SlideShare a Scribd company logo
1 of 240
Download to read offline
DẪN NHẬP KINH THÁNH - 3
Dẫn nhập Sáng Thế ký
Nhan đề:
Nhóm từ thứ nhất trong bản văn Hi-bá-lai của SaSt 1:1 là bereshith (“ban
đầu”) cũng là nhan đề của sách (các sách cổ thường được đặt tên theo một
hay hai chữ đầu của sách). Nhan đề bằng Anh ngữ, Genesis, bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp, và đến từ chữ Geneseos, xuất hiện trong bản dịch tiếng Hy
Lạp (bản LXX) của 2:4; 5:1. Theo liên văn, từ này nghĩa là “sự sinh ra”, “gia
phả”, hoặc “lịch sử nguồn gốc”. Như vậy trong cả hình thức Hi-bá-lai lẫn
Hi-văn, nhan đề “Sáng thế ký” mô tả cách thích hiệp nội dung của sách, vì
chủ yếu là sách của những khởi đầu.
Bối cảnh:
Trong 38 chương đầu phản ánh rất nhiều điều chúng ta biết từ các nguồn
khác về nếp sống và văn hóa Mê-sô-bô-ta-mi thuở xưa. Cuộc sáng tạo, các
gia phả, trận hồng thủy hủy diệt, địa lý và việc hình thành bản đồ, kỹ thuật
xây dựng, sự di trú của các dân tộc, mua bán đất đai, quan thuế và thủ tục
pháp định, nghề chăn bầy và chăn nuôi gia súc, tất cả những chủ đề đó và
nhiều đề tài khác là vấn đề quan tâm chủ yếu của các dân tộc vùng Mê-sô-
bô-ta-mi thời bấy giờ. 38 đoạn đầu Sáng thế ký cũng liên quan đến những cá
nhân, gia đình và các bộ lạc. Tác giả dường như định vị vườn Ê-đen, quê
hương đầu tiên của loài người là ở trong hoặc gần xứ Mê-sô-bô-ta-mi, tháp
Ba-bên được xây cất tại đó, Áp-ram sinh ra ở đó, Y-sác cưới vợ người xứ
đó, và Gia-cốp cũng sống tại đó 20 năm. Dầu các tộc trưởng định cư tại xứ
Palestine, nhưng quê hương nguyên thuỷ của họ vẫn là xứ Mê-sô-bô-ta-mi.
Nền văn học cổ nhất tương đương với 1:1-38:30 cũng đến từ xứ Mê-sô-bô-
ta-mi. Enuma elish, câu chuyện thần Marduk dấy lên đến quyền tối cao trong
Đền thờ Bách Thần Ba-by-lôn, trong một số phương diện (dầu hoàn toàn
theo thần thoại và đa thần) cũng tương tự như cuộc sáng tạo trong 1:1-31.
Vài nét đặc biệt của danh sách các vua từ Sumer rất giống với gia phả ghi
trong 5:1-32. Bảng thứ 11 của thiên Anh hùng ca Gilgamesh hoàn toàn
giống như trận Hồng thủy ghi trong 6:1-8:22. Nhiều biến cố quan trọng của
1:1-8:22 được thuật lại cùng thứ tự các sự việc tương tự trong thiên Anh
hùng ca Atrahasis. Thật ra, thiên sử thi này cùng căn bản chủ đề sáng tạo -
phản loạn - trận Hồng thủy như Thánh Kinh ghi chép. Các bảng đất sét mới
tìm được tại vị trí cổ (chừng 2.500-2.300 TC) ở Ebla (hiện nay là Tell
Mardikh), miền Bắc Sy-ri cũng có thể chứa đựng một số tình tiết tương
đương.
Có hai bộ tài liệu quan trọng khác chứng minh sự phản ánh xứ Mê-sô-bô-ta-
mi trong 38 chương đầu Sáng thế ký. Từ những bức thư Ma-ri, từ thời các
tộc trưởng, chúng ta học biết tên các tộc trưởng (đặc biệt kể cả Áp-ram, Gia-
cốp và Gióp) là tiêu biểu cho thời đó. Những thư cũng minh chứng sự tự do
đi lại giữa những vùng khác nhau của thế giới A-mô-rít nơi các tộc trưởng
cư ngụ. Những tấm bảng Nuzi, dầu muộn hơn thời kỳ tộc trưởng mấy thế kỷ,
làm sáng tỏ những phong tục tập quán từ thời tộc trưởng trong nhiều thế kỷ,
hầu như nguyên vẹn trải qua nhiều thế kỷ. Quyền thừa hưởng cơ nghiệp của
người được thâu nhận vào gia đình hoặc nô lệ (xem 15:1-4), bổn phận của
một người vợ son sẻ là cung cấp cho chồng một con trai qua một đầy tớ gái
(16:2-4), sự chỉ trích chống lại việc đuổi đầy tớ gái và con trai nàng (xem
21:10-11), thẩm quyền của lời truyền khẩu trong luật pháp cổ vùng cận
đông, như lời trối trước khi chết (27:1-4,22-23,33) - những điều này cùng
các tập quán hợp pháp khác, các khế ước và điều khoản xã hội được minh
họa sinh động trong các tài liệu xứ Mê-sô-bô-ta-mi
Như 1:1-38:30 có đặc tánh và bối cảnh người Mê-sô-bô-ta-mi, thì cũng vậy,
39:1-50:26 phản ánh ảnh hưởng Ai-cập - dầu không hoàn toàn trực tiếp như
thế. Những ví dụ của ảnh hưởng đó là: việc trồng nho của người Ai-cập (40:
9-11), quang cảnh bờ sông (41:1-57), Ai-cập là vựa lúa của Ca-na-an 42:1-
38), Ca-na-an là nguồn của vô số sản phẩm cho Ai-cập tiêu thụ (43:1-34).
Tập quán xã hội và tôn giáo Ai-cập (ở phần cuối 43:1-34; 46:1-33), những
thủ tục hành chánh Ai-cập (47:1-31), những tập tục an táng Ai-cập (50:1-
26), nhiều từ ngữ và tên riêng theo tiếng Ai cập dùng trong các chương này.
Nét tương đương văn học đặc biệt gần nhất với Ai-cập là “Truyện kể Hai
Anh Em”, giống hệt như chuyện Giô-sép với Phô-ti-pha (39:1-23). Những
chuyện tự thuật Ai-cập (như “Truyện Sinuhe” và “Báo cáo Wenamun”) và
các huyền sử khác cống hiến nhiều nét tương đương văn học chung.
Trước giả và niên hiệu chép sách:
Về mặt lịch sử, người Do-thái và Cơ-đốc đồng chủ trương Môi-se là trước
giả của năm sách đầu tiên trong Cựu Ước. Những sách này được gọi là Ngũ
kinh (nghĩa là “sách năm quyển”) được nói đến trong truyền khẩu Do-thái
giáo là năm phần luật pháp (của Môi-se). Chính Thánh Kinh gợi ý rằng Môi-
se là trước giả Sáng thế ký, vì Cong Cv 15:1 viện dẫn lễ cắt bì như “tập quán
do Môi-se dạy”, một ám chỉ đến SaSt 17:1-27. Tuy nhiên có vài sưu tập trễ
hơn xuất hiện đã được chỉ ra (xem những chú thích ở 14:14; 36:31; 47:11).
Thời kỳ lịch sử mà Môi-se sống dường như sách IVua định khá chính xác.
Chúng ta được biết “năm thứ tư đời trị vì của Sa-lô-môn trên Y-sơ-ra-ên” là
“năm thứ 480 sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập” (IVua 1V 6:1). Vì
Sa-lô-môn trị vì khoảng 966 TC và như vậy niên hiệu của xuất Ai-cập - là
khoảng 1.446 (đoán định rằng 480 năm trong IVua 1V 6:1 là tính theo nghĩa
đen, xem lời giới thiệu sách Các Quan xét: Bối cảnh). Thời kỳ 40 năm Y-sơ-
ra-ên lưu lạc trong đồng vắng, trễ nhất là từ 1.446 đến 1.406, rất có thể là
thời gian Môi-se soạn bộ sách ngày nay gọi là Ngũ kinh.
Trong hai thế kỷ sau cùng nhiều học giả nhìn nhận đã tìm thấy trong Ngũ
kinh 4 nguồn cơ bản: Những tài liệu được cho là có từ thế kỷ thứ 10 đến thế
kỷ thứ 5 TC gọi là J (tức Jahweh/Yahweh, danh xưng riêng của Đức Chúa
Trời trong Cựu Ước), “E” (tức là Ê-lô-him, danh xưng chung của Đức Chúa
Trời), D (tức Deuteronomic, thuộc Phục Truyền Luật Lệ Ký), và P (tức
Priestly, thuộc thầy tế lễ). Mỗi tài liệu đều có những đặc tính và thần học
riêng, và thường mâu thuẫn với các tài liệu kia. Như vậy, Ngũ kinh Môi-se
được mô tả như những truyện, những thi ca và luật lệ chắp vá. Tuy nhiên,
quan điểm này không có bằng cớ kết luận và sự tìm kiếm sâu rộng về văn
học cũng như khảo cổ đã hướng tới việc cắt bỏ nhiều lý lẽ dùng thách thức
quyền trước tác của Môi-se.
Chủ đề và sứ điệp:
Sáng thế ký luận về những sự khởi đầu. Khởi đầu của các từng trời và đất,
sự sáng và sự tối, các từng trời và biển cả, đất đai và cây cỏ, mặt trời mặt
trăng và các ngôi sao, những cá biển, chim trời và động vật trên đất, và loài
người (dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời , tuyệt đỉnh của hoạt động
sáng tạo), tội lỗi và sự cứu chuộc, phước lành và rủa sả, xã hội và văn minh,
hôn nhân và gia đình, nghệ thuật, tài khéo và công nghệ. Bản liệt kê có thể
cứ tiếp tục. Chữ chìa khoá Sáng thế ký là “chuyện, gốc tích, dòng dõi” dùng
để chia sách ra làm 10 phần lớn (xem Nét Đặc Biệt và Bố Cục Văn Học), và
bao gồm những quan điểm như sự sinh ra, gia phả và lịch sử.
Sách Sáng thế ký là nền tảng cho sự thông hiểu phần còn lại của Thánh
Kinh. Sứ điệp của sách thật phong phú và phức tạp, liệt kê những yếu tố
chính và phác họa đại cương sứ điệp toàn bộ Thánh Kinh. Quan trọng hơn cả
là sách của những mối quan hệ, quan hệ nổi bật giữa Đức Chúa Trời và thiên
nhiên, Đức Chúa Trời và loài người, và người với người. Suốt cả sách là
thuyết độc thần, thừa nhận rằng chỉ có một Đức Chúa Trời với Danh Xưng
xứng đáng, chống lại tất cả những ý niệm về đa thần hoặc vô thần, hoặc vạn
vật hữu thần (Pantheism, thuyết phiếm thần). Sáng thế ký dạy rõ rằng một
Chân Thần tối cao hơn cả vạn vật hiện hữu tức toàn bộ cuộc sáng tạo của
Ngài, và bởi sự lựa chọn thiên thượng Chúa thường vận dụng tự do vô hạn
của Ngài để lật đổ những tập quán truyền khẩu, và kế hoạch của loài người.
Sách giới thiệu cho chúng ta đường lối Đức Chúa Trời khởi xướng và thiết
lập các giao ước với tuyển dân Ngài, cam kết tỏ tình thương và thành tín của
Ngài với họ, kêu gọi họ hứa nguyện kính mến và trung thành với Ngài. Sách
thiết lập sinh tế như là sự thay thế mạng đền mạng (SaSt 22:1-24). Sách cho
chúng ta gợi ý đầu tiên về việc Đức Chúa Trời chuẩn bị cứu chuộc chúng ta
khỏi quyền lực của Ma quỉ (so 3:15 với RoRm 16:17-20) và bao hàm định
nghĩa đức tin đầy đủ và sâu nhiệm nhất (SaSt 15:6). Hơn phân nửa HeDt
11:1-40 - danh sách các anh hùng đức tin mà Tân Ước nói đến - là các nhân
vật trong Sáng thế ký.
Những nét văn học đặc sắc:
Sứ điệp sách thường được đề cao bởi cấu trúc và những đặc sắc văn học.
Sáng thế ký được chia làm 10 phần chính. Mỗi phần khởi sự với từ “chuyện,
gốc tích” (xem SaSt 2:4; 5:1; 6:9; 10:1; 11:10; 11:27; 25:12; 25:19;36:1 -
được lặp lại để nhấn mạnh ở 36:9 - và 37:2). Năm phần đầu có thể gom
chung lại và với lời giới thiệu sách như một tổng thể (1:1-2:3), có thể gọi
cách thích hợp là “lịch sử ban đầu” (1:1-11:26), phác họa thời kỳ từ A-đam
đến Áp-ra-ham. Năm phần sau kết hợp lại làm một câu chuyện dài hơn
(nhưng cũng hiệp nhất như các phần đầu), thuật lại câu chuyện Đức Chúa
Trời đối với Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, và Giô-sép cùng gia đình họ - một
phần thường gọi là “lịch sử các tổ phụ” (11:27-50:26). Phần này lần lượt
gồm ba chu kỳ ký-thuật (Áp-ra-ham - Y-sác, 11:27-25:11; Y-sác - Gia-cốp,
25:19-35:29; 37:1; Gia-cốp - Giô-sép, 37:2-50:26), rải rác có những gia phả
của Ích-ma-ên (25:12-28) và Ê-sau (36:1-43).
Câu chuyện thường tập trung vào đời sống của con thứ thay vì con trưởng:
Sết hơn là Ca-in, Sem hơn là Gia-phết, Y-sác hơn là Ích-ma-ên, Gia-cốp hơn
là Ê-sau, Giu-đa và Giô-sép hơn là các anh của họ, Ép-ra-im hơn là Ma-na-
se. Sự nhấn mạnh như vậy trên những người và gia đình được Chúa chọn có
lẽ là thần học và văn học nói rõ ràng nhất của toàn bộ Sáng thế ký, sách nhấn
mạnh thật sự dân Chúa không phải là sản phẩm của những phát triển tự
nhiên của con người, bèn là kết quả của sự can thiệp tối cao đầy ân huệ vào
lịch sử nhân loại. Chúa đem một chủng tộc mới biệt riêng cho chính Ngài ra
khỏi dòng giống sa đoạ, được gọi và dự định trở nên dân của vưong quốc
Ngài và làm nguồn phước cho cả thế giới.
Những con số có ý nghĩa hình bóng cũng đầy dẫy trong Sáng thế ký. Ngoài
số 10 phần được chia ra, số 10 cũng là số tên xuất hiện trong các gia-phả ở
đoạn 5 và 11 (xem ghi chú ở 5:5. Số 7 cũng thường xuất hiện. Nguyên bản
tiếng Hê-bơ-rơ của 1:1 gồm đúng 7 chữ, và 1:2 đúng 14 chữ (2x7). Có bảy
ngày sáng tạo, 7 tên trong gia phả của chương 4 (xem ghi chú ở 4:17-18;
cũng xem 4:15,24; 5:31), các số 7 khác ở trong truyện hồng thủy, 70 hậu tự
của các con Nô-ê (10:1-32), lời Chúa hứa cho Áp-ram gồm 7 phần (12:2-3),
7 năm được mùa và 7 năm đói kém tại Ai-cập ( 41:1-57), và 70 hậu tự của
Gia-cốp (46:1-34). Những con số ý nghĩa khác như 12 và 40, cũng thường
được dùng như thế.
Sách Sáng thế ký cơ bản là văn xuôi, ngắt quãng đây đó bằng những vần thơ
ngắn (bài dài nhất được gọi là “Lời chúc phước của Gia-cốp” trong 49:2-27).
Phần lớn văn xuôi có phẩm chất trữ tình và dùng đủ mọi hình thái tu từ và
các đề-từ khác biểu thị đặc điểm thiên anh hùng ca đẹp nhất thế giới. Nét
song song hàng dọc và hàng ngang giữa hai nhóm ba ngày trong cuộc sáng
tạo (xem ghi chú 1:11), sự suy bại và lan tràn tội lỗi cũng như sự đoán phạt ở
3:1-24 (rắn và người nữ cùng người nam kế tiếp nhau phạm tội. Kế đó, Đức
Chúa Trời chất vấn họ theo thứ tự ngược lại, rồi Chúa đoán phạt họ theo trật
tự nguyên thủy). Sự đồng điệu đầy uy quyền của nhóm từ: “rồi qua đời” ở
cuối những phân đoạn trong 5:1-32; hiệu quả của câu “nhưng Đức Chúa
Trời nhớ đến Nô-ê” (8:1) ở giữa chừng trận hồng thủy, câu chuyện xây dựng
dã tràng của Tháp Ba-bên trong 11:1-9 (tường thuật trong câu 1-2, 8-9; nghị
luận trong câu 3-4, 6-7; câu 5 là hành động chuyển tiếp). Việc chơi chữ đáng
sợ trong 40:19 (xem 40:13), sự xen kẽ giữa những mẫu chuyện ngắn về các
con trai đầu lòng và những chuyện dài về các con trai thứ - những câu này
và nhiều đề-từ văn học khác thêm sự thích thú cho câu chuyện và cung ứng
những dấu hiệu giải thích mà các đọc giả nên chú ý nhiều hơn.
Nhiều đề tài và chủ đề của ba chương đầu Sáng thế ký phản ánh ba chương
cuối của sách Khải thị không phải trùng hợp ngẫu nhiên. Chúng ta chỉ có thể
ngạc nhiên về ảnh hưởng quan phòng của chính Chúa, là Đấng bảo đảm với
chúng ta “cả Thánh Kinh đều được Đức Chúa Trời cảm ứng” (IITi 2Tm
3:16) và “chính Thánh Linh đã cảm ứng họ nói ra lời của Đức Chúa Trời ”
(IIPhi 2Pr 1:21).
Bố cục:
Bố cục văn học:
I. Giới thiệu (SaSt 1:1-2:3)
II. Thân sách (2:4-50:26)
A. Gốc tích trời và đất (2:4-4:26)
B. Dòng dõi của A-đam (5:1-6:8)
C. Dòng dõi của Nô-ê (6:9-9:29)
D. Dòng dõi của Sem, Cham và Gia-phết (10:1-11:9)
E. Dòng dõi của Sem (11:10-26)
F. Dòng dõi của Tha-rê (11:27-25:11)
G. Dòng dõi của Ích-ma-ên, con Áp-ra-ham (25:12-18)
H. Dòng dõi Y-sác, con Áp-ra-ham (25:19-35:29)
I. Dòng dõi của Ê-sau (36:1-37:1)
J. Dòng dõi của Gia-cốp (37:2-50:26)
Bố Cục Theo Chủ Đề:
I. Lịch sử ban đầu (1:1-11:26)
A. Cuộc sáng tạo (1:1-2:3)
1. Lời giới thiệu (1:1-2)
2. Phần chính (1:3-31)
3. Kết luận (2:1-3)
B. A-đam và Ê va trong vườn Ê-đen (2:4-25)
C. Sự sa ngã và những hậu quả của nó (3:1-24)
D. Sự “phát triển” nhanh chóng của tội lỗi (4:1-16)
E. Hai dòng dõi (4:17-5:32)
1. Dòng dõi của kiêu ngạo (4:17-24)
2. Dòng dõi của sự chết (4:25-5:32)
F. Sự lan rộng của tội trước nước lụt (6:1-8)
G. Đại hồng thủy (6:9-9:29)
1. Chuẩn bị cho nước lụt (6:9-7:10)
2. Sự phán xét và sự cứu chuộc (7:11-8:19)
a. Nước dâng lên (7:11-24)
b. Nước rút xuống (8:1-19)
3. Hậu quả của nước lụt (8:20-9:29)
a. Lời hứa mới (8:20-22)
b. Những sắc lịnh mới (9:1-7)
c. Mối liên hệ mới (9:8-17)
d. Sự cám dỗ mới (9:18-23)
e. Lời sau cùng (9:24-29)
H. Sự lan rộng của các quốc gia (10:1-11:26)
1. Sự tản mác của các quốc gia (10:1-32)
2. Sự lộn xộn tiếng nói (11:1-9)
3. Dòng dõi thứ nhất của Sem (11:10-26)
II. Lịch sử các tổ phụ (11:27-50:26)
A. Đời sống Áp-ra-ham (11:27-25:11)
1. Bối cảnh của Áp-ra-ham ([dc 11:27-32;)
[mtc 2. Đất của Áp-ra-ham (12:1-14:24)
3. Dân tộc của Áp-ra-ham (15:1-24:67)
4. Những ngày cuối đời của Áp-ra-ham (25:1-11)
B. Dòng dõi của Ích-ma-ên (25:12-18)
C. Cuộc đời của Gia-cốp (25:19-35:29)
1. Gia-cốp tại quê hương (25:19-27:46)
2. Gia-cốp tha hương (28:1-30:43)
3. Gia-cốp hồi hương (31:1-35:29)
D. Dòng dõi của Ê-sau (36:1-37:1)
E. Cuộc đời của Giô-sép (37:2-50:26)
1. Sự nghiệp của Giô-sép (37:2-41:57)
2. Sự di cư của Gia-cốp (42:1-47:31)
3. Những ngày cuối của Gia-cốp (48:1-50:14)
4. Những ngày cuối của Giô-sép (50:15-26)
Dẫn nhập Xuất Ê-díp-tô ký
Nhan đề:
“Xuất Ê-díp-tô ký” là một từ ngữ La-tinh (Exodus) lấy từ tiếng Hy Lạp
(Exodos) được những người dịch sách này ra tiếng Hy Lạp đặt cho cuốn
sách. Từ này có nghĩa là “lối ra”, “xuất hành” (Xem LuLc 9:31; HeDt
11:22). Tên này được giữ lại bởi bản Vulgate, bởi Philo văn sĩ Do-thái (sống
đồng thời với Chúa Cứu Thế), và bởi bản Syriac. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, sách
được đặt tên theo hai chữ đầu, we’elleh shemonth, (“Đây là những tên
của...”). Nhóm từ đó xuất hiện ở SaSt 46:8, tại đó giới thiệu cùng một danh
sách những tên người Y-sơ-ra-ên “đi với Gia-cốp đến xứ Ai Cập” (XuXh
1:1). Như vậy, Xuất Ê-díp-tô ký không riêng rẽ như hiện có, nhưng được
hiểu rằng đó là câu chuyện liên tục khởi sự từ Sáng thế ký và được hoàn tất
trong Lê-vi ký, Dân-số ký và Phục-truyền-luật-lệ ký. Năm sách đầu tiên của
Thánh Kinh hiệp nhau lại thành Ngũ Kinh (xem phần giới thiệu Sáng-thế-ký
: Trước giả và Niên Đại Chép Sách).
Trước giả và niên đại chép sách:
Mấy lời phát biểu trong Xuất Ê-díp-tô ký tỏ ra rằng Môi-se đã viết mấy phần
sách (17:14; 24:4; 34:27). Thêm nữa, Gios Gs 8:31 viện dẫn mạng lịnh của
XuXh 20:25 như “có chép trong sách Luật pháp Môi-se”. Tân ước cũng
xưng nhận Môi-se là trước giả của mấy phân đoạn trong Xuất Ê-díp-tô ký
(xem thí dụ, Mac Mc 7:10; 12:26 cũng xem LuLc 2:22-23). Xét chung,
những câu viện dẫn này rõ ràng gợi ý rằng Môi-se chịu phần lớn trách nhiệm
viết sách Xuất Ê-díp-tô ký - có quan điểm theo truyền thuyết cho rằng Ngũ
Kinh Môi-se toàn bộ chứa đựng 4 nguồn căn bản, nhưng không có gì chắc
chắn (xem phần giới thiệu Sáng-thế-ký: Trước giả và Niên Đại Chép Sách).
Bảng niên đại:
Theo IVua 1V 6:1, cuộc Xuất Ê-díp-tô xảy ra 480 năm trước “năm thứ tư
đời trị vì của Sa-lô-môn”. Vì năm đó là khoảng 966 TC, nên truyền thuyết
cho rằng cuộc Xuất Ê-díp-tô xảy ra vào năm 1.446. “Ba trăm năm” của Cac
Tl 11:26 thích hiệp thuận lợi cho khoảng thời gian này (xem phần dẫn nhập
sách Các Quan-xét: Bối Cảnh). Thêm nữa, dầu lịch sử Ai Cập liên hệ đến
Triều đại thứ 18 còn không chắc chắn, cuộc khảo sát mới đây có khuynh
hướng ủng hộ quan điểm truyền thuyết cho rằng hai triều đại Pha-ra-ôn này,
Thutmose III và con trai là Amunhotep II, là những Pha-ra-ôn hà hiếp Y-sơ-
ra-ên và tương ứng cuộc xuất hành khỏi Ai Cập (xem chú thích ở XuXh
2:15,23; 3:10).
Mặt khác, sự xuất hiện tên Ram-se trong 1:11 đã đưa nhiều người đến kết
luận rằng triều đại thứ 19 Pha-ra-ôn Seti I và con trai là Ram-se II chính là
Pha-ra-ôn hà hiếp Y-sơ-ra-ên và nhơn đó tương ứng cuộc xuất hành khỏi Ai
Cập. Hơn nữa, bằng chứng khảo cổ học về sự hủy diệt nhiều thành trong Ca-
na-an vào thế kỷ thứ 13 TC đã được giải thích như bằng chứng đạo quân
Giô-suê chiếm hữu đất hứa trong thế kỷ đó. Những điều này với các lý lẽ
tương tự dẫn đến niên đại định cho cuộc xuất hành khỏi Ai Cập là 1.290 TC
(xem phần giới thiệu sách Giô-suê: Sự Bố Trí Lịch Sử).
Tuy nhiên sự nhận diện những người tấn công các thành không được tích
cực xác định. Những cuộc đột kích có thể khởi xướng sau này bởi quân Y-
sơ-ra-ên, hoặc bởi người Phi-li-tin hoặc bởi người nước khác. Thêm nữa,
chính bằng chứng khảo cổ học trở nên ngày càng mơ hồ, các lượng định mới
đây có khuynh hướng ghi lại niên biểu vào triều đại thứ 18. Tên Ram-se xuất
hiện trong XuXh 1:11 cũng có thể là kết quả của sự cập nhật hoá chủ biên
của người sống các thế kỷ sau Môi-se, phương thức có lẽ giải thích cho sự
xuất hiện cùng một từ Ram-se trong SaSt 47:11 (xem chú thích ở đây).
Tóm lại, chẳng có lý do nào để bắt buộc thay đổi niên đại truyền thuyết định
cho cuộc xuất hành của người Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà nô lệ Ai Cập là 1.446
TC.
Tuyến đường Xuất Ê-díp-tô:
Ít nhất cũng có ba đường đào thoát từ Phi-thom và Ram-se (XuXh 1:11)
được đề ra : (1) Tuyến đường phía Bắc đi ngang qua đất Phi-li-tin (nhưng
xem 13:17) (2) Tuyến đường giữa dẫn về hướng đồng bằng qua Si-nai đến
Bê-e-sê-ba và (3) Tuyến đường hướng nam dọc theo duyên hải phía tây của
Si-nai đến cực điểm đông nam của bán đảo. Tuyến đường hướng nam hợp lý
hơn cả, vì nhiều vị trí trong hành trình Y-sơ-ra-ên vượt qua sa-mạc đã được
nhận biết dọc theo đó. Tuy nhiên, chỗ chính xác mà dân Y-sơ-ra-ên vượt qua
“Biển Đỏ” không rõ (hãy xem chú thích ở XuXh 13:18; 14:2).
Những chủ đề và thần học:
Xuất Ê-díp-tô ký đặt một nền tảng Thần học trong đó Đức Chúa Trời bày tỏ
danh Ngài, các thuộc tánh Ngài, luật pháp Ngài và cách thờ phượng Ngài.
Sách cũng thuật lại về sự chỉ định và công tác người trung bảo (Môi-se) của
giao ước đầu tiên, mô tả những sự khởi đầu của chức Tế lễ, định nghĩa vai
trò của tiên tri và mối liên hệ của giao ước cũ giữa Đức Chúa Trời và tuyển
dân Ngài đạt được dưới nền quản trị mới như thế nào (giao ước Si-nai).
Nhưng sự hiểu biết sâu sắc về bản tánh của Đức Chúa Trời được thấy trong
các chương 3,6,33 và 34. Tiêu điểm các bản văn này là nhắm vào sự kiện và
tầm quan trọng sự hiện diện của Chúa (như ý nghĩa của danh Yahweh và
vinh hiển của Ngài), nhưng cũng nhấn mạnh trên các thuộc tánh công bình,
chân thật, thương xót, thành tín và thánh khiết của Ngài. Như thế, biết “danh
Đức Chúa Trời tức là biết Ngài và biết đặc tính Ngài” (xem XuXh 3:13-15;
6:3).
Đức Chúa Trời cũng là Chúa của lịch sử, vì chẳng có ai giống như Ngài
“trong sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài, đáng sợ, đáng khen, hay
làm các phép lạ” (15:11). Chẳng hề có sự khốn khổ nào của dân Y-sơ-ra-ên,
cũng không có tai vạ nào giáng trên Ai Cập ở ngoài tầm kiểm soát của Chúa.
Pha-ra-ôn, người Ai Cập và dân Y-sơ-ra-ên đều thấy quyền năng của Đức
Chúa Trời .
Thật vững lòng khi biết Đức Chúa Trời nhớ và quan tâm đến dân sự của
Ngài (xem 2:24). Điều Ngài đã hứa hàng mấy thế kỷ trước với Áp-ra-ham,
Y-sác và Gia-cốp bây giờ Ngài khởi sự đem lại kết quả như Y-sơ-ra-ên được
giải phóng khỏi sự nô lệ Ai Cập và lên đường vào đất hứa. Giao ước tại Si-
nai là một bước khác trong sự ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời hứa cùng các
tổ phụ (3:15-17; 6:2-8; 19:3-8).
Cũng một lẽ ấy, thần học về sự cứu rỗi là điểm nhấn mạnh trong cả sách.
Động từ “cứu chuộc” được dùng trong 6:6; 15:13. Nhưng trung tâm của thần
học cứu chuộc được thấy rõ nhất trong chuyện lễ Vượt Qua ở 12:1-51 và sự
niêm ấn giao ước trong 24:1-18. Sứ đồ Phao-lô nhìn thấy sự chết của chiên
con lễ Vượt Qua được ứng nghiệm trong Chúa Cứu thế (ICo1Cr 5:7). Thật
thế, Giăng Báp Tít đã gọi Chúa Giê-xu là “Chiên con của Đức Chúa Trời,
Người tẩy sạch tội lỗi nhân loại” (GiGa 1:29).
Nền tảng luân lý và đạo đức Thánh Kinh được trình bày trước hết trong bản
tính nhân từ của Đức Chúa Trời như đã bày tỏ trong chính cuộc xuất hành và
kế đó trong Mười Điều Răn (XuXh 20:1-17) cũng như các sắc lệnh của sách
Giao ước (XuXh 20:22-23:33), dạy dân Y-sơ-ra-ên cách áp dụng thực tiễn
những nguyên tắc của các mạng lệnh.
Sách kết thúc với sự thảo luận kỹ lưỡng về thần học thờ phượng. Dầu tốn thì
giờ, công sức và giá trị tiền bạc, Đền tạm, trong ý nghĩa và chức năng, chỉ rõ
cứu cánh chủ yếu của con người là: “Làm sáng danh Đức Chúa Trời và vui
hưởng trong Ngài mãi mãi” (Giáo lý Westminster tóm tắt). Nhờ Đền tạm,
Đức Chúa Trời toàn năng, bất biến và siêu nghiệm của cả vũ trụ đã đến “ở”
và “đóng trại tạm thời” giữa dân Ngài, do đó cũng bày tỏ rõ ràng sự thân cận
đầy ân điển của Chúa. Đức Chúa Trời không chỉ toàn năng vì cớ dân Y-sơ-
ra-ên, mà Ngài cũng hiện diện ở giữa họ nữa.
Tuy nhiên, những yếu tố thần học không phải chỉ ở cạnh nhau trong câu
chuyện xuất hành. Những yếu tố đó còn nhận ý nghĩa phong phú và đầy đủ
nhất từ sự kiện được gắn liền vào câu chuyện Đức Chúa Trời dấy lên tôi tớ
Ngài là Môi-se (1) để giải phóng tuyển dân Ngài khỏi vòng nô lệ Ai Cập, (2)
mở đầu vương quốc trên đất của Ngài giữa vòng họ bằng cách đem họ vào
giao ước quốc gia đặc biệt với Ngài và (3) dựng Vương trại của Đức Chúa
Trời trong Y-sơ-ra-ên. Câu chuyện cứu chuộc khỏi vòng nô lệ này dẫn đến
Vương trại của Đức Chúa Trời trên đất. Tất cả suốt qua chức vụ của vị
Trung bảo được chọn, tiết lộ mục đích của Đức Chúa Trời trong lịch sử -
mục đích mà Ngài sẽ làm ứng nghiệm qua dân Y-sơ-ra-ên, và cuối cùng qua
Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Trung bảo tối cao vậy.
Bố cục:
I. Sự Cứu chuộc Thiên thượng (XuXh 1:1-18:27)
A. Sự “sinh sôi thêm nhiều” được ứng nghiệm (1:1-22)
1. Sự tăng thêm như đã hứa (1:1-7)
2. Cuộc tàn sát thứ nhất (1:8-14)
3. Cuộc tàn sát thứ hai (1:15-21)
4. Cuộc tàn sát thứ ba (1:22)
B. Chuẩn bị cho sự giải phóng (2:1-4:26)
1. Chuẩn bị một nhà lãnh đạo (2:1-10)
2. Tăng thêm thời gian chuẩn bị (2:11-22)
3. Chuẩn bị dân chúng (2:23-25)
4. Kêu gọi “Người giải phóng” (3:1-10)
5. Trả lời những phản đối không thích đáng (3:11-4:17)
6. Chuẩn bị một gia đình Nhà lãnh đạo (4:18-26)
C. Những việc đầu tiên trong việc lãnh đạo (4:27-7:5)
1. Được tăng cường bởi anh em (4:27-31)
2. Cự tuyệt bởi các kẻ thù nghịch (5:1-14)
3. Cự tuyệt bởi những người đồng cảnh ngộ nô lệ (5:15-21)
4. Những phản đối cũ lại đến (5:22-23)
5. Được tăng cường bởi danh Đức Chúa Trời (6:1-8)
6. Được nhắc nhở về những căn nguyên hèn hạ (6:9-7:5)
D. Đoán phạt và cứu rỗi qua các tai vạ (7:6-11:10)
1. Giới thiệu các dấu chỉ thẩm quyền thiên thượng (7:6-13)
2. Tai vạ thứ nhất : nước biến thành máu (7:14-24)
3. Tai vạ thứ hai: Ếch nhái (7:25-8:15)
4. Tai vạ thứ ba: Muỗi (8:16-19)
5. Tai vạ thứ tư : Ruồi mòng (8:20-32)
6. Tai vạ thứ năm: Dịch súc vật (9:1-7)
7. Tai vạ thứ sáu: Ghẻ chốc (9:8-12)
8. Tai vạ thứ bảy: Mưa đá (9:13-35)
9. Tai vạ thứ tám: Châu chấu (10:1-20)
10. Tai vạ thứ chín: Tối tăm (10:21-29)
11.Báo trước tai vạ thứ mười: Sự chết của con đầu lòng (11:1-10)
E. Lễ Vượt Qua (12:1-28)
1. Chuẩn bị cho lễ Vượt Qua (12:1-13)
2. Chuẩn bị lễ Bánh không men (12:14-20)
3. Cử hành lễ Vượt-qua (12:21-28)
F. Sự xuất hành từ Ai Cập (12:29-51)
1. Sự chết lúc nửa đêm (12:29-32)
2. Trục xuất khỏi Ai Cập (12:33-42)
3. Những điều luật về lễ Vượt Qua (12:43-51)
G. Sự dâng hiến con đầu lòng (13:1-16)
H. Vượt qua Biển Đỏ (13:17-15:21)
1. Vào đồng vắng (13:17-22)
2. Tại Biển Đỏ (14:1-14)
3. Vượt qua Biển Đỏ (14:15-31)
4. Bài ca tại biển (15:1-21)
I. Hành trình tới Si-nai (15:22-18:27)
1. Nước tại Ma-ra (15:22-27)
2. Ma-na và chim cút (16:1-36)
3. Nước tại Mê-ri-ba (17:1-7)
4. Chiến trận với A-ma-léc (17:8-16)
5. Sự khôn ngoan của Giê-trô (18:1-27)
II. Giao ước tại Si-nai (19:1-24:18)
A. Giao ước được đề xuất (19:1-25)
B. Mười điều răn (20:1-17)
C. Phản ứng của dân chúng đối với sự hiện diện bằng lửa của Đức Chúa Trời
(20:18-21)
D. Sách của Giao ước (20:22-23:33)
1. Lời mở đầu (20:22-26)
2. Luật về tôi mọi (21:1-11)
3. Luật về tội sát nhân (21:12-17)
4. Luật về gây thương tích thân xác (21:18-32)
5. Luật về thiệt hại của cải riêng (21:33-22:15)
6. Luật về xã hội (22:16-31)
7. Luật về sự công bình và láng giềng (23:1-9)
8. Luật về các mùa lễ thánh (23:10-19)
9. Lời kết thúc (23:20-33)
E. Sự phê chuẩn giao ước (24:1-18)
III. Sự thờ phượng Thiên thượng (25:1-40:38)
A. Những huấn thị về Đền tạm (25:1-31:18)
1. Sự quyên góp vật liệu (25:1-9)
2. Rương giao ước và nắp thi ân (25:10-22)
3. Bàn bánh Trần thiết (25:23-30)
4. Chân đèn (25:31-40)
5. Màn chắn và khung (26:1-37)
6. Bàn thờ Của lễ thiêu (27:1-8)
7. Hành lang (27:9-19)
8. Chức vụ tế lễ (27:20-28:5)
9. Áo thầy tế lễ (28:6-43)
10. Lễ tấn phong thầy tế lễ (29:1-46)
11. Bàn thờ xông hương (30:1-10)
12. Thuế đinh (30:11-16)
13. Thùng bằng đồng (30:17-21)
14. Dầu xức và hương liệu (30:22-38)
15. Chỉ định những thợ khéo (31:1-11)
16. Nghỉ ngày Sa-bát (31:12-18)
B. Sự thờ phượng sai lạc (32:1-34:35)
1. Bò con vàng (32:1-29)
2. Sự hòa giải của Môi-se (32:30-35)
3. Sự hăm dọa ly khai và lời cầu thay của Môi-se (33:1-23)
4. Sự tái lập giao ước (34:1-35)
C. Xây dựng Đền tạm (35:1-40:38)
1. Kêu gọi xây dựng (35:1-19)
2. Những của dâng tình nguyện (35:20-29)
3. Bết-sa-lê-ên và các công nhân của người (35:30-36:7)
4. Công tác tiến triển (36:8-39:31)
5. Lời chúc phước của Môi-se (39:32-43)
6. Dựng Đền tạm (40:1-33)
7. Lễ Khánh thành Đền Tạm (40:34-38)
Dẫn nhập Lê-vi ký
Trước giả và niên hiệu:
Xem chú thích ở LeLv 1:1 và Phần dẫn nhập Sáng-thế-ký: Trước Giả và
Niên Hiệu Chép Sách.
Nhan đề:
Sách Lê-vi ký được đặt tên từ bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp)
và có nghĩa “sự liên hệ tới người Lê-vi”. Nhan đề Hê-bơ-rơ Wayyiqra’, là
chữ đầu trong bản văn Hê-bơ-rơ, và có nghĩa “và Chúa (tức là Đức Giê-hô-
va) đã gọi”. Dầu Lê-vi ký không chỉ giải quyết những phận sự của người Lê-
vi, nhưng sách được gọi bằng tên đó vì quan tâm chủ yếu đến sự phục vụ thờ
phượng tại Đền Tạm, được điều hành bởi các thầy tế lễ là các con trai A-rôn
và được nhiều người còn lại thuộc chi phái Lê-vi phụ tiếp. Xuất Ê-díp-tô ký
ghi chỉ thị xây dựng Đền Tạm, và bây giờ Lê-vi ký ghi luật pháp và những
qui định thờ phượng kể cả những chỉ thị về sự tinh sạch theo lễ nghi, luật
đạo đức, những ngày thánh, năm Sa-bát và năm Hân hỉ. Những luật pháp đã
được ban bố, ít nhất là phần lớn, trong năm dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại núi
Si-nai, khi Đức Chúa Trời chỉ đạo Môi-se việc tổ chức sự thờ phượng của
Y-sơ-ra-ên, sự cai quản và lực lượng quân sự của Y-sơ-ra-ên. Sách Dân-số-
ký tiếp tục lịch sử với những chuẩn bị việc tiếp tục di chuyển từ núi Si-nai
đến xứ Ca-na-an.
Chủ đề:
Tư tưởng chủ yếu của Lê-vi ký là sự thánh khiết (xem chú thích ở 11:44) -
sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và con người (con người phải tôn kính
Đức Chúa Trời trong “sự thánh khiết”). Trong Lê-vi ký sự thánh khiết thuộc
linh được tiêu biểu bằng sự trọn vẹn thuộc thể. Do đó sách đòi hỏi những thú
vật toàn vẹn làm của lễ (1:1-7:38), đòi hỏi các thầy tế lễ không có dị dạng
(8:1-10:20). Một phụ nữ xuất huyết sau khi sanh con (làm băng) (12:1-8),
mụn nhọt, vết phỏng hoặc hói (13:1-14:57), người nam bị bệnh bạch trược
(15:1-18), những việc liên quan đến thời kỳ người nữ có kinh nguyệt (15:19-
33) - mọi dấu hiệu tật nguyền (không toàn vẹn) có thể tiêu biểu cho nhược
điểm thuộc linh của người nam, phá vỡ sự toàn vẹn thuộc linh. Người có
bịnh ngoài da thấy được phải bị đuổi ra ngoài trại quân, nơi có sự hiện diện
đặc biệt của Đức Chúa Trời, như A-đam và Ê-va bị trục xuất khỏi vườn Ê-
đen. Người như thế có thể trở lại trại quân (và đến sự hiện diện của Đức
Chúa Trời) khi được các thầy tế lễ khám nghiệm và tuyên bố đã lành lặn.
Tuy nhiên, trước khi người có thể trở vào lại trại quân, người ấy phải dâng lễ
vật toàn vẹn như lịnh truyền (tượng trưng sinh tế toàn hảo của Chúa Cứu
Thế).
Sau giao ước tại Si-nai, Y-sơ-ra-ên là Đại diện vương quốc Đức Chúa Trời
trên đất (chế độ Thần quyền), và vua của họ tức Đức Giê-hô-va thiết lập nền
hành chánh của Chúa trên toàn bộ cuộc sống Y-sơ-ra-ên. Nếp sống riêng tư
cộng đồng và tôn giáo của Y-sơ-ra-ên được qui định như vậy để lập họ làm
dân thánh của Đức Chúa Trời và để dạy họ sự thánh khiết. Chúa đặc biệt chú
ý việc ban cho Y-sơ-ra-ên nghi lễ tôn giáo. Các sinh tế phải dâng ở nơi thánh
được chấp thuận, tượng trưng cả sự thánh khiết và thương xót của Thượng
Đế. Các sinh tế phải được thầy tế lễ, là những người bởi sự chăm sóc và chỉ
thị sẽ bảo toàn sinh tế trong sự thánh khiết, kiểm soát và cẩn thận dạy cho
dân chúng biết ý nghĩa của sinh tế. Mỗi sinh tế đặc biệt phải có ý nghĩa cho
dân Y-sơ-ra-ên nhưng cũng có nội dung tượng trưng và thuộc linh.
Muốn thêm chi tiết về ý nghĩa lễ vật nói chung, xin xem nghi lễ trang
nghiêm của Ngày Đại Lễ Chuộc Tội (16:1-34). Về ý nghĩa huyết của lễ vật
xem 17:11; SaSt 9:4. Về nhấn mạnh sự thay thế, xem LeLv 16:21.
Có người giả định rằng những sinh tế Cựu Ước là những thứ còn lại của lễ
vật nông nghiệp xưa - một người muốn dâng một phần các của cải như là
tặng phẩm thương yêu cho thần linh. Nhưng những lễ vật Cựu Ước được
Đức Chúa Trời đặc biệt qui định và nhận ý nghĩa của nó từ sự liên hệ giao
ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên - dù là bề ngoài có giống như những của lễ
ngoại giáo. Quả thật những lễ vật có hàm ý tặng phẩm, nhưng cũng kèm
theo các giá trị khác như phụng hiến, thông công, tế lễ vãn hồi (làm nguôi
cơn giận công bằng của Đức Chúa Trời nghịch với tội) và bồi thường. Các lễ
vật khác nhau có các chức năng khác nhau mà chức năng chính là chuộc tội
(xem chú thích ở XuXh 25:17) và thờ phượng.
Bố cục:
Những chủ đề luận đến trong Lê-vi ký, như bất cứ sách luật pháp và điều lệ
nào đều bao hàm nhiều phạm trù:
I. Năm tế lễ chính (LeLv 1:1-7:38)
A. Nội dung, mục đích và kiểu cách của tế lễ (1:1-6:7)
B. Những điều lệ phụ thêm (6:8-7:38)
II. Sự tấn phong, thiết lập và công tác của A-rôn và các con trai người (8:1-
10:20)
III. Luật về sự tinh sạch - thực phẩm, sinh đẻ và nhiễm độc v.v... (11:1-
15:33)
IV. Ngày Đại lễ chuộc tội và vị trí trung tâm của sự thờ phượng tại Đền Tạm
(16:1-17:16)
V. Sự giải thích luật đạo đức: tội loạn luân, tính lương thiện, trộm cắp, thờ
hình tượng,v.v... (18:1-20:27)
VI. Những qui định cho các thầy tế lễ, những sinh tế và các lễ hằng năm
(21:1-24:9).
VII. Hình phạt tội phạm thượng, sát nhân v.v... (24:10-23)
VIII. Năm Sa-bát, Năm Hân hỉ, Đất phát canh và cải cách chế độ nô lệ
(25:1-55)
IX. Những phúc lành và rủa sả đối với sự tuân thủ và bất tuân giao ước
(26:1-46)
X. Các điều lệ về lễ vật hứa nguyện dâng Chúa (27:1-34)
Dẫn nhập Dân số ký
Nhan đề:
Tên tiếng Anh của sách đến từ bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy
Lạp) và được căn cứ trên các bản liệt kê kiểm tra dân số trong các Dan Ds
1:1-54 và 26:1-65. Nhan đề sách bằng tiếng Hê-bơ-rơ (bemidbar, “trong
đồng vắng”) mô tả nội dung của sách nhiều hơn. Dân số ký trình bày câu
chuyện dân Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong đồng hoang 38 năm sau khi thiết lập
giao ước Si-nai (so sánh 1:1 với PhuDnl 1:1).
Trước giả và niên đại:
Theo truyền thuyết sách được Môi-se chép. Kết luận này căn cứ trên (1)
Những lời phát biểu về hoạt động viết sách của Môi-se (thí dụ, Dan Ds 33:1-
2; XuXh 17:14; 24:4; 34:27) và (2) Sự thừa nhận năm sách đầu tiên của
Thánh Kinh (Ngũ kinh) là một và do một trước giả. Xem Phần giới thiệu
Sáng thế ký: Trước giả và Niên đại Chép sách.
Tuy nhiên không cần phải nhận rằng: toàn bộ Dân số ký do chính tay Môi-se
viết, và trong hình thức cuối cùng. Có các phần của sách có lẽ đã được thêm
vào bởi các viên ký lục và các chủ biên vào những thời kỳ sau này của lịch
sử Y-sơ-ra-ên. Thí dụ, sự long trọng xác nhận tánh khiêm hòa của Môi-se
(Dan Ds 12:3) thật khó thuyết phục nếu đến từ chính miệng Môi-se. Nhưng
dường như hợp lý để chắc chắn rằng Môi-se đã viết nội dung chính yếu của
sách.
Nội dung:
Dân số ký thuật lại câu chuyện hành trình của Y-sơ-ra-ên từ núi Si-nai đến
những đồng bằng Mô-áp trên biên giới xứ Ca-na-an. Phần lớn sự ban hành
luật pháp cho dân chúng và thầy tế lễ đều tương tự như trong Xuất Ê-díp-tô
ký, Lê-vi-ký và Phục truyền luật lệ ký. Sách nói về sự lằm bằm và phản loạn
của dân Chúa và về sự đoán phạt theo sau đó. Những người mà Chúa đã cứu
chuộc khỏi ách nô lệ xứ Ê-díp-tô và Chúa đã lập giao ước với họ tại núi Si-
nai, đã không đáp ứng bằng đức tin, lòng biết ơn và thuận phục, nhưng bằng
sự vô tín, vong ân và tái diễn những hành động loạn nghịch, đến mức đã
biểu thị cực độ trong sự từ chối chinh phục xứ Ca-na-an (14:1-45). Cộng
đồng người được chuộc để mất phần của họ trong Đất hứa. Họ bị phạt phải
sống ngoài đồng hoang, chỉ con cháu họ được hưởng sự ứng nghiệm lời hứa
mà nguyên là thuộc về họ (xem HeDt 3:7-4:11).
Sự dạy dỗ về thần học:
Trong khi thuật chuyện Y-sơ-ra-ên lang thang trong đồng hoang, Dân số ký
cống hiến nhiều điều có ý nghĩa thần học. Trong năm đầu tiên, sau khi được
phóng thích khỏi Ê-díp-tô, Y-sơ-ra-ên bước vào giao ước với Chúa tại Si-nai
để làm dân thuộc vương quốc của Ngài. Chúa đóng vương trại Ngài ở giữa
họ (Đền Tạm) - Đây là câu chuyện của Xuất Ê-díp-tô ký. Khi câu chuyện
Dân số ký bắt đầu, Đức Giê-hô-va tổ chức Y-sơ-ra-ên thành một doanh trại
quân đội. Rời Si-nai, Y-sơ-ra-ên tiến tới như một đạo quân chinh phục, với
Đức Giê-hô-va đứng đầu, để lập vương quốc của Ngài trong Đất Hứa, giữa
các dân tộc. Sách mô tả cách sinh động đặc tính của Y-sơ-ra-ên là dân giao
ước được cứu chuộc của Chúa, và được gọi đến làm một dân phục vụ Đức
Chúa Trời, đảm trách việc lập vương quốc Ngài trên đất. Mục đích của Đức
Chúa Trời trong lịch sử được bày tỏ rõ rệt: để tràn chiếm phạm vi hoạt động
của nhân loại sa ngã và thực hiện sự cứu chuộc tạo vật của Chúa - sứ mạng
mà dân Ngài cũng phải hoàn toàn cam kết.
Dân số ký cũng trình bày cơn giận của Đức Chúa Trời nghịch lại dân không
vâng phục của Chúa. Vì cớ sự loạn nghịch (đặc biệt là từ chối chinh phục xứ
Ca-na-an), Y-sơ-ra-ên đã vi phạm giao ước. Sách thứ tư của Ngũ kinh trình
bày một sự thật đúng mức: Đức Chúa Trời, Đấng đã lập giao ước với Áp-ra-
ham (SaSt 15:1-21; 17:1-27), đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ trong
cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô (XuXh 14:1-15:27), đã đem Y-sơ-ra-ên vào
giao ước với chính Ngài làm “sở hữu qúi giá” thuộc riêng về Ngài (XuXh
19:1-22, đặc biệt 19:5), và đã bày tỏ sự thánh khiết của Ngài và phương
pháp ân điển đến gần Ngài (LeLv 1:1-7:38), cũng là Đức Chúa Trời của sự
thạnh nộ. Cơn giận của Chúa giáng trên những con lầm lạc cũng như trên
các nước thù nghịch là Ê-díp-tô và Ca-na-an.
Thậm chí cả Môi-se, tiên tri và tôi tớ quan trọng của Chúa cũng không được
miễn trừ khỏi cơn giận của Chúa khi ông bất tuân lời Ngài. Dan Ds 20:1-29
ghi chép lỗi lầm của ông, khởi sự với sự qua đời của Mi-ri-am (20:1) và kết
thúc với sự qua đời của A-rôn (20:22-29). Đây là sự qua đi của những chiến
sĩ kỳ cựu. Những người mà Chúa đã dùng lập quốc gia đang chết trước khi
được gia nhập quốc gia đó.
Những thắc mắc nêu lên là: Đức Chúa Trời có hoàn toàn từ bỏ dân Ngài
không (xem RoRm 11:1)? Những lời hứa của Chúa chỉ là việc của quá khứ
rồi chăng? Tại một trong các phần Thánh Kinh đáng chú ý - câu chuyện Ba-
la-am, nhà bói khoa ngoại giáo (Dan Ds 22:1-24:25) - có lời đáp rõ ràng.
Đức Giê-hô-va đang hành động bằng đường lối thần hựu và trực tiếp, tuyên
bố Chúa vẫn thành tín với mục đích của Ngài đối với dân của Ngài mặc dầu
họ thất tín với Ngài.
Ba-la-am là câu trả lời của Mô-áp cho Môi-se, người của Đức Chúa Trời.
Ba-la-am là vị tiên tri nổi tiếng trong thế giới xưa đã chia sẻ niềm tin ngoại
giáo rằng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên giống như các thần khác có thể
điều động bằng ma thuật hay phù phép. Nhưng từ đầu câu chuyện, khi Ba-la-
am lần đầu tiên chạm trán với Đức Chúa Trời Chân thần trong các dị tượng,
và trong chuyện hành trình trên lưng lừa (22:1-41), ông khởi sự học biết
rằng đối phó với Đức Chúa Trời Chân thần hoàn toàn khác hẳn với những gì
ông đã từng biết. Khi ông cố gắng rủa sả Y-sơ-ra-ên theo lời đốc thúc của
Ba-lác, vua Mô-áp, Ba-la-am thấy miệng mình không thể thốt ra lời nguyền
rủa mà người muốn công bố. Thay vào đó, từ môi miệng ông những phước
lành đến trên Y-sơ-ra-ên và lời nguyền rủa đến trên kẻ thù của dân ấy (23:1-
24:25).
Trong bảy lời sấm, Ba-la-am công bố Đức Chúa Trời ban phước lớn cho dân
Ngài (xem 23:20). Dầu sự hưởng phước lành trực tiếp sẽ luôn luôn tùy thuộc
vào sự trung tín của dân Ngài, nhưng sự thực hiện cơ bản phước lành của
Đức Chúa Trời là chắc chắn - vì bản tánh của Đức Chúa Trời (xem 23:19).
Như thế, Dân số ký tái xác quyết những mục đích đang tiến hành của Đức
Chúa Trời. Mặc dầu Chúa đoán phạt dân phản loạn, Ngài vẫn quyết tâm đem
Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa. Phước lành Chúa ban cho phần còn lại của Y-sơ-
ra-ên dựa trên ý chỉ tối cao Ngài.
Sự dạy dỗ của sách là ý nghĩa sau cùng đối với dân Y-sơ-ra-ên và Hội thánh
(so RoRm 15:4; ICo1Cr 10:6,11). Đức Chúa Trời bày tỏ cơn giận nghịch
cùng dân sai lạc, nhưng ân điển của Ngài đã phục hồi chắc chắn như buổi
đầu và mục đích cứu chuộc của Ngài sẽ không bị phá hỏng.
Vấn đề đặc biệt:
Những con số lớn người nhập ngũ trong đạo binh Y-sơ-ra-ên làm rối trí các
họ giả hiện đại (xem thí dụ, những con số trong Dan Ds 1:46; 26:51). Những
nam đinh họp lại để chiến trận đòi hỏi một tổng số dân trên 2 triệu người.
Những con số như vậy thật quá lớn cho thời đó, cho nơi xảy ra sự việc, cho
việc lang thang nơi đồng hoang và so sánh với dân cư trong Ca-na-an. Xem
chú thích ở 3:43.
Có những khả năng khác nhau được gợi ý để giải quyết vấn đề. Có người
nghĩ rằng các con số khi truyền lại đã sai lạc. Tuy nhiên, bản văn hiện nay
không để lộ ra những khó khăn về những con số.
Một số người khác nghĩ rằng từ Hê-bơ-rơ dùng cho “ngàn” ở đây có thể có ý
nghĩa khác với ý nghĩa thông thường của nó. Thí dụ, trong vài phân đoạn,
chữ này là danh từ kỹ thuật dùng cho một hội đoàn người nam có thể hoặc
xấp xỉ 1.000 (thí dụ, Gios Gs 22:14 “trưởng tộc của hàng ngàn” (chi họ gia
tộc), ISa1Sm 23:23, “thị tộc”). Hơn nữa có người mặc nhận rằng từ Hê-bơ-
rơ này có nghĩa là “trưởng tộc” (như trong SaSt 36:15). Bằng cách này con
số 53.400 (Dan Ds 26:47) sẽ có nghĩa là “53 trưởng tộc cộng với 400
người”. Theo phương thức đó sẽ dẫn đến một tổng số giảm sút rất nhiều,
nhưng nó cũng không ăn khớp với sự kiện là bản văn Hê-bơ-rơ thêm “hàng
ngàn” cũng như cách thêm “hàng trăm” cho một tổng số lớn. Lại nữa, điều
này sẽ làm cho sự cân đối các trưởng tộc với những nam đinh chiến đấu trở
thành đầu nặng đuôi nhẹ (59 trưởng tộc cho 300 nam đinh trong chi phái Si-
mê-ôn).
Một nhiệm ý khác là đọc từ Hê-bơ-rơ dùng cho “ngàn” với một nghĩa kép
vừa là “trưởng tộc” vừa là “ngàn” với những trưởng tộc là một, trừ khỏi số
đã được ghi nhận. Thí dụ, 46.500 trong chi phái Ru-bên (1:20), thì đọc là 45
trưởng tộc với 1.500 nam đinh chiến đấu. 59.300 thuộc chi phái Si-mê-ôn (1:
23) thì đọc là 58 trưởng tộc và 1.300 nam đinh chiến đấu v.v… Nhưng trong
trường hợp này, cũng như trường hợp trên, những tổng số của 1:46 và 2:32
phải được coi là những kiến thức sai lầm (có lẽ bởi các ký lục đời sau).
Cũng còn một lối đề cập khác là coi các con số chỉ là số tượng trưng chớ
không phải hoàn toàn theo toán học. Giá trị số mục của các chữ cái Hê-bơ-rơ
trong thành ngữ bene yisra’el (“cộng đồng Y-sơ-ra-ên”, 1:2) là 603 ( số hàng
ngàn người nam chiến đấu, 1:46), số còn lại là 550 (cộng 1 cho Môi-se) có
thể đạt đến số tương đương với những chữ cái Hê-bơ-rơ trong thành ngữ
“tức là mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được” (1:3). Lối dùng số
biểu tượng này (gọi là “gematria”) không phải Thánh Kinh không biết tới
(xem KhKh 13:18), nhưng không chắc đúng vậy trong Dân số ký, trong đó
không hề có manh mối văn học nào chỉ về hướng đó.
Trong khi vấn đề con số lớn không thể giải quyết thỏa đáng, Thánh Kinh
thật chỉ thẳng vào sự gia tăng đáng kể của dòng dõi Gia-cốp qua bốn thế kỷ
kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô (xem XuXh 1:7-12). Với tất cả những khó khăn các
con số này cũng chỉ đến vai trò quan trọng của thần hựu và những phép lạ
Đức Chúa Trời tiếp xúc với dân Ngài trong khi họ lưu lạc trong đồng hoang
(xem chú thích ở Dan Ds 1:46).
Cấu trúc và bố cục:
Sách có ba phần chính căn cứ vào những vị trí địa lý của Y-sơ-ra-ên. Mỗi
phần lại có hai phần nhỏ, như chứng minh sau đây: (1) Y-sơ-ra-ên tại Si-nai,
chuẩn bị khởi hành vào Đất Hứa (1:1-10:10), tiếp theo là cuộc hành trình từ
Si-nai đến Ca-đe (10:11-12:16). (2) Y-sơ-ra-ên tại Ca-đe, sự chậm trễ là kết
quả của sự phản loạn (13:1-20:13), tiếp theo là cuộc hành trình từ Ca-đe đến
các đồng bằng Mô-áp (20:14-22:1). (3) Y-sơ-ra-ên tại đồng bằng Mô-áp, trù
liệu chinh phục Đất Hứa (22:2-32:42), tiếp theo là những phụ đính về các
vấn đề khác nhau (33:1-36:13)
I. Y-sơ-ra-ên tại Si-nai. Chuẩn bị khởi hành vào Đất Hứa (1:1-10:10)
A. Các mệnh lệnh kiểm tra dân số (1:1-4:49)
1. Số người nam từ mọi chi phái tập hợp để ra trận (1:1-54)
2. Sự sắp đặt các chi phái ở chung quanh Đền Tạm và thứ tự tiến hành (2:1-
34)
3. Sự sắp đặt những người Lê-vi quanh Đền Tạm, và số người Lê-vi cùng
các con đầu lòng Y-sơ-ra-ên (3:1-51)
4. Số người Lê-vi ở trong Đền Tạm phục vụ Đức Giê-hô-va (4:1-49)
B. Các mạng lịnh về sự thanh tẩy dân sự (5:1-10:10)
1. Thử nghiệm về sự trong sạch trong luật về ghen tương (5:1-31)
2. Hứa nguyện Na-xi-rê và sự chúc phước của A-rôn (6:1-27)
3. Tế lễ của 12 quan trưởng tại lễ Khánh thành Đền Tạm (7:1-69)
4. Sắp đặt đèn và sự biệt riêng người Lê-vi (8:1-26)
5. Giữ Lễ Vượt qua (9:1-14)
6. Trụ mây bao phủ và những ống loa bằng bạc (9:15-10:10)
II. Hành trình từ Si-nai đến Ca-đe (10:11-12:16)
A. Khởi sự cuộc hành trình (10:11-36)
B. Khởi sự những buồn thảm: Lửa và chim cút (11:1-35)
C. Sự phản đối của Mi-ri-am và A-rôn (12:1-16)
III. Y-sơ-ra-ên ở Ca-đe, sự chậm trễ do việc phản loạn (13:1-20:13)
A. Mười hai thám tử và những báo cáo hỗn hợp về Đất Lành (13:1-33) .
B. Sự phản loạn của dân sự nghịch cùng mạng lịnh của Đức Chúa Trời, và
sự thất bại của họ (14:1-45)
C. Bộ luật về các tế lễ, ngày Sa-bát và tua áo (15:1-41)
D. Sự phản loạn của Cô-rê và đồng bọn (16:1-49)
E. Cây gậy trổ hoa của A-rôn: một dấu của sự phản loạn (17:1-13)
F. Về các thầy tế lễ, nghĩa vụ và sự cấp dưỡng họ (18:1-32)
G. Con bò sắc hoe và nước tẩy uế (19:1-32)
H. Tội của Môi-se (20:1-13)
IV. Hành trình từ Ca-đe đến đồng bằng xứ Mô-áp (20:14-22:1)
A. Sự kháng cự của Ê-đôm (20:14-21)
B. Sự qua đời của A-rôn (20:22-29)
C. Hủy diệt vua A-rát (21:1-3)
D. Con rắn đồng (21:4-9)
E. Bài ca bên giếng (21:10-20)
F. Sự thất bại của Si-hôn và Óc (21:21-30)
G. Y-sơ-ra-ên vào xứ Mô-áp (21:31-22:1)
V. Y-sơ-ra-ên tại đồng bằng Mô-áp, dự định chiếm Đất Hứa (22:2-32:42)
A. Ba-lác, Vua Mô-áp thuê Ba-la-am rủa sả Y-sơ-ra-ên (22:2-41)
B. Ba-la-am chúc phước cho Y-sơ-ra-ên trong bảy lời sấm (23:1-24:25)
C. Ba-anh Phê-ô và sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên (25:1-18)
D. Kiểm tra dân số lần thứ hai (26:1-65)
E. Những chỉ thị cho thế hệ mới (27:1-30:17)
1. Sản nghiệp cho phụ nữ (27:1-11)
2. Người kế vị Môi-se (27:12-23)
3. Những mạng lịnh về các sinh tế (28:1-15)
4. Mạng lịnh về các ngày lễ (28:16-29:40)
5. Mạng lịnh về những lời hứa nguyện (30:1-17)
F. Chiến trận nghịch cùng dân Ma-đi-an (31:1-54)
G. Định cư các chi phái bên kia sông Giô-đanh (32:1-42)
VI. Những phụ đính về các vấn đề khác nhau (33:1-36:13)
A. Những giai đoạn của cuộc hành trình (33:1-56)
B. Xứ sản nghiệp (34:1-35:34)
C. Sản nghiệp cho phụ nữ (36:1-13)
Dẫn nhập Phục Truyền Luật Lệ ký
Nhan đề:
Từ ngữ “Phục truyền luật lệ ký” nghĩa là “Lặp lại luật pháp” là tên sách cuối
cùng của Ngũ Kinh, xuất phát từ sự dịch sai của bản LXX Hy Lạp và bản
Vulgate La-tinh về một nhóm từ trong PhuDnl 17:18, mà trong tiếng Hê-bơ-
rơ có nghĩa “bản sao luật pháp này”. Tuy nhiên sự lầm lẫn này không
nghiêm trọng, vì Phục truyền luật lệ ký, theo một ý nghĩa, là sự lặp lại luật
pháp (xem cấu trúc và bố cục). Tên Hê-bơ-rơ của sách là “elleh haddebarim”
(“này là những lời”), hoặc đơn giản hơn, “debarim” (“những lời” xem 1:1).
Trước giả:
Chính sách nầy làm chứng rằng, phần lớn do Môi-se đã viết (1:5;
31:9,22,24) và các sách Cựu Ước khác đều đồng ý (IVua 1V 2:3; 8:53;
IIVua 2V 14:6; 18:2) - dĩ nhiên lời mở đầu (PhuDnl 1:1-5) và sự ghi nhận về
Môi-se qua đời (34:1-12), là do một người khác viết. Chúa Giê-xu cũng làm
chứng thẩm quyền của Môi-se (Mat Mt 19:7-8; Mac Mc 10:3-5; GiGa 5:46-
47), các trước giả Tân Ước khác cũng vậy (Cong Cv 3:22-23; 7:37-38;
RoRm 10:19). Hơn nữa, Chúa Giê-xu viện dẫn Phục truyền luật lệ ký như có
thẩm quyền (Mat Mt 4:4,7,10). Trong Tân Ước hơn 100 lần viện dẫn và ám
chỉ đến Phục truyền luật lệ ký. Truyền thuyết cũng nhất trí chứng cho thẩm
quyền của Môi-se đối với sách (xem thí dụ, Mac Mc 12:9). Xem Phần Dẫn
Nhập Sáng thế ký: Trước giả và Niên đại Chép Sách.
Niên hiệu:
Có lẽ sách có từ 1.406 TC (xem Phần Dẫn Nhập Sáng-thế-ký: Trước giả và
Niên hiệu Chép sách).
Bối cảnh lịch sử:
Sách Phục truyền luật lệ ký định vị trí Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên trong lãnh
thổ Mô-áp thuộc khu vực mà sông Giô-đanh đổ vào Biển Chết (PhuDnl 1:5).
Là hành động cuối cùng vào thời gian quan trọng chuyển quyền lãnh đạo
qua Giô-suê, Môi-se đọc diễn văn từ biệt để chuẩn bị cho dân chúng vào xứ
Ca-na-an. Những bài này thật là sự làm mới lại giao ước (xem Cấu trúc và
Bố cục). Trong các bài này, Môi-se nhấn mạnh rằng luật pháp là cần thiết
đặc biệt cho một thời kỳ như thế, và người trình bày luật pháp trong một
cách thích hiệp với tình huống. Trái với những việc thực tế của Lê-vi ký và
Dân số ký, sách Phục truyền luật lệ ký từ tấm lòng Môi-se đến với chúng ta
trong hình thức bài giảng bày tỏ cách riêng tư, nồng ấm.
Sự dạy dỗ thần học:
Sự liên hệ thương yêu của Chúa đối với dân Ngài và của dân sự đối với
Chúa là Đức Chúa Trời tối cao của họ lan tỏa cả sách. Sự nhấn mạnh thuộc
linh của Phục truyền và sự kêu gọi hứa nguyện dâng tất sanh cho Chúa trong
sự thờ phượng, vâng phục đã cảm thúc việc tham khảo sứ điệp của sách
trong suốt phần còn lại của Thánh Kinh.
Cấu trúc và bố cục:
Cấu trúc văn học của Phục truyền luật lệ ký yểm trợ cho bối cảnh lịch sử của
sách. Bởi sự giải thích, lặp lại, phần hồi ký, và vài chỗ văn phong bất
thường, sách bày tỏ một loạt ít nhiều bài thuyết trình ứng khẩu, đôi khi mô tả
những biến cố không theo thứ tự niên đại (xem thí dụ, PhuDnl 10:3). Nhưng
sách cũng mang cấu trúc những phê phán rõ ràng về các hòa ước bá chủ với
chư hầu của những quốc gia Cận Đông trước và đương thời bấy giờ, một cấu
trúc thích hợp với sự nhấn mạnh của Thánh Kinh về giao ước giữa Chúa và
dân Ngài. Trong ý nghĩa này, Phục truyền luật lệ ký là một tài liệu làm mới
lại (tái lập) giao ước như bố cục sau đây chứng tỏ:
I. Lời tựa (1:1-5)
II. Lời mở đầu lịch sử (1:6-4:43)
III. Những qui định của giao ước (4:44-26:19)
A. Điều luật lớn: Đòi hỏi phải tuyệt đối trung thành (4:44-11:32)
B. Những đòi hỏi phụ thêm (12:1-26:19)
1. Sự dâng hiến theo nghi lễ (12:1-16:17)
2. Những nhà lãnh đạo chính quyền và một quốc gia công chính (16:18-
21:21)
3. Tính thiêng liêng của vương quốc Đức Chúa Trời (21:22-25:19)
4. Sự xưng nhận Đức Chúa Trời là Đấng cứu chuộc - Vua ( 26:1-19)
IV. Sự phê chuẩn: Rủa sả và phước lành (27:1-30:20)
V. Sự kế vị lãnh đạo dưới giao ước (31:1-34:12)
A. Thay đổi quyền lãnh đạo (31:1-29)
B. Bài ca của Môi-se (31:30-32:47)
C. Lời chúc phước di cảo của Môi-se trên các chi phái (32:48-33:29)
D. Sự qua đời của Môi-se và sự thừa kế của Giô-suê (34:1-12)
Đôi khi sách cũng chia thành ba bài diễn văn:
I. Bài diễn văn thứ nhất (1:1-4:43)
II. Bài diễn văn thứ hai (4:44-28:68)
III. Bài diễn văn thứ ba (29:1-33:29)
IV. Sự qua đời của Môi-se (34:1-12)
Dẫn nhập Giô-suê
Nhan đề và chủ đề:
Sách Giô-suê là truyện chinh phục và ứng nghiệm đối với con dân Đức Chúa
Trời. Sau nhiều năm làm nô lệ tại Ai-cập và 40 năm trong đồng hoang, cuối
cùng dân Y-sơ-ra-ên được vào đất đã hứa với tổ phụ họ. Áp-ra-ham, luôn
luôn là người di trú, chẳng bao giờ sở hữu xứ mình đã được sai đến, nhưng
người để lại cho con cháu di sản giao ước của Đức Chúa Trời khiến họ thành
những người cuối cùng thừa-thọ cả xứ Ca-na-an (xem SaSt 15:13,16,18;
17:8). Giô-suê được vinh dự biến lời hứa thành sự thật.
Sách Giô-suê bắt đầu chỗ Phục truyền luật lệ ký kết thúc: Các chi phái Y-sơ-
ra-ên còn đóng trại bên phía đông sông Giô-đanh. Câu chuyện mở đầu với
những mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền tiến tới và vượt qua sông như
trên đất khô. Kế đó, sách thuật lại chuỗi chiến thắng ở miền Trung, Nam và
Bắc Ca-na-an, khiến Y-sơ-ra-ên kiểm soát cả miền núi và vùng Negev. Sách
tiếp tục với sự chia xứ cho các chi phái và kết thúc với lời cuối cùng của
Giô-suê tỏ cùng dân sự. Do đó, chủ đề của sách là sự thiết lập Y-sơ-ra-ên
trong Đất Hứa.
Những năm thiếu thời của đời mình, Giô-suê được gọi là Hô-sê (Dan Ds
13:8,16), có nghĩa “sự cứu rỗi”. Nhưng sau này Môi-se đổi tên người là Giô-
suê, nghĩa là “Đức Giê-hô-va cứu” (hoặc “Đức Giê-hô-va ban chiến thắng”).
Cũng tên này (theo tiếng Hy Lạp là “Giê-xu”, xem chú thích ở Mat Mt 1:21)
được đặt cho con trai đầu lòng của Ma-ri, đã trở thành Danh yêu quí hơn hết.
Trong Thánh Kinh Hê-bơ-rơ, sách Giô-suê tiên khởi một phần gọi là các
Tiền-tiên tri, gồm cả các Quan Xét, Sa-mu-ên và Các Vua - có toàn bộ nội
dung lịch sử nhưng viết theo lập trường tiên tri. Những sách đó chép nhiều
điều hơn là chỉ ghi lại sự phát triển quốc gia từ Môi-se cho đến nước Giu-đa
sụp đổ năm 586 TC. Hết thảy đều giải thích cách tiên tri về đường lối giao
ước của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên trong lịch sử - cách nào Chúa đã
ứng nghiệm và giữ vững lời hứa của Ngài (đặc biệt qua các tôi tớ Ngài là
Giô-suê, các Quan Xét, Sa-mu-ên và Đa-vít) và cách nào Chúa xử trí với sự
lầm lạc của Y-sơ-ra-ên. Trong sách Giô-suê chính Chúa đã chiến thắng và
“ban cho Y-sơ-ra-ên cả xứ Ngài thề hứa ban cho tổ phụ của họ” (Gios Gs
21:43).
Trước giả và niên đại:
Theo sự phán đoán của nhiều học giả, sách Giô-suê không được chép cho
đến cuối thời kỳ Các Vua, chừng 800 năm sau khi các sự việc thật đã xảy ra.
Nhưng có nhiều lý do để thắc mắc có ý nghĩa đối với kết luận này, và định
thời gian chép sách sớm hơn nhiều. Các truyền thuyết Do Thái sớm nhất
(Talmud) xưng nhận rằng chính Giô-suê viết sách của mình trừ phần cuối
sách về đám tang người được qui cho Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn chép (câu
cuối cùng được thêm vào bởi một vị chủ biên sau này).
Ít nhất cũng có hai trường hợp các bản văn báo cáo sự ghi chép theo lịnh của
Giô-suê hoặc chính Giô-suê viết. Khi các chi phái nhận phần đất họ, Giô-suê
truyền cho đoàn tùy tùng của mình “đi đặng lấy địa đồ của xứ” (Gios Gs
18:8). Kế đó, trong cảnh cuối của sách, khi Giô-suê lãnh đạo Y-sơ-ra-ên tái
lập giao ước với Chúa, người “truyền cho họ một luật pháp và điều răn”
(24:25). Nhưng còn trường hợp khác, người thuật câu chuyện dường như
cũng có dự phần vào sự việc xảy ra, người dùng đại danh từ “chúng tôi” và
“chúng ta” (5:1,6).
Hơn nữa, những nhận xét của trước giả đều chính xác và đúng, người hoàn
toàn thông thạo những tên cổ của các thị trấn, như “thành Giê-bu” thay vì
Giê-ru-sa-lem (15:8; 18:16,28), Ki-ri-át A-ra-ba (14:15; 15:54; 20:7; 21:11)
thay vì Hếp-rôn, và Si-đôn lớn (11:8; 19:28) thay vì về sau này chỉ gọi đơn
giản là Si-đôn. Ty-rơ chẳng bao giờ được nêu lên vì trong đời Giô-suê nơi
đó chưa phát triển thành một hải cảng thật quan trọng.
Nhưng nếu có những nét đặc trưng gợi ý chính thời Giô-suê, có những điểm
khác đưa ra vài điều thời sau đó một chút. Câu chuyện về ngày kéo dài khi
mặt trời dừng lại tại A-gia-lôn được chứng minh bởi sự dẫn chứng từ một
nguồn khác, sách Gia-sa (Gios Gs 10:13). Điều này sẽ khó tự nhiên cho
người tận mắt chứng kiến phép lạ, lại viết sau khi việc xảy ra ít lâu. Lại nữa,
cũng có 12 chỗ trước giả dùng từ “cho đến ngày nay”.
Dường như có thể yên tâm kết luận rằng sách, ít ra trong hình thức sớm nhất,
có niên hiệu khi khởi đầu nền quân chủ. Có người nghĩ rằng Sa-mu-ên có
góp phần vào việc san định và soạn tài liệu cho sách, nhưng thật sự là chúng
ta không chắc chắn ai là trước giả và người biên soạn cuối cùng.
Đời sống Giô-suê:
Đời sống đáng chú ý của Giô-suê đầy dẫy sự khích động, thay đổi, thành
công và vinh dự. Người được nổi danh vì niềm tin cậy sâu nhiệm nơi Chúa,
và như “người có thần cảm động” (Dan Ds 27:18). Thời thanh niên, người
sống qua những thực tại cay đắng trong cảnh nô lệ tại Ê-díp-tô, nhưng cũng
chứng kiến những tai vạ siêu nhiên và phép lạ Y-sơ-ra-ên thoát hiểm khỏi
đạo quân Ê-díp-tô khi nước của biển mở ra trước mặt họ. Trong bán đảo Si-
nai chính Giô-suê đã lãnh đạo quân đội Y-sơ-ra-ên chiến thắng dân A-ma-
léc (XuXh 17:8-13). Chỉ mình người được phép tháp tùng Môi-se lên Núi
Thánh, nơi hai bảng luật pháp được tiếp nhận (XuXh 24:13-14). Cũng chính
Giô-suê đứng canh giữ tại Hội mạc tạm mà Môi-se cất trước khi Đền Tạm
được dựng lên (XuXh 33:11).
Giô-suê được chọn làm đại biểu cho chính chi phái của mình là Ép-ra-im khi
12 thám tử được sai đi do thám xứ Ca-na-an. Chỉ Giô-suê và bạn của người
là Ca-lép sẵn sàng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời và trực tiếp chiếm xứ (xem
Dan Ds 14:26-34). Những người còn lại bị kết tội chết trong đồng vắng.
Thậm chí Môi-se cũng qua đời trước khi đạt mục tiêu, và được truyền bảo
phải chuyển mọi sự qua cho Giô-suê. Chúa hứa hướng dẫn và thêm sức cho
Giô-suê y như Ngài đã làm cho Môi-se (PhuDnl 31:23).
Giô-suê chứng tỏ không những chỉ là chiến lược gia quân sự trong các cuộc
chiến tiếp theo sau, nhưng còn là chính khách trong đường lối quản trị các
chi phái. Trên hết mọi sự, người là tôi tớ được chọn của Đức Chúa Trời
(xem Gios Gs 24:29 và chú thích ở PhuDnl 34:5) để đem công tác của Môi-
se đến thành tựu và thiết lập Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa. Trong vai trò đó,
người là một mẫu nổi bật trong Cựu Ước (hình bóng) về Chúa Cứu Thế
(xem HeDt 4:1,6-8).
Khung cảnh lịch sử:
Nhằm thời dân Y-sơ-ra-ên di trú vào Ca-na-an các cường quốc Cận Đông
xưa tương đối yếu. Dân Hê-tít đã suy tàn khỏi cảnh trí. Cả Ba-by-lôn lẫn Ai-
cập cũng không thể duy trì sự hiện diện quân sự tại Ca-na-an, còn người A-
si-ri mãi hàng mấy thế kỷ sau mới gửi quân đội đi.
Khi các chi phái vòng theo hướng đông Biển Chết, chỉ có đồn lũy Ê-đôm là
dám chống trả. Mô-áp buộc phải để Y-sơ-ra-ên đi ngang qua lãnh thổ và
đóng trại nơi đồng bằng của họ. Khi Óc và Si-hôn, hai vua A-mô-rít ở vùng
bên kia sông Giô-đanh cố gắng ngăn chặn Y-sơ-ra-ên, họ đã bị đánh bại dễ
dàng và đất đai bị chiếm đóng.
Các nhà khảo cổ Thánh Kinh gọi thời kỳ này là thời đại Đồ Đồng Muộn
(1550-1200 TC). Ngày nay hàng ngàn đồ tạo tác làm chứng sự phong phú
của văn hóa vật chất Ca-na-an, trội hơn hẳn văn hóa của dân Y-sơ-ra-ên. Khi
những nơi đổ nát của vương quốc cổ Ugarit được khám phá tại Ras Shamra
hiện đại trên bờ biển phía bắc Sy-ri, cả kho tàng tin tức mới lộ ra ánh sáng
về đời sống tôn giáo, thương mại và nội bộ của dân Ca-na-an. Từ một ngôn
ngữ gần với tiếng Hê-bơ-rơ đến chuyện các vua và các thần xưa chứng tỏ sự
độc ác và hành vi vô luân của họ. Hơn nữa, người ta đào được Đền Thờ
ngoại giáo, bàn thờ, mồ mả, những khí mạnh nghi lễ, rọi thêm ánh sáng trên
văn hóa và phong tục của các dân tộc xung quanh Y-sơ-ra-ên.
Những cuộc đào bới ở vị trí Mê-ghi-đô xưa, Bết-san và Ghê-xe chứng tỏ các
thành này được củng cố vững chắc và lý do tại sao chúng không bị Y-sơ-ra-
ên hạ và chiếm đóng trong đời Giô-suê. Tuy nhiên, nhiều thành khác xây
công sự mà vẫn bị chiếm, đến nỗi Y-sơ-ra-ên trở thành vững lập như một
cường quốc thống trị. Ngoài hai thành Giê-ri-cô và A-hi, Giô-suê chỉ đốt
thành Hát-so (Gios Gs 11:13). Vậy những cố gắng để định niên hiệu cho các
biến cố này căn cứ vào những tầng hủy diệt trên các gò đống thuộc các cổ
thành xứ Ca-na-an thật là công tác đáng nghi ngại. Cũng nên nhớ rằng có
các nhóm khác thường bị dính líu vào các chiến dịch trong khu vực vào thời
này, giữa vòng họ là những người cai trị Ai-cập và các dân ở vùng biển (kể
cả dân Phi-li-tin). Cũng có những cuộc nội chiến giữa các thành thuộc dân
Ca-na-an, và về sau này thời kỳ Các Quan Xét cũng được đánh dấu bằng sự
hỗn loạn chung.
Phần nhiều dữ kiện khảo cổ dường như ủng hộ niên hiệu cho cuộc xâm lăng
của Giô-suê chừng năm 1.250 TC. Điều này rất thích hợp với cuộc xuất
hành khỏi Ê-díp-tô xảy ra vào 40 năm trước, dưới triều đại nổi tiếng Ram-se
II, người thống trị vùng châu thổ sông Ni-lơ tại một thành cùng tên (XuXh
1:11). Nó cũng đặt Giô-sép tại Ai-cập trong tình huống thuận lợi. Bốn trăm
năm trước Ram-se II, các Pha-ra-ôn là người Hyksos Sêmit, cũng quản trị từ
miền châu thổ gần xứ Gô-sen.
Mặt khác trường hợp tốt có thể thiết lập cho quan điểm truyền thuyết là cuộc
xâm lăng xảy ra chừng 1.406 TC. Sự hà hiếp xảy ra dưới triều Amunhotep II
sau sự chết của cha người là Thutmose III, người được biết đã dùng nô lệ lao
động trong các dự án kiến thiết mình. Niên hiệu sớm hơn cũng thích hiệp
hơn với hai con số tìm được trong Cac Tl 11:26 và IVua 1V 6:1, vì chúng
cho thêm 150 năm giữa Môi-se và thời kỳ quân chủ. Cũng xem Phần Dẫn
Nhập Sáng-thế-ký: trước giả và niên Hiệu. Sách Xuất Ai-cập ký: niên đại
học và xem Các Quan Xét: bối cảnh.
Bố cục:
I. Tiến vào xứ (Gios Gs 1:1-5:12)
A. Lời khuyên chinh phục (1:1-18)
B. Sự thám sát thành Giê-ri-cô (2:1-24)
C. Sự vượt qua sông Giô-đanh (3:1-4:24)
D. Sự phụng hiến tại Ghinh-ganh (5:1-12)
II. Sự chinh phục xứ (5:13-12:24)
A. Những chiến trận tiên khởi (5:13-8:35)
1. Chiến thắng thành Giê-ri-cô (5:13-6:27)
2. Thất bại tại A-hi vì tội A-can (7:1-26)
3. Chiến thắng thành A-hi (8:1-29)
4. Tái lập giao ước tại Si-chem (8:30-35)
B. Chiến trận miền nam (9:1-10:43)
1. Hòa ước lập với dân Ga-ba-ôn (9:1-27)
2. Ngày dài của Giô-suê (10:1-15)
3. Các thành miền nam bị chinh phục (10:16-43)
C. Chiến trận miền bắc (11:1-23)
D. Những vua bại trận của Ca-na-an (12:1-24)
III. Sự phân chia xứ (13:1-21:45)
A. Những khu vực còn phải chinh phục (13:1-7)
B. Xứ phía đông sông Giô-đanh ban cho Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-
na-se (13:8-33).
C. Các vùng đất ban cho Giu-đa và “Giô-sép” tại Ghinh-ganh (14:1-17:18)
D. Các vùng đất ban cho các chi phái còn lại ở Si-lô (18:1-19:51)
1. Đền Tạm tại Si-lô (18:1-10)
2. Những phần đất chia cho Bên-gia-min, Si-mê-ôn, Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li
và Đan (18:11-19:48)
3. Thành ban cho Giô-suê (19:49-51)
E. Những thành cấp cho người Lê-vi (20:1-21:45)
1. Sáu thành ẩn náu (20:1-9)
2. Bốn mươi tám thành của các Thầy tế lễ (21:1-45).
IV. Phần kết: Sự thống nhất các chi phái về lòng trung kiên với Chúa (22:1-
24:33)
A. Bàn thờ làm chứng bên sông Giô-đanh (22:1-34).
B. Những lời chào khuyên từ giã của Giô-suê (23:1:16).
C. Sự tái lập giao ước tại Si-chem (24:1-28)
D. Sự qua đời và chôn Giô-suê và Ê-lê-a-sa (24:29-33).
Dẫn nhập Các Quan Xét
Nhan đề:
Nhan đề mô tả những lãnh tụ Y-sơ-ra-ên trong thời gian các vị trưởng lão
sống sót sau Giô-suê cho đến thời đại quân chủ. Mục đích chính được mô tả
rõ ràng nhất trong Cac Tl 2:16 “song Đức Giê-hô-va dấy lên những Quan xét
giải cứu chúng khỏi cướp bóc”. Vì Đức Chúa Trời đã cho phép những áp
bức xảy đến và dấy lên các vị cứu tinh, chính Chúa là Đấng Quan xét và giải
cứu tối hậu của Y-sơ-ra-ên (11:27; xem 8:23, tại đó Ghê-đê-ôn, một Quan
xét đã nhấn mạnh rằng Đức Giê-hô-va thật quản trị Y-sơ-ra-ên).
Trước giả và niên đại:
Dầu theo truyền thuyết, Sa-mu-ên viết sách, nhưng không biết chắc tác
quyền thuộc về ai. Có thể rằng Sa-mu-ên đã thâu góp những câu chuyện thời
Các Quan xét, rồi đến các tiên tri như Na-than và Gát, cả hai kết hợp với
triều đình Đa-vít, đã bắt tay vào việc san định và biên soạn tài liệu (ISu1Sb
29:29).
Niên hiệu biên soạn cũng không rõ, nhưng chắc chắn là trong thời quân chủ.
Thành ngữ thường lặp lại: “Trong lúc đó, không có vua nơi Y-sơ-ra-ên”
(Cac Tl 17:6; 18:1; 21:25) gợi ý một niên hiệu sau khi nền quân chủ được
thiết lập. Sự nhận xét rằng dân Giê-bu-sít vẫn còn kiểm soát Giê-ru-sa-lem
(1:21) chỉ rõ đó là thời gian trước khi vua Đa-vít chiếm được thành chừng
năm 1000 TC (xem IISa 2Sm 5:6-10). Nhưng các điều kiện mới trong Y-sơ-
ra-ên ám chỉ trong Cac Tl 17:1-21:25 gợi ý về thời gian sau khi triều đại Đa-
vít được thiết lập cách hữu hiệu (thế kỷ thứ 10 TC).
Các chủ đề và thần học:
Sách Quan xét biểu lộ đặc điểm về đời sống Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa từ sự
qua đời của Giô-suê đến sự dấy lên nền quân chủ. Một mặt, ấy là câu chuyện
bội đạo thường xảy ra khiến bị sửa phạt từ thiên thượng. Mặt khác, sách
cũng nói về những lời kêu nài khẩn cấp đến với Chúa trong lúc khủng
hoảng, cảm động Chúa dấy lên các lãnh tụ (Quan xét), qua họ Chúa lật đổ
những kẻ áp bức ngoại quốc và khôi phục hòa bình cho xứ.
Sau khi Y-sơ-ra-ên được lập trong Đất Hứa qua chức vụ của Giô-suê, cuộc
hành hương của họ chấm dứt. Nhiều lời hứa giao ước Đức Chúa Trời ban
cho các tộc trưởng trong Ca-na-an và cho các tổ phụ nơi đồng hoang đã
được thể nghiệm. Xứ của Chúa, nơi Y-sơ-ra-ên phải vào yên nghỉ, nằm dưới
chân họ, họ chỉ còn phải chiếm hữu nó, đánh bật dân Ca-na-an ra, và thanh
tẩy tà đạo khỏi đó. Thời giờ đã đến cho Y-sơ-ra-ên thành vương quốc của
Đức Chúa Trời dưới hình thức Khối Liên Hiệp trên đất.
Nhưng trong Ca-na-an, Y-sơ-ra-ên vội quên những việc làm của Đức Chúa
Trời đã khai sinh ra họ, và lập họ trong xứ. Kết quả là họ không còn nhìn
thấy lý lịch độc đáo của mình là dân của Chúa, được chọn và được gọi đến
làm quân đội của Ngài và là những công dân trung thành của vương quốc
vừa dấy lên. Y-sơ-ra-ên đã định cư, gắn bó với các dân ở Ca-na-an theo luân
lý, thần tượng và tín ngưỡng cùng tập tục của họ cũng như nhanh chóng theo
đời sống nông nghiệp và xã hội của Ca-na-an.
Suốt cả sách Quan xét, vấn đề căn bản là quyền chủ tể của Đức Chúa Trời
trong Y-sơ-ra-ên - tức là Y-sơ-ra-ên phải trung thành và thừa nhận với sự
quản trị của Chúa. Vương quyền của Chúa trên Y-sơ-ra-ên được thiết lập
cách độc đáo bởi giao ước tại Si-nai (XuXh 19:1-24:18), vềsau được Môi-se
tái lập trong đồng bằng Mô-áp (PhuDnl 29:1-29) và bởi Giô-suê tại Si-chem
(Gios Gs 24:1-33). Trước giả tố cáo Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ vương quyền của
Chúa hết lần này đến lần khác. Y-sơ-ra-ên thôi đánh trận của Chúa, xoay qua
các thần của xứ Ca-na-an để có được những phước lành cho gia đình, bầy
vật, đồng ruộng, và lìa bỏ luật pháp Chúa trong nếp sống hằng ngày. Trong
chính tâm điểm của chu kỳ Các Quan Xét (xem bố cục), Ghê-đê-ôn phải
nhắc nhở Y-sơ-ra-ên rằng Chúa là vua của họ (xem chú thích ở Cac Tl 8:23).
Lời than van ai-oán và buộc tội cứ tái diễn của 17:1-21:25 (xem bố cục) là:
“Trong lúc đó không có vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ làm theo ý mình
tưởng là phải” (xem chú thích ở 17:6). Lời ám chỉ chính ở đây chắc là về
những người trung gian của Chúa trên đất (tức các vua loài người), nhưng
lời buộc tội tỏ tường là Y-sơ-ra-ên không thành thật thừa nhận hoặc vâng
phục Vua thiên thượng của họ nữa.
Chỉ còn một cách để duy trì vương quyền của Chúa trên Y-sơ-ra-ên, và bảo
toàn vương quốc còn trong trứng nước khỏi bị tiêu diệt là Ngài dùng quyền
tối cao khiến họ gặp áp bức ngoại quốc để trừng trị dân Ngài - do đó thực thi
giao ước rủa sả (xem LeLv 26:14-45; PhuDnl 28:15-68), và bằng cách dấy
lên những vị cứu tinh khi dân Ngài kêu nài đến Chúa. Tình trạng rạn nứt của
Y-sơ-ra-ên được vạch trần cách sinh động, Y-sơ-ra-ên liên tục cần đến
những hành động cứu sinh mới của Chúa hầu được vào sự yên nghỉ đã hứa
(xem chú thích ở Gios Gs 1:13).
Giữa những chu kỳ lẩn quẩn bất tuân, áp bức ngoại quốc, kêu la khốn khổ,
và giải phóng (xem Cac Tl 2:11-19; NeNe 9:26-31) làm nổi bật chủ đề quan
trọng - sự thành tín với giao ước của Đức Giê-hô-va. Tính kiên nhẫn nhân-từ
kỳ lạ của Đức Chúa Trời không còn cách nào chứng minh tốt hơn là trong
thời loạn lạc này.
Đáng chú ý là thời kỳ thất bại này của Y-sơ-ra-ên, theo sau ngay những biến
cố cứu chuộc thực hiện qua Môi-se và Giô-suê, lại là đường lối đặc biệt thời
đại Thánh linh đời Cựu-ước. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã khiến con
người hoàn tất những chiến công oanh liệt trong thánh chiến của Chúa chống
lại những quyền lực hăm dọa vương quốc của Ngài (xem Cac Tl 3:10; 6:34;
11:29; 13:25; 14:6,19; 15:14; cũng xem ISa1Sm 10:6,10; 11:6; 16:13). Cũng
chính Thánh linh, đổ tràn trên Hội thánh, tiếp theo công tác cứu chuộc của
Giô-suê thứ hai (Chúa Giê-xu), ban năng lực cho dân Chúa khởi sự công tác
truyền bá Phúc Âm cho muôn dân và mở rộng vương quốc Đức Chúa Trời
(xem chú thích ở Cong Cv 1:2,8).
Bối cảnh:
Xác định các niên hiệu cho sách Quan xét thật khó khăn và phức tạp. Hệ
thống niên hiệu sau đây căn cứ chủ yếu vào IVua 1V 6:1, nói về khoảng thời
gian 480 năm giữa cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô và năm thứ tư đời Sa-lô-
môn trị vì. Thời gian này đặt việc xuất hành chừng 1446 TC, và thời kỳ Các
Quan Xét giữa 1380 đến sự dấy lên của Sau-lơ chừng 1050 TC. Giép-thê
phát biểu rằng Y-sơ-ra-ên chiếm đóng Hêt-bôn 300 năm (Cac Tl 11:26)
đồng ý chung với các niên hiệu này.
Tuy nhiên, có người chủ trương rằng, số 480 năm trong IVua 1V 6:1 là hơi
giả tạo, nảy sinh bằng cách nhân với 12 (có lẽ chỉ về 12 Quan xét) với 40 (số
năm qui ước cho một thế hệ). Họ chỉ ra trong chính sách Quan xét thường
dùng các số tròn 10,20,40 và 80. Một niên hiệu trễ đối với cuộc xuất hành cố
nhiên sẽ cần đến thời gian ngắn hơn cho Các Quan Xét (xem Phần Dẫn
Nhập sách Xuất Ê-díp-tô ký: Niên đại).
Những nét văn học đặc sắc:
Dầu chỉ đọc qua sách Quan xét cũng thấy có ba phần cơ bản: (1) Lời mở đầu
(Cac Tl 1:1-3:6). (2) Phần chính (3:7-16:31). (3) Phần kết (17:1-21:25). Sự
nghiên cứu tường tận đem lại ánh sáng trên cơ cấu phức tạp hơn, với những
chủ đề thêu dệt ràng buộc toàn bộ thành bức tranh rắc rối về đặc điểm của
một thời đại.
Lời mở đầu (1:1-3:6) có hai phần, mỗi phần dành cho một mục đích khác
nhau. Chúng không liên hệ theo niên hiệu, cũng không cống hiến sự sắp xếp
niên hiệu nghiêm túc của toàn bộ thời kỳ. Phần thứ nhất (1:1-2:5) dàn cảnh
lịch sử cho những câu chuyện kế tiếp. Nó mô tả sự chiếm đóng Đất Hứa của
Y-sơ-ra-ên - từ thành công sơ khởi đến sự thất bại rộng lớn và sự quở trách
thiên thượng.
Phần thứ hai (2:6-3:6) đề cập phối cảnh về thời kỳ từ Giô-suê đến sự dấy lên
nền quân chủ, thời gian biểu lộ đặc sắc những vòng lẩn quẩn bội đạo, áp
bức, kêu là khốn khổ, và sự giải thoát nhân từ thiên thượng. Trước giả tóm
tắt và cắt nghĩa những cách xử trí của Chúa đối với dân sự phản loạn và giới
thiệu ngữ vựng và công thức căn bản, Chúa sẽ dùng trong các câu chuyện
sau này: “Làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va ”, 2:11 (xem 3:7; 4:1; 6:1;
10:6) “phó Y-sơ-ra-ên cho”, 2:14 (xem 6:1; 13:1) và “bán họ”, 2:14 (xem
3:8; 4:2; 10:7).
Phần chính của sách này (3:7-16:31) thuật những chuyện thật của vòng lẩn
quẩn (bội đạo, áp lực, khốn khổ, giải phóng) với chính dự kiến độc đáo của
nó. Mỗi chu kỳ có một khởi đầu giống nhau (“Dân Y-sơ-ra-ên còn làm điều
ác trước mặt Chúa”, xem chú thích ở 3:7) và một kết luận chấp nhận được
(“xứ được hòa bình trong...năm” hoặc “lãnh đạo Y-sơ-ra-ên...năm”, xem chú
thích ở 3:11).
Chu kỳ thứ nhất của các chu kỳ (Ốt-ni-ên, xem 3:7-11 và chú thích) cung
cấp “mẫu báo cáo” dùng trong mọi câu chuyện áp bức và giải phóng kế tiếp.
Năm chu kỳ còn lại kết thành một câu chuyện như sau, xây dựng quanh số
Các Quan Xét quan trọng còn lại.
1. Ê-hút (3:12-30), anh hùng đơn độc từ chi phái Bên-gia-min giải phóng Y-
sơ-ra-ên khỏi sự áp bức từ phía đông.
2. Đê-bô-ra (4:1-5:33) phụ nữ từ một trong các chi phái của Giô-sép (Ép-ra-
im, phía tây sông Giô-đanh) người là Quan xét trong thời mà Y-sơ-ra-ên bị
giày xéo bởi liên minh các dân Ca-na-an dưới quyền điều khiển của Si-sê-ra.
3. Ghê-đê-ôn và con trai của ông là A-bi-mê-léc (6:1-9:37) hình thành câu
chuyện trung tâm. Bằng nhiều cách Ghê-đê-ôn là Quan xét lý tưởng, gợi nhớ
đến Môi-se, trong khi con trai người lại chính là kẻ đối lập hẳn với vị Quan
xét trung tín và có tinh thần trách nhiệm này.
4. Giép-thê (10:6-12:7) người bị xã hội ruồng bỏ từ chi phái Giô-sép khác
(Ma-na-se, phía đông sông Giô-đanh) làm Quan xét vào thời Y-sơ-ra-ên bị
hăm dọa bởi liên minh các cường quốc dưới sự lãnh đạo của vua Am-môn.
5. Sam-sôn (13:1-16:31) vị anh hùng đơn độc từ chi phái Đan đã giải phóng
Y-sơ-ra-ên khỏi sự áp bức từ phía tây.
Sự sắp đặt những chuyện này thật ý nghĩa. Những câu chuyện trung tâm về
Ghê-đê-ôn (Quan xét lý tưởng của Chúa) và A-bi-mê-léc (người đối lập
Quan xét) lại gộp chung câu chuyện song song của người nữ Đê-bô-ra và
người bị xã hội ruồng bỏ là Giép-thê - lần lượt chúng được lồng khung trong
những câu chuyện những anh hùng đơn độc Ê-hút và Sam-sôn. Theo cách
này, cả cấu trúc tập trung chú Y-sơ-ra-ên vấn đề chủ yếu của thời kỳ Các
Quan Xét: Y-sơ-ra-ên quyến luyến các thần Ba-anh của Ca-na-an (bày tỏ bởi
A-bi-mê-léc, xem chú thích ở 9:1-57) chống với vương quyền của Chúa trên
dân Ngài (được khuyến khích bởi Ghê-đê-ôn, xem chú thích ở 8:23).
Phần kết (17:1-21:25) biểu lộ đặc sắc của kỷ nguyên trong cách khác, mô tả
sự băng hoại tôn giáo và đạo đức của những cá nhân, thành phố và chi phái
riêng. Giống như lời giới thiệu, nó cũng có hai phần không liên hệ niên đại,
cũng không ghi rõ niên hiệu đối với sự nghiệp cá biệt Các Quan Xét. Tuy
nhiên, các sự việc này thật xảy ra sớm hơn trong thời kỳ Các Quan Xét (xem
chú thích ở 18:30; 20:1,28).
Bằng cách chỉ ghi niên hiệu những sự kiện phần kết liên hệ tới nền quân chủ
(xem điệp khúc tái diễn 17:6; 18:1; 19:1; 21:25), trước giả làm tương phản
thời đại Các Quan Xét với một thời kỳ tốt đẹp hơn khi nền quân chủ được
khai dựng, chắc chắn là nhìn về sự trị vì của Đa-vít và triều đại của người
(xem chú thích ở 17:1-21:25). Sách nêu lên hai ví dụ về Chúa phân quyền
lãnh đạo cho chi phái Giu-đa: (1) Trong việc đánh đuổi dân Ca-na-an ra
(1:1-2) và (2) Sửa trị một chi phái trong Y-sơ-ra-ên (20:18). Trước giả nhìn
thấy quan trưởng của chi phái Giu-đa là cứu tinh của dân tộc.
Phần thứ nhất của lời kết (17:1-18:31) thuật chuyện tích của Mi-ca khai triển
một nơi thờ phượng ngoại giáo và nói về chi phái Đan lìa bỏ lãnh thổ chia
cho họ khi chấp nhận tôn giáo băng hoại của Mi-ca. Phần thứ hai (19:1-
21:25) thuật chuyện tích về kinh nghiệm buồn thảm của người Lê-vi tại Ghi-
bê-a trong Bên-gia-min và chép biện pháp kỷ luật tẩy trừ chi phái Bên-gia-
min, vì cớ họ bênh vực thành đồi bại Ghi-bê-a.
Hai phần có mấy điểm song song đáng chú ý:
1. Cả hai dính líu đến việc một người Lê-vi đi ngang qua giữa Bết-lê-hem
(trong Giu-đa) và Ép-ra-im qua hành lang Bên-gia-min - Đan.
2. Cả hai nêu lên 600 chiến sĩ - những người đã hướng dẫn chi phái Đan và
những người sống sót từ chi phái Bên-gia-min.
3. Cả hai kết thúc với sự vét sạch khu vực thuộc chi phái trong hành lang
(Bên-gia-min - Đan) đó.
Không những chỉ ba điều song song này có ý nghĩa trong phần kết, nhưng
các điều đó cũng làm thành khâu kết nối cho phần chính của sách nữa. Chi
phái Bên-gia-min, ở trong phần kết tìm cách binh vực sự vô đạo gớm ghiếc
đặt sợi dây huyết thống lên trên lòng trung thành với Chúa, lại là chi phái
Chúa dấy lên cứu tinh Ê-hút (3:15). Chi phái Đan, mà trong phần kết đã rút
lui khỏi cơ nghiệp cấp cho mà chấp nhận những thói tục ngoại giáo, lại là
chi phái Chúa dấy lên vị cứu tinh Sam-sôn (13:2,5). Như vậy, hai chi phái
mà phần kết luận mô tả sự băng hoại tôn giáo và đạo đức của Y-sơ-ra-ên lại
chính từ những chi phái đó các vị cứu tinh được chọn mà chuyện tích của họ
dựng khung làm trọng tâm câu chuyện của sách (Ghê-đê-ôn-A-bi-mê-léc).
Toàn bộ ý định của sách từ phần đầu đến phần kết, cách thức độc đáo trong
mỗi phần giải quyết toàn bộ thời đại, và cách ba phần chính liên hệ với nhau
rõ rệt minh họa một thời đại hư hỏng - thời đại “không có vua trong Y-sơ-ra-
ên” và “ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (xem chú thích ở 17:6). Thật
sự kiện mà câu chuyện ở trong các hồi và chu kỳ rất có ý nghĩa. Nó là câu
chuyện của toàn bộ Y-sơ-ra-ên, dù thường chỉ có vài khu vực trực tiếp dính
líu. Sách minh họa những thế kỷ sau Giô-suê, là thời kỳ Y-sơ-ra-ên bất trung
với Chúa, và họ đầu phục những sự lôi cuốn của Ca-na-an. Chỉ do lòng
thương xót của Đức Chúa Trời mà Y-sơ-ra-ên không bị áp đảo và bị thu hút
bởi các quốc gia ngoại đạo xung quanh họ. Tuy nhiên, trong lúc chờ đợi, lịch
sử cứu chuộc hầu như vẫn đứng vững - chờ đợi nỗ lực tương lai của tôi tớ
Chúa là Đa-vít và sự thiết lập triều đại của người.
Bố cục:
I. Phần đầu: Sự chinh phục không trọn vẹn và bội đạo (1:1-3:6)
A. Hồi thứ nhất: Y-sơ-ra-ên thất bại trong việc thanh tẩy xứ (1:1-2:5)
B. Hồi thứ hai: Đức Chúa Trời xử trí với Y-sơ-ra-ên bội nghịch (2:6-3:6)
II. Áp bức và giải phóng (3:7-16:31)
A. Các Quan Xét lớn
1. Ốt-ni-ên đánh bại A-ram Naharaim (3:7-11)
2. Ê-hút đánh bại Mô-áp (3:12-30)
3. Đê-bô-ra đánh bại Ca-na-an (4:1-5:31)
4. Ghê-đê-ôn đánh bại Ma-đi-an (6:1-8:35)
A-bi-mê-léc, kẻ chống lại Quan xét 9:1-57)
5. Giép-thê đánh bại Am-môn (10:6-12:7)
6. Sam-sôn kiềm chế người Phi-li-tin (13:1-16:31)
B. Các Quan Xét nhỏ
1. Sam-ga (3:31)
2. Thô-la (10:1,2)
3. Giai-rơ (10:3-5)
4. Íp-san (12:8-10)
5. Ê-lôn (12:11-12)
6. Áp-đôn (12:13-15)
III. Phần kết: Sự hỗn loạn đạo đức và tôn giáo (17:1-21:25)
A. Hồi thứ nhất (17:1-18:31; xem 17:6; 18:1)
1. Sự bại hoại của Mi-ca về tôn giáo (17:1-13)
2. Người Đan dời khỏi lãnh thổ của chi phái họ (18:1-31)
B. Hồi thứ hai (19:1-21:25; xem 19:1; 21:25)
1. Sự bại hoại của Ghi-bê-a về đạo đức (19:1-30)
2. Sự truất phế Bên-gia-min ra khỏi lãnh thổ chi phái họ (20:1-21:25)
Dẫn nhập Ru-tơ
Nhan đề:
Sách được đặt tên theo tên một trong những nhân vật chính của sách, một
thiếu phụ trẻ người Mô-áp, bà cố nội của Đa-vít và tổ mẫu của Chúa Giê-xu
(Mat Mt 1:1,5). Ngoài sách Ru-tơ, chỉ còn sách duy nhất khác trong Thánh
Kinh mang tên phụ nữ là sách Ê-xơ-tê.
Bối cảnh:
Câu chuyện bắt đầu vào thời Các Quan Xét, thời kỳ biểu lộ đặc điểm Các
Quan Xét như là thời kỳ suy thoái đạo đức và tôn giáo, quốc gia chia rẽ và
thường bị ngoại bang áp bức. Sách Ru-tơ phản ánh thời hòa bình tạm giữa
Y-sơ-ra-ên và Mô-áp (tương phản Cac Tl 3:12-30). Giống ISa1Sm 1:1-2:36,
sách cho thấy một loạt những cái nhìn thân mật vào đời sống riêng tư của
các người thân trong một gia đình Y-sơ-ra-ên. Nó cũng trình bày câu chuyện
hấp dẫn về niềm tin và mộ đạo chân chính còn sót lại trong thời Quan xét,
giảm bớt được mặt khác bức tranh hoàn toàn tối tăm của kỷ nguyên này.
Trước giả và niên hiệu chép sách:
Không rõ trước giả. Theo truyền thuyết Do Thái cho là của Sa-mu-ên, nhưng
không phải Sa-mu-ên là trước giả vì sự đề cập về Đa-vít (Ru R 4:17,22) hàm
ý niên hiệu trễ hơn. Hơn nữa, văn thể Hê-bơ-rơ trong Ru-tơ gợi ý rằng sách
được chép trong thời quân chủ.
Chủ đề và thần học:
Trước giả nhắm tiêu điểm vào sự tận tâm và kiên định, không vị kỷ của Ru-
tơ đối với Na-ô-mi phiền muộn (1:16-17; 2:11-12; 3:10; 4:15), và vào lòng
nhân từ của Bô-ô với hai góa phụ này (2:1-4:22). Trước giả trình bày gương
chứng của những đời sống đáng chú ý biểu hiện trong công việc thường
ngày của tình yêu vị tha đã thực nghiệm luật pháp của Đức Chúa Trời (LeLv
19:18; so sánh RoRm 13:10). Tình yêu đó cũng phản ánh tình thương Đức
Chúa Trời trong sự kết hợp kỳ diệu những hành động của con người với
hành động của Đức Chúa Trời (so Ru R 2:12 với 3:9). Trong lòng nhân từ
của Đức Chúa Trời, những đời sống như thế được phước và trở thành nguồn
phước.
Dường như điều đáng ngạc nhiên là người phản ánh tình yêu của Đức Chúa
Trời rõ ràng như thế lại là người nữ Mô-áp. Hơn nữa, sự trung thành trọn
vẹn của nàng đối với gia đình Y-sơ-ra-ên mà nàng vào làm dâu, sự tận tâm
toàn vẹn đối với bà mẹ chồng bơ vơ ghi dấu nàng là con gái thật của Y-sơ-
ra-ên và xứng đáng làm tổ mẫu của Đa-vít. Nàng chứng nghiệm cách rõ ràng
lẽ thật rằng sự dự phần trong vương quốc hầu đến của Đức Chúa Trời được
quyết định không phải bởi huyết thống hoặc bởi sự sinh ra, bèn là bởi đời
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3
Dan nhap kinh thanh 3

More Related Content

Similar to Dan nhap kinh thanh 3

Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kelsi Luist
 
Thành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rậpThành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rập
thaodang312
 
Thành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rậpThành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rập
thaodang312
 
Thành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung HoaThành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung Hoa
thaodang312
 

Similar to Dan nhap kinh thanh 3 (20)

Su diep tan uoc
Su diep tan uocSu diep tan uoc
Su diep tan uoc
 
Cuu uoc ( gian luot)
Cuu uoc ( gian luot)Cuu uoc ( gian luot)
Cuu uoc ( gian luot)
 
Tieu tien tri
Tieu tien triTieu tien tri
Tieu tien tri
 
Dia ly xu thanh
Dia ly xu thanhDia ly xu thanh
Dia ly xu thanh
 
Thuyết trình Chúa Jesus Qur'an.pptx
Thuyết trình Chúa Jesus Qur'an.pptxThuyết trình Chúa Jesus Qur'an.pptx
Thuyết trình Chúa Jesus Qur'an.pptx
 
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
 
Tieu tien tri( gian luot)
Tieu tien tri( gian luot)Tieu tien tri( gian luot)
Tieu tien tri( gian luot)
 
Ly do toi tin
Ly do toi tinLy do toi tin
Ly do toi tin
 
Ly do toi tin
Ly do toi tinLy do toi tin
Ly do toi tin
 
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tinNhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
 
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tinNhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
 
Nha ca-intro
Nha ca-introNha ca-intro
Nha ca-intro
 
Thành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rậpThành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rập
 
Thành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rậpThành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rập
 
A3 tan uoc luot khao
A3 tan uoc luot khaoA3 tan uoc luot khao
A3 tan uoc luot khao
 
Thành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung HoaThành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung Hoa
 
Christ thuyet phuc
Christ thuyet phucChrist thuyet phuc
Christ thuyet phuc
 
Christ thuyet phuc
Christ thuyet phucChrist thuyet phuc
Christ thuyet phuc
 
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức                Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
 
Cac sach phuc am
Cac sach phuc amCac sach phuc am
Cac sach phuc am
 

More from co_doc_nhan (20)

Truong nhan su
Truong nhan suTruong nhan su
Truong nhan su
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christ
 
Thuat lanh dao
Thuat lanh daoThuat lanh dao
Thuat lanh dao
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau den
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
 
Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2
 
Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day dao
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh dao
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
 
Nhom thanh cong
Nhom thanh congNhom thanh cong
Nhom thanh cong
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao duc
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuong
 

Dan nhap kinh thanh 3

  • 1. DẪN NHẬP KINH THÁNH - 3 Dẫn nhập Sáng Thế ký Nhan đề: Nhóm từ thứ nhất trong bản văn Hi-bá-lai của SaSt 1:1 là bereshith (“ban đầu”) cũng là nhan đề của sách (các sách cổ thường được đặt tên theo một hay hai chữ đầu của sách). Nhan đề bằng Anh ngữ, Genesis, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, và đến từ chữ Geneseos, xuất hiện trong bản dịch tiếng Hy Lạp (bản LXX) của 2:4; 5:1. Theo liên văn, từ này nghĩa là “sự sinh ra”, “gia phả”, hoặc “lịch sử nguồn gốc”. Như vậy trong cả hình thức Hi-bá-lai lẫn Hi-văn, nhan đề “Sáng thế ký” mô tả cách thích hiệp nội dung của sách, vì chủ yếu là sách của những khởi đầu. Bối cảnh: Trong 38 chương đầu phản ánh rất nhiều điều chúng ta biết từ các nguồn khác về nếp sống và văn hóa Mê-sô-bô-ta-mi thuở xưa. Cuộc sáng tạo, các gia phả, trận hồng thủy hủy diệt, địa lý và việc hình thành bản đồ, kỹ thuật xây dựng, sự di trú của các dân tộc, mua bán đất đai, quan thuế và thủ tục pháp định, nghề chăn bầy và chăn nuôi gia súc, tất cả những chủ đề đó và nhiều đề tài khác là vấn đề quan tâm chủ yếu của các dân tộc vùng Mê-sô- bô-ta-mi thời bấy giờ. 38 đoạn đầu Sáng thế ký cũng liên quan đến những cá nhân, gia đình và các bộ lạc. Tác giả dường như định vị vườn Ê-đen, quê hương đầu tiên của loài người là ở trong hoặc gần xứ Mê-sô-bô-ta-mi, tháp Ba-bên được xây cất tại đó, Áp-ram sinh ra ở đó, Y-sác cưới vợ người xứ đó, và Gia-cốp cũng sống tại đó 20 năm. Dầu các tộc trưởng định cư tại xứ Palestine, nhưng quê hương nguyên thuỷ của họ vẫn là xứ Mê-sô-bô-ta-mi. Nền văn học cổ nhất tương đương với 1:1-38:30 cũng đến từ xứ Mê-sô-bô- ta-mi. Enuma elish, câu chuyện thần Marduk dấy lên đến quyền tối cao trong Đền thờ Bách Thần Ba-by-lôn, trong một số phương diện (dầu hoàn toàn theo thần thoại và đa thần) cũng tương tự như cuộc sáng tạo trong 1:1-31. Vài nét đặc biệt của danh sách các vua từ Sumer rất giống với gia phả ghi trong 5:1-32. Bảng thứ 11 của thiên Anh hùng ca Gilgamesh hoàn toàn giống như trận Hồng thủy ghi trong 6:1-8:22. Nhiều biến cố quan trọng của 1:1-8:22 được thuật lại cùng thứ tự các sự việc tương tự trong thiên Anh hùng ca Atrahasis. Thật ra, thiên sử thi này cùng căn bản chủ đề sáng tạo - phản loạn - trận Hồng thủy như Thánh Kinh ghi chép. Các bảng đất sét mới tìm được tại vị trí cổ (chừng 2.500-2.300 TC) ở Ebla (hiện nay là Tell Mardikh), miền Bắc Sy-ri cũng có thể chứa đựng một số tình tiết tương đương.
  • 2. Có hai bộ tài liệu quan trọng khác chứng minh sự phản ánh xứ Mê-sô-bô-ta- mi trong 38 chương đầu Sáng thế ký. Từ những bức thư Ma-ri, từ thời các tộc trưởng, chúng ta học biết tên các tộc trưởng (đặc biệt kể cả Áp-ram, Gia- cốp và Gióp) là tiêu biểu cho thời đó. Những thư cũng minh chứng sự tự do đi lại giữa những vùng khác nhau của thế giới A-mô-rít nơi các tộc trưởng cư ngụ. Những tấm bảng Nuzi, dầu muộn hơn thời kỳ tộc trưởng mấy thế kỷ, làm sáng tỏ những phong tục tập quán từ thời tộc trưởng trong nhiều thế kỷ, hầu như nguyên vẹn trải qua nhiều thế kỷ. Quyền thừa hưởng cơ nghiệp của người được thâu nhận vào gia đình hoặc nô lệ (xem 15:1-4), bổn phận của một người vợ son sẻ là cung cấp cho chồng một con trai qua một đầy tớ gái (16:2-4), sự chỉ trích chống lại việc đuổi đầy tớ gái và con trai nàng (xem 21:10-11), thẩm quyền của lời truyền khẩu trong luật pháp cổ vùng cận đông, như lời trối trước khi chết (27:1-4,22-23,33) - những điều này cùng các tập quán hợp pháp khác, các khế ước và điều khoản xã hội được minh họa sinh động trong các tài liệu xứ Mê-sô-bô-ta-mi Như 1:1-38:30 có đặc tánh và bối cảnh người Mê-sô-bô-ta-mi, thì cũng vậy, 39:1-50:26 phản ánh ảnh hưởng Ai-cập - dầu không hoàn toàn trực tiếp như thế. Những ví dụ của ảnh hưởng đó là: việc trồng nho của người Ai-cập (40: 9-11), quang cảnh bờ sông (41:1-57), Ai-cập là vựa lúa của Ca-na-an 42:1- 38), Ca-na-an là nguồn của vô số sản phẩm cho Ai-cập tiêu thụ (43:1-34). Tập quán xã hội và tôn giáo Ai-cập (ở phần cuối 43:1-34; 46:1-33), những thủ tục hành chánh Ai-cập (47:1-31), những tập tục an táng Ai-cập (50:1- 26), nhiều từ ngữ và tên riêng theo tiếng Ai cập dùng trong các chương này. Nét tương đương văn học đặc biệt gần nhất với Ai-cập là “Truyện kể Hai Anh Em”, giống hệt như chuyện Giô-sép với Phô-ti-pha (39:1-23). Những chuyện tự thuật Ai-cập (như “Truyện Sinuhe” và “Báo cáo Wenamun”) và các huyền sử khác cống hiến nhiều nét tương đương văn học chung. Trước giả và niên hiệu chép sách: Về mặt lịch sử, người Do-thái và Cơ-đốc đồng chủ trương Môi-se là trước giả của năm sách đầu tiên trong Cựu Ước. Những sách này được gọi là Ngũ kinh (nghĩa là “sách năm quyển”) được nói đến trong truyền khẩu Do-thái giáo là năm phần luật pháp (của Môi-se). Chính Thánh Kinh gợi ý rằng Môi- se là trước giả Sáng thế ký, vì Cong Cv 15:1 viện dẫn lễ cắt bì như “tập quán do Môi-se dạy”, một ám chỉ đến SaSt 17:1-27. Tuy nhiên có vài sưu tập trễ hơn xuất hiện đã được chỉ ra (xem những chú thích ở 14:14; 36:31; 47:11). Thời kỳ lịch sử mà Môi-se sống dường như sách IVua định khá chính xác. Chúng ta được biết “năm thứ tư đời trị vì của Sa-lô-môn trên Y-sơ-ra-ên” là “năm thứ 480 sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập” (IVua 1V 6:1). Vì Sa-lô-môn trị vì khoảng 966 TC và như vậy niên hiệu của xuất Ai-cập - là khoảng 1.446 (đoán định rằng 480 năm trong IVua 1V 6:1 là tính theo nghĩa
  • 3. đen, xem lời giới thiệu sách Các Quan xét: Bối cảnh). Thời kỳ 40 năm Y-sơ- ra-ên lưu lạc trong đồng vắng, trễ nhất là từ 1.446 đến 1.406, rất có thể là thời gian Môi-se soạn bộ sách ngày nay gọi là Ngũ kinh. Trong hai thế kỷ sau cùng nhiều học giả nhìn nhận đã tìm thấy trong Ngũ kinh 4 nguồn cơ bản: Những tài liệu được cho là có từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 5 TC gọi là J (tức Jahweh/Yahweh, danh xưng riêng của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước), “E” (tức là Ê-lô-him, danh xưng chung của Đức Chúa Trời), D (tức Deuteronomic, thuộc Phục Truyền Luật Lệ Ký), và P (tức Priestly, thuộc thầy tế lễ). Mỗi tài liệu đều có những đặc tính và thần học riêng, và thường mâu thuẫn với các tài liệu kia. Như vậy, Ngũ kinh Môi-se được mô tả như những truyện, những thi ca và luật lệ chắp vá. Tuy nhiên, quan điểm này không có bằng cớ kết luận và sự tìm kiếm sâu rộng về văn học cũng như khảo cổ đã hướng tới việc cắt bỏ nhiều lý lẽ dùng thách thức quyền trước tác của Môi-se. Chủ đề và sứ điệp: Sáng thế ký luận về những sự khởi đầu. Khởi đầu của các từng trời và đất, sự sáng và sự tối, các từng trời và biển cả, đất đai và cây cỏ, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao, những cá biển, chim trời và động vật trên đất, và loài người (dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời , tuyệt đỉnh của hoạt động sáng tạo), tội lỗi và sự cứu chuộc, phước lành và rủa sả, xã hội và văn minh, hôn nhân và gia đình, nghệ thuật, tài khéo và công nghệ. Bản liệt kê có thể cứ tiếp tục. Chữ chìa khoá Sáng thế ký là “chuyện, gốc tích, dòng dõi” dùng để chia sách ra làm 10 phần lớn (xem Nét Đặc Biệt và Bố Cục Văn Học), và bao gồm những quan điểm như sự sinh ra, gia phả và lịch sử. Sách Sáng thế ký là nền tảng cho sự thông hiểu phần còn lại của Thánh Kinh. Sứ điệp của sách thật phong phú và phức tạp, liệt kê những yếu tố chính và phác họa đại cương sứ điệp toàn bộ Thánh Kinh. Quan trọng hơn cả là sách của những mối quan hệ, quan hệ nổi bật giữa Đức Chúa Trời và thiên nhiên, Đức Chúa Trời và loài người, và người với người. Suốt cả sách là thuyết độc thần, thừa nhận rằng chỉ có một Đức Chúa Trời với Danh Xưng xứng đáng, chống lại tất cả những ý niệm về đa thần hoặc vô thần, hoặc vạn vật hữu thần (Pantheism, thuyết phiếm thần). Sáng thế ký dạy rõ rằng một Chân Thần tối cao hơn cả vạn vật hiện hữu tức toàn bộ cuộc sáng tạo của Ngài, và bởi sự lựa chọn thiên thượng Chúa thường vận dụng tự do vô hạn của Ngài để lật đổ những tập quán truyền khẩu, và kế hoạch của loài người. Sách giới thiệu cho chúng ta đường lối Đức Chúa Trời khởi xướng và thiết lập các giao ước với tuyển dân Ngài, cam kết tỏ tình thương và thành tín của Ngài với họ, kêu gọi họ hứa nguyện kính mến và trung thành với Ngài. Sách thiết lập sinh tế như là sự thay thế mạng đền mạng (SaSt 22:1-24). Sách cho chúng ta gợi ý đầu tiên về việc Đức Chúa Trời chuẩn bị cứu chuộc chúng ta
  • 4. khỏi quyền lực của Ma quỉ (so 3:15 với RoRm 16:17-20) và bao hàm định nghĩa đức tin đầy đủ và sâu nhiệm nhất (SaSt 15:6). Hơn phân nửa HeDt 11:1-40 - danh sách các anh hùng đức tin mà Tân Ước nói đến - là các nhân vật trong Sáng thế ký. Những nét văn học đặc sắc: Sứ điệp sách thường được đề cao bởi cấu trúc và những đặc sắc văn học. Sáng thế ký được chia làm 10 phần chính. Mỗi phần khởi sự với từ “chuyện, gốc tích” (xem SaSt 2:4; 5:1; 6:9; 10:1; 11:10; 11:27; 25:12; 25:19;36:1 - được lặp lại để nhấn mạnh ở 36:9 - và 37:2). Năm phần đầu có thể gom chung lại và với lời giới thiệu sách như một tổng thể (1:1-2:3), có thể gọi cách thích hợp là “lịch sử ban đầu” (1:1-11:26), phác họa thời kỳ từ A-đam đến Áp-ra-ham. Năm phần sau kết hợp lại làm một câu chuyện dài hơn (nhưng cũng hiệp nhất như các phần đầu), thuật lại câu chuyện Đức Chúa Trời đối với Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, và Giô-sép cùng gia đình họ - một phần thường gọi là “lịch sử các tổ phụ” (11:27-50:26). Phần này lần lượt gồm ba chu kỳ ký-thuật (Áp-ra-ham - Y-sác, 11:27-25:11; Y-sác - Gia-cốp, 25:19-35:29; 37:1; Gia-cốp - Giô-sép, 37:2-50:26), rải rác có những gia phả của Ích-ma-ên (25:12-28) và Ê-sau (36:1-43). Câu chuyện thường tập trung vào đời sống của con thứ thay vì con trưởng: Sết hơn là Ca-in, Sem hơn là Gia-phết, Y-sác hơn là Ích-ma-ên, Gia-cốp hơn là Ê-sau, Giu-đa và Giô-sép hơn là các anh của họ, Ép-ra-im hơn là Ma-na- se. Sự nhấn mạnh như vậy trên những người và gia đình được Chúa chọn có lẽ là thần học và văn học nói rõ ràng nhất của toàn bộ Sáng thế ký, sách nhấn mạnh thật sự dân Chúa không phải là sản phẩm của những phát triển tự nhiên của con người, bèn là kết quả của sự can thiệp tối cao đầy ân huệ vào lịch sử nhân loại. Chúa đem một chủng tộc mới biệt riêng cho chính Ngài ra khỏi dòng giống sa đoạ, được gọi và dự định trở nên dân của vưong quốc Ngài và làm nguồn phước cho cả thế giới. Những con số có ý nghĩa hình bóng cũng đầy dẫy trong Sáng thế ký. Ngoài số 10 phần được chia ra, số 10 cũng là số tên xuất hiện trong các gia-phả ở đoạn 5 và 11 (xem ghi chú ở 5:5. Số 7 cũng thường xuất hiện. Nguyên bản tiếng Hê-bơ-rơ của 1:1 gồm đúng 7 chữ, và 1:2 đúng 14 chữ (2x7). Có bảy ngày sáng tạo, 7 tên trong gia phả của chương 4 (xem ghi chú ở 4:17-18; cũng xem 4:15,24; 5:31), các số 7 khác ở trong truyện hồng thủy, 70 hậu tự của các con Nô-ê (10:1-32), lời Chúa hứa cho Áp-ram gồm 7 phần (12:2-3), 7 năm được mùa và 7 năm đói kém tại Ai-cập ( 41:1-57), và 70 hậu tự của Gia-cốp (46:1-34). Những con số ý nghĩa khác như 12 và 40, cũng thường được dùng như thế. Sách Sáng thế ký cơ bản là văn xuôi, ngắt quãng đây đó bằng những vần thơ ngắn (bài dài nhất được gọi là “Lời chúc phước của Gia-cốp” trong 49:2-27).
  • 5. Phần lớn văn xuôi có phẩm chất trữ tình và dùng đủ mọi hình thái tu từ và các đề-từ khác biểu thị đặc điểm thiên anh hùng ca đẹp nhất thế giới. Nét song song hàng dọc và hàng ngang giữa hai nhóm ba ngày trong cuộc sáng tạo (xem ghi chú 1:11), sự suy bại và lan tràn tội lỗi cũng như sự đoán phạt ở 3:1-24 (rắn và người nữ cùng người nam kế tiếp nhau phạm tội. Kế đó, Đức Chúa Trời chất vấn họ theo thứ tự ngược lại, rồi Chúa đoán phạt họ theo trật tự nguyên thủy). Sự đồng điệu đầy uy quyền của nhóm từ: “rồi qua đời” ở cuối những phân đoạn trong 5:1-32; hiệu quả của câu “nhưng Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê” (8:1) ở giữa chừng trận hồng thủy, câu chuyện xây dựng dã tràng của Tháp Ba-bên trong 11:1-9 (tường thuật trong câu 1-2, 8-9; nghị luận trong câu 3-4, 6-7; câu 5 là hành động chuyển tiếp). Việc chơi chữ đáng sợ trong 40:19 (xem 40:13), sự xen kẽ giữa những mẫu chuyện ngắn về các con trai đầu lòng và những chuyện dài về các con trai thứ - những câu này và nhiều đề-từ văn học khác thêm sự thích thú cho câu chuyện và cung ứng những dấu hiệu giải thích mà các đọc giả nên chú ý nhiều hơn. Nhiều đề tài và chủ đề của ba chương đầu Sáng thế ký phản ánh ba chương cuối của sách Khải thị không phải trùng hợp ngẫu nhiên. Chúng ta chỉ có thể ngạc nhiên về ảnh hưởng quan phòng của chính Chúa, là Đấng bảo đảm với chúng ta “cả Thánh Kinh đều được Đức Chúa Trời cảm ứng” (IITi 2Tm 3:16) và “chính Thánh Linh đã cảm ứng họ nói ra lời của Đức Chúa Trời ” (IIPhi 2Pr 1:21). Bố cục: Bố cục văn học: I. Giới thiệu (SaSt 1:1-2:3) II. Thân sách (2:4-50:26) A. Gốc tích trời và đất (2:4-4:26) B. Dòng dõi của A-đam (5:1-6:8) C. Dòng dõi của Nô-ê (6:9-9:29) D. Dòng dõi của Sem, Cham và Gia-phết (10:1-11:9) E. Dòng dõi của Sem (11:10-26) F. Dòng dõi của Tha-rê (11:27-25:11) G. Dòng dõi của Ích-ma-ên, con Áp-ra-ham (25:12-18) H. Dòng dõi Y-sác, con Áp-ra-ham (25:19-35:29) I. Dòng dõi của Ê-sau (36:1-37:1) J. Dòng dõi của Gia-cốp (37:2-50:26) Bố Cục Theo Chủ Đề: I. Lịch sử ban đầu (1:1-11:26) A. Cuộc sáng tạo (1:1-2:3) 1. Lời giới thiệu (1:1-2) 2. Phần chính (1:3-31)
  • 6. 3. Kết luận (2:1-3) B. A-đam và Ê va trong vườn Ê-đen (2:4-25) C. Sự sa ngã và những hậu quả của nó (3:1-24) D. Sự “phát triển” nhanh chóng của tội lỗi (4:1-16) E. Hai dòng dõi (4:17-5:32) 1. Dòng dõi của kiêu ngạo (4:17-24) 2. Dòng dõi của sự chết (4:25-5:32) F. Sự lan rộng của tội trước nước lụt (6:1-8) G. Đại hồng thủy (6:9-9:29) 1. Chuẩn bị cho nước lụt (6:9-7:10) 2. Sự phán xét và sự cứu chuộc (7:11-8:19) a. Nước dâng lên (7:11-24) b. Nước rút xuống (8:1-19) 3. Hậu quả của nước lụt (8:20-9:29) a. Lời hứa mới (8:20-22) b. Những sắc lịnh mới (9:1-7) c. Mối liên hệ mới (9:8-17) d. Sự cám dỗ mới (9:18-23) e. Lời sau cùng (9:24-29) H. Sự lan rộng của các quốc gia (10:1-11:26) 1. Sự tản mác của các quốc gia (10:1-32) 2. Sự lộn xộn tiếng nói (11:1-9) 3. Dòng dõi thứ nhất của Sem (11:10-26) II. Lịch sử các tổ phụ (11:27-50:26) A. Đời sống Áp-ra-ham (11:27-25:11) 1. Bối cảnh của Áp-ra-ham ([dc 11:27-32;) [mtc 2. Đất của Áp-ra-ham (12:1-14:24) 3. Dân tộc của Áp-ra-ham (15:1-24:67) 4. Những ngày cuối đời của Áp-ra-ham (25:1-11) B. Dòng dõi của Ích-ma-ên (25:12-18) C. Cuộc đời của Gia-cốp (25:19-35:29) 1. Gia-cốp tại quê hương (25:19-27:46) 2. Gia-cốp tha hương (28:1-30:43) 3. Gia-cốp hồi hương (31:1-35:29) D. Dòng dõi của Ê-sau (36:1-37:1) E. Cuộc đời của Giô-sép (37:2-50:26) 1. Sự nghiệp của Giô-sép (37:2-41:57) 2. Sự di cư của Gia-cốp (42:1-47:31) 3. Những ngày cuối của Gia-cốp (48:1-50:14) 4. Những ngày cuối của Giô-sép (50:15-26)
  • 7. Dẫn nhập Xuất Ê-díp-tô ký Nhan đề: “Xuất Ê-díp-tô ký” là một từ ngữ La-tinh (Exodus) lấy từ tiếng Hy Lạp (Exodos) được những người dịch sách này ra tiếng Hy Lạp đặt cho cuốn sách. Từ này có nghĩa là “lối ra”, “xuất hành” (Xem LuLc 9:31; HeDt 11:22). Tên này được giữ lại bởi bản Vulgate, bởi Philo văn sĩ Do-thái (sống đồng thời với Chúa Cứu Thế), và bởi bản Syriac. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, sách được đặt tên theo hai chữ đầu, we’elleh shemonth, (“Đây là những tên của...”). Nhóm từ đó xuất hiện ở SaSt 46:8, tại đó giới thiệu cùng một danh sách những tên người Y-sơ-ra-ên “đi với Gia-cốp đến xứ Ai Cập” (XuXh 1:1). Như vậy, Xuất Ê-díp-tô ký không riêng rẽ như hiện có, nhưng được hiểu rằng đó là câu chuyện liên tục khởi sự từ Sáng thế ký và được hoàn tất trong Lê-vi ký, Dân-số ký và Phục-truyền-luật-lệ ký. Năm sách đầu tiên của Thánh Kinh hiệp nhau lại thành Ngũ Kinh (xem phần giới thiệu Sáng-thế-ký : Trước giả và Niên Đại Chép Sách). Trước giả và niên đại chép sách: Mấy lời phát biểu trong Xuất Ê-díp-tô ký tỏ ra rằng Môi-se đã viết mấy phần sách (17:14; 24:4; 34:27). Thêm nữa, Gios Gs 8:31 viện dẫn mạng lịnh của XuXh 20:25 như “có chép trong sách Luật pháp Môi-se”. Tân ước cũng xưng nhận Môi-se là trước giả của mấy phân đoạn trong Xuất Ê-díp-tô ký (xem thí dụ, Mac Mc 7:10; 12:26 cũng xem LuLc 2:22-23). Xét chung, những câu viện dẫn này rõ ràng gợi ý rằng Môi-se chịu phần lớn trách nhiệm viết sách Xuất Ê-díp-tô ký - có quan điểm theo truyền thuyết cho rằng Ngũ Kinh Môi-se toàn bộ chứa đựng 4 nguồn căn bản, nhưng không có gì chắc chắn (xem phần giới thiệu Sáng-thế-ký: Trước giả và Niên Đại Chép Sách). Bảng niên đại: Theo IVua 1V 6:1, cuộc Xuất Ê-díp-tô xảy ra 480 năm trước “năm thứ tư đời trị vì của Sa-lô-môn”. Vì năm đó là khoảng 966 TC, nên truyền thuyết cho rằng cuộc Xuất Ê-díp-tô xảy ra vào năm 1.446. “Ba trăm năm” của Cac Tl 11:26 thích hiệp thuận lợi cho khoảng thời gian này (xem phần dẫn nhập sách Các Quan-xét: Bối Cảnh). Thêm nữa, dầu lịch sử Ai Cập liên hệ đến Triều đại thứ 18 còn không chắc chắn, cuộc khảo sát mới đây có khuynh hướng ủng hộ quan điểm truyền thuyết cho rằng hai triều đại Pha-ra-ôn này, Thutmose III và con trai là Amunhotep II, là những Pha-ra-ôn hà hiếp Y-sơ- ra-ên và tương ứng cuộc xuất hành khỏi Ai Cập (xem chú thích ở XuXh 2:15,23; 3:10). Mặt khác, sự xuất hiện tên Ram-se trong 1:11 đã đưa nhiều người đến kết luận rằng triều đại thứ 19 Pha-ra-ôn Seti I và con trai là Ram-se II chính là
  • 8. Pha-ra-ôn hà hiếp Y-sơ-ra-ên và nhơn đó tương ứng cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Hơn nữa, bằng chứng khảo cổ học về sự hủy diệt nhiều thành trong Ca- na-an vào thế kỷ thứ 13 TC đã được giải thích như bằng chứng đạo quân Giô-suê chiếm hữu đất hứa trong thế kỷ đó. Những điều này với các lý lẽ tương tự dẫn đến niên đại định cho cuộc xuất hành khỏi Ai Cập là 1.290 TC (xem phần giới thiệu sách Giô-suê: Sự Bố Trí Lịch Sử). Tuy nhiên sự nhận diện những người tấn công các thành không được tích cực xác định. Những cuộc đột kích có thể khởi xướng sau này bởi quân Y- sơ-ra-ên, hoặc bởi người Phi-li-tin hoặc bởi người nước khác. Thêm nữa, chính bằng chứng khảo cổ học trở nên ngày càng mơ hồ, các lượng định mới đây có khuynh hướng ghi lại niên biểu vào triều đại thứ 18. Tên Ram-se xuất hiện trong XuXh 1:11 cũng có thể là kết quả của sự cập nhật hoá chủ biên của người sống các thế kỷ sau Môi-se, phương thức có lẽ giải thích cho sự xuất hiện cùng một từ Ram-se trong SaSt 47:11 (xem chú thích ở đây). Tóm lại, chẳng có lý do nào để bắt buộc thay đổi niên đại truyền thuyết định cho cuộc xuất hành của người Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà nô lệ Ai Cập là 1.446 TC. Tuyến đường Xuất Ê-díp-tô: Ít nhất cũng có ba đường đào thoát từ Phi-thom và Ram-se (XuXh 1:11) được đề ra : (1) Tuyến đường phía Bắc đi ngang qua đất Phi-li-tin (nhưng xem 13:17) (2) Tuyến đường giữa dẫn về hướng đồng bằng qua Si-nai đến Bê-e-sê-ba và (3) Tuyến đường hướng nam dọc theo duyên hải phía tây của Si-nai đến cực điểm đông nam của bán đảo. Tuyến đường hướng nam hợp lý hơn cả, vì nhiều vị trí trong hành trình Y-sơ-ra-ên vượt qua sa-mạc đã được nhận biết dọc theo đó. Tuy nhiên, chỗ chính xác mà dân Y-sơ-ra-ên vượt qua “Biển Đỏ” không rõ (hãy xem chú thích ở XuXh 13:18; 14:2). Những chủ đề và thần học: Xuất Ê-díp-tô ký đặt một nền tảng Thần học trong đó Đức Chúa Trời bày tỏ danh Ngài, các thuộc tánh Ngài, luật pháp Ngài và cách thờ phượng Ngài. Sách cũng thuật lại về sự chỉ định và công tác người trung bảo (Môi-se) của giao ước đầu tiên, mô tả những sự khởi đầu của chức Tế lễ, định nghĩa vai trò của tiên tri và mối liên hệ của giao ước cũ giữa Đức Chúa Trời và tuyển dân Ngài đạt được dưới nền quản trị mới như thế nào (giao ước Si-nai). Nhưng sự hiểu biết sâu sắc về bản tánh của Đức Chúa Trời được thấy trong các chương 3,6,33 và 34. Tiêu điểm các bản văn này là nhắm vào sự kiện và tầm quan trọng sự hiện diện của Chúa (như ý nghĩa của danh Yahweh và vinh hiển của Ngài), nhưng cũng nhấn mạnh trên các thuộc tánh công bình, chân thật, thương xót, thành tín và thánh khiết của Ngài. Như thế, biết “danh Đức Chúa Trời tức là biết Ngài và biết đặc tính Ngài” (xem XuXh 3:13-15; 6:3).
  • 9. Đức Chúa Trời cũng là Chúa của lịch sử, vì chẳng có ai giống như Ngài “trong sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài, đáng sợ, đáng khen, hay làm các phép lạ” (15:11). Chẳng hề có sự khốn khổ nào của dân Y-sơ-ra-ên, cũng không có tai vạ nào giáng trên Ai Cập ở ngoài tầm kiểm soát của Chúa. Pha-ra-ôn, người Ai Cập và dân Y-sơ-ra-ên đều thấy quyền năng của Đức Chúa Trời . Thật vững lòng khi biết Đức Chúa Trời nhớ và quan tâm đến dân sự của Ngài (xem 2:24). Điều Ngài đã hứa hàng mấy thế kỷ trước với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp bây giờ Ngài khởi sự đem lại kết quả như Y-sơ-ra-ên được giải phóng khỏi sự nô lệ Ai Cập và lên đường vào đất hứa. Giao ước tại Si- nai là một bước khác trong sự ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời hứa cùng các tổ phụ (3:15-17; 6:2-8; 19:3-8). Cũng một lẽ ấy, thần học về sự cứu rỗi là điểm nhấn mạnh trong cả sách. Động từ “cứu chuộc” được dùng trong 6:6; 15:13. Nhưng trung tâm của thần học cứu chuộc được thấy rõ nhất trong chuyện lễ Vượt Qua ở 12:1-51 và sự niêm ấn giao ước trong 24:1-18. Sứ đồ Phao-lô nhìn thấy sự chết của chiên con lễ Vượt Qua được ứng nghiệm trong Chúa Cứu thế (ICo1Cr 5:7). Thật thế, Giăng Báp Tít đã gọi Chúa Giê-xu là “Chiên con của Đức Chúa Trời, Người tẩy sạch tội lỗi nhân loại” (GiGa 1:29). Nền tảng luân lý và đạo đức Thánh Kinh được trình bày trước hết trong bản tính nhân từ của Đức Chúa Trời như đã bày tỏ trong chính cuộc xuất hành và kế đó trong Mười Điều Răn (XuXh 20:1-17) cũng như các sắc lệnh của sách Giao ước (XuXh 20:22-23:33), dạy dân Y-sơ-ra-ên cách áp dụng thực tiễn những nguyên tắc của các mạng lệnh. Sách kết thúc với sự thảo luận kỹ lưỡng về thần học thờ phượng. Dầu tốn thì giờ, công sức và giá trị tiền bạc, Đền tạm, trong ý nghĩa và chức năng, chỉ rõ cứu cánh chủ yếu của con người là: “Làm sáng danh Đức Chúa Trời và vui hưởng trong Ngài mãi mãi” (Giáo lý Westminster tóm tắt). Nhờ Đền tạm, Đức Chúa Trời toàn năng, bất biến và siêu nghiệm của cả vũ trụ đã đến “ở” và “đóng trại tạm thời” giữa dân Ngài, do đó cũng bày tỏ rõ ràng sự thân cận đầy ân điển của Chúa. Đức Chúa Trời không chỉ toàn năng vì cớ dân Y-sơ- ra-ên, mà Ngài cũng hiện diện ở giữa họ nữa. Tuy nhiên, những yếu tố thần học không phải chỉ ở cạnh nhau trong câu chuyện xuất hành. Những yếu tố đó còn nhận ý nghĩa phong phú và đầy đủ nhất từ sự kiện được gắn liền vào câu chuyện Đức Chúa Trời dấy lên tôi tớ Ngài là Môi-se (1) để giải phóng tuyển dân Ngài khỏi vòng nô lệ Ai Cập, (2) mở đầu vương quốc trên đất của Ngài giữa vòng họ bằng cách đem họ vào giao ước quốc gia đặc biệt với Ngài và (3) dựng Vương trại của Đức Chúa Trời trong Y-sơ-ra-ên. Câu chuyện cứu chuộc khỏi vòng nô lệ này dẫn đến Vương trại của Đức Chúa Trời trên đất. Tất cả suốt qua chức vụ của vị
  • 10. Trung bảo được chọn, tiết lộ mục đích của Đức Chúa Trời trong lịch sử - mục đích mà Ngài sẽ làm ứng nghiệm qua dân Y-sơ-ra-ên, và cuối cùng qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Trung bảo tối cao vậy. Bố cục: I. Sự Cứu chuộc Thiên thượng (XuXh 1:1-18:27) A. Sự “sinh sôi thêm nhiều” được ứng nghiệm (1:1-22) 1. Sự tăng thêm như đã hứa (1:1-7) 2. Cuộc tàn sát thứ nhất (1:8-14) 3. Cuộc tàn sát thứ hai (1:15-21) 4. Cuộc tàn sát thứ ba (1:22) B. Chuẩn bị cho sự giải phóng (2:1-4:26) 1. Chuẩn bị một nhà lãnh đạo (2:1-10) 2. Tăng thêm thời gian chuẩn bị (2:11-22) 3. Chuẩn bị dân chúng (2:23-25) 4. Kêu gọi “Người giải phóng” (3:1-10) 5. Trả lời những phản đối không thích đáng (3:11-4:17) 6. Chuẩn bị một gia đình Nhà lãnh đạo (4:18-26) C. Những việc đầu tiên trong việc lãnh đạo (4:27-7:5) 1. Được tăng cường bởi anh em (4:27-31) 2. Cự tuyệt bởi các kẻ thù nghịch (5:1-14) 3. Cự tuyệt bởi những người đồng cảnh ngộ nô lệ (5:15-21) 4. Những phản đối cũ lại đến (5:22-23) 5. Được tăng cường bởi danh Đức Chúa Trời (6:1-8) 6. Được nhắc nhở về những căn nguyên hèn hạ (6:9-7:5) D. Đoán phạt và cứu rỗi qua các tai vạ (7:6-11:10) 1. Giới thiệu các dấu chỉ thẩm quyền thiên thượng (7:6-13) 2. Tai vạ thứ nhất : nước biến thành máu (7:14-24) 3. Tai vạ thứ hai: Ếch nhái (7:25-8:15) 4. Tai vạ thứ ba: Muỗi (8:16-19) 5. Tai vạ thứ tư : Ruồi mòng (8:20-32) 6. Tai vạ thứ năm: Dịch súc vật (9:1-7) 7. Tai vạ thứ sáu: Ghẻ chốc (9:8-12) 8. Tai vạ thứ bảy: Mưa đá (9:13-35) 9. Tai vạ thứ tám: Châu chấu (10:1-20) 10. Tai vạ thứ chín: Tối tăm (10:21-29) 11.Báo trước tai vạ thứ mười: Sự chết của con đầu lòng (11:1-10) E. Lễ Vượt Qua (12:1-28) 1. Chuẩn bị cho lễ Vượt Qua (12:1-13) 2. Chuẩn bị lễ Bánh không men (12:14-20) 3. Cử hành lễ Vượt-qua (12:21-28)
  • 11. F. Sự xuất hành từ Ai Cập (12:29-51) 1. Sự chết lúc nửa đêm (12:29-32) 2. Trục xuất khỏi Ai Cập (12:33-42) 3. Những điều luật về lễ Vượt Qua (12:43-51) G. Sự dâng hiến con đầu lòng (13:1-16) H. Vượt qua Biển Đỏ (13:17-15:21) 1. Vào đồng vắng (13:17-22) 2. Tại Biển Đỏ (14:1-14) 3. Vượt qua Biển Đỏ (14:15-31) 4. Bài ca tại biển (15:1-21) I. Hành trình tới Si-nai (15:22-18:27) 1. Nước tại Ma-ra (15:22-27) 2. Ma-na và chim cút (16:1-36) 3. Nước tại Mê-ri-ba (17:1-7) 4. Chiến trận với A-ma-léc (17:8-16) 5. Sự khôn ngoan của Giê-trô (18:1-27) II. Giao ước tại Si-nai (19:1-24:18) A. Giao ước được đề xuất (19:1-25) B. Mười điều răn (20:1-17) C. Phản ứng của dân chúng đối với sự hiện diện bằng lửa của Đức Chúa Trời (20:18-21) D. Sách của Giao ước (20:22-23:33) 1. Lời mở đầu (20:22-26) 2. Luật về tôi mọi (21:1-11) 3. Luật về tội sát nhân (21:12-17) 4. Luật về gây thương tích thân xác (21:18-32) 5. Luật về thiệt hại của cải riêng (21:33-22:15) 6. Luật về xã hội (22:16-31) 7. Luật về sự công bình và láng giềng (23:1-9) 8. Luật về các mùa lễ thánh (23:10-19) 9. Lời kết thúc (23:20-33) E. Sự phê chuẩn giao ước (24:1-18) III. Sự thờ phượng Thiên thượng (25:1-40:38) A. Những huấn thị về Đền tạm (25:1-31:18) 1. Sự quyên góp vật liệu (25:1-9) 2. Rương giao ước và nắp thi ân (25:10-22) 3. Bàn bánh Trần thiết (25:23-30) 4. Chân đèn (25:31-40) 5. Màn chắn và khung (26:1-37) 6. Bàn thờ Của lễ thiêu (27:1-8)
  • 12. 7. Hành lang (27:9-19) 8. Chức vụ tế lễ (27:20-28:5) 9. Áo thầy tế lễ (28:6-43) 10. Lễ tấn phong thầy tế lễ (29:1-46) 11. Bàn thờ xông hương (30:1-10) 12. Thuế đinh (30:11-16) 13. Thùng bằng đồng (30:17-21) 14. Dầu xức và hương liệu (30:22-38) 15. Chỉ định những thợ khéo (31:1-11) 16. Nghỉ ngày Sa-bát (31:12-18) B. Sự thờ phượng sai lạc (32:1-34:35) 1. Bò con vàng (32:1-29) 2. Sự hòa giải của Môi-se (32:30-35) 3. Sự hăm dọa ly khai và lời cầu thay của Môi-se (33:1-23) 4. Sự tái lập giao ước (34:1-35) C. Xây dựng Đền tạm (35:1-40:38) 1. Kêu gọi xây dựng (35:1-19) 2. Những của dâng tình nguyện (35:20-29) 3. Bết-sa-lê-ên và các công nhân của người (35:30-36:7) 4. Công tác tiến triển (36:8-39:31) 5. Lời chúc phước của Môi-se (39:32-43) 6. Dựng Đền tạm (40:1-33) 7. Lễ Khánh thành Đền Tạm (40:34-38) Dẫn nhập Lê-vi ký Trước giả và niên hiệu: Xem chú thích ở LeLv 1:1 và Phần dẫn nhập Sáng-thế-ký: Trước Giả và Niên Hiệu Chép Sách. Nhan đề: Sách Lê-vi ký được đặt tên từ bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) và có nghĩa “sự liên hệ tới người Lê-vi”. Nhan đề Hê-bơ-rơ Wayyiqra’, là chữ đầu trong bản văn Hê-bơ-rơ, và có nghĩa “và Chúa (tức là Đức Giê-hô- va) đã gọi”. Dầu Lê-vi ký không chỉ giải quyết những phận sự của người Lê- vi, nhưng sách được gọi bằng tên đó vì quan tâm chủ yếu đến sự phục vụ thờ phượng tại Đền Tạm, được điều hành bởi các thầy tế lễ là các con trai A-rôn và được nhiều người còn lại thuộc chi phái Lê-vi phụ tiếp. Xuất Ê-díp-tô ký ghi chỉ thị xây dựng Đền Tạm, và bây giờ Lê-vi ký ghi luật pháp và những qui định thờ phượng kể cả những chỉ thị về sự tinh sạch theo lễ nghi, luật đạo đức, những ngày thánh, năm Sa-bát và năm Hân hỉ. Những luật pháp đã
  • 13. được ban bố, ít nhất là phần lớn, trong năm dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại núi Si-nai, khi Đức Chúa Trời chỉ đạo Môi-se việc tổ chức sự thờ phượng của Y-sơ-ra-ên, sự cai quản và lực lượng quân sự của Y-sơ-ra-ên. Sách Dân-số- ký tiếp tục lịch sử với những chuẩn bị việc tiếp tục di chuyển từ núi Si-nai đến xứ Ca-na-an. Chủ đề: Tư tưởng chủ yếu của Lê-vi ký là sự thánh khiết (xem chú thích ở 11:44) - sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và con người (con người phải tôn kính Đức Chúa Trời trong “sự thánh khiết”). Trong Lê-vi ký sự thánh khiết thuộc linh được tiêu biểu bằng sự trọn vẹn thuộc thể. Do đó sách đòi hỏi những thú vật toàn vẹn làm của lễ (1:1-7:38), đòi hỏi các thầy tế lễ không có dị dạng (8:1-10:20). Một phụ nữ xuất huyết sau khi sanh con (làm băng) (12:1-8), mụn nhọt, vết phỏng hoặc hói (13:1-14:57), người nam bị bệnh bạch trược (15:1-18), những việc liên quan đến thời kỳ người nữ có kinh nguyệt (15:19- 33) - mọi dấu hiệu tật nguyền (không toàn vẹn) có thể tiêu biểu cho nhược điểm thuộc linh của người nam, phá vỡ sự toàn vẹn thuộc linh. Người có bịnh ngoài da thấy được phải bị đuổi ra ngoài trại quân, nơi có sự hiện diện đặc biệt của Đức Chúa Trời, như A-đam và Ê-va bị trục xuất khỏi vườn Ê- đen. Người như thế có thể trở lại trại quân (và đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời) khi được các thầy tế lễ khám nghiệm và tuyên bố đã lành lặn. Tuy nhiên, trước khi người có thể trở vào lại trại quân, người ấy phải dâng lễ vật toàn vẹn như lịnh truyền (tượng trưng sinh tế toàn hảo của Chúa Cứu Thế). Sau giao ước tại Si-nai, Y-sơ-ra-ên là Đại diện vương quốc Đức Chúa Trời trên đất (chế độ Thần quyền), và vua của họ tức Đức Giê-hô-va thiết lập nền hành chánh của Chúa trên toàn bộ cuộc sống Y-sơ-ra-ên. Nếp sống riêng tư cộng đồng và tôn giáo của Y-sơ-ra-ên được qui định như vậy để lập họ làm dân thánh của Đức Chúa Trời và để dạy họ sự thánh khiết. Chúa đặc biệt chú ý việc ban cho Y-sơ-ra-ên nghi lễ tôn giáo. Các sinh tế phải dâng ở nơi thánh được chấp thuận, tượng trưng cả sự thánh khiết và thương xót của Thượng Đế. Các sinh tế phải được thầy tế lễ, là những người bởi sự chăm sóc và chỉ thị sẽ bảo toàn sinh tế trong sự thánh khiết, kiểm soát và cẩn thận dạy cho dân chúng biết ý nghĩa của sinh tế. Mỗi sinh tế đặc biệt phải có ý nghĩa cho dân Y-sơ-ra-ên nhưng cũng có nội dung tượng trưng và thuộc linh. Muốn thêm chi tiết về ý nghĩa lễ vật nói chung, xin xem nghi lễ trang nghiêm của Ngày Đại Lễ Chuộc Tội (16:1-34). Về ý nghĩa huyết của lễ vật xem 17:11; SaSt 9:4. Về nhấn mạnh sự thay thế, xem LeLv 16:21. Có người giả định rằng những sinh tế Cựu Ước là những thứ còn lại của lễ vật nông nghiệp xưa - một người muốn dâng một phần các của cải như là tặng phẩm thương yêu cho thần linh. Nhưng những lễ vật Cựu Ước được
  • 14. Đức Chúa Trời đặc biệt qui định và nhận ý nghĩa của nó từ sự liên hệ giao ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên - dù là bề ngoài có giống như những của lễ ngoại giáo. Quả thật những lễ vật có hàm ý tặng phẩm, nhưng cũng kèm theo các giá trị khác như phụng hiến, thông công, tế lễ vãn hồi (làm nguôi cơn giận công bằng của Đức Chúa Trời nghịch với tội) và bồi thường. Các lễ vật khác nhau có các chức năng khác nhau mà chức năng chính là chuộc tội (xem chú thích ở XuXh 25:17) và thờ phượng. Bố cục: Những chủ đề luận đến trong Lê-vi ký, như bất cứ sách luật pháp và điều lệ nào đều bao hàm nhiều phạm trù: I. Năm tế lễ chính (LeLv 1:1-7:38) A. Nội dung, mục đích và kiểu cách của tế lễ (1:1-6:7) B. Những điều lệ phụ thêm (6:8-7:38) II. Sự tấn phong, thiết lập và công tác của A-rôn và các con trai người (8:1- 10:20) III. Luật về sự tinh sạch - thực phẩm, sinh đẻ và nhiễm độc v.v... (11:1- 15:33) IV. Ngày Đại lễ chuộc tội và vị trí trung tâm của sự thờ phượng tại Đền Tạm (16:1-17:16) V. Sự giải thích luật đạo đức: tội loạn luân, tính lương thiện, trộm cắp, thờ hình tượng,v.v... (18:1-20:27) VI. Những qui định cho các thầy tế lễ, những sinh tế và các lễ hằng năm (21:1-24:9). VII. Hình phạt tội phạm thượng, sát nhân v.v... (24:10-23) VIII. Năm Sa-bát, Năm Hân hỉ, Đất phát canh và cải cách chế độ nô lệ (25:1-55) IX. Những phúc lành và rủa sả đối với sự tuân thủ và bất tuân giao ước (26:1-46) X. Các điều lệ về lễ vật hứa nguyện dâng Chúa (27:1-34) Dẫn nhập Dân số ký Nhan đề: Tên tiếng Anh của sách đến từ bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy Lạp) và được căn cứ trên các bản liệt kê kiểm tra dân số trong các Dan Ds 1:1-54 và 26:1-65. Nhan đề sách bằng tiếng Hê-bơ-rơ (bemidbar, “trong đồng vắng”) mô tả nội dung của sách nhiều hơn. Dân số ký trình bày câu chuyện dân Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong đồng hoang 38 năm sau khi thiết lập giao ước Si-nai (so sánh 1:1 với PhuDnl 1:1). Trước giả và niên đại:
  • 15. Theo truyền thuyết sách được Môi-se chép. Kết luận này căn cứ trên (1) Những lời phát biểu về hoạt động viết sách của Môi-se (thí dụ, Dan Ds 33:1- 2; XuXh 17:14; 24:4; 34:27) và (2) Sự thừa nhận năm sách đầu tiên của Thánh Kinh (Ngũ kinh) là một và do một trước giả. Xem Phần giới thiệu Sáng thế ký: Trước giả và Niên đại Chép sách. Tuy nhiên không cần phải nhận rằng: toàn bộ Dân số ký do chính tay Môi-se viết, và trong hình thức cuối cùng. Có các phần của sách có lẽ đã được thêm vào bởi các viên ký lục và các chủ biên vào những thời kỳ sau này của lịch sử Y-sơ-ra-ên. Thí dụ, sự long trọng xác nhận tánh khiêm hòa của Môi-se (Dan Ds 12:3) thật khó thuyết phục nếu đến từ chính miệng Môi-se. Nhưng dường như hợp lý để chắc chắn rằng Môi-se đã viết nội dung chính yếu của sách. Nội dung: Dân số ký thuật lại câu chuyện hành trình của Y-sơ-ra-ên từ núi Si-nai đến những đồng bằng Mô-áp trên biên giới xứ Ca-na-an. Phần lớn sự ban hành luật pháp cho dân chúng và thầy tế lễ đều tương tự như trong Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi-ký và Phục truyền luật lệ ký. Sách nói về sự lằm bằm và phản loạn của dân Chúa và về sự đoán phạt theo sau đó. Những người mà Chúa đã cứu chuộc khỏi ách nô lệ xứ Ê-díp-tô và Chúa đã lập giao ước với họ tại núi Si- nai, đã không đáp ứng bằng đức tin, lòng biết ơn và thuận phục, nhưng bằng sự vô tín, vong ân và tái diễn những hành động loạn nghịch, đến mức đã biểu thị cực độ trong sự từ chối chinh phục xứ Ca-na-an (14:1-45). Cộng đồng người được chuộc để mất phần của họ trong Đất hứa. Họ bị phạt phải sống ngoài đồng hoang, chỉ con cháu họ được hưởng sự ứng nghiệm lời hứa mà nguyên là thuộc về họ (xem HeDt 3:7-4:11). Sự dạy dỗ về thần học: Trong khi thuật chuyện Y-sơ-ra-ên lang thang trong đồng hoang, Dân số ký cống hiến nhiều điều có ý nghĩa thần học. Trong năm đầu tiên, sau khi được phóng thích khỏi Ê-díp-tô, Y-sơ-ra-ên bước vào giao ước với Chúa tại Si-nai để làm dân thuộc vương quốc của Ngài. Chúa đóng vương trại Ngài ở giữa họ (Đền Tạm) - Đây là câu chuyện của Xuất Ê-díp-tô ký. Khi câu chuyện Dân số ký bắt đầu, Đức Giê-hô-va tổ chức Y-sơ-ra-ên thành một doanh trại quân đội. Rời Si-nai, Y-sơ-ra-ên tiến tới như một đạo quân chinh phục, với Đức Giê-hô-va đứng đầu, để lập vương quốc của Ngài trong Đất Hứa, giữa các dân tộc. Sách mô tả cách sinh động đặc tính của Y-sơ-ra-ên là dân giao ước được cứu chuộc của Chúa, và được gọi đến làm một dân phục vụ Đức Chúa Trời, đảm trách việc lập vương quốc Ngài trên đất. Mục đích của Đức Chúa Trời trong lịch sử được bày tỏ rõ rệt: để tràn chiếm phạm vi hoạt động của nhân loại sa ngã và thực hiện sự cứu chuộc tạo vật của Chúa - sứ mạng mà dân Ngài cũng phải hoàn toàn cam kết.
  • 16. Dân số ký cũng trình bày cơn giận của Đức Chúa Trời nghịch lại dân không vâng phục của Chúa. Vì cớ sự loạn nghịch (đặc biệt là từ chối chinh phục xứ Ca-na-an), Y-sơ-ra-ên đã vi phạm giao ước. Sách thứ tư của Ngũ kinh trình bày một sự thật đúng mức: Đức Chúa Trời, Đấng đã lập giao ước với Áp-ra- ham (SaSt 15:1-21; 17:1-27), đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ trong cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô (XuXh 14:1-15:27), đã đem Y-sơ-ra-ên vào giao ước với chính Ngài làm “sở hữu qúi giá” thuộc riêng về Ngài (XuXh 19:1-22, đặc biệt 19:5), và đã bày tỏ sự thánh khiết của Ngài và phương pháp ân điển đến gần Ngài (LeLv 1:1-7:38), cũng là Đức Chúa Trời của sự thạnh nộ. Cơn giận của Chúa giáng trên những con lầm lạc cũng như trên các nước thù nghịch là Ê-díp-tô và Ca-na-an. Thậm chí cả Môi-se, tiên tri và tôi tớ quan trọng của Chúa cũng không được miễn trừ khỏi cơn giận của Chúa khi ông bất tuân lời Ngài. Dan Ds 20:1-29 ghi chép lỗi lầm của ông, khởi sự với sự qua đời của Mi-ri-am (20:1) và kết thúc với sự qua đời của A-rôn (20:22-29). Đây là sự qua đi của những chiến sĩ kỳ cựu. Những người mà Chúa đã dùng lập quốc gia đang chết trước khi được gia nhập quốc gia đó. Những thắc mắc nêu lên là: Đức Chúa Trời có hoàn toàn từ bỏ dân Ngài không (xem RoRm 11:1)? Những lời hứa của Chúa chỉ là việc của quá khứ rồi chăng? Tại một trong các phần Thánh Kinh đáng chú ý - câu chuyện Ba- la-am, nhà bói khoa ngoại giáo (Dan Ds 22:1-24:25) - có lời đáp rõ ràng. Đức Giê-hô-va đang hành động bằng đường lối thần hựu và trực tiếp, tuyên bố Chúa vẫn thành tín với mục đích của Ngài đối với dân của Ngài mặc dầu họ thất tín với Ngài. Ba-la-am là câu trả lời của Mô-áp cho Môi-se, người của Đức Chúa Trời. Ba-la-am là vị tiên tri nổi tiếng trong thế giới xưa đã chia sẻ niềm tin ngoại giáo rằng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên giống như các thần khác có thể điều động bằng ma thuật hay phù phép. Nhưng từ đầu câu chuyện, khi Ba-la- am lần đầu tiên chạm trán với Đức Chúa Trời Chân thần trong các dị tượng, và trong chuyện hành trình trên lưng lừa (22:1-41), ông khởi sự học biết rằng đối phó với Đức Chúa Trời Chân thần hoàn toàn khác hẳn với những gì ông đã từng biết. Khi ông cố gắng rủa sả Y-sơ-ra-ên theo lời đốc thúc của Ba-lác, vua Mô-áp, Ba-la-am thấy miệng mình không thể thốt ra lời nguyền rủa mà người muốn công bố. Thay vào đó, từ môi miệng ông những phước lành đến trên Y-sơ-ra-ên và lời nguyền rủa đến trên kẻ thù của dân ấy (23:1- 24:25). Trong bảy lời sấm, Ba-la-am công bố Đức Chúa Trời ban phước lớn cho dân Ngài (xem 23:20). Dầu sự hưởng phước lành trực tiếp sẽ luôn luôn tùy thuộc vào sự trung tín của dân Ngài, nhưng sự thực hiện cơ bản phước lành của Đức Chúa Trời là chắc chắn - vì bản tánh của Đức Chúa Trời (xem 23:19).
  • 17. Như thế, Dân số ký tái xác quyết những mục đích đang tiến hành của Đức Chúa Trời. Mặc dầu Chúa đoán phạt dân phản loạn, Ngài vẫn quyết tâm đem Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa. Phước lành Chúa ban cho phần còn lại của Y-sơ- ra-ên dựa trên ý chỉ tối cao Ngài. Sự dạy dỗ của sách là ý nghĩa sau cùng đối với dân Y-sơ-ra-ên và Hội thánh (so RoRm 15:4; ICo1Cr 10:6,11). Đức Chúa Trời bày tỏ cơn giận nghịch cùng dân sai lạc, nhưng ân điển của Ngài đã phục hồi chắc chắn như buổi đầu và mục đích cứu chuộc của Ngài sẽ không bị phá hỏng. Vấn đề đặc biệt: Những con số lớn người nhập ngũ trong đạo binh Y-sơ-ra-ên làm rối trí các họ giả hiện đại (xem thí dụ, những con số trong Dan Ds 1:46; 26:51). Những nam đinh họp lại để chiến trận đòi hỏi một tổng số dân trên 2 triệu người. Những con số như vậy thật quá lớn cho thời đó, cho nơi xảy ra sự việc, cho việc lang thang nơi đồng hoang và so sánh với dân cư trong Ca-na-an. Xem chú thích ở 3:43. Có những khả năng khác nhau được gợi ý để giải quyết vấn đề. Có người nghĩ rằng các con số khi truyền lại đã sai lạc. Tuy nhiên, bản văn hiện nay không để lộ ra những khó khăn về những con số. Một số người khác nghĩ rằng từ Hê-bơ-rơ dùng cho “ngàn” ở đây có thể có ý nghĩa khác với ý nghĩa thông thường của nó. Thí dụ, trong vài phân đoạn, chữ này là danh từ kỹ thuật dùng cho một hội đoàn người nam có thể hoặc xấp xỉ 1.000 (thí dụ, Gios Gs 22:14 “trưởng tộc của hàng ngàn” (chi họ gia tộc), ISa1Sm 23:23, “thị tộc”). Hơn nữa có người mặc nhận rằng từ Hê-bơ- rơ này có nghĩa là “trưởng tộc” (như trong SaSt 36:15). Bằng cách này con số 53.400 (Dan Ds 26:47) sẽ có nghĩa là “53 trưởng tộc cộng với 400 người”. Theo phương thức đó sẽ dẫn đến một tổng số giảm sút rất nhiều, nhưng nó cũng không ăn khớp với sự kiện là bản văn Hê-bơ-rơ thêm “hàng ngàn” cũng như cách thêm “hàng trăm” cho một tổng số lớn. Lại nữa, điều này sẽ làm cho sự cân đối các trưởng tộc với những nam đinh chiến đấu trở thành đầu nặng đuôi nhẹ (59 trưởng tộc cho 300 nam đinh trong chi phái Si- mê-ôn). Một nhiệm ý khác là đọc từ Hê-bơ-rơ dùng cho “ngàn” với một nghĩa kép vừa là “trưởng tộc” vừa là “ngàn” với những trưởng tộc là một, trừ khỏi số đã được ghi nhận. Thí dụ, 46.500 trong chi phái Ru-bên (1:20), thì đọc là 45 trưởng tộc với 1.500 nam đinh chiến đấu. 59.300 thuộc chi phái Si-mê-ôn (1: 23) thì đọc là 58 trưởng tộc và 1.300 nam đinh chiến đấu v.v… Nhưng trong trường hợp này, cũng như trường hợp trên, những tổng số của 1:46 và 2:32 phải được coi là những kiến thức sai lầm (có lẽ bởi các ký lục đời sau). Cũng còn một lối đề cập khác là coi các con số chỉ là số tượng trưng chớ không phải hoàn toàn theo toán học. Giá trị số mục của các chữ cái Hê-bơ-rơ
  • 18. trong thành ngữ bene yisra’el (“cộng đồng Y-sơ-ra-ên”, 1:2) là 603 ( số hàng ngàn người nam chiến đấu, 1:46), số còn lại là 550 (cộng 1 cho Môi-se) có thể đạt đến số tương đương với những chữ cái Hê-bơ-rơ trong thành ngữ “tức là mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được” (1:3). Lối dùng số biểu tượng này (gọi là “gematria”) không phải Thánh Kinh không biết tới (xem KhKh 13:18), nhưng không chắc đúng vậy trong Dân số ký, trong đó không hề có manh mối văn học nào chỉ về hướng đó. Trong khi vấn đề con số lớn không thể giải quyết thỏa đáng, Thánh Kinh thật chỉ thẳng vào sự gia tăng đáng kể của dòng dõi Gia-cốp qua bốn thế kỷ kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô (xem XuXh 1:7-12). Với tất cả những khó khăn các con số này cũng chỉ đến vai trò quan trọng của thần hựu và những phép lạ Đức Chúa Trời tiếp xúc với dân Ngài trong khi họ lưu lạc trong đồng hoang (xem chú thích ở Dan Ds 1:46). Cấu trúc và bố cục: Sách có ba phần chính căn cứ vào những vị trí địa lý của Y-sơ-ra-ên. Mỗi phần lại có hai phần nhỏ, như chứng minh sau đây: (1) Y-sơ-ra-ên tại Si-nai, chuẩn bị khởi hành vào Đất Hứa (1:1-10:10), tiếp theo là cuộc hành trình từ Si-nai đến Ca-đe (10:11-12:16). (2) Y-sơ-ra-ên tại Ca-đe, sự chậm trễ là kết quả của sự phản loạn (13:1-20:13), tiếp theo là cuộc hành trình từ Ca-đe đến các đồng bằng Mô-áp (20:14-22:1). (3) Y-sơ-ra-ên tại đồng bằng Mô-áp, trù liệu chinh phục Đất Hứa (22:2-32:42), tiếp theo là những phụ đính về các vấn đề khác nhau (33:1-36:13) I. Y-sơ-ra-ên tại Si-nai. Chuẩn bị khởi hành vào Đất Hứa (1:1-10:10) A. Các mệnh lệnh kiểm tra dân số (1:1-4:49) 1. Số người nam từ mọi chi phái tập hợp để ra trận (1:1-54) 2. Sự sắp đặt các chi phái ở chung quanh Đền Tạm và thứ tự tiến hành (2:1- 34) 3. Sự sắp đặt những người Lê-vi quanh Đền Tạm, và số người Lê-vi cùng các con đầu lòng Y-sơ-ra-ên (3:1-51) 4. Số người Lê-vi ở trong Đền Tạm phục vụ Đức Giê-hô-va (4:1-49) B. Các mạng lịnh về sự thanh tẩy dân sự (5:1-10:10) 1. Thử nghiệm về sự trong sạch trong luật về ghen tương (5:1-31) 2. Hứa nguyện Na-xi-rê và sự chúc phước của A-rôn (6:1-27) 3. Tế lễ của 12 quan trưởng tại lễ Khánh thành Đền Tạm (7:1-69) 4. Sắp đặt đèn và sự biệt riêng người Lê-vi (8:1-26) 5. Giữ Lễ Vượt qua (9:1-14) 6. Trụ mây bao phủ và những ống loa bằng bạc (9:15-10:10) II. Hành trình từ Si-nai đến Ca-đe (10:11-12:16) A. Khởi sự cuộc hành trình (10:11-36) B. Khởi sự những buồn thảm: Lửa và chim cút (11:1-35)
  • 19. C. Sự phản đối của Mi-ri-am và A-rôn (12:1-16) III. Y-sơ-ra-ên ở Ca-đe, sự chậm trễ do việc phản loạn (13:1-20:13) A. Mười hai thám tử và những báo cáo hỗn hợp về Đất Lành (13:1-33) . B. Sự phản loạn của dân sự nghịch cùng mạng lịnh của Đức Chúa Trời, và sự thất bại của họ (14:1-45) C. Bộ luật về các tế lễ, ngày Sa-bát và tua áo (15:1-41) D. Sự phản loạn của Cô-rê và đồng bọn (16:1-49) E. Cây gậy trổ hoa của A-rôn: một dấu của sự phản loạn (17:1-13) F. Về các thầy tế lễ, nghĩa vụ và sự cấp dưỡng họ (18:1-32) G. Con bò sắc hoe và nước tẩy uế (19:1-32) H. Tội của Môi-se (20:1-13) IV. Hành trình từ Ca-đe đến đồng bằng xứ Mô-áp (20:14-22:1) A. Sự kháng cự của Ê-đôm (20:14-21) B. Sự qua đời của A-rôn (20:22-29) C. Hủy diệt vua A-rát (21:1-3) D. Con rắn đồng (21:4-9) E. Bài ca bên giếng (21:10-20) F. Sự thất bại của Si-hôn và Óc (21:21-30) G. Y-sơ-ra-ên vào xứ Mô-áp (21:31-22:1) V. Y-sơ-ra-ên tại đồng bằng Mô-áp, dự định chiếm Đất Hứa (22:2-32:42) A. Ba-lác, Vua Mô-áp thuê Ba-la-am rủa sả Y-sơ-ra-ên (22:2-41) B. Ba-la-am chúc phước cho Y-sơ-ra-ên trong bảy lời sấm (23:1-24:25) C. Ba-anh Phê-ô và sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên (25:1-18) D. Kiểm tra dân số lần thứ hai (26:1-65) E. Những chỉ thị cho thế hệ mới (27:1-30:17) 1. Sản nghiệp cho phụ nữ (27:1-11) 2. Người kế vị Môi-se (27:12-23) 3. Những mạng lịnh về các sinh tế (28:1-15) 4. Mạng lịnh về các ngày lễ (28:16-29:40) 5. Mạng lịnh về những lời hứa nguyện (30:1-17) F. Chiến trận nghịch cùng dân Ma-đi-an (31:1-54) G. Định cư các chi phái bên kia sông Giô-đanh (32:1-42) VI. Những phụ đính về các vấn đề khác nhau (33:1-36:13) A. Những giai đoạn của cuộc hành trình (33:1-56) B. Xứ sản nghiệp (34:1-35:34) C. Sản nghiệp cho phụ nữ (36:1-13) Dẫn nhập Phục Truyền Luật Lệ ký
  • 20. Nhan đề: Từ ngữ “Phục truyền luật lệ ký” nghĩa là “Lặp lại luật pháp” là tên sách cuối cùng của Ngũ Kinh, xuất phát từ sự dịch sai của bản LXX Hy Lạp và bản Vulgate La-tinh về một nhóm từ trong PhuDnl 17:18, mà trong tiếng Hê-bơ- rơ có nghĩa “bản sao luật pháp này”. Tuy nhiên sự lầm lẫn này không nghiêm trọng, vì Phục truyền luật lệ ký, theo một ý nghĩa, là sự lặp lại luật pháp (xem cấu trúc và bố cục). Tên Hê-bơ-rơ của sách là “elleh haddebarim” (“này là những lời”), hoặc đơn giản hơn, “debarim” (“những lời” xem 1:1). Trước giả: Chính sách nầy làm chứng rằng, phần lớn do Môi-se đã viết (1:5; 31:9,22,24) và các sách Cựu Ước khác đều đồng ý (IVua 1V 2:3; 8:53; IIVua 2V 14:6; 18:2) - dĩ nhiên lời mở đầu (PhuDnl 1:1-5) và sự ghi nhận về Môi-se qua đời (34:1-12), là do một người khác viết. Chúa Giê-xu cũng làm chứng thẩm quyền của Môi-se (Mat Mt 19:7-8; Mac Mc 10:3-5; GiGa 5:46- 47), các trước giả Tân Ước khác cũng vậy (Cong Cv 3:22-23; 7:37-38; RoRm 10:19). Hơn nữa, Chúa Giê-xu viện dẫn Phục truyền luật lệ ký như có thẩm quyền (Mat Mt 4:4,7,10). Trong Tân Ước hơn 100 lần viện dẫn và ám chỉ đến Phục truyền luật lệ ký. Truyền thuyết cũng nhất trí chứng cho thẩm quyền của Môi-se đối với sách (xem thí dụ, Mac Mc 12:9). Xem Phần Dẫn Nhập Sáng thế ký: Trước giả và Niên đại Chép Sách. Niên hiệu: Có lẽ sách có từ 1.406 TC (xem Phần Dẫn Nhập Sáng-thế-ký: Trước giả và Niên hiệu Chép sách). Bối cảnh lịch sử: Sách Phục truyền luật lệ ký định vị trí Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên trong lãnh thổ Mô-áp thuộc khu vực mà sông Giô-đanh đổ vào Biển Chết (PhuDnl 1:5). Là hành động cuối cùng vào thời gian quan trọng chuyển quyền lãnh đạo qua Giô-suê, Môi-se đọc diễn văn từ biệt để chuẩn bị cho dân chúng vào xứ Ca-na-an. Những bài này thật là sự làm mới lại giao ước (xem Cấu trúc và Bố cục). Trong các bài này, Môi-se nhấn mạnh rằng luật pháp là cần thiết đặc biệt cho một thời kỳ như thế, và người trình bày luật pháp trong một cách thích hiệp với tình huống. Trái với những việc thực tế của Lê-vi ký và Dân số ký, sách Phục truyền luật lệ ký từ tấm lòng Môi-se đến với chúng ta trong hình thức bài giảng bày tỏ cách riêng tư, nồng ấm. Sự dạy dỗ thần học: Sự liên hệ thương yêu của Chúa đối với dân Ngài và của dân sự đối với Chúa là Đức Chúa Trời tối cao của họ lan tỏa cả sách. Sự nhấn mạnh thuộc linh của Phục truyền và sự kêu gọi hứa nguyện dâng tất sanh cho Chúa trong sự thờ phượng, vâng phục đã cảm thúc việc tham khảo sứ điệp của sách
  • 21. trong suốt phần còn lại của Thánh Kinh. Cấu trúc và bố cục: Cấu trúc văn học của Phục truyền luật lệ ký yểm trợ cho bối cảnh lịch sử của sách. Bởi sự giải thích, lặp lại, phần hồi ký, và vài chỗ văn phong bất thường, sách bày tỏ một loạt ít nhiều bài thuyết trình ứng khẩu, đôi khi mô tả những biến cố không theo thứ tự niên đại (xem thí dụ, PhuDnl 10:3). Nhưng sách cũng mang cấu trúc những phê phán rõ ràng về các hòa ước bá chủ với chư hầu của những quốc gia Cận Đông trước và đương thời bấy giờ, một cấu trúc thích hợp với sự nhấn mạnh của Thánh Kinh về giao ước giữa Chúa và dân Ngài. Trong ý nghĩa này, Phục truyền luật lệ ký là một tài liệu làm mới lại (tái lập) giao ước như bố cục sau đây chứng tỏ: I. Lời tựa (1:1-5) II. Lời mở đầu lịch sử (1:6-4:43) III. Những qui định của giao ước (4:44-26:19) A. Điều luật lớn: Đòi hỏi phải tuyệt đối trung thành (4:44-11:32) B. Những đòi hỏi phụ thêm (12:1-26:19) 1. Sự dâng hiến theo nghi lễ (12:1-16:17) 2. Những nhà lãnh đạo chính quyền và một quốc gia công chính (16:18- 21:21) 3. Tính thiêng liêng của vương quốc Đức Chúa Trời (21:22-25:19) 4. Sự xưng nhận Đức Chúa Trời là Đấng cứu chuộc - Vua ( 26:1-19) IV. Sự phê chuẩn: Rủa sả và phước lành (27:1-30:20) V. Sự kế vị lãnh đạo dưới giao ước (31:1-34:12) A. Thay đổi quyền lãnh đạo (31:1-29) B. Bài ca của Môi-se (31:30-32:47) C. Lời chúc phước di cảo của Môi-se trên các chi phái (32:48-33:29) D. Sự qua đời của Môi-se và sự thừa kế của Giô-suê (34:1-12) Đôi khi sách cũng chia thành ba bài diễn văn: I. Bài diễn văn thứ nhất (1:1-4:43) II. Bài diễn văn thứ hai (4:44-28:68) III. Bài diễn văn thứ ba (29:1-33:29) IV. Sự qua đời của Môi-se (34:1-12) Dẫn nhập Giô-suê Nhan đề và chủ đề: Sách Giô-suê là truyện chinh phục và ứng nghiệm đối với con dân Đức Chúa Trời. Sau nhiều năm làm nô lệ tại Ai-cập và 40 năm trong đồng hoang, cuối cùng dân Y-sơ-ra-ên được vào đất đã hứa với tổ phụ họ. Áp-ra-ham, luôn luôn là người di trú, chẳng bao giờ sở hữu xứ mình đã được sai đến, nhưng
  • 22. người để lại cho con cháu di sản giao ước của Đức Chúa Trời khiến họ thành những người cuối cùng thừa-thọ cả xứ Ca-na-an (xem SaSt 15:13,16,18; 17:8). Giô-suê được vinh dự biến lời hứa thành sự thật. Sách Giô-suê bắt đầu chỗ Phục truyền luật lệ ký kết thúc: Các chi phái Y-sơ- ra-ên còn đóng trại bên phía đông sông Giô-đanh. Câu chuyện mở đầu với những mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền tiến tới và vượt qua sông như trên đất khô. Kế đó, sách thuật lại chuỗi chiến thắng ở miền Trung, Nam và Bắc Ca-na-an, khiến Y-sơ-ra-ên kiểm soát cả miền núi và vùng Negev. Sách tiếp tục với sự chia xứ cho các chi phái và kết thúc với lời cuối cùng của Giô-suê tỏ cùng dân sự. Do đó, chủ đề của sách là sự thiết lập Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa. Những năm thiếu thời của đời mình, Giô-suê được gọi là Hô-sê (Dan Ds 13:8,16), có nghĩa “sự cứu rỗi”. Nhưng sau này Môi-se đổi tên người là Giô- suê, nghĩa là “Đức Giê-hô-va cứu” (hoặc “Đức Giê-hô-va ban chiến thắng”). Cũng tên này (theo tiếng Hy Lạp là “Giê-xu”, xem chú thích ở Mat Mt 1:21) được đặt cho con trai đầu lòng của Ma-ri, đã trở thành Danh yêu quí hơn hết. Trong Thánh Kinh Hê-bơ-rơ, sách Giô-suê tiên khởi một phần gọi là các Tiền-tiên tri, gồm cả các Quan Xét, Sa-mu-ên và Các Vua - có toàn bộ nội dung lịch sử nhưng viết theo lập trường tiên tri. Những sách đó chép nhiều điều hơn là chỉ ghi lại sự phát triển quốc gia từ Môi-se cho đến nước Giu-đa sụp đổ năm 586 TC. Hết thảy đều giải thích cách tiên tri về đường lối giao ước của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên trong lịch sử - cách nào Chúa đã ứng nghiệm và giữ vững lời hứa của Ngài (đặc biệt qua các tôi tớ Ngài là Giô-suê, các Quan Xét, Sa-mu-ên và Đa-vít) và cách nào Chúa xử trí với sự lầm lạc của Y-sơ-ra-ên. Trong sách Giô-suê chính Chúa đã chiến thắng và “ban cho Y-sơ-ra-ên cả xứ Ngài thề hứa ban cho tổ phụ của họ” (Gios Gs 21:43). Trước giả và niên đại: Theo sự phán đoán của nhiều học giả, sách Giô-suê không được chép cho đến cuối thời kỳ Các Vua, chừng 800 năm sau khi các sự việc thật đã xảy ra. Nhưng có nhiều lý do để thắc mắc có ý nghĩa đối với kết luận này, và định thời gian chép sách sớm hơn nhiều. Các truyền thuyết Do Thái sớm nhất (Talmud) xưng nhận rằng chính Giô-suê viết sách của mình trừ phần cuối sách về đám tang người được qui cho Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn chép (câu cuối cùng được thêm vào bởi một vị chủ biên sau này). Ít nhất cũng có hai trường hợp các bản văn báo cáo sự ghi chép theo lịnh của Giô-suê hoặc chính Giô-suê viết. Khi các chi phái nhận phần đất họ, Giô-suê truyền cho đoàn tùy tùng của mình “đi đặng lấy địa đồ của xứ” (Gios Gs 18:8). Kế đó, trong cảnh cuối của sách, khi Giô-suê lãnh đạo Y-sơ-ra-ên tái lập giao ước với Chúa, người “truyền cho họ một luật pháp và điều răn”
  • 23. (24:25). Nhưng còn trường hợp khác, người thuật câu chuyện dường như cũng có dự phần vào sự việc xảy ra, người dùng đại danh từ “chúng tôi” và “chúng ta” (5:1,6). Hơn nữa, những nhận xét của trước giả đều chính xác và đúng, người hoàn toàn thông thạo những tên cổ của các thị trấn, như “thành Giê-bu” thay vì Giê-ru-sa-lem (15:8; 18:16,28), Ki-ri-át A-ra-ba (14:15; 15:54; 20:7; 21:11) thay vì Hếp-rôn, và Si-đôn lớn (11:8; 19:28) thay vì về sau này chỉ gọi đơn giản là Si-đôn. Ty-rơ chẳng bao giờ được nêu lên vì trong đời Giô-suê nơi đó chưa phát triển thành một hải cảng thật quan trọng. Nhưng nếu có những nét đặc trưng gợi ý chính thời Giô-suê, có những điểm khác đưa ra vài điều thời sau đó một chút. Câu chuyện về ngày kéo dài khi mặt trời dừng lại tại A-gia-lôn được chứng minh bởi sự dẫn chứng từ một nguồn khác, sách Gia-sa (Gios Gs 10:13). Điều này sẽ khó tự nhiên cho người tận mắt chứng kiến phép lạ, lại viết sau khi việc xảy ra ít lâu. Lại nữa, cũng có 12 chỗ trước giả dùng từ “cho đến ngày nay”. Dường như có thể yên tâm kết luận rằng sách, ít ra trong hình thức sớm nhất, có niên hiệu khi khởi đầu nền quân chủ. Có người nghĩ rằng Sa-mu-ên có góp phần vào việc san định và soạn tài liệu cho sách, nhưng thật sự là chúng ta không chắc chắn ai là trước giả và người biên soạn cuối cùng. Đời sống Giô-suê: Đời sống đáng chú ý của Giô-suê đầy dẫy sự khích động, thay đổi, thành công và vinh dự. Người được nổi danh vì niềm tin cậy sâu nhiệm nơi Chúa, và như “người có thần cảm động” (Dan Ds 27:18). Thời thanh niên, người sống qua những thực tại cay đắng trong cảnh nô lệ tại Ê-díp-tô, nhưng cũng chứng kiến những tai vạ siêu nhiên và phép lạ Y-sơ-ra-ên thoát hiểm khỏi đạo quân Ê-díp-tô khi nước của biển mở ra trước mặt họ. Trong bán đảo Si- nai chính Giô-suê đã lãnh đạo quân đội Y-sơ-ra-ên chiến thắng dân A-ma- léc (XuXh 17:8-13). Chỉ mình người được phép tháp tùng Môi-se lên Núi Thánh, nơi hai bảng luật pháp được tiếp nhận (XuXh 24:13-14). Cũng chính Giô-suê đứng canh giữ tại Hội mạc tạm mà Môi-se cất trước khi Đền Tạm được dựng lên (XuXh 33:11). Giô-suê được chọn làm đại biểu cho chính chi phái của mình là Ép-ra-im khi 12 thám tử được sai đi do thám xứ Ca-na-an. Chỉ Giô-suê và bạn của người là Ca-lép sẵn sàng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời và trực tiếp chiếm xứ (xem Dan Ds 14:26-34). Những người còn lại bị kết tội chết trong đồng vắng. Thậm chí Môi-se cũng qua đời trước khi đạt mục tiêu, và được truyền bảo phải chuyển mọi sự qua cho Giô-suê. Chúa hứa hướng dẫn và thêm sức cho Giô-suê y như Ngài đã làm cho Môi-se (PhuDnl 31:23). Giô-suê chứng tỏ không những chỉ là chiến lược gia quân sự trong các cuộc chiến tiếp theo sau, nhưng còn là chính khách trong đường lối quản trị các
  • 24. chi phái. Trên hết mọi sự, người là tôi tớ được chọn của Đức Chúa Trời (xem Gios Gs 24:29 và chú thích ở PhuDnl 34:5) để đem công tác của Môi- se đến thành tựu và thiết lập Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa. Trong vai trò đó, người là một mẫu nổi bật trong Cựu Ước (hình bóng) về Chúa Cứu Thế (xem HeDt 4:1,6-8). Khung cảnh lịch sử: Nhằm thời dân Y-sơ-ra-ên di trú vào Ca-na-an các cường quốc Cận Đông xưa tương đối yếu. Dân Hê-tít đã suy tàn khỏi cảnh trí. Cả Ba-by-lôn lẫn Ai- cập cũng không thể duy trì sự hiện diện quân sự tại Ca-na-an, còn người A- si-ri mãi hàng mấy thế kỷ sau mới gửi quân đội đi. Khi các chi phái vòng theo hướng đông Biển Chết, chỉ có đồn lũy Ê-đôm là dám chống trả. Mô-áp buộc phải để Y-sơ-ra-ên đi ngang qua lãnh thổ và đóng trại nơi đồng bằng của họ. Khi Óc và Si-hôn, hai vua A-mô-rít ở vùng bên kia sông Giô-đanh cố gắng ngăn chặn Y-sơ-ra-ên, họ đã bị đánh bại dễ dàng và đất đai bị chiếm đóng. Các nhà khảo cổ Thánh Kinh gọi thời kỳ này là thời đại Đồ Đồng Muộn (1550-1200 TC). Ngày nay hàng ngàn đồ tạo tác làm chứng sự phong phú của văn hóa vật chất Ca-na-an, trội hơn hẳn văn hóa của dân Y-sơ-ra-ên. Khi những nơi đổ nát của vương quốc cổ Ugarit được khám phá tại Ras Shamra hiện đại trên bờ biển phía bắc Sy-ri, cả kho tàng tin tức mới lộ ra ánh sáng về đời sống tôn giáo, thương mại và nội bộ của dân Ca-na-an. Từ một ngôn ngữ gần với tiếng Hê-bơ-rơ đến chuyện các vua và các thần xưa chứng tỏ sự độc ác và hành vi vô luân của họ. Hơn nữa, người ta đào được Đền Thờ ngoại giáo, bàn thờ, mồ mả, những khí mạnh nghi lễ, rọi thêm ánh sáng trên văn hóa và phong tục của các dân tộc xung quanh Y-sơ-ra-ên. Những cuộc đào bới ở vị trí Mê-ghi-đô xưa, Bết-san và Ghê-xe chứng tỏ các thành này được củng cố vững chắc và lý do tại sao chúng không bị Y-sơ-ra- ên hạ và chiếm đóng trong đời Giô-suê. Tuy nhiên, nhiều thành khác xây công sự mà vẫn bị chiếm, đến nỗi Y-sơ-ra-ên trở thành vững lập như một cường quốc thống trị. Ngoài hai thành Giê-ri-cô và A-hi, Giô-suê chỉ đốt thành Hát-so (Gios Gs 11:13). Vậy những cố gắng để định niên hiệu cho các biến cố này căn cứ vào những tầng hủy diệt trên các gò đống thuộc các cổ thành xứ Ca-na-an thật là công tác đáng nghi ngại. Cũng nên nhớ rằng có các nhóm khác thường bị dính líu vào các chiến dịch trong khu vực vào thời này, giữa vòng họ là những người cai trị Ai-cập và các dân ở vùng biển (kể cả dân Phi-li-tin). Cũng có những cuộc nội chiến giữa các thành thuộc dân Ca-na-an, và về sau này thời kỳ Các Quan Xét cũng được đánh dấu bằng sự hỗn loạn chung. Phần nhiều dữ kiện khảo cổ dường như ủng hộ niên hiệu cho cuộc xâm lăng của Giô-suê chừng năm 1.250 TC. Điều này rất thích hợp với cuộc xuất
  • 25. hành khỏi Ê-díp-tô xảy ra vào 40 năm trước, dưới triều đại nổi tiếng Ram-se II, người thống trị vùng châu thổ sông Ni-lơ tại một thành cùng tên (XuXh 1:11). Nó cũng đặt Giô-sép tại Ai-cập trong tình huống thuận lợi. Bốn trăm năm trước Ram-se II, các Pha-ra-ôn là người Hyksos Sêmit, cũng quản trị từ miền châu thổ gần xứ Gô-sen. Mặt khác trường hợp tốt có thể thiết lập cho quan điểm truyền thuyết là cuộc xâm lăng xảy ra chừng 1.406 TC. Sự hà hiếp xảy ra dưới triều Amunhotep II sau sự chết của cha người là Thutmose III, người được biết đã dùng nô lệ lao động trong các dự án kiến thiết mình. Niên hiệu sớm hơn cũng thích hiệp hơn với hai con số tìm được trong Cac Tl 11:26 và IVua 1V 6:1, vì chúng cho thêm 150 năm giữa Môi-se và thời kỳ quân chủ. Cũng xem Phần Dẫn Nhập Sáng-thế-ký: trước giả và niên Hiệu. Sách Xuất Ai-cập ký: niên đại học và xem Các Quan Xét: bối cảnh. Bố cục: I. Tiến vào xứ (Gios Gs 1:1-5:12) A. Lời khuyên chinh phục (1:1-18) B. Sự thám sát thành Giê-ri-cô (2:1-24) C. Sự vượt qua sông Giô-đanh (3:1-4:24) D. Sự phụng hiến tại Ghinh-ganh (5:1-12) II. Sự chinh phục xứ (5:13-12:24) A. Những chiến trận tiên khởi (5:13-8:35) 1. Chiến thắng thành Giê-ri-cô (5:13-6:27) 2. Thất bại tại A-hi vì tội A-can (7:1-26) 3. Chiến thắng thành A-hi (8:1-29) 4. Tái lập giao ước tại Si-chem (8:30-35) B. Chiến trận miền nam (9:1-10:43) 1. Hòa ước lập với dân Ga-ba-ôn (9:1-27) 2. Ngày dài của Giô-suê (10:1-15) 3. Các thành miền nam bị chinh phục (10:16-43) C. Chiến trận miền bắc (11:1-23) D. Những vua bại trận của Ca-na-an (12:1-24) III. Sự phân chia xứ (13:1-21:45) A. Những khu vực còn phải chinh phục (13:1-7) B. Xứ phía đông sông Giô-đanh ban cho Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma- na-se (13:8-33). C. Các vùng đất ban cho Giu-đa và “Giô-sép” tại Ghinh-ganh (14:1-17:18) D. Các vùng đất ban cho các chi phái còn lại ở Si-lô (18:1-19:51) 1. Đền Tạm tại Si-lô (18:1-10) 2. Những phần đất chia cho Bên-gia-min, Si-mê-ôn, Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li và Đan (18:11-19:48)
  • 26. 3. Thành ban cho Giô-suê (19:49-51) E. Những thành cấp cho người Lê-vi (20:1-21:45) 1. Sáu thành ẩn náu (20:1-9) 2. Bốn mươi tám thành của các Thầy tế lễ (21:1-45). IV. Phần kết: Sự thống nhất các chi phái về lòng trung kiên với Chúa (22:1- 24:33) A. Bàn thờ làm chứng bên sông Giô-đanh (22:1-34). B. Những lời chào khuyên từ giã của Giô-suê (23:1:16). C. Sự tái lập giao ước tại Si-chem (24:1-28) D. Sự qua đời và chôn Giô-suê và Ê-lê-a-sa (24:29-33). Dẫn nhập Các Quan Xét Nhan đề: Nhan đề mô tả những lãnh tụ Y-sơ-ra-ên trong thời gian các vị trưởng lão sống sót sau Giô-suê cho đến thời đại quân chủ. Mục đích chính được mô tả rõ ràng nhất trong Cac Tl 2:16 “song Đức Giê-hô-va dấy lên những Quan xét giải cứu chúng khỏi cướp bóc”. Vì Đức Chúa Trời đã cho phép những áp bức xảy đến và dấy lên các vị cứu tinh, chính Chúa là Đấng Quan xét và giải cứu tối hậu của Y-sơ-ra-ên (11:27; xem 8:23, tại đó Ghê-đê-ôn, một Quan xét đã nhấn mạnh rằng Đức Giê-hô-va thật quản trị Y-sơ-ra-ên). Trước giả và niên đại: Dầu theo truyền thuyết, Sa-mu-ên viết sách, nhưng không biết chắc tác quyền thuộc về ai. Có thể rằng Sa-mu-ên đã thâu góp những câu chuyện thời Các Quan xét, rồi đến các tiên tri như Na-than và Gát, cả hai kết hợp với triều đình Đa-vít, đã bắt tay vào việc san định và biên soạn tài liệu (ISu1Sb 29:29). Niên hiệu biên soạn cũng không rõ, nhưng chắc chắn là trong thời quân chủ. Thành ngữ thường lặp lại: “Trong lúc đó, không có vua nơi Y-sơ-ra-ên” (Cac Tl 17:6; 18:1; 21:25) gợi ý một niên hiệu sau khi nền quân chủ được thiết lập. Sự nhận xét rằng dân Giê-bu-sít vẫn còn kiểm soát Giê-ru-sa-lem (1:21) chỉ rõ đó là thời gian trước khi vua Đa-vít chiếm được thành chừng năm 1000 TC (xem IISa 2Sm 5:6-10). Nhưng các điều kiện mới trong Y-sơ- ra-ên ám chỉ trong Cac Tl 17:1-21:25 gợi ý về thời gian sau khi triều đại Đa- vít được thiết lập cách hữu hiệu (thế kỷ thứ 10 TC). Các chủ đề và thần học: Sách Quan xét biểu lộ đặc điểm về đời sống Y-sơ-ra-ên trong Đất Hứa từ sự qua đời của Giô-suê đến sự dấy lên nền quân chủ. Một mặt, ấy là câu chuyện bội đạo thường xảy ra khiến bị sửa phạt từ thiên thượng. Mặt khác, sách cũng nói về những lời kêu nài khẩn cấp đến với Chúa trong lúc khủng
  • 27. hoảng, cảm động Chúa dấy lên các lãnh tụ (Quan xét), qua họ Chúa lật đổ những kẻ áp bức ngoại quốc và khôi phục hòa bình cho xứ. Sau khi Y-sơ-ra-ên được lập trong Đất Hứa qua chức vụ của Giô-suê, cuộc hành hương của họ chấm dứt. Nhiều lời hứa giao ước Đức Chúa Trời ban cho các tộc trưởng trong Ca-na-an và cho các tổ phụ nơi đồng hoang đã được thể nghiệm. Xứ của Chúa, nơi Y-sơ-ra-ên phải vào yên nghỉ, nằm dưới chân họ, họ chỉ còn phải chiếm hữu nó, đánh bật dân Ca-na-an ra, và thanh tẩy tà đạo khỏi đó. Thời giờ đã đến cho Y-sơ-ra-ên thành vương quốc của Đức Chúa Trời dưới hình thức Khối Liên Hiệp trên đất. Nhưng trong Ca-na-an, Y-sơ-ra-ên vội quên những việc làm của Đức Chúa Trời đã khai sinh ra họ, và lập họ trong xứ. Kết quả là họ không còn nhìn thấy lý lịch độc đáo của mình là dân của Chúa, được chọn và được gọi đến làm quân đội của Ngài và là những công dân trung thành của vương quốc vừa dấy lên. Y-sơ-ra-ên đã định cư, gắn bó với các dân ở Ca-na-an theo luân lý, thần tượng và tín ngưỡng cùng tập tục của họ cũng như nhanh chóng theo đời sống nông nghiệp và xã hội của Ca-na-an. Suốt cả sách Quan xét, vấn đề căn bản là quyền chủ tể của Đức Chúa Trời trong Y-sơ-ra-ên - tức là Y-sơ-ra-ên phải trung thành và thừa nhận với sự quản trị của Chúa. Vương quyền của Chúa trên Y-sơ-ra-ên được thiết lập cách độc đáo bởi giao ước tại Si-nai (XuXh 19:1-24:18), vềsau được Môi-se tái lập trong đồng bằng Mô-áp (PhuDnl 29:1-29) và bởi Giô-suê tại Si-chem (Gios Gs 24:1-33). Trước giả tố cáo Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ vương quyền của Chúa hết lần này đến lần khác. Y-sơ-ra-ên thôi đánh trận của Chúa, xoay qua các thần của xứ Ca-na-an để có được những phước lành cho gia đình, bầy vật, đồng ruộng, và lìa bỏ luật pháp Chúa trong nếp sống hằng ngày. Trong chính tâm điểm của chu kỳ Các Quan Xét (xem bố cục), Ghê-đê-ôn phải nhắc nhở Y-sơ-ra-ên rằng Chúa là vua của họ (xem chú thích ở Cac Tl 8:23). Lời than van ai-oán và buộc tội cứ tái diễn của 17:1-21:25 (xem bố cục) là: “Trong lúc đó không có vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ làm theo ý mình tưởng là phải” (xem chú thích ở 17:6). Lời ám chỉ chính ở đây chắc là về những người trung gian của Chúa trên đất (tức các vua loài người), nhưng lời buộc tội tỏ tường là Y-sơ-ra-ên không thành thật thừa nhận hoặc vâng phục Vua thiên thượng của họ nữa. Chỉ còn một cách để duy trì vương quyền của Chúa trên Y-sơ-ra-ên, và bảo toàn vương quốc còn trong trứng nước khỏi bị tiêu diệt là Ngài dùng quyền tối cao khiến họ gặp áp bức ngoại quốc để trừng trị dân Ngài - do đó thực thi giao ước rủa sả (xem LeLv 26:14-45; PhuDnl 28:15-68), và bằng cách dấy lên những vị cứu tinh khi dân Ngài kêu nài đến Chúa. Tình trạng rạn nứt của Y-sơ-ra-ên được vạch trần cách sinh động, Y-sơ-ra-ên liên tục cần đến những hành động cứu sinh mới của Chúa hầu được vào sự yên nghỉ đã hứa
  • 28. (xem chú thích ở Gios Gs 1:13). Giữa những chu kỳ lẩn quẩn bất tuân, áp bức ngoại quốc, kêu la khốn khổ, và giải phóng (xem Cac Tl 2:11-19; NeNe 9:26-31) làm nổi bật chủ đề quan trọng - sự thành tín với giao ước của Đức Giê-hô-va. Tính kiên nhẫn nhân-từ kỳ lạ của Đức Chúa Trời không còn cách nào chứng minh tốt hơn là trong thời loạn lạc này. Đáng chú ý là thời kỳ thất bại này của Y-sơ-ra-ên, theo sau ngay những biến cố cứu chuộc thực hiện qua Môi-se và Giô-suê, lại là đường lối đặc biệt thời đại Thánh linh đời Cựu-ước. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã khiến con người hoàn tất những chiến công oanh liệt trong thánh chiến của Chúa chống lại những quyền lực hăm dọa vương quốc của Ngài (xem Cac Tl 3:10; 6:34; 11:29; 13:25; 14:6,19; 15:14; cũng xem ISa1Sm 10:6,10; 11:6; 16:13). Cũng chính Thánh linh, đổ tràn trên Hội thánh, tiếp theo công tác cứu chuộc của Giô-suê thứ hai (Chúa Giê-xu), ban năng lực cho dân Chúa khởi sự công tác truyền bá Phúc Âm cho muôn dân và mở rộng vương quốc Đức Chúa Trời (xem chú thích ở Cong Cv 1:2,8). Bối cảnh: Xác định các niên hiệu cho sách Quan xét thật khó khăn và phức tạp. Hệ thống niên hiệu sau đây căn cứ chủ yếu vào IVua 1V 6:1, nói về khoảng thời gian 480 năm giữa cuộc xuất hành khỏi Ê-díp-tô và năm thứ tư đời Sa-lô- môn trị vì. Thời gian này đặt việc xuất hành chừng 1446 TC, và thời kỳ Các Quan Xét giữa 1380 đến sự dấy lên của Sau-lơ chừng 1050 TC. Giép-thê phát biểu rằng Y-sơ-ra-ên chiếm đóng Hêt-bôn 300 năm (Cac Tl 11:26) đồng ý chung với các niên hiệu này. Tuy nhiên, có người chủ trương rằng, số 480 năm trong IVua 1V 6:1 là hơi giả tạo, nảy sinh bằng cách nhân với 12 (có lẽ chỉ về 12 Quan xét) với 40 (số năm qui ước cho một thế hệ). Họ chỉ ra trong chính sách Quan xét thường dùng các số tròn 10,20,40 và 80. Một niên hiệu trễ đối với cuộc xuất hành cố nhiên sẽ cần đến thời gian ngắn hơn cho Các Quan Xét (xem Phần Dẫn Nhập sách Xuất Ê-díp-tô ký: Niên đại). Những nét văn học đặc sắc: Dầu chỉ đọc qua sách Quan xét cũng thấy có ba phần cơ bản: (1) Lời mở đầu (Cac Tl 1:1-3:6). (2) Phần chính (3:7-16:31). (3) Phần kết (17:1-21:25). Sự nghiên cứu tường tận đem lại ánh sáng trên cơ cấu phức tạp hơn, với những chủ đề thêu dệt ràng buộc toàn bộ thành bức tranh rắc rối về đặc điểm của một thời đại. Lời mở đầu (1:1-3:6) có hai phần, mỗi phần dành cho một mục đích khác nhau. Chúng không liên hệ theo niên hiệu, cũng không cống hiến sự sắp xếp niên hiệu nghiêm túc của toàn bộ thời kỳ. Phần thứ nhất (1:1-2:5) dàn cảnh lịch sử cho những câu chuyện kế tiếp. Nó mô tả sự chiếm đóng Đất Hứa của
  • 29. Y-sơ-ra-ên - từ thành công sơ khởi đến sự thất bại rộng lớn và sự quở trách thiên thượng. Phần thứ hai (2:6-3:6) đề cập phối cảnh về thời kỳ từ Giô-suê đến sự dấy lên nền quân chủ, thời gian biểu lộ đặc sắc những vòng lẩn quẩn bội đạo, áp bức, kêu là khốn khổ, và sự giải thoát nhân từ thiên thượng. Trước giả tóm tắt và cắt nghĩa những cách xử trí của Chúa đối với dân sự phản loạn và giới thiệu ngữ vựng và công thức căn bản, Chúa sẽ dùng trong các câu chuyện sau này: “Làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va ”, 2:11 (xem 3:7; 4:1; 6:1; 10:6) “phó Y-sơ-ra-ên cho”, 2:14 (xem 6:1; 13:1) và “bán họ”, 2:14 (xem 3:8; 4:2; 10:7). Phần chính của sách này (3:7-16:31) thuật những chuyện thật của vòng lẩn quẩn (bội đạo, áp lực, khốn khổ, giải phóng) với chính dự kiến độc đáo của nó. Mỗi chu kỳ có một khởi đầu giống nhau (“Dân Y-sơ-ra-ên còn làm điều ác trước mặt Chúa”, xem chú thích ở 3:7) và một kết luận chấp nhận được (“xứ được hòa bình trong...năm” hoặc “lãnh đạo Y-sơ-ra-ên...năm”, xem chú thích ở 3:11). Chu kỳ thứ nhất của các chu kỳ (Ốt-ni-ên, xem 3:7-11 và chú thích) cung cấp “mẫu báo cáo” dùng trong mọi câu chuyện áp bức và giải phóng kế tiếp. Năm chu kỳ còn lại kết thành một câu chuyện như sau, xây dựng quanh số Các Quan Xét quan trọng còn lại. 1. Ê-hút (3:12-30), anh hùng đơn độc từ chi phái Bên-gia-min giải phóng Y- sơ-ra-ên khỏi sự áp bức từ phía đông. 2. Đê-bô-ra (4:1-5:33) phụ nữ từ một trong các chi phái của Giô-sép (Ép-ra- im, phía tây sông Giô-đanh) người là Quan xét trong thời mà Y-sơ-ra-ên bị giày xéo bởi liên minh các dân Ca-na-an dưới quyền điều khiển của Si-sê-ra. 3. Ghê-đê-ôn và con trai của ông là A-bi-mê-léc (6:1-9:37) hình thành câu chuyện trung tâm. Bằng nhiều cách Ghê-đê-ôn là Quan xét lý tưởng, gợi nhớ đến Môi-se, trong khi con trai người lại chính là kẻ đối lập hẳn với vị Quan xét trung tín và có tinh thần trách nhiệm này. 4. Giép-thê (10:6-12:7) người bị xã hội ruồng bỏ từ chi phái Giô-sép khác (Ma-na-se, phía đông sông Giô-đanh) làm Quan xét vào thời Y-sơ-ra-ên bị hăm dọa bởi liên minh các cường quốc dưới sự lãnh đạo của vua Am-môn. 5. Sam-sôn (13:1-16:31) vị anh hùng đơn độc từ chi phái Đan đã giải phóng Y-sơ-ra-ên khỏi sự áp bức từ phía tây. Sự sắp đặt những chuyện này thật ý nghĩa. Những câu chuyện trung tâm về Ghê-đê-ôn (Quan xét lý tưởng của Chúa) và A-bi-mê-léc (người đối lập Quan xét) lại gộp chung câu chuyện song song của người nữ Đê-bô-ra và người bị xã hội ruồng bỏ là Giép-thê - lần lượt chúng được lồng khung trong những câu chuyện những anh hùng đơn độc Ê-hút và Sam-sôn. Theo cách này, cả cấu trúc tập trung chú Y-sơ-ra-ên vấn đề chủ yếu của thời kỳ Các
  • 30. Quan Xét: Y-sơ-ra-ên quyến luyến các thần Ba-anh của Ca-na-an (bày tỏ bởi A-bi-mê-léc, xem chú thích ở 9:1-57) chống với vương quyền của Chúa trên dân Ngài (được khuyến khích bởi Ghê-đê-ôn, xem chú thích ở 8:23). Phần kết (17:1-21:25) biểu lộ đặc sắc của kỷ nguyên trong cách khác, mô tả sự băng hoại tôn giáo và đạo đức của những cá nhân, thành phố và chi phái riêng. Giống như lời giới thiệu, nó cũng có hai phần không liên hệ niên đại, cũng không ghi rõ niên hiệu đối với sự nghiệp cá biệt Các Quan Xét. Tuy nhiên, các sự việc này thật xảy ra sớm hơn trong thời kỳ Các Quan Xét (xem chú thích ở 18:30; 20:1,28). Bằng cách chỉ ghi niên hiệu những sự kiện phần kết liên hệ tới nền quân chủ (xem điệp khúc tái diễn 17:6; 18:1; 19:1; 21:25), trước giả làm tương phản thời đại Các Quan Xét với một thời kỳ tốt đẹp hơn khi nền quân chủ được khai dựng, chắc chắn là nhìn về sự trị vì của Đa-vít và triều đại của người (xem chú thích ở 17:1-21:25). Sách nêu lên hai ví dụ về Chúa phân quyền lãnh đạo cho chi phái Giu-đa: (1) Trong việc đánh đuổi dân Ca-na-an ra (1:1-2) và (2) Sửa trị một chi phái trong Y-sơ-ra-ên (20:18). Trước giả nhìn thấy quan trưởng của chi phái Giu-đa là cứu tinh của dân tộc. Phần thứ nhất của lời kết (17:1-18:31) thuật chuyện tích của Mi-ca khai triển một nơi thờ phượng ngoại giáo và nói về chi phái Đan lìa bỏ lãnh thổ chia cho họ khi chấp nhận tôn giáo băng hoại của Mi-ca. Phần thứ hai (19:1- 21:25) thuật chuyện tích về kinh nghiệm buồn thảm của người Lê-vi tại Ghi- bê-a trong Bên-gia-min và chép biện pháp kỷ luật tẩy trừ chi phái Bên-gia- min, vì cớ họ bênh vực thành đồi bại Ghi-bê-a. Hai phần có mấy điểm song song đáng chú ý: 1. Cả hai dính líu đến việc một người Lê-vi đi ngang qua giữa Bết-lê-hem (trong Giu-đa) và Ép-ra-im qua hành lang Bên-gia-min - Đan. 2. Cả hai nêu lên 600 chiến sĩ - những người đã hướng dẫn chi phái Đan và những người sống sót từ chi phái Bên-gia-min. 3. Cả hai kết thúc với sự vét sạch khu vực thuộc chi phái trong hành lang (Bên-gia-min - Đan) đó. Không những chỉ ba điều song song này có ý nghĩa trong phần kết, nhưng các điều đó cũng làm thành khâu kết nối cho phần chính của sách nữa. Chi phái Bên-gia-min, ở trong phần kết tìm cách binh vực sự vô đạo gớm ghiếc đặt sợi dây huyết thống lên trên lòng trung thành với Chúa, lại là chi phái Chúa dấy lên cứu tinh Ê-hút (3:15). Chi phái Đan, mà trong phần kết đã rút lui khỏi cơ nghiệp cấp cho mà chấp nhận những thói tục ngoại giáo, lại là chi phái Chúa dấy lên vị cứu tinh Sam-sôn (13:2,5). Như vậy, hai chi phái mà phần kết luận mô tả sự băng hoại tôn giáo và đạo đức của Y-sơ-ra-ên lại chính từ những chi phái đó các vị cứu tinh được chọn mà chuyện tích của họ dựng khung làm trọng tâm câu chuyện của sách (Ghê-đê-ôn-A-bi-mê-léc).
  • 31. Toàn bộ ý định của sách từ phần đầu đến phần kết, cách thức độc đáo trong mỗi phần giải quyết toàn bộ thời đại, và cách ba phần chính liên hệ với nhau rõ rệt minh họa một thời đại hư hỏng - thời đại “không có vua trong Y-sơ-ra- ên” và “ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (xem chú thích ở 17:6). Thật sự kiện mà câu chuyện ở trong các hồi và chu kỳ rất có ý nghĩa. Nó là câu chuyện của toàn bộ Y-sơ-ra-ên, dù thường chỉ có vài khu vực trực tiếp dính líu. Sách minh họa những thế kỷ sau Giô-suê, là thời kỳ Y-sơ-ra-ên bất trung với Chúa, và họ đầu phục những sự lôi cuốn của Ca-na-an. Chỉ do lòng thương xót của Đức Chúa Trời mà Y-sơ-ra-ên không bị áp đảo và bị thu hút bởi các quốc gia ngoại đạo xung quanh họ. Tuy nhiên, trong lúc chờ đợi, lịch sử cứu chuộc hầu như vẫn đứng vững - chờ đợi nỗ lực tương lai của tôi tớ Chúa là Đa-vít và sự thiết lập triều đại của người. Bố cục: I. Phần đầu: Sự chinh phục không trọn vẹn và bội đạo (1:1-3:6) A. Hồi thứ nhất: Y-sơ-ra-ên thất bại trong việc thanh tẩy xứ (1:1-2:5) B. Hồi thứ hai: Đức Chúa Trời xử trí với Y-sơ-ra-ên bội nghịch (2:6-3:6) II. Áp bức và giải phóng (3:7-16:31) A. Các Quan Xét lớn 1. Ốt-ni-ên đánh bại A-ram Naharaim (3:7-11) 2. Ê-hút đánh bại Mô-áp (3:12-30) 3. Đê-bô-ra đánh bại Ca-na-an (4:1-5:31) 4. Ghê-đê-ôn đánh bại Ma-đi-an (6:1-8:35) A-bi-mê-léc, kẻ chống lại Quan xét 9:1-57) 5. Giép-thê đánh bại Am-môn (10:6-12:7) 6. Sam-sôn kiềm chế người Phi-li-tin (13:1-16:31) B. Các Quan Xét nhỏ 1. Sam-ga (3:31) 2. Thô-la (10:1,2) 3. Giai-rơ (10:3-5) 4. Íp-san (12:8-10) 5. Ê-lôn (12:11-12) 6. Áp-đôn (12:13-15) III. Phần kết: Sự hỗn loạn đạo đức và tôn giáo (17:1-21:25) A. Hồi thứ nhất (17:1-18:31; xem 17:6; 18:1) 1. Sự bại hoại của Mi-ca về tôn giáo (17:1-13) 2. Người Đan dời khỏi lãnh thổ của chi phái họ (18:1-31) B. Hồi thứ hai (19:1-21:25; xem 19:1; 21:25) 1. Sự bại hoại của Ghi-bê-a về đạo đức (19:1-30) 2. Sự truất phế Bên-gia-min ra khỏi lãnh thổ chi phái họ (20:1-21:25)
  • 32. Dẫn nhập Ru-tơ Nhan đề: Sách được đặt tên theo tên một trong những nhân vật chính của sách, một thiếu phụ trẻ người Mô-áp, bà cố nội của Đa-vít và tổ mẫu của Chúa Giê-xu (Mat Mt 1:1,5). Ngoài sách Ru-tơ, chỉ còn sách duy nhất khác trong Thánh Kinh mang tên phụ nữ là sách Ê-xơ-tê. Bối cảnh: Câu chuyện bắt đầu vào thời Các Quan Xét, thời kỳ biểu lộ đặc điểm Các Quan Xét như là thời kỳ suy thoái đạo đức và tôn giáo, quốc gia chia rẽ và thường bị ngoại bang áp bức. Sách Ru-tơ phản ánh thời hòa bình tạm giữa Y-sơ-ra-ên và Mô-áp (tương phản Cac Tl 3:12-30). Giống ISa1Sm 1:1-2:36, sách cho thấy một loạt những cái nhìn thân mật vào đời sống riêng tư của các người thân trong một gia đình Y-sơ-ra-ên. Nó cũng trình bày câu chuyện hấp dẫn về niềm tin và mộ đạo chân chính còn sót lại trong thời Quan xét, giảm bớt được mặt khác bức tranh hoàn toàn tối tăm của kỷ nguyên này. Trước giả và niên hiệu chép sách: Không rõ trước giả. Theo truyền thuyết Do Thái cho là của Sa-mu-ên, nhưng không phải Sa-mu-ên là trước giả vì sự đề cập về Đa-vít (Ru R 4:17,22) hàm ý niên hiệu trễ hơn. Hơn nữa, văn thể Hê-bơ-rơ trong Ru-tơ gợi ý rằng sách được chép trong thời quân chủ. Chủ đề và thần học: Trước giả nhắm tiêu điểm vào sự tận tâm và kiên định, không vị kỷ của Ru- tơ đối với Na-ô-mi phiền muộn (1:16-17; 2:11-12; 3:10; 4:15), và vào lòng nhân từ của Bô-ô với hai góa phụ này (2:1-4:22). Trước giả trình bày gương chứng của những đời sống đáng chú ý biểu hiện trong công việc thường ngày của tình yêu vị tha đã thực nghiệm luật pháp của Đức Chúa Trời (LeLv 19:18; so sánh RoRm 13:10). Tình yêu đó cũng phản ánh tình thương Đức Chúa Trời trong sự kết hợp kỳ diệu những hành động của con người với hành động của Đức Chúa Trời (so Ru R 2:12 với 3:9). Trong lòng nhân từ của Đức Chúa Trời, những đời sống như thế được phước và trở thành nguồn phước. Dường như điều đáng ngạc nhiên là người phản ánh tình yêu của Đức Chúa Trời rõ ràng như thế lại là người nữ Mô-áp. Hơn nữa, sự trung thành trọn vẹn của nàng đối với gia đình Y-sơ-ra-ên mà nàng vào làm dâu, sự tận tâm toàn vẹn đối với bà mẹ chồng bơ vơ ghi dấu nàng là con gái thật của Y-sơ- ra-ên và xứng đáng làm tổ mẫu của Đa-vít. Nàng chứng nghiệm cách rõ ràng lẽ thật rằng sự dự phần trong vương quốc hầu đến của Đức Chúa Trời được quyết định không phải bởi huyết thống hoặc bởi sự sinh ra, bèn là bởi đời