa chất ô nhiễm là sản phẩm phụ từ
quá trình sản xuất. Nhưng không có một cá nhân hay một pháp
nhân nào sở hữu nước sông nên không có ai buộc nhà máy phải
ngừng gây ô nhiễm. Hơn nữa, do việc làm sạch dòng sông sẽ tốn
tiền, nên công ty có thể bán các sản phẩm giấy rẻ hơn trường
hợp họ phải chịu các chi phí kiểm soát ô nhiễm như vậy. Kết quả
là, công ty giấy có thể tăng sản lượng do cầu tương đối cao hơn
tại mức giá thấp hơn, và nhà máy càng có nhiều chất thải và ô
nhiễm hơn. Bằng cách gây ô nhiễm mà không chịu một hình phạt
nào, công ty cũng có thể có lợi thế không công bằng so với các
đối thủ cạnh tranh, những người mà sản phẩm giấy của họ bao
gồm cả chi phí lắp đặt các thiết bị kiểm soát ô nhiễm. Đất công và
lề đường thường bị xả rác nhiều hơn là bãi cỏ trước cửa nhà
riêng, bởi vì không ai sở hữu những khoảng đất công này và chịu
trách nhiệm giữ vệ sinh cho chúng, hay buộc tội những người
chiếm đoạt chúng. Trên thực tế, hầu hết ô nhiễm đều bị thải vào
không khí, đại dương và các dòng sông bởi vì không có cá nhân
nào sở hữu các nguồn lực đó có đủ động cơ cá nhân để bắt
những người gây ô nhiễm chịu trách nhiệm về những thiệt hại họ
gây ra. Mặc dù có một số người bỏ thời gian và chịu rắc rối để
khởi kiện những người gây ô nhiễm, thì hầu hết những người
khác có rất ít động lực kinh tế để làm điều đó.
Vai trò của chính phủ trong vấn đề này là cố gắng hiệu chỉnh sự
mất cân bằng đó. Bằng cách can thiệp, chính phủ buộc những
10. người sản xuất và tiêu dùng sản phẩm đó phải thanh toán cho
những chi phí vệ sinh này.
- …
Chúng ta có thể thấy vai trò của tài chính công trong xã hội là không thể
phủ nhận dù đôi khi nó có mang lại một số chưa tích cực trong xã hội ( độc
quyền giá điện, nước…). Nhưng tài chính công là cái đảm bảo lợi ích cho tất
cả mọi người đều được công bằng như nhau.