Ung thu tuyen tien liet Nguyen nhan dau hieu va cach dieu tri.pdf
Chẩn đoán ung thư
1. Chẩn đoán ung thư
Hầu hết các ung thư lần đầu được chẩn đoán dựa vào các triệu chứng xuất hiện
hoặc nhờ vào quá trình tầm soát. Qua đó không thể chẩn đoán xác định được mà
phải nhờ vào sinh thiết. Một số trường hợp ung thư khác được chẩn đoán tình
cờ nhờ khi đang khám hoặc điều trị bệnh khác.
1. Dấu hiệu và triệu chứng
Ban đầu, hầu hết bệnh nhân ung thư không có triệu chứng lâm sàng rõ ràng. Khi xuất
hiện triệu chứng rõ rệt thường là khi bệnh đã tiến triển trầm trọng. Thông thường, ung
thư có thời gian ủ bệnh khá dài, khoảng 10 năm hoặc hơn nữa tùy thể loại ung thư. Do
đó cách phòng và điều trị ung thư hiệu quả nhất được khuyến cáo là nên đi khám sức
khỏe định kì 6 tháng một lần.
Do ung thư là tập hợp của nhiều dạng bệnh ung thư khác nhau nên triệu chứng của
ung thư rất đa dạng và khác nhau ở tùy thể bệnh ung thư.
Triệu chứng của ung thư được phân làm ba nhóm chính:
Triệu chứng tại chỗ: các khối u bất thường hay phù nề, chảy máu, đau và/hoặc
loét . Chèn ép vào mô xung quanh có thể gây ra các triệu chứng như vàng da.
Triệu chứng của di căn: hạch bạch huyết lớn lên, ho, ho ra máu, gan to, đau
xương, gãy xương ở những xương bị tổn thương và các triệu chứng thần kinh.
Đau có thể gặp ở ung thư giai đoạn tiến triển, nhưng thông thường đó không
phải là triệu chứng đầu tiên.
Triệu chứng toàn thân: sụt cân, chán ăn và suy mòn, tiết nhiều mồ hôi (đổ mồ
hôi trộm), thiếu máu và các hội chứng cận u đặc hiệu, đó là tình trạng đặc biệt
được gây ra bởi ung thư đang hoạt động, chẳng hạn như huyết khối hay thay đổi
nội tiết tố.
2. Các phương pháp chẩn đoán ung thư
Những người nghi ngờ mắc bệnh ung thư được điều tra với các bài kiểm tra y tế.
Những thường bao gồm xét nghiệm máu, X-quang, chụp CT và nội soi
1. Sinh thiết
Để chẩn đoán xác định độ ác tính thì phải cần đến khám nghiệm vi thể tế bào ung thư
của các nhà giải phẫu bệnh. Thủ thuật để lấy được tế bào và/hoặc các mẫu bệnh
phẩm, và khám nghiệm chúng được gọi là sinh thiết. Chẩn đoán mô học sẽ xác định
loại tế bào ung thư đang tiến triển, mức độ ác tính (mức độ loạn sản), sự lan tràn và
kích thước của chúng. Di truyền học tế bào và hóa mô miễn dịch có thể cung cấp các
thông tin về xu hướng phát triển sau này của ung thư (tiên lượng) và phương pháp điều
trị tốt nhất.
2. Tất cả ung thư đều có thể được chữa trị nếu như khối u được cắt bỏ hoàn toàn, và đôi
khi điều này có thể thực hiện bởi sinh thiết. Nếu ung thư lan tràn đến vị trí khác của cơ
thể (di căn), phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là không thể.
Bản chất của sinh thiết phụ thuộc vào cơ quan khám nghiệm. Nhiều sinh thiết (như là
sinh thiết da, vú hay gan) có thể thực hiện ngoại trú.
2. Tầm soát
Tầm soát ung thư là thử nghiệm nhằm thăm dò các dạng ung thư nghi ngờ trong quần
thể dân cư. Khi triệu chứng ung thư được phát hiện thì các phương pháp chẩn đoán kế
tiếp thâm nhập hơn và có khả năng khẳng định hơn được thực hiện để xác nhận chẩn
đoán.
Tầm soát ung thư có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Chẩn đoán sớm giúp kéo dài đời
sống. Một số thử nghiệm tầm soát đã được triển khai. Tầm soát ung thư vú có thể
được thực hiện bởi tự khám vú. Tầm soát bằng chụp tuyến vú phát hiện được khối u
sớm hơn cả tự thăm khám, và nhiều nước sử dụng nó để tầm soát một cách hệ thống
tất cả các phụ nữ trung niên. Ung thư đại trực tràng có thể được phát hiện nhờ vào xét
nghiệm máu tiềm ẩn trong phân và soi đại tràng, chúng giúp làm giảm đi cả tỷ lệ mắc
bệnh và tử vong nhờ phát hiện và loại bỏ các polyp tiền ác tính. Một cách tương tự, xét
nghiệm tế bào học cổ tử cung (sử dụng Pap smear) giúp xác định và cắt bỏ các tổn
thương tiền ung thư. Qua thời gian, những thử nghiệm như vậy đã dẫn đến giảm rõ rệt
tỷ lệ ung thư cổ tử cung và tỷ lệ tử vong. Nam giới được khuyên tự khám tinh hoàn bắt
đầu từ tuổi 15 để phát hiện ung thư tinh hoàn. Ung thư tiền liệt tuyến (nhiếp hộ tuyến)
có thể được tầm soát nhờ vào khám trực tràng bằng ngón tay cùng với thử máu tìm
kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến (PSA).
Tầm soát ung thư là vấn đề còn bàn cãi trong những trường hợp khi không biết chắc nó
có thực sự cứu mạng sống hay không. Tranh cãi đặt ra khi không rõ là liệu lợi ích từ
việc tầm soát có hơn hẳn nguy cơ của các xét nghiệm chẩn đoán tiếp theo và điều trị
ung thư. Ví dụ, trong trường hợp tầm soát ung thư tiền liệt tuyết, xét nghiệm PSA có
thể phát hiện những ung thư nhỏ mà sẽ không bao giờ trở nên đe dọa đến tính mạng,
nhưng khi đã được chẩn đoán thì sẽ dẫn đến điều trị. Tình trạng này gọi là chẩn đoán
quá mức, đưa con người đối diện với nguy cơ các biến chứng của điều trị không cần
thiết như là phẫu thuật hay xạ trị. Những thủ thuật tiếp theo được sử dụng để chẩn
đoán ung thư tiền liệt tuyến (như sinh thiết tiền liệt tuyến) có thể gây ra các tác dụng
phụ, như chảy máu và nhiễm trùng. Điều trị ung thư tiền liệt tuyến có thể dẫn đến viêc
đái són (mất khả năng kiểm soát dòng nước tiểu) và rối loạn cường dương (cương
không đủ cho giao hợp). Tương tự đối với ung thư vú, gần đây có những phê bình về
chương trình tầm soát ung thư ở một vài nước đã gây là nhiều bất cập hơn là lợi ích
thu được. Đó là vì tầm soát phụ nữ trong quần thể rộng sẽ gây ra một số lớn dương
tính giả cần khảo sát tiếp theo để loại trừ ung thư, dẫn đến tăng số cần điều trị (hay số
cần tầm soát) để phòng ngừa hay bắt gặp một trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm.
3. Về phương diện y tế công cộng, tầm soát ung thư cổ tử cung bằng Pap smear có hiệu
quả - chi phí tốt nhất trong các dạng tầm soát ung thư vì ung thư này có yếu tố nguy cơ
rõ ràng (tiếp xúc qua đường tình dục) và diễn tiến tự nhiên chậm qua nhiều năm do đó
cho phép chúng ta có thời gian để tầm soát và phát hiện bệnh sớm. Hơn nữa, xét
nghiệm này cũng dễ thực hiện và tương đối rẻ tiền.
Sử dụng chẩn đoán hình ảnh để truy tầm ung thư ở những người không có triệu chứng
rõ ràng cũng có những vấn đề rắc rối tương tự. Nguy cơ tăng đáng kể trong việc phát
hiện những khối u mà gần đây được gọi là khối u tình cờ - đó là tổn thương lành tính
được xem là ác tính để rồi trở thành điểm ngắm cho các thăm dò nguy hiểm khác.
Vì những lý do này, điều quan trọng là lợi ích và nguy cơ của quá trình chẩn đoán và
điều trị phải được cân nhắc khi tiến hành tầm soát ung thư.
Hầu hết các bệnh ung thư được ghi nhận ban đầu hoặc vì dấu hiệu hoặc triệu
chứng xuất hiện hoặc thông qua sàng lọc. Không những dẫn đến một chẩn đoán
xác định, mà thường đòi hỏi ý kiến của một bác sĩ giải phẫu bệnh, một loại của
bác sĩ (bác sĩ) chuyên trong chẩn đoán bệnh ung thư và các bệnh khác.
Những người nghi ngờ mắc bệnh ung thư được điều tra với các bài kiểm tra y tế.
Những thường bao gồm xét nghiệm máu, X-quang, chụp CT và nội soi. Sinh thiết Ung
thư có thể được nghi ngờ cho một loạt các lý do, nhưng chẩn đoán xác định của hầu
hết các khối u ác tính phải được xác nhận bằng cách kiểm tra mô học của các tế bào
ung thư bằng một nghiên cứu bệnh học. Mô có thể thu được từ một sinh thiết hoặc
phẫu thuật.
Nhiều sinh thiết (chẳng hạn như những người của vú, da hoặc gan) có thể được thực
hiện trong văn phòng của bác sĩ.
Sinh thiết của các cơ quan khác được thực hiện dưới gây mê và cần phải phẫu thuật
trong một phòng điều hành. Việc chẩn đoán mô được đưa ra bởi nghiên cứu bệnh học
cho thấy các loại tế bào sinh sản, lớp mô học của nó, bất thường về gen, và các tính
năng của khối u.
Cùng với nhau, thông tin này là hữu ích để đánh giá tiên lượng của bệnh nhân và để
lựa chọn điều trị tốt nhất.
Cytogenetics và miễn dịch là các loại thử nghiệm nghiên cứu bệnh học có thể thực hiện
trên mẫu mô. Các xét nghiệm này có thể cung cấp thông tin về những thay đổi phần tử
(như đột biến, gen nhiệt hạch, và thay đổi nhiễm sắc thể số) đã xảy ra trong các tế bào
ung thư, và do đó cũng có thể cho biết hành vi của bệnh ung thư trong tương lai (tiên
lượng) và điều trị tốt nhất.