BÁO CÁO THỐNG KÊ TÌNH HÌNH NGÀNH BÔNG SỢI - Số tháng 2/2023
🔹 Hiệp Hội Bông Sợi Việt Nam VCOSA xin trân trọng gửi tới các doanh nghiệp trong lĩnh vực Bông sợi nói riêng và lĩnh vực Dệt may, Xuất nhập khẩu nói chung báo cáo thống kê ngành bông sợi Số tháng 02/2023
----------
📍 Để biết thêm thông tin chi tiết và đăng ký nhận tài liệu báo cáo hàng tháng, vui lòng liên hệ:
- Hotline: +84 902 379 490
- Email: info@vcosa.org.vn
- Tổng hợp bản tin, báo cáo thị trường do VCOSA thực hiện: https://rebrand.ly/VCOSA_Monthly_Report
BÁO CÁO THỐNG KÊ TÌNH HÌNH NGÀNH BÔNG SỢI - Số tháng 2/2023
1. Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam
Ban Thông tin Truyền thông tổng hợp & biên tập
Tháng 02-2023
B
BẢ
ẢN T
N TI
IN
N
Báo cáo thống kê ngành xơ, sợi
---Lưu hành nội bộ---
2. 2
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
ĐIỂM TIN
É Năm 2023, giá nhập khẩu bông nguyên liệu tiếp tục giảm
É Lượng xơ nguyên liệu nhập khẩu tiếp tục giảm trong những tháng đầu năm 2023
É Giá nhập khẩu sợi nguyên liệu tăng nhẹ
É Xuất khẩu xơ, sợi dệt chưa thể phục hồi trong quý 1/2023
É Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu dệt may, da giày đạt 80 tỷ USD vào năm 2025
É Giá bông: hãy cẩn thận với những gì bạn ước!
É Dự trữ ngoại hối của Pakistan cạn kiệt ảnh hưởng đến việc nhập khẩu nguyên liệu dệt bông
É Xuất khẩu bông của Brazil sang Trung Quốc tăng gấp nhiều lần; không liên quan đến lệnh cấm của Mỹ
É Thị trường denim toàn cầu tiếp tục phát triển sau đại dịch nhờ nhu cầu tăng trưởng
É Xu hướng dịch chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc của doanh nghiệp dệt may
TIN TRONG NƯỚC
TIN QUỐC TẾ
3. 3
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
TIN CHUYÊN NGÀNH
Dự trữ ngoại hối của Pakistan cạn kiệt
ảnh hưởng đến việc nhập khẩu nguyên liệu dệt bông
T
rong tháng 1, CPI tăng
27,55% so với cùng kỳ năm
ngoái và dự trữ ngoại hối
gần như cạn kiệt. Pakistan là một
trong những cơ sở sản xuất chính
của ngành dệt may, ngành công
nghiệp trụ cột của Trung Quốc,
đóng góp khoảng 8% GDP.
Pakistan sử dụng bông làm
nguyên liệu chính cho hàng dệt
may và do thiếu nguyên liệu hóa
học trong nước nên nước này phụ
thuộc vào nguyên liệu thô nhập
khẩu, dự trữ ngoại hối cạn kiệt đã
ảnh hưởng đến ngành dệt may của
nước này.
Năm 2021, Pakistan đã nhập
khẩu khoảng 900 nghìn tấn bông,
phần lớn từ Mỹ, Ấn Độ và Brazil,
150 nghìn tấn PSF và 210 nghìn
tấn VSF, phần lớn từ Trung Quốc.
Nhập khẩu ba loại nguyên liệu
chính gần đây của Pakistan được
thể hiện trong bảng dưới đây:
Pakistan là một nhà sản xuất
bông nổi tiếng thế giới. Sản lượng
bông niên vụ 2021/22 là 1.310
nghìn tấn và đã giảm xuống 850
nghìn tấn cho niên vụ 2022/23,
cho thấy nguồn cung bông
thiếu hụt và nhu cầu bông nhập
khẩu tăng.
Tuy nhiên, do cuộc khủng
hoảng kinh tế ở Pakistan, việc nhập
khẩu lương thực và các nguồn
năng lượng đã trở nên khó khăn,
chứ chưa nói đến nguyên liệu dệt
may. Vì vậy, các đơn đặt hàng sẽ
đổ về nơi khác?
Ngành dệt may của Pakistan
đã phát triển tốt và có khả năng
cạnh tranh trên thị trường bông
toàn cầu. Năm 2022, xuất khẩu
hàng dệt may đạt 18,66 tỷ USD,
tăng 7,5%. Hàng dệt kim, hàng
may mặc, chăn ga gối đệm, vải
sợi cotton và khăn tắm chiếm
90% hàng dệt may xuất khẩu của
Pakistan.
Có thể thấy từ cơ cấu xuất khẩu,
các sản phẩm từ bông bao gồm
chăn ga gối đệm, khăn tắm, vải
sợi cotton và một số sản phẩm dệt
kim, may mặc đã có sức cạnh tranh
trên thị trường toàn cầu. Hàng dệt
may của Pakistan chủ yếu được
bán sang thị trường châu Âu như
Mỹ (30%), Anh (10%), cũng như
Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ và
Pháp (cùng chiếm 30%).
Ngày 11/2, Bộ Ngoại giao Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cảnh báo công dân
Trung Quốc phải cẩn thận khi đến Pakistan trước tình hình an ninh nội bộ gần đây.
Pakistan rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng và phải cầu cứu IMF.
4. 4
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Giá bông: hãy cẩn thận với những gì bạn ước!
T
rong nước (Pakistan), tác
động của biến động giá
dường như không ảnh hưởng
đến doanh thu xuất khẩu cho đến
nay, vốn đã giảm mặc dù đơn giá
của 6 tháng cuối năm tài chính
2023 tăng so với cùng kỳ năm
ngoái. Trong vài tháng tới, khối
lượng xuất khẩu có thể sẽ cải thiện
khi giá tiếp tục điều chỉnh giảm;
tuy nhiên, rất khó để xác định
liệu nhu cầu tăng lên do giá giảm
tác động doanh thu thuần tích cực
hay không.
Trong mọi trường hợp, giá bông
thế giới bình thường mới đang có
tác động rất đáng kể đến nhu cầu
dệt may toàn cầu. Theo Bộ Nông
nghiệp Mỹ, mức tiêu thụ bông toàn
cầu đang ở mức thấp nhất trong 9
năm (không tính những năm xảy
ra đại dịch), thấp hơn 10% so với
mức tiêu thụ cao nhất 123 triệu
kiện (217 kg) lần đầu tiên đạt được
vào năm 2007 và chỉ đạt hai lần kể
từ đó.
Trên thực tế, trong thập kỷ qua,
nhu cầu bông toàn cầu đạt trung
bình 115 triệu kiện, ngay cả khi giá
trên thị trường quốc tế trung bình
ở mức 1,8 USD/kg và chưa bao giờ
vượt quá 2,25 USD/kg.
Sự hỗn loạn ở Pakistan có thể
khiến các khách hàng châu Âu của
nước này tìm đến các nhà xuất khẩu
có chi phí thấp hơn, chẳng hạn như
Bangladesh, Ấn Độ và các khu vực
ASEAN, thậm chí cả Trung Quốc.
Trung Quốc đã nhập khẩu hơn 300
nghìn tấn sợi cotton Pakistan trong
năm 2017-2019 và 260-280
nghìn tấn trong năm 2020-2021.
Năm ngoái, khối lượng nhập khẩu
giảm xuống còn khoảng 140.000
tấn do giá chào hàng nước ngoài
cao trong thời gian dài. Cuộc khủng
hoảng kinh tế của Pakistan chắc
chắn sẽ ảnh hưởng đến việc nhập
khẩu sợi cotton của Trung Quốc và
cần được chú ý chặt chẽ.
Nguồn: CCF Group
Ngọc Trâm biên dịch
Sau ba năm biến động mạnh,
có vẻ như giá bông thế giới cuối
cùng đã bắt đầu ổn định. Trong
hai năm kể từ khi xảy ra đại dịch
toàn cầu, giá thế giới đã chạm
mức thấp nhất trong 12 năm là
1,40 USD/kg và mức cao nhất
trong 11 năm là 3,61 USD/kg,
cuối cùng ổn định ở mức khoảng
2,25 USD/kg trong những tháng
gần đây. Nhưng sự ổn định khó
giành được này không hề rẻ, với
mức giá hiện tại đang giao dịch
ở mức cao hơn 25% so với mức
trung bình trước Covid.
5. 5
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Sự suy giảm nhu cầu đã được
phản ánh trong việc tích tụ hàng
tồn kho toàn cầu, với tỷ lệ tồn/sử
dụng cho niên vụ hiện tại dự kiến
là cao nhất kể từ năm 2014 (không
bao gồm năm đại dịch 2020).
Lý tưởng nhất là nếu sự suy giảm
nhu cầu đủ mạnh, giá toàn cầu sẽ
giảm hơn nữa. Thật không may,
đây có thể là một giả định quá
đơn giản.
Giả định đằng sau sự tích tụ
hàng tồn kho toàn cầu đã bỏ sót
một yếu tố chính của bức tranh
toàn cảnh: đó là Trung Quốc.
Riêng Trung Quốc, nhà sản
xuất bông lớn nhất thế giới, đã
chiếm ít nhất 1/4 sản lượng toàn
cầu và 1/3 lượng tiêu thụ toàn
cầu. Nhưng lệnh cấm của Mỹ đối
với hàng dệt làm từ bông từ Khu
tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương của
Trung Quốc, có hiệu lực vào năm
ngoái, đã cắt đứt một lượng đáng
kể nguyên liệu thô khỏi chuỗi cung
ứng toàn cầu.
Cho đến gần đây, khu vực này
đã sản xuất gần 90% sản lượng
bông của Trung Quốc, tham gia
vào chuỗi giá trị sản xuất dệt may
toàn cầu mà điểm đến cuối cùng
là Mỹ. Lệnh cấm Tân Cương đã
buộc các nhà xuất khẩu dệt may
như Việt Nam, Bangladesh, Thổ
Nhĩ Kỳ và Pakistan phải tìm kiếm
nguyên liệu thô (dù là xơ bông hay
sợi và vải) không có nguồn gốc từ
Trung Quốc.
Mặc dù kết quả là nhập khẩu
bông của Trung Quốc đã giảm,
nhưng mức giảm này không đủ để
bù đắp cho việc Trung Quốc bị mất
nguồn cung cấp nguyên liệu thô.
Do đó, lượng bông dư thừa (hoặc
các sản phẩm trung gian như sợi
và vải) trên thị trường thế giới đã
giảm, giữ giá ở mức cao.
Trong khi đó, giá năng lượng
như dầu Brent và khí đốt tăng vọt
đã khiến giá PET toàn cầu tăng cao
quá mức, đẩy giá các sản phẩm
thay thế bông như polyester và sợi
tổng hợp tăng cao.
Do những cú sốc về nguồn
cung trên thị trường bông thế giới
đã kéo dài ngay cả khi tác động
của đại dịch đã lắng xuống trên
toàn cầu, nên có thể phải mất một
thời gian trước khi giá bông thế giới
quay trở lại thời trước Covid.
Ít nhất là trong trường hợp
không xảy ra suy thoái toàn cầu
nghiêm trọng tương tự như cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008-2009. Những người hy vọng
giá bông giảm nên cẩn thận với
những gì họ ước!
Nguồn: Business Recorder
Ngọc Trâm biên dịch
6. 6
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Thị trường DENIM toàn cầu tiếp tục phát triển sau đại dịch
nhờ nhu cầu tăng trưởng
Đ
ến năm 2023, quy mô của
thị trường vải jean denim
dự kiến sẽ đạt con số đáng
kinh ngạc là 4.541 triệu mét do
nhu cầu tăng lên trên toàn cầu.
Trong 5 năm từ 2018 đến 2023,
thị trường đang mở rộng với tốc độ
4,89% mỗi năm từ 3.576 triệu mét
trong năm 2018. Denim là phân
khúc may mặc cho thấy tiềm năng
thực sự khi đa dạng hóa xuất khẩu
với các sản phẩm may mặc khác.
Các nhà phân tích cho biết kỳ
nghỉ lễ Giáng sinh và Năm mới đã
chứng kiến sự phục hồi đáng kể về
khả năng phục hồi thời trang tại thị
trường Mỹ, điều này sẽ cải thiện
toàn bộ thị trường denim toàn
cầu. Thị trường quần jean toàn cầu
dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ
tăng trưởng kép hàng năm là 6,7%
trong giai đoạn dự báo từ năm
2020 đến năm 2025.
Tập trung vào các chiến lược
kinh doanh và thị trường mới
Rome không được xây dựng
trong một ngày và vì vậy các nhà
sản xuất denim lớn sẽ phải điều
chỉnh các chiến lược kinh doanh
mới, chẳng hạn như mở rộng địa
lý và năng lực, sáp nhập và mua
lại, nghiên cứu và phát triển, để
tăng doanh số bán hàng. Họ phải
tập trung một cách chiến lược vào
việc tạo ra các cơ hội thị trường
mới bằng cách thâm nhập vào các
thị trường ngách mới của ngành
may mặc vẫn đang trong giai đoạn
phát triển.
Theo báo cáo của Apparel
Resources, thị trường denim nội
địa của Ấn Độ đã duy trì tốc độ
tăng trưởng kép hàng năm trung
bình 8-9% trong vài năm và dự
kiến sẽ đạt 12,27 tỷ USD vào
năm 2028.
Không giống như Châu Âu, Mỹ
và các nước phương Tây khác, nơi
có mức tiêu thụ trung bình quần
jean mỗi người rất cao, ở Ấn Độ thì
thấp hơn nhiều, với mức tiêu thụ
khoảng 0,5 quần jean mỗi người, vì
quần áo truyền thống phổ biến hơn
ở hầu hết các vùng địa lý.
Sau hai năm Covid
khó khăn, với đặc trưng là
những ngày ăn mặc xuề
xòa, thời trang denim lại
một lần nữa được lên ngôi.
Hơn hai tỷ chiếc quần jean
được bán ra trên toàn thế
giới mỗi năm và các nhà
sản xuất hàng may mặc
hiện đang tập trung vào
việc kiếm lợi nhuận từ phân
khúc béo bở này trong
những ngày sau đại dịch.
7. 7
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Đạt được tiềm năng một chiếc
quần jean cho mỗi người sẽ cần
thêm 700 triệu chiếc quần jean
được bán ra mỗi năm, cho thấy cơ
hội tăng trưởng to lớn của đất nước
này. Không có gì ngạc nhiên khi các
thương hiệu toàn cầu đang nhanh
chóng gia tăng sự hiện diện của họ
ở các thành phố lớn và thị trấn nhỏ.
Mỹ dẫn đầu
Mỹ hiện là thị trường lớn nhất,
trong khi Ấn Độ có nhiều khả
năng tăng trưởng nhất, tiếp theo
là Trung Quốc và Mỹ Latinh. Tốc
độ tăng trưởng trung bình hàng
năm từ 2018 đến 2023 dự kiến
là 4,89%, thị trường Mỹ dự kiến
đạt xấp xỉ 4.313,56 triệu mét năm
2022 và 4.541,05 triệu mét vào
năm 2023. Mặc dù Ấn Độ nhỏ hơn
Trung Quốc, Trung và Nam Mỹ và
Mỹ, nhưng dự kiến sẽ tăng trưởng
với tốc độ nhanh chóng, từ 228,39
triệu mét năm 2016 lên 419,26
triệu mét vào năm 2023.
Trên thị trường denim toàn
cầu, Trung Quốc, Bangladesh,
Pakistan và Ấn Độ là những quốc
gia sản xuất denim chính. Ở phân
khúc xuất khẩu denim năm 2021
- 2022, Bangladesh với hơn 40
nhà máy sản xuất 80 triệu yard vải
denim vẫn giữ vị trí dẫn đầu tại thị
trường Mỹ.
Tiếp theo là Mexico và
Pakistan là nhà cung cấp lớn thứ
ba. Việt Nam đứng ở vị trí thứ tư
sau khi xuất khẩu các mặt hàng
denim trị giá 348,64 triệu USD,
tăng 25,12% so với cùng kỳ
năm ngoái.
Vải denim ngày nay đa dạng từ
co giãn đến được đánh bóng sinh
học, các màu sắc sáng tạo như
màu thực vật, màu chàm, nhuộm
lưu huỳnh, sợi pha trộn và gần đây
nhất là vải denim lụa mềm hơn, nhẹ
hơn và thoải mái hơn cho tất cả các
mùa, tập trung vào các xu hướng
hiện tại về thể thao và sức khỏe,
denim đã đi một chặng đường dài
trong phân khúc thời trang thu hút
mọi người. Không chỉ là trang phục
thời trang, denim còn là một biểu
tượng phong cách, một thứ thiết
yếu hàng ngày và là bắt buộc phải
có của hầu hết mọi người.
Nguồn: Fashionating World
Ngọc Trâm biên dịch
Xuất khẩu bông của Brazil sang Trung Quốc tăng gấp nhiều lần;
không liên quan đến lệnh cấm của Mỹ
B
ông Brazil đã giành được thị
phần đáng kể tại Trung Quốc,
mặc dù quốc gia này là nhà
sản xuất bông lớn nhất thế giới.
Dữ liệu thương mại cho thấy xuất
khẩu bông của Brazil đã tăng vọt
về giá trị và khối lượng trong 5 năm
qua, với mức tăng mạnh từ năm
2017 đến năm 2020. Sự gia tăng
này không liên quan đến lệnh cấm
của Mỹ đối với bông Tân Cương.
Brazil đã xuất khẩu 82,953
triệu kg bông trong năm 2017, trị
giá 132,393 triệu USD. Giá trị và
khối lượng xuất khẩu đã tăng hơn
gấp ba lần lên 302,981 triệu kg
(523,495 triệu USD) vào năm 2018
và tiếp tục tăng lên 501,725 triệu
kg (820,445 triệu USD) vào năm
2019, theo công cụ phân tích thị
trường TexPro của Fibre2Fashion.
Bất chấp sự gián đoạn liên
quan đến COVID, Brazil đã xuất
khẩu 658,752 triệu kg bông sang
Trung Quốc vào năm 2020, trị
giá 1.016,738 triệu USD. Tuy
nhiên, khối lượng và giá trị xuất
khẩu giảm nhẹ xuống 582,985
triệu kg (983,141 triệu USD) vào
năm 2021 và tiếp tục giảm xuống
521,499 triệu kg (1.082,756 triệu
USD) vào năm 2022, theo TexPro.
Mặc dù việc xuất hàng giảm trong
hai năm qua, xuất khẩu đã tăng
hơn ba lần về khối lượng và giá trị.
Dữ liệu cho thấy sự gia tăng
xuất khẩu từ Brazil sang Trung
Quốc không chỉ do các nhà nhập
khẩu Trung Quốc tìm kiếm nguồn
bông thay thế sau lệnh cấm của
Mỹ đối với bông có nguồn gốc từ
khu vực Tân Cương của Trung
Quốc. Mỹ đã cấm bông từ khu vực
này vào tháng 6 năm 2022.
Nguồn: Fibre2fashion
Ngọc Trâm biên dịch
8. 8
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Xu hướng dịch chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc
của doanh nghiệp dệt may
S
ự kết hợp giữa rối loạn chuỗi
cung ứng, chi phí gia tăng, và
mối lo về điều kiện lao động
đang khiến một số thương hiệu
thời trang phương Tây đánh giá lại
sự phụ thuộc đã kéo dài nhiều thập
kỷ của họ vào các nhà máy ở Trung
Quốc – theo tờ Financial Times.
Ông Dieter Holzer, cựu CEO và
là một thành viên Hội đồng Quản
trị của Marc O’Polo, nói rằng từ
năm 2021, thương hiệu thời trang
Thuỵ Điển-Đức này đã bắt đầu
chuyển từ một số nhà cung cấp ở
Trung Quốc sang các nhà máy ở
Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha. Quyết
định này nhằm “cân bằng và loại
bỏ rủi ro khỏi chuỗi cung ứng và
làm cho chuỗi cung ứng trở nên
bền vững hơn. Tôi cho rằng nhiều
công ty trong ngành may mặc
đang xem lại hoạt động sản xuất
mà họ có ở Trung Quốc” – ông
Holzer giải thích.
Sự dịch chuyển khỏi ngành sản
xuất dệt may đại quy mô ở Trung
Quốc, dù mới ở giai đoạn đầu, đánh
dấu một sự đảo ngược của những
gì đã diễn ra trong suốt nhiều năm
qua, khi các hãng thời trang trên
toàn cầu đã quá quen thuộc với
việc thuê sản xuất ở quốc gia đã
chiếm vị trí thống lĩnh trong chuỗi
cung ứng dệt may này.
Những cái tên lớn như Mango
và Dr Martens gần đây đã cắt
giảm hoặc phát tín hiệu muốn
dịch chuyển sản xuất khỏi Trung
Quốc hoặc khu vực Đông Nam Á.
“Thông điệp lớn ở đây là giảm sự
phụ thuộc vào Trung Quốc. Không
ai muốn bỏ hết trứng vào một giỏ
cả”, CEO Kenny Wilson của Dr
Martens phát biểu hồi tháng 11
năm ngoái.
Kể từ khi ông Wilson trở thành
nhà điều hành cấp cao nhất ở Dr
Martens vào năm 2018, hãng sản
xuất giày boot này đã chuyển 55%
tổng sản lượng khỏi Trung Quốc.
Chỉ 12% tổng sản lượng bộ sưu
tập Thu Đông 2022 của hãng được
sản xuất tại Trung Quốc, từ mức
27% vào năm 2020, và tỷ lệ này
được dự báo giảm còn 5% trong
năm nay.
“Chúng tôi đang nhận thấy
quá nhiều tín hiệu về việc các nhà
sản xuất hàng may mặc muốn dịch
chuyển khỏi châu Á”, bà Rosey
Hurst, Giám đốc công ty tư vấn
đạo đức doanh nghiệp Impactt,
phát biểu.
Sự dịch chuyển này còn bị thúc
đẩy bởi các điều luật nghiêm ngặt
hơn ở Mỹ và châu Âu nhằm bảo vệ
người lao động, sau những nghi
vấn về lao động cưỡng ép ở Tân
Cương, một vùng trồng bông lớn ở
Trung Quốc – theo bà Hurst.
TẮC CHUỖI CUNG ỨNG VÀ LUẬT MỚI VỀ LAO ĐỘNG
Sự dịch chuyển khỏi ngành sản xuất dệt may đại quy mô
ở Trung Quốc, dù mới ở giai đoạn đầu, đánh dấu một sự đảo
ngược của những gì đã diễn ra trong suốt nhiều năm qua...
Một nhà máy dệt ở Binzhou, Trung Quốc - Ảnh: Getty
9. 9
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Hồi tháng 12, CEO Toni Ruiz
của Mango nói rằng ông đang
cân nhắc giảm mua hàng từ Trung
Quốc “nhưng chúng tôi sẽ rất cảnh
giác về những diễn biến tiếp theo”.
“Việc chúng tôi đang xem xét là
mức độ mà việc thuê ngoài toàn
cầu vốn đã phát triển trong nhiều
năm nay có thể trở nên địa phương
hơn”, ông Ruiz nói.
Sự dịch chuyển này được thúc
đẩy bởi tình trạng gián đoạn chuỗi
cung ứng kéo dài kể từ khi Covid-19
trở thành đại dịch toàn cầu - nhân
tố đẩy chi phí vận chuyển tăng
cao. Một nhà tư vấn trong ngành
dệt may cho biết đơn hàng từ mùa
trước của một nhà bán lẻ đồ trượt
tuyết phải đến mùa hè năm 2022
mới được giao tới nơi.
“Đối với nhiều người, không
còn những ngày chỉ cần sản xuất
ở Trung Quốc và vận chuyển
hàng tới tất cả những nơi khác”,
Phó chủ tịch Todd Simms của nền
tảng thông tin chuỗi cung ứng
FourKites phát biểu. “Sự gián đoạn
đã làm gia tăng chi phí của việc
giao hàng thành phẩm đến khách
hàng, dẫn tới nhu cầu sản xuất ở
các quốc gia khác để có được sự ổn
định tốt hơn”.
Lý do tài chính để tiếp tục sản xuất
ở Trung Quốc cũng đang giảm xuống do
tiền lương ở nước này tăng lên sau nhiều
năm giá nhân công duy trì ở mức thấp
- một nhân tố quan trọng để nhiều tên
tuổi trong làng thời trang tìm đến nước
này để đặt nhà máy. Theo số liệu từ Tổng
cục Thống kê Trung Quốc, tiền lương bình
quân tại các nhà máy ở nước này tăng
gấp đôi trong thời gian từ 2013-2021, từ
mức 46.000 Nhân dân tệ (6.689 USD)/
năm lên 92.000 Nhân dân tệ.
CEO Jose Calamonte của thương hiệu
thời trang Asos nói với nhà đầu tư tại buổi
công bố kết quả kinh doanh cả năm 2022 vào cuối năm ngoái rằng các sản phẩm sản xuất ở Trung Quốc không
còn có độ cạnh tranh về giá vì mức giá của những sản phẩm này dường như đã ngang bằng so với hàng sản
xuất ở châu Âu nếu tính cả chi phí vận chuyển. “Chúng tôi cố gắng nghĩ đến biên lợi nhuận cuối cùng một khi
sản phẩm được bán đến tay người tiêu dùng”, ông nói.
Giá cước vận tải đường biển (màu
đỏ) và đường không (màu xanh)
đã giảm xuống gần đây sau khi
tăng vọt trong năm 2022.
Đơn vị: nghìn USD/container
Nguồn: FT.
Các hãng bán lẻ hàng dệt may
châu Âu đã nỗ lực cắt giảm thời
gian vận chuyển hàng, vì các xu
hướng thời trang và nhu cầu của
người tiêu dùng thay đổi rất nhanh.
Điều này là một lý do nữa phía sau
quyết định của họ đưa việc sản
xuất về gần hơn.
“Chúng tôi đang giành lấy
quyền kiểm soát hoạt động sản
xuất. Đây là một xu hướng để
đáp ứng các yêu cầu về tốc độ và
hiệu quả”, người phát ngôn một
thương hiệu thời trang xa xỉ của
Anh phát biểu.
Tuy nhiên, các kế hoạch dịch
chuyển khỏi những trung tâm sản
xuất dệt may ở châu Á không thể
diễn ra một cách dễ dàng, bởi sự
phức tạp của chuỗi cung ứng.
Những nước như Trung Quốc và
Việt Nam chiếm một tỷ trọng lớn
trong xuất khẩu dệt may toàn cầu
– theo dữ liệu năm 2020 của CEPII.
Chẳng hạn, hơn một nửa số nhà
cung ứng của Inditex, công ty bán
lẻ thời trang lớn nhất thế giới, nằm
ở Trung Quốc trong năm 2021, chỉ
giảm nhẹ so với tỷ trọng ghi nhận
vào năm 2018.
Thổ Nhĩ Kỳ đã nổi lên thành
một nước hưởng lợi từ việc các
thương hiệu thời trang phương
Tây chuyển sản xuất, một phần bởi
quốc gia này là một phần trong liên
CUỘC CẠNH TRANH KHỐC LIỆT VỚI SHEIN
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của một số nền kinh tế trên thế giới
năm 2020. Đơn vị: tỷ USD - Nguồn: FT
10. 10
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
minh hải quan với liên minh châu
Âu (EU) - cơ chế tạo điều kiện cho
thương mại giữa các nước thành
viên. “Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một
điểm đến được ưa thích và được lựa
chọn bởi những hãng như Hugo
Boss, Adidas, Nike, Zara…”, Phó
chủ tịch điều hành Simon Gaele
của công ty tư vấn chuỗi cung ứng
Proxima phát biểu.
Một cân nhắc ngày càng quan
trọng đối với các nhà bán lẻ là khả
năng truy xuất trong chuỗi cung
ứng sau nhiều năm có những nghi
vấn về lạm dụng người lao động.
“Do các quy định của Mỹ chống lại
bông có nguồn gốc từ Tân Cương,
các thương hiệu cần phải có tính
truy xuất tốt hơn nhiều. Châu Âu
cũng đang đưa ra luật mới về lao
động cưỡng bức, đặt ra áp lực
lớn hơn lên ngành thời trang”, bà
Hurst nói.
Dù vậy, vị chuyên gia cảnh báo:
“Không có đủ tiền trong các chuỗi
cung ứng quốc tế để vận hành mọi
thứ theo hướng như mong muốn.
Do khủng hoảng kinh tế, mọi thứ
sẽ trở nên tệ hơn”.
Nhà phân tích Maximilian
Albrecht của AlixPartners nói rằng
nhiều thương hiệu thời trang nhanh
cũng đang rút sản xuất khỏi Trung
Quốc để tạo sự khác biệt với Shein
– thương hiệu thời trang nhanh
đang phát triển mạnh của Trung
Quốc. “Các thương hiệu châu Âu
không thể cạnh tranh với Shein
về chi phí sản xuất, mạng lưới sản
xuất cũng như các mối quan hệ”,
ông Albrecht nói.
“Tôi cho rằng sẽ có một số
thương hiệu nói: ‘mình không thể
cạnh tranh được (với Shein) nên
mình sẽ chuyển sản xuất về châu
Âu’. Khi được sản xuất ở châu Âu,
sản phẩm sẽ được cho là có chất
lượng cao hơn, cho dù điều đó có
thật hay không lại là một vấn đề
khác”, ông Albretch phát biểu.
Nguồn: Vneconomy
N
gành dệt may kỳ vọng kim
ngạch xuất khẩu đạt 50-52
tỷ USD vào năm 2025 và
68-70 tỷ USD vào năm 2030, theo
tài liệu chiến lược.
Chiến lược nêu rõ, phát triển
ngành thời trang được coi là hướng
đi mới. Theo đó, ngành này sẽ tập
trung phát triển các nhà thiết kế,
hệ thống cung ứng nguyên phụ
liệu, sản xuất và phân phối để hình
thành chuỗi cung ứng, tạo nền
tảng bền vững cho sự phát triển
của ngành thời trang trong nước
cũng như các trung tâm thời trang
tại Hà Nội và TP.HCM.
Chiến lược khuyến khích doanh
nghiệp chuyển dần sang phương
thức sản xuất FOB, sản xuất thiết
kế riêng để gia tăng giá trị cho sản
phẩm, xây dựng thương hiệu riêng
để nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp và sản phẩm.
Ngành dệt may phấn đấu đạt
tỷ lệ nội địa hóa 51-55% giai đoạn
2021-2025 và 56-60% giai đoạn
2026-2030.
Chiến lược cũng đề cập đến vai
trò của cơ quan quản lý nhà nước
trong việc khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư sản xuất xơ, sợi, dệt,
nhuộm với công nghệ tiên tiến và
kết nối với doanh nghiệp may mặc
trong nước.
Trích: Fibre2Fashion
Ngọc Trâm biên dịch
Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu dệt may, da giày
đạt 80 tỷ USD vào năm 2025
Ngành dệt may, da giày
Việt Nam đặt mục tiêu đạt
kim ngạch xuất khẩu 77-80
tỷ USD vào năm 2025 và
106-108 tỷ USD vào năm
2030, theo chiến lược phát
triển ngành dệt may-da giày
của Chính phủ. Chính phủ
dự định khuyến khích sản
xuất vải từ sợi trong nước
để giảm nhập khẩu và hình
thành chuỗi giá trị và cung
ứng khu vực hoàn chỉnh.
11. Wakefield Inspection Services Ltd được thành lập tại Liverpool, Vương Quốc Anh từ năm 1993. Cho đến nay, có
hơn 20 công ty con đã được thành lập toàn cầu và việc mở rộng mạng lưới vẫn đang được tiếp diễn. Hiện tại WIS
đang hoạt động tại hơn 60 quốc gia và trở thành công ty dẫn đầu về ngành giám định bông thô trên toàn thế giới.
Qua hơn 20 năm cung cấp dịch vụ giám định tại thị trường Việt Nam, chúng tôi sung sướng thông báo rằng WIS có
thể cung cấp dịch vụ kiểm nghiệm bông thô tại phòng thí nghiệm HVI vừa được thành lập tại TP. Hồ Chì Minh.
Tại sao chọn WIS?
Wakefield Inspection Services là công ty giám định dẫn đầu và được quốc tế công nhận.
Có truyền thông lưu giữ nhân viên, giúp việc liên lạc với khách hàng của mình luôn thông suốt.
Có đội ngũ nhân viên dày dạn kinh nghiệm.
Duy trì việc đào tạo không ngừng.
Cung cấp dịch vụ đúng nhu cầu của khách hàng, theo từng yêu cầu cụ thể.
Có mạng lưới toàn cầu thông qua đội ngũ nhân viên địa phương.
Có mạng lưới hỗ trợ toàn cầu.
Để biết thêm thông tin về các dịch vụ WIS hiện đang cung cấp, vui lòng liên lạc với chúng tôi qua email:
Info@wiscontrol.com / vit-ops@wiscontrol.com
Wakefield Inspection Services Ltd was established in Liverpool, England in 1993. Since WIS’ formation - over twenty Group
Companies have been established worldwide and this expansion continues today, WIS currently operates in over 60 countries
becoming the leading company in the inspection of raw cotton fibre.
Now having worked in Vietnam for the last 20 years WIS is pleased that they can offer the HVI testing of cotton in our testing
laboratory in Ho Chi Minh
Why Wakefield?
Wakefield Inspection is an internationally recognised, and industry leading inspection company
Staff retention, enabling a continuity of communication with our clients
Providing staff with significant hands on experience
Ongoing Training
Customised services, tailored to your needs
Global coverage via local, on the ground, staff
A Group wide support network
For more information on what WIS can do for you, please contact:
Info@wiscontrol.com / vit-ops@wiscontrol.com
12. American Eagle Outfitters
Tham Gia Chương Trình U.S. Cotton Trust Protocol
U.S. Cotton Trust Protocol (“Trust Protocol”) thông báo American Eagle Outfitters, Inc. (“AEO”) đã
tham gia chương trình. AEO là nhà bán lẻ toàn cầu hàng đầu, cung cấp quần áo, phụ kiện và các sản
phẩm chăm sóc cá nhân chất lượng cao, hợp thời trang thông qua các thương hiệu American Eagle,
Aerie, OFFL/NE by Aerie, Todd Snyder và Unsubscribe.
Trust Protocol sẽ hỗ trợ AEO trong những nỗ lực liên tục của tập đoàn nhằm mang lại sự minh bạch,
xuyên suốt và báo cáo chuẩn hơn về các thành tựu về ESG của mình. Với triết lý tập trung vào sự
lạc quan, chiến lược ESG Xây dựng một Thế giới Tốt đẹp hơn của AEO tập trung vào ba lĩnh vực
chính: trái đất (môi trường), con người (xã hội) và thực hành (quản trị). Đáng chú ý, công ty đã đặt
ra các mục tiêu cụ thể để đạt được mục tiêu trung hòa carbon tại các địa điểm do mình sở hữu và
vận hành, đồng thời giảm đáng kể việc sử dụng nước, cùng với các sáng kiến bền vững khác.
Trust Protocol là hệ thống bền vững duy nhất cung cấp các mục tiêu và phương thức đo lường có
thể định lượng, kiểm chứng và thúc đẩy cải tiến liên tục ở sáu chỉ số bền vững chính – sử dụng đất,
carbon đất, quản lý nước, xói mòn đất, khí thải nhà kính và sử dụng năng lượng. Trust Protocol tổng
hợp các số liệu bền vững này từ Nền tảng Fieldprint® của Field to Market, cho phép người nông dân
đăng ký đo lường các tác động môi trường từ hoạt động của họ và xác định các cơ hội để cải tiến
liên tục.
Để tham gia chương trình, hãy ghé thăm TrustUSCotton.org.
GIỚI THIỆU VỀ U.S. COTTON TRUST PROTOCOL
Được triển khai vào năm 2020, U.S. Cotton Trust Protocol được xây dựng để thiết lập một tiêu
chuẩn mới về trồng bông bền vững, đảm bảo việc bảo vệ và bảo tồn tài nguyên, bằng cách sử dụng
các phương thức canh tác bền vững và có trách nhiệm nhất. Đây là chương trình dựa trên cơ sở
khoa học, cấp nông trại duy nhất cung cấp các mục tiêu và phương thức đo lường có thể định lượng,
và kiểm chứng được trong sáu chỉ số bền vững chính cũng như tính minh bạch trong chuỗi cung
ứng ở cấp độ sản phẩm.
U.S. Cotton Trust Protocol được giám sát bởi Hội đồng quản trị có nhiều bên liên quan bao gồm đại
diện từ các thương hiệu và nhà bán lẻ, xã hội và các chuyên gia về phát triển bền vững độc lập cũng
như ngành bông, bao gồm nông dân, nhà máy cán bông, thương lái, bán buôn và hợp tác xã, nhà
máy và người xử lý hạt bông.
13. JOIN NOW
To learn more or
become a member,
TrustUSCotton.org
Launched in 2020, the U.S. Cotton
Trust Protocol was designed
to set a new standard in more
sustainably grown cotton,
ensuring that it contributes to
the protection and preservation
of the planet, using the most
sustainable and responsible
techniques. It is the only system
that provides quantifiable, verifiable
goals and measurement in six key
sustainability metrics and article-
level supply chain transparency.
The Trust Protocol provides brands
and retailers the critical assurances
they need to show the cotton fiber
element of their supply chain is
more sustainably grown with lower
environmental and social risk.
SETTING A NEW STANDARD IN MORE
SUSTAINABLE COTTON PRODUCTION
Trust in a smarter cotton future.
14. 14
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT -
18. 18
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
T
rên thực tế, để phản ánh
chính xác hơn sự phát triển
của một quốc gia, các tổ
chức quốc tế sẽ điều chỉnh GDP
theo sức mua tương đương (PPP)
để đánh giá. GDP (PPP) sẽ phản
ánh một phần nào đó chất lượng
đời sống của người dân trong một
khu vực. Chính vì vậy, các tổ chức
quốc tế luôn thống kê GDP (PPP)
bên cạnh GDP danh nghĩa để đưa
ra đánh giá chính xác hơn cho các
quốc gia trên thế giới.
Theo dữ liệu dự báo mới nhất
của Viện nghiên cứu kinh tế Lowy
(Úc), GDP (PPP) Việt Nam được
dự báo vượt mốc 2.000 tỷ USD
vào năm 2030. Cụ thể, GDP (PPP)
của Việt Nam đạt khoảng 2.045
tỷ USD, xếp thứ 9 thế giới vào
năm 2030.
Cùng với đó, Trung Quốc là
quốc gia có dự báo quy mô GDP
(PPP) lớn nhất thế giới, đạt khoảng
43.879 tỷ USD vào năm 2030.
Xếp sau Trung Quốc là Hoa Kỳ,
GDP (PPP) có dự báo đạt khoảng
28.708 tỷ USD vào năm 2030.
Ấn Độ xếp ở vị trí thứ 3 với quy
mô GDP (PPP) dự báo đạt khoảng
17.948 tỷ USD vào năm 2030.
Nhật Bản xếp ở vị trí thứ 4 với quy
mô GDP (PPP) dự báo đạt khoảng
6.337 tỷ USD vào năm 2030.
Indonesia xếp ở vị trí thứ 4 với quy
mô GDP (PPP) dự báo đạt khoảng
5.951 tỷ USD vào năm 2030.
5 quốc gia còn lại lọt top
10 quốc gia có dự báo quy mô
GDP (PPP) lớn nhất thế giới vào
năm 2030 gồm có: Nga (4.973 tỷ
USD), Hàn Quốc (3.282 tỷ USD),
Pakistan (2.159 tỷ USD), Việt Nam
(2.045 tỷ USD) và Bangladesh
(1.954 tỷ USD).
Xét riêng trong khối ASEAN
theo dự báo của Lowy Institute,
Indonesia là quốc gia có dự báo
quy mô GDP (PPP) lớn nhất vào
năm 2030. Xếp sau Indonesia
là Việt Nam. Thái Lan đứng ở vị
trí thứ 3 với dự báo quy mô GDP
(PPP) đạt khoảng 1.837 tỷ USD
vào năm 2030.
Philippines đứng ở vị trí thứ 4
với dự báo quy mô GDP (PPP) đạt
khoảng 1.746 tỷ USD vào năm
2030. Malaysia đứng ở vị trí thứ
5 với dự báo quy mô GDP (PPP)
đạt khoảng 1.549 tỷ USD vào năm
2030 theo Lowy Institute.
Trích: Nhịp sống kinh tế
Dựa trên kết quả tình hình kinh tế trong năm 2022, Viện nghiên cứu kinh tế Lowy (Úc)
đã đưa ra dự báo quy mô GDP (PPP) cho Việt Nam và các nước trên thế giới. Vậy dự báo
mới nhất, quy mô GDP (PPP) Việt Nam vượt mốc 2.000 tỷ USD sau 7 năm nữa.
7 năm nữa, GDP (PPP) Việt Nam được dự báo tiến vào top 10
lớn nhất thế giới, vượt 2.000 tỷ USD
20. 20
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Trong tháng 1/2023, tổng vốn đăng ký
cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần,
mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư
nước ngoài giảm 19,8% so với cùng kỳ năm
2022. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, FDI
vẫn sẽ tiếp tục là một động lực thúc đẩy kinh
tế Việt Nam phát triển trong năm 2023.
FDI tháng 1/2023 của Việt Nam
giảm gần 20%, chuyên gia nhận
định thế nào về xu hướng FDI
thời gian tới?
T
heo báo cáo về tình hình đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, tính đến 20/01/2023, tổng vốn đăng ký cấp
mới, điều chỉnh và góp vốn m ua cổ phần, mua phần
vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần
1,69 tỷ USD, giảm 19,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt
khoảng 1,35 tỷ USD, giảm 16,3% so với cùng kỳ
năm 2022.
Tính lũy kế đến ngày 20/01/2023, cả nước có
36.458 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần
441,31 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án
đầu tư nước ngoài ước đạt gần 275,35 tỷ USD, bằng
gần 62,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Có thể thấy, nếu năm 2022 nguồn vốn FDI vào
Việt Nam vẫn còn rất ổn định (FDI thực hiện cao kỷ
lục 10 năm), thì trong tháng 1, con số FDI đã cho thấy
những suy yếu đầu tiên. FDI đăng ký trong xu hướng
giảm là hiện tượng đã xuất hiện từ giai đoạn giữa
năm 2022.
Con số quan trọng hơn là FDI thực hiện tháng 1
cũng cho thấy sự suy yếu. Tuy nhiên, CTCK DSC đánh
giá mức suy giảm có thể đến từ việc các nhà đầu tư
giữ vốn, không đầu tư trong dịp Tết Âm Lịch (11 năm
trở lại, 8 năm FDI thực hiện giảm trong tháng Tết). Do
đó, nhà đầu tư cần theo dõi dữ liệu FDI đến hết quý
1 trước khi đưa ra kết luận đà giảm FDI là bền vững.
Ngoài ra, tuy tổng FDI đăng ký giảm, số dự án
đăng ký cấp mới tăng 49% so với cùng kỳ, trong khi
FDI đăng ký cấp mới tăng mạnh 300% so với cùng kỳ
(Tổng FDI đăng ký gồm (1) đăng ký cấp mới, (2) đăng
ký điều chỉnh, (3) góp vốn mua cổ phần).
21. 21
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
DSC nhận định, dù 2023 là câu
chuyện về rủi ro suy thoái kinh tế,
khu vực châu Á vẫn được dự đoán
sẽ tăng trưởng tốt (Việt Nam suy
thoái 2009 GDP vẫn tăng trưởng
5.4% so với cùng kỳ). Do đó, DSC
kỳ vọng giá trị FDI vào Việt Nam
sẽ tiếp tục có sự tăng trưởng trong
2023.
Từng chia sẻ trước đây, ông
Andrew Jeffries, Giám đốc quốc
gia Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) tại Việt Nam nhận định, du
lịch sẽ là động lực lớn cho kinh tế
Việt Nam trong năm 2023. Bên
cạnh đó, FDI vẫn sẽ tiếp tục là một
động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam
phát triển trong năm 2023.
Còn theo đánh giá của HSBC,
bất chấp chu kỳ đi xuống của công
nghệ toàn cầu trong ngắn hạn, các
công ty công nghệ tiếp tục đầu tư
vào Việt Nam . Dự án phát triển
mới nhất đến từ nhà sản xuất màn
hình của Trung Quốc BOE, nhà
cung cấp màn hình cho cả Apple
lẫn Samsung, có kế hoạch đầu tư
lên tới 400 triệu USD để xây dựng
hai nhà máy.
Trong khi đó, tâm lý các doanh
nghiệp châu Âu cũng cho thấy cái
nhìn lạc quan tương tự, thể hiện
trong khảo sát hàng quý mới nhất
của Hiệp hội Doanh nghiệp châu
Âu (Eurocham) tại Việt Nam. Thực
tế, mặc dù tổng FDI sụt giảm trong
năm 2022, FDI trong lĩnh vực sản
xuất vẫn vững vàng, càng nêu bật
lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
trong mảng này.
Trong một bài phân tích hồi đầu
năm, Kinh tế trưởng VinaCapital,
ông Michael Kokalari cho biết, theo
khảo sát của JETRO và các tổ chức
khác, sức hấp dẫn chính của Việt
Nam với tư cách là điểm đến của
FDI bắt nguồn từ thực tế là mức
lương tại các nhà máy chỉ bằng 1/3
so với ở Trung Quốc, và chất lượng
lực lượng lao động tương đương
với Trung Quốc.
Một yếu tố khác là vị trí địa lý
của Việt Nam gần với chuỗi cung
ứng của châu Á, đặc biệt là ngành
công nghệ cao. Trong những năm
gần đây, ngày càng có nhiều công
ty đa quốc gia bắt đầu đa dạng
hoá hoạt động sản xuất bên ngoài
Trung Quốc vì nhiều lý do bao
gồm chính sách “Zero Covid” của
Trung Quốc và cuộc chiến thương
mại Mỹ - Trung.
Nguồn: Nhịp sống thị trường
22. 22
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
D
oanh nghiệp muốn phát
triển bền vững thì nâng
cao năng suất, cải tiến chất
lượng sản phẩm để phù hợp nhu
cầu thị trường, thị hiếu của người
tiêu dùng là một trong những yêu
cầu bắt buộc. Việc áp dụng các
công cụ cải tiến được xem là giải
pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp
cải tiến quy trình sản xuất, loại bỏ
những khuyết điểm, giảm lãng phí
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, nâng cao vị thế và uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường.
Trong đó không thể không kể đến
công cụ cải tiến 5S.
Các công cụ cải tiến giúp
doanh nghiệp nâng cao vị thế và uy
tín trên thị trường. Ảnh minh họa.
Khái niệm 5S bắt nguồn từ Nhật
Bản vào đầu những năm 1980.
Theo định nghĩa 5S là Seiri (Sàng
lọc những thứ không cần thiết tại
nơi làm việc và bỏ đi), Seiton (Sắp
xếp mọi thứ ngăn nắp để dễ tìm,
dễ thấy, dễ lấy), Seiso (Sạch sẽ vệ
sinh thiết bị, dụng cụ và nơi làm
việc), Seiketsu (Săn sóc nơi làm
việc bằng cách luôn thực hiện 3S
trên) và Shitsuke (Sẵn sàng giáo
dục rèn luyện để mọi người thực
hiện 4S trên một cách tự giác).
Nhiều doanh nghiệp tại Việt
Nam đã thành công áp dụng 5S,
biến 5S không chỉ đơn thuần là
công cụ mà trở thành văn hóa
cải tiến của công ty. Tuy nhiên,
bên cạnh đó vẫn có những doanh
nghiệp áp dụng 5S chưa thành
công, một trong những lỗi điển
hình là quá vội vàng triển khai, dẫn
tới không có kết quả mà còn tốn
nhiều chi phí.
Ông Man Thiện Ninh Cải –
chuyên gia Cải tiến năng suất,
Quản lý chất lượng và Quản lý sản
xuất tại Bureau Veritas Việt Nam
nhận định, ngay cả những công ty
ở Nhật Bản cũng không phải tất cả
đều áp dụng và duy trì thành công
5S. Có điều cách mà người Nhật áp
dụng 5S ở công ty của họ dựa trên
nền tảng con người đã có sẵn nhận
thức về 5S.
Họ được giáo dục từ trong
trường học và cuộc sống hàng ngày,
từ trong cách mặc quần áo, dáng
đi, tư thế ngồi đến cách chào hỏi,
sử dụng nước trong nhà vệ sinh...
Họ không mất nhiều thời gian để
Nhận thức là “chìa khóa”
giúp công cụ 5S phát huy hiệu quả
Các công cụ cải tiến giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế và uy tín trên thị trường.
Ảnh minh họa.
Để áp dụng thành công
5S cần nâng cao nhận thức
từ việc cải thiện những việc
nhỏ hàng ngày nhằm giảm
thiểu rủi ro, lãng phí, từ đó
tạo ra hiệu quả lớn.
Nâng cao nhận thức của lãnh đạo, nhân viên trong áp dụng 5S. Ảnh minh họa.
23. 23
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
C
ụ thể, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Trung
Quốc đạt 3,87 tỷ USD trong
tháng 1/2023. Nhóm hàng xuất
khẩu lớn nhất là điện thoại và linh
kiện với kim ngạch đạt 1,7 tỷ USD.
Cùng với đó, nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam từ Trung Quốc
đạt 7,23 tỷ USD trong tháng
1/2023. Hàng hóa nhập khẩu đa
dạng từ sản phẩm, linh kiện điện
tử; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ
tùng; nguyên phụ liệu; hàng tiêu
dùng; hàng nông sản…
Theo đó, với tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hơn 11 tỷ USD,
Trung Quốc là đối tác thương
mại song phương duy nhất của
Việt Nam có quy mô kim ngạch
hơn 10 tỷ USD trong tháng đầu
năm 2023.
Trong quan hệ thương mại,
Việt Nam xuất khẩu sang Trung
Quốc các sản phẩm nông sản
nhiệt đới, thủy sản, dệt may,
điện thoại, máy tính, sản phẩm
điện tử. Đồng thời, Việt Nam nhập
khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng
nguyên liệu phục vụ sản xuất,
nông sản ôn đới...
Trên thực tế, Trung Quốc là thị
trường xuất khẩu quan trọng đối
với một số mặt hàng nông sản của
Việt Nam (thị trường xuất khẩu lớn
nhất đối với nhóm hàng rau quả,
sắn và các sản phẩm từ sắn, cao su;
thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với
nhóm hàng thủy sản, chỉ sau Mỹ,
Nhật Bản).
Tháng 1/2023 là tháng có Tết
Dương lịch và Tết Nguyên đán
đào tạo 5S cho nhân viên mà cũng
có thể áp dụng ngay quy định công
ty đang có. 5S được áp dụng cho
những công việc nhỏ nhặt từ từng
cây bút, từng tờ giấy, chổi lau nhà...
đến sắp xếp kế hoạch công việc,
lịch trình đón khách... từ nhận thức
đến cải thiện việc nhỏ hàng ngày
giảm thiểu rủi ro, lãng phí, từ đó
tạo ra hiệu quả lớn.
Ngược lại, ở Việt Nam nền tảng
kiến thức về 5S vẫn hạn chế, nhận
thức của nhân viên đang trong giai
đoạn sơ khai, nhưng khi áp dụng
lại muốn nhanh chóng có kết quả,
áp đặt mục tiêu lớn, thay đổi đột
ngột... tạo ra sự chuyển biến môi
trường làm việc nhưng lại thiếu
tính bền vững. Để hình thành thói
quen cải tiến và thực hiện 5S mang
tính tự giác không phải ngày một
ngày hai hoặc trong thời gian ngắn
có thể mang lại hiệu quả.
Do đó, theo các chuyên gia,
phương pháp tiếp cận khuyến nghị
đối với doanh nghiệp muốn áp
dụng 5S là cần xác định năng lực,
nguồn lực hiện tại của mình, vạch
ra mục tiêu, mức độ mong muốn
đạt được của doanh nghiệp dài hạn
theo từng cấp độ nhất định. Tương
ứng với từng cấp độ, mục tiêu đó
hoạch định ra những công việc
phải làm, phương pháp nào thực
hiện, phân công nhiệm vụ rõ ràng
theo từng khu vực nhỏ, theo từng
phòng ban và phương pháp dùng
để kiểm tra đánh giá mức độ đạt
được.
Nguồn: Tạp chí Diễn đàn
Doanh nghiệp
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, Trung Quốc
là đối tác thương mại duy nhất của Việt Nam có kim ngạch xuất
nhập khẩu trên 10 tỷ USD trong tháng 1/2023.
Đối tác thương mại duy nhất của Việt Nam có
kim ngạch xuất nhập khẩu trên 10 tỷ USD trong tháng 1/2023
24. 24
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
diễn ra trọn trong tháng nên số
ngày làm việc ít hơn tháng trước
và tháng 1/2022 . Vì vậy, tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa
so với tháng trước và so với cùng
kỳ năm trước đều giảm.
Tổng kim ngạch xuất, nhập
khẩu hàng hóa tháng 1/2023 ước
đạt 46,56 tỷ USD, giảm 17,3%, so
với tháng trước và giảm 25% so với
cùng kỳ năm trước (trong đó xuất
khẩu giảm 21,3%; nhập khẩu giảm
28,9% ). Cán cân thương mại hàng
hóa tháng 1/2023 ước tính xuất
siêu 3,6 tỷ USD.
Về thị trường xuất, nhập khẩu
hàng hóa tháng 1/2023, Hoa Kỳ là
thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam với kim ngạch ước đạt 7,6
tỷ USD. Trung Quốc là thị trường
nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam
với kim ngạch ước đạt 8,1 tỷ USD.
Tháng 1/2023 xuất siêu sang
thị trường EU ước đạt 1,8 tỷ USD,
giảm 45% so với cùng kỳ năm
trước; xuất siêu sang thị trường
Nhật Bản 100 triệu USD giảm
65,3%; nhập siêu từ Trung Quốc
3,4 tỷ USD, giảm 52,6%; nhập
siêu từ Hàn Quốc 2,5 tỷ USD, giảm
20,9%; nhập siêu từ thị trường
ASEAN 1,3 tỷ USD, tăng 74,3%.
Nguồn: Nhịp sống kinh tế
T
ổng cục Hải quan vừa ban
hành Quyết định số 123/
QĐ-TCHQ ngày 31/1/2023
về việc giao chỉ tiêu cải cách hành
chính, đơn giản hóa thủ tục hải
quan, tạo thuận lợi thương mại
năm 2023.
Theo đó, Tổng cục Hải quan đã
giao 10 nhóm chỉ tiêu cải cách đi
kèm là các giải pháp để thực hiện
chỉ tiêu.
Với chỉ tiêu 1 là nâng cao chất
lượng công tác phân tích, đánh giá
rủi rủi ro, đảm bảo giảm 5% tỷ lệ tờ
khai luồng đỏ, giảm 10% tỷ lệ tờ
khai luồng vàng năm 2023, Tổng
cục Hải quan sẽ tiến hành rà soát
lại các văn bản chỉ đạo của Tổng
cục về tăng cường kiểm tra kiểm
soát hàng hóa xuất nhập khẩu; cắt
giảm danh mục kiểm tra chuyên
ngành, cắt giảm danh mục quản
lý rủi ro trong các lĩnh vực nghiệp
vụ hải quan, chuyển đổi cơ bản hồ
sơ hải quan sang chứng từ điện
tử (không yêu cầu nộp bản giấy);
giảm tỷ lệ các lô hàng phải lấy mẫu
phân tích giám định; nâng cao tỷ lệ
doanh nghiệp tuân thủ pháp luật
hải quan…
Ngành hải quan sẽ giảm 10% thời gian thông quan trong năm 2023
Doanh nghiệp mở tờ khai xuất nhập khẩu hàng hóa tại Chi cục Hải quan Ga đường sắt
Quốc tế Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn. (Ảnh: Quang Duy/TTXVN)
Tổng cục Hải quan cũng cho biết với chỉ tiêu giảm 10% thời gian thông quan, giải phóng hàng (liên
quan đến thời gian tác nghiệp của cơ quan Hải quan), đều hướng tới mục đích chung cuối cùng là giảm
thời gian, giảm chi phí cho doanh nghiệp thông quan việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu.
25. 25
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Nếu các chỉ tiêu ban hành tại
Quyết định này đều hoàn thành thì
thời gian thông quan, giải phóng
hàng sẽ phần nào có thể cắt giảm
hơn nữa. Tổng cục Hải quan sẽ xây
dựng giải pháp cụ thể thực hiện chỉ
tiêu này trong năm 2023 trên cơ sở
tổng hợp ý kiến của cục hải quan
các tỉnh, thành phố về thời gian
thông quan, giải phóng hàng năm
2022.
Bên cạnh đó là các chỉ tiêu
giảm 20% số lô hàng phải lấy
mẫu phân tích, giám định; cắt giảm
chứng từ thuộc bộ hồ sơ hải quan,
cơ bản chuyển đổi sang chứng từ
dưới dạng dữ liệu điện tử 100%
chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng
hóa nộp điện tử; nghiêm cấm công
chức hải quan yêu cầu người khai
nộp các chứng từ ngoài quy định;
phối hợp với các bộ, ngành đưa
50% thủ tục hành chính còn lại
thực hiện trên Cổng thông tin một
cửa quốc gia.
Quyết định cũng đưa ra chỉ tiêu,
tăng số cuộc thực hiện tham vấn giá
theo hình thức gián tiếp của doanh
nghiệp hạng 1 đến 4; giảm 25%
tỷ lệ số cuộc kiểm tra sau thông
quan theo kế hoạch tuân thủ pháp
luật của người khai hải quan; tăng
10% số lượng tờ khai hải quan làm
thủ tục thông qua đại lý hải quan;
tăng 20% số lượng doanh nghiệp
tự nguyện tham gia Chương trình
hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp
tự nguyện tuân thủ pháp luật hải
quan so với năm 2022 để nâng cao
mức độ tuân thủ pháp luật.”
Đối với chỉ tiêu, nâng cao chất
lượng đối thoại, tháo gỡ kịp thời
khó khăn, vướng mắc cho doanh
nghiệp, Tổng cục Hải quan đưa
ra các yêu cầu hoàn thành việc
giải đáp các vướng mắc trong quá
trình thực hiện thủ tục hải quan tại
cấp chi cục trong thời gian 2 giờ
làm việc; tăng cường đối thoại với
doanh nghiệp theo hình thức trực
tuyến tối thiểu 1 lần/quý tại cấp chi
cục hải quan và 2 lần/năm tại cấp
cục hải quan tỉnh, thành phố. Giảm
50% số vụ khiếu nại các Quyết
định hành chính sai của cơ quan
Hải quan, công chức hải quan.
Cuối cùng là chỉ tiêu thực hiện
các thủ tục hành chính trong lĩnh
vực giám sát, quản lý hải quan trên
Cổng dịch vụ công trực tuyến gồm
thủ tục liên quan đến bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ; thủ tục liên quan
đến hoạt động của đại lý làm thủ
tục hải quan; thủ tục công nhận,
mở rộng, thu hẹp, chấm dứt hoạt
động của các địa điểm làm thủ tục
hải quan (kho, bãi, địa điểm).
Nguồn: TTXVN/Vietnam+
26. 26
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
SỰ KIỆN ĐÃ TỔ CHỨC THÁNG 2
N
gày 15-17/02/2023, VCOSA phối hợp cùng
Hiệp hội Bông Quốc tế (ICA), dưới sự tài trợ
của Hiệp hội Bông Mỹ (CCI) đã tổ chức thành
công khóa đào tạo Thương mại có ý nghĩa quan trọng
- Trade Matters 2023 tại TP.HCM.
VCOSA chúc mừng các anh chị đã hoàn thành
khóa học và xuất sắc vượt qua phần thi để nhận được
chứng chỉ của ICA. VCOSA sẽ tiếp tục làm việc với các
đối tác nhằm mang đến những chương trình hữu ích,
góp phần phát triển ngành bông, xơ, sợi Việt Nam.
Cùng nhìn lại những khoảnh khắc tại chương trình:
Học viên thảo luận sôi nổi với những chủ đề và tình huống
chuyên gia ICA nêu ra tại buổi học.
TIN TỨC - HOẠT ĐỘN
27. 27
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
NG - SỰ KIỆN VCOSA
Toàn bộ học viên đã xuất sắc vượt qua kỳ thi, nhận chứng chỉ của ICA và
chụp ảnh lưu niệm cùng Ban tổ chức.
Đại diện VCOSA trao quà và vinh danh nhà tài trợ CCI, cũng như cảm ơn và
tri ân ICA đã đồng hành cùng Ban tổ chức.
Tập trung làm bài thi trong 60 phút.
28. Bản tin Tháng 02-2023
HOẠT ĐỘNG VCOSA
Nhiệt liệt chào mừng hội viên mới gia nhập trong tháng 12/2022:
CÔNG TY CP DỆT MAY ĐÔNG KHÁNH
CÔNG TY TNHH SỢI CHỈ RIO QUẢNG NAM
📌 Ngày 02/02/2023, nhân kỷ niệm 74 năm ngày Cộng Hòa Ấn Độ, VCOSA tham dự tiệc chiêu đãi tại dinh thự
Ấn Độ theo lời mời của Tổng Lãnh sự quán Ấn Độ tại Việt Nam.
📌 Ngày 09/02/2023, VCOSA họp cùng công ty Dệt May Đông Khánh v/v triển khai công tác hậu cần, các quy
định, yêu cầu của chuyến thăm nhà máy Đông Khánh trong khuôn khổ khóa đào tạo Trade Matters 2023.
📌 Ngày 10/02/2023, tham gia họp online cùng đại diện ITMA v/v triển khai các nội dung liên quan đến triển
lãm ITMA tại Ý từ ngày 08-14/6/2023.
📌 Từ 15-17/02/2023, tổ chức khóa đào tạo Trade Matters 2023 tại TP.HCM. Khóa học đã thành công tốt đẹp
với gần 50 học viên đến từ 30 doanh nghiệp trên cả nước.
📌 Cùng đại diện đoàn ICA ghé thăm phòng Lab của công ty kiểm định Wakefield Inspection Service
(Việt Nam), hội viên VCOSA vào chiều ngày 17/02/2023.
📌 Tham dự Hội thảo chuyên đề bên lề Diễn đàn OECD về thẩm định chuỗi cung ứng trong ngành dệt may và
da giày, do VITAS tổ chức tại Hà Nội vào ngày 17/02/2023.
📌 Ngày 22/02/2023, tham dự chương trình Công bố sự kiện
Triển lãm Quốc tế vải cao cấp Texfuture Việt Nam 2023.
Tại buổi lễ, ông Nguyễn An Toàn, Chủ tịch VCOSA đã ký
kết MOU cùng Ban tổ chức gồm VCCI, công ty CP Giải Pháp
Dệt May Bền Vững (STS) và công ty Tengda Exhibition.
Theo đó, VCOSA sẽ đồng hành cùng Ban tổ chức để hỗ trợ
triển khai dự án Triển lãm Quốc tế vải cao cấp Texfuture
Việt Nam 2023, ngày 22-24/03/2023 tại TP.HCM.
📌 Ngày 24/02/2023, tham dự (1) Hội nghị về Tháo gỡ khó khăn trong thực thi chính sách và thực hiện thủ tục
hành chính về tạo thuận lợi thương mại xuyên biên giới, do VCCI và USAID phối hợp tổ chức tại TP.HCM;
(2) Hội thảo phổ biến Kế hoạch hành động ứng phó với Biến đổi khí hậu và Tăng trưởng xanh của ngành
công thương qua giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, do Bộ Công Thương phối hợp USAID
tổ chức tại TP.HCM.
HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN HỘI VIÊN
29. TRIỂN LÃM QUỐC TẾ VẢI CAO CẤP
TEXFUTURE VIỆT NAM 2023
Diễn ra vào 3 ngày: 22, 23, 24 tháng 3 năm 2023 - Tại GEM Center TP.HCM
D
ệt may là một trong những ngành kinh tế quan
trọng của Việt Nam. Dệt may không chỉ là ngành
mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 3 của cả nước
mà còn là ngành kinh tế góp phần ổn định an sinh xã hội.
Ngành dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng 2,5 triệu lao
động, xuất khẩu hơn 40 tỷ USD/năm, thu nhập trung bình
của người lao động đạt khoảng 3.800 USD/năm.
Tuy kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá trị gia tăng
của ngành còn thấp, chưa chủ động được nguồn nguyên
phụ liệu, năng suất lao động thấp hơn các nước trong khu
vực và chỉ ở mức trung bình khá. Do vậy, thách thức của
Dệt may Việt Nam chính là cần phát triển theo chiều sâu
trong thời gian tới, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, tập
trung những công đoạn có giá trị cao như thiết kế mẫu mã
sản phẩm, từng bước vươn lên bậc cao hơn trong chuỗi
cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp dệt may là một trong
những ngành tạo ra các tác động nhiều nhất cho ô nhiễm
môi trường. Các vấn đề chính bao gồm ô nhiễm nước và
không khí, khí nhà kính và thải hóa chất.
Do đó, các loại vải mới và công nghệ sản xuất tiên tiến
là xu hướng chính của ngành dệt may. Số hóa hàng loạt
trong dệt may sử dụng các công cụ tiên tiến xoay quanh
IoT, AI, phân tích dữ liệu và công nghệ 3D. Những công
nghệ này không chỉ cải thiện hiệu suất sản xuất mà còn
tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững.
Ngoài ra, vì sản xuất quần áo là một lĩnh vực có tính
cạnh tranh cao nên các công ty dệt may đang chú ý nhiều
hơn đến các khái niệm tiếp thị đổi mới và sáng tạo. Để đạt
được điều đó, cần sự tham gia của nhiều ngành trong hệ
sinh thái dệt may như thiết kế thời trang, công nghệ,...
Trong bối cảnh đó, Triển lãm Dệt may Texfuture Việt
Nam 2023 được tổ chức. Đây là sự kiện đầu tiên trong của
ngành Dệt may Việt Nam trong năm 2023 được bảo trợ
bởi Uỷ Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Công
thương Thành phố Hồ Chí Minh, do Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp cùng Cty CP Giải
pháp Dệt may bền vững và Tengda Exhibition phối hợp tổ
chức thực hiện.
Texfuture Việt Nam 2023 hơn cả một sự kiện triển lãm
Dệt may thông thường, đây không chỉ là nơi gặp nhau và
kết nối giữa các doanh nghiệp ngành Dệt may hàng đầu
của Việt Nam và quốc tế mà sự kiện diễn ra nhằm đưa các
xu hướng & công nghệ mới của thế giới đến gần hơn với
các doanh nghiệp Việt Nam.
Texfuture Việt Nam 2023 truyền cảm hứng và hỗ trợ
thúc đẩy nhanh việc áp dụng các vật liệu vải hướng đến
tính bền vững và khả thi. Chúng tôi xây dựng và hợp tác
với các đối tác trong hệ sinh thái ngành công nghiệp thời
trang, dệt may và da giày để đạt được các mục tiêu:
Phát triển Kinh tế tuần hoàn – Tăng trưởng xanh giai
đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 dựa trên Quyết
định số 687/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt ngày 07 tháng 06 năm 2022.
Phát triển ngành Dệt may và Da giày Việt Nam đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 theo Quyết định
số 1643/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
ngày 29 tháng 12 năm 2022.
Texfuture Việt Nam 2023 khác biệt ở chỗ các vật liệu
vải được trình bày vừa thể hiện sự tôn trọng sản xuất
truyền thống vừa hướng đến sản xuất theo cách hỗ trợ
hành tinh, hệ sinh thái, cộng đồng quốc tế với cách tiếp
cận toàn diện hơn. Khuyến khích sự tham gia của các tổ
chức chính phủ, phi chính phủ và khu vực tư nhân tại Việt
Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản,...nhằm xây dựng
một ngành công nghiệp dệt may sản phẩm giá trị gia tăng
cao, cung cấp việc làm chất lượng, bảo vệ môi trường và
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các loại
xơ và nguyên liệu thô quen thuộc trong ngành thời trang
và dệt may ngày nay, là bông, len, viscose, polyester, v.v.
đều đến từ nông nghiệp, rừng hoặc nhiên liệu hóa thạch.
Ngoài bốn loại nguyên liệu trọng tâm lớn này Texfuture
Việt Nam 2023 còn mang đến những nguyên liệu vải xu
hướng tự nhiên như vải từ sợi cafe, vải từ sợi dứa, từ cây gai
xanh, vải tái chế,...áp dụng công nghệ, số hoá hạn chế sự
nóng lên toàn cầu và giảm thiểu những tác động nghiêm
trọng nhất của biến đổi khí hậu.
Tại Texfuture Việt Nam 2023, chúng ta sẽ cùng gặp gỡ
các diễn giả, nhà thiết kế thời trang, các Doanh nhân, các
start-up trẻ để chia sẻ với nhau về hành trình chinh phục
vùng nguyên liệu xanh Việt Nam, về câu chuyện lội ngược
dòng thông minh tăng tốc bán hàng trong thời điểm các
nhà máy lớn nhỏ đều đang “đóng máy” hiện nay, hay về
cách mở lối đi riêng táo bạo mà đầy tâm huyết trong việc
số hoá ngành dệt may truyền thống....Những câu chuyện
tiên phong như: Thư viện vải vóc – Thư viện số hoá dữ
liệu nguồn nguyên liệu Dệt may duy nhất và đầu tiên cho
đến thời điểm hiện tại của ngành tại Việt Nam; Trung tâm
Thông tin Dệt may Việt Nam duy nhất tại Việt Nam với
cổng thông tin dệt may Việt Nam trực tuyến, trực quan
sinh động, cách tiếp cận dễ dàng với các công cụ phân tích
chuyên nghiệp, có thể hỗ trợ doanh nghiệp loại bỏ một
số phỏng đoán trong việc lựa chọn thị trường xuất khẩu
phù hợp,…Các nội dung chuyên đề mang tính toàn cầu của
ngành dệt may như: Kinh tế tuần hoàn đối với ngành Dệt
may, “Vải phế liệu đi về đâu?”, Kinh tế xanh và xu hướng
nguyên liệu của tương lai,…
Có thể khẳng định, từ quần áo chúng ta mặc cho đến
vải vóc trong nhà, thời trang, hàng gia dụng, mọi mặt của
cuộc sống đều chạm đến trực tiếp của mỗi người. Vượt
qua sự kỳ vọng đơn thuần thường thấy ở một diễn đàn
triển lãm dệt may, Texfuture Việt Nam 2023, chúng tôi tin
tưởng vào việc tìm nguồn cung ứng vải và phụ kiện dựa
trên sự tôn trọng các giá trị truyền thống đồng thời cùng
kêu gọi chung tay bảo vệ hành tinh, hệ thống và cộng
đồng của chúng ta theo mục tiêu: Kinh tế tuần hoàn – Kinh
tế xanh và Chuyển đổi số.
BAN TỔ CHỨC
32. 32
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
SỐ LIỆU THỐNG KÊ
Tháng 1/2023 Việt Nam nhập khẩu 69,9 nghìn
tấn bông, trị giá 175,1 triệu USD giảm 30,5% về
lượng và giảm 32,4% về trị giá so với tháng trước,
giảm 45,5% lượng và giảm 44,9% về trị giá so với
cùng kỳ năm trước.
Lượng xơ sợi nhập về Việt Nam là 60,6 nghìn
tấn, trị giá 136 triệu USD, giảm 25,7% về lượng và
giảm 17,3% về trị giá so với tháng trước, giảm 35,1%
về lượng và giảm 41,8% về trị giá so với cùng kỳ năm
trước.
Theo số liệu sơ bộ trong tháng
1/2023, Việt Nam nhập khẩu 69,9
nghìn tấn bông, giảm 30,5% so với
tháng trước. Lượng xơ, sợi dệt các loại
nhập khẩu là 60,6 nghìn tấn, giảm
25,7% so với tháng trước.
Theo số liệu xuất nhập
khẩu mới nhất từ tổng cục Hải
Quan, trong tháng 1/2023,
Việt Nam đã nhập khẩu bông
trị giá 175,1 triệu USD, giảm
32,4% so với tháng trước;
nhập khẩu xơ-sợi trị giá 136
triệu USD, giảm 17,3%; nhập
khẩu vải các loại trị giá 936
triệu USD, giảm 9,1%; nhập
khẩu nguyên phụ liệu dệt
may da giày giảm 16% so với
tháng trước, trị giá 377,4 triệu
USD.
1. Số liệu nhập khẩu
33. 33
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Trong tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu
bông trị giá 175,1 triệu USD, giảm 44,9% so với cùng
kỳ năm trước; nhập khẩu xơ sợi dệt các loại trị giá
136 triệu USD giảm 41,8%; nhập khẩu vải các loại
936 triệu USD, giảm 33,4%; nhập khẩu nguyên phụ
liệu dệt may da giày giảm 33,9% so với cùng kỳ năm
trước, trị giá 377,4 triệu USD.
Theo số liệu sơ bộ trong
tháng 1/2023, lượng xơ, sợi dệt
các loại nhập khẩu khoảng 60,6
nghìn tấn, giảm 25,7% so với
tháng trước, giảm 35,1% so với
cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu sơ bộ trong
tháng 1/2023, Việt Nam nhập
khẩu 69,9 nghìn tấn bông, giảm
30,5% so với tháng trước, và giảm
45,5% so với cùng kỳ năm trước.
34. 34
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Bông nguyên liệu là một trong
những nhóm hàng nguyên phụ
liệu dệt may nhập khẩu chủ lực của
Việt Nam sau vải và nhóm hàng
nguyên phụ liệu dệt may, da giày
khác, chiếm 14,4% tổng trị giá
nhập khẩu. Năm 2022, theo thống
kê từ Tổng cục Hải quan, nhập khẩu
nhóm hàng này vào Việt Nam đạt
1,43 triệu tấn, trị giá 4,03 tỷ USD,
giảm 14,6% về lượng nhưng tăng
24,5% về trị giá so với năm 2021.
Tính riêng trong tháng
12/2022, nhập khẩu bông nguyên
liệu của Việt Nam đạt 100,53 nghìn
tấn, trị giá 259,24 triệu USD, giảm
24,5% về lượng và giảm 31,6% về
trị giá so với tháng 11/2022, giảm
9,1% về lượng nhưng tăng 5,4%
về trị giá so với tháng 12/2021.
Năm 2022, có 10 thị trường
cung cấp bông nguyên liệu cho
Việt Nam, giảm 1 thị trường so với
năm 2021. Lượng nhập khẩu bông
nguyên liệu của Việt Nam từ một
số thị trường chính giảm so với
năm 2021 như Mỹ, Ấn Độ, Brazil...
Cụ thể:
Nhập khẩu bông từ thị trường
Mỹ lớn nhất trong năm 2022, đạt
447 nghìn tấn, trị giá 1,31 tỷ USD,
giảm 26,1% về lượng nhưng tăng
11,9% về trị giá so với năm 2021,
chiếm 31,2% tổng lượng bông
nhập khẩu. Riêng trong tháng
12/2022, lượng nhập khẩu bông
từ thị trường này đạt 6,32 nghìn
tấn, trị giá 15,76 triệu USD, giảm
37,1% về lượng và giảm 39,8% về
trị giá so với năm 2021.
Năm 2022, nhập khẩu bông từ
thị trường Australia tăng 53,3% về
lượng và tăng 110,6% về trị giá so
với năm 2021, đạt 422 nghìn tấn,
trị giá 1,27 tỷ USD. Riêng trong
tháng 12/2022, lượng nhập khẩu
bông từ thị trường này đạt 41,68
nghìn tấn, trị giá 116,48 triệu
USD, giảm 48,7% về lượng và
giảm 8,1% về trị giá so với tháng
11/2022, tăng 15,5% về lượng và
tăng 32,9% về trị giá so với tháng
12/2021.
Ngoài ra, nhập khẩu bông
từ một số thị trường khác giảm
mạnh về lượng trong năm 2022
so với năm 2021 như: nhập khẩu
từ thị trường Ấn Độ giảm 45%;
từ Bờ Biển Ngà giảm 45,9%; từ
Indonessia giảm 57,1%.
1.1. Năm 2023, giá nhập khẩu bông nguyên liệu tiếp tục giảm
Nguồn: VITIC
Nguồn: VITIC
Nhập khẩu bông của Việt Nam
35. 35
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Về giá: Giá bông nhập khẩu vào Việt Nam
tháng 12/2022 ở mức 2.579 USD/tấn, giảm 9,5%
so với tháng 11/2022 nhưng tăng 16% so với tháng
12/2021. Như vậy, tháng 12/2022 là tháng thứ 4 liên
tiếp giá nhập khẩu bông nguyên liệu vào Việt Nam
giảm kể từ khi đạt mức đỉnh vào tháng 8/2022.
Tính chung năm 2022, giá bông nguyên liệu nhập
khẩu về Việt Nam đạt trung bình 2.807 USD/tấn, tăng
45,8% so với năm 2021.
Giá bông thế giới giảm do
nhu cầu yếu. Tại thị trường Trung
Quốc, theo nhận định từ thị trường
hàng hóa nhóm năng lượng và
nguyên liệu công nghiệp từ nguồn
https://dautuhanghoa.vn/, số liệu
nhập khẩu bông của Trung Quốc –
quốc gia tiêu thụ bông lớn nhất thế
giới vẫn khá mờ nhạt trong những
tuần gần đây dù Chính phủ nước
này đã nới lỏng dần các biện pháp
phòng chống sự lây lan của dịch
Covid-19 gây sức ép lên giá.
Trước xu hướng giảm của giá
bông thế giới, dự báo giá nhập
khẩu bông nguyên liệu vào Việt
Nam cũng sẽ giảm trong những
tháng đầu năm 2023 nhưng mức
giảm không nhiều.
Giá bông nhập khẩu trung bình từ các thị trường
chính trong tháng 12/2022 đều giảm so với tháng
11/2022. Trong đó, giá bông nhập khẩu từ thị trường
Mỹ giảm 4,2% xuống 2.493 USD/tấn, giá bông nhập
khẩu từ thị trường Australia giảm 8,5% xuống 2.794
USD/tấn, giá bông nhập khẩu từ thị trường Brazil giảm
3,9% xuống 2.526 USD/tấn.
Có thể thấy, giá bông nhập khẩu của
Việt Nam đang có xu hướng giảm theo
giá bông thế giới.
Tại Mỹ, theo dữ liệu từ nguồn https://
www.macrotrends.net/, giá bông của
Mỹ cũng đã điều chỉnh giảm trong
những tháng gần đây, từ mức 0,86 USD/
pound tại thời điểm cuối tháng 11/2022
đã giảm xuống mức 0,83 USD/pound
ở thời điểm cuối năm 2022 và tiếp tục
giảm trong nửa đầu tháng 01/2023,
với giá bông tính đến thời điểm ngày
13/01/2023 ở mức 0,82 USD/pound.
Nguồn: VITIC
Nguồn: macrotrends.net
36. 36
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Giá nhập khẩu bông
Nhập khẩu xơ nguyên liệu của Việt Nam (Đvt: nghìn tấn)
Nguồn: VITIC
Theo số liệu thống kê của Tổng
cục Hải quan, lượng xơ nguyên
liệu nhập khẩu của Việt Nam trong
tháng 12/2022 đạt 33,56 nghìn
tấn, trị giá 42,09 triệu USD, tăng
15% về lượng và tăng 5,9% về trị
giá so với tháng 11/2022; giảm
26,5% về lượng và giảm 29,9% về
trị giá so với tháng 12/2021.
Tính chung năm 2022, lượng
xơ nguyên liệu nhập khẩu về Việt
Nam đạt 363 nghìn tấn, trị giá 507
triệu USD, giảm 9,1% về lượng và
giảm 1,1% về trị giá so với năm
2021.
Thị trường xơ thế giới đang
chững lại, giá xơ thế giới tiếp tục
giảm. Tại thị trường trong nước,
việc thiếu đơn hàng dệt may xuất
khẩu khiến tồn kho xơ cotton thành
phẩm ở hầu hết các nhà máy dệt
may đều ở mức cao, tốc độ hoạt
động của các doanh nghiệp dệt
may giảm xuống.
Với các yếu tố trên, dự báo
lượng nhập khẩu và giá xơ nhập
khẩu vào Việt Nam sẽ tiếp tục điều
chỉnh giảm trong những tháng đầu
năm 2023.
Năm 2022, Việt Nam nhập
khẩu xơ nguyên liệu từ 30 thị
trường, tăng 1 thị trường so với
năm 2021. Trong đó, Trung Quốc
là thị trường cung cấp xơ nguyên
liệu lớn nhất cho Việt Nam, với
lượng nhập khẩu đạt 158,01 nghìn
tấn, trị giá 204,15 triệu USD, chiếm
47,8% tổng lượng nhập khẩu,
giảm 10,4% về lượng và giảm
2,7% về trị giá so với năm 2021.
Riêng tháng 12/2022, nhập khẩu
xơ nguyên liệu từ thị trường Trung
Quốc vào Việt Nam đạt 15,9 nghìn
tấn, trị giá 18,97 triệu USD, tăng
26,5% về lượng và tăng 22,2%
về trị giá; giảm 31,4% về lượng và
giảm 33,1% về trị giá so với tháng
12/2021.
Nhập khẩu xơ nguyên liệu từ thị
trường Đài Loan trong năm 2022
đạt 51,85 nghìn tấn, trị giá 68,27
triệu USD, chiếm 15,7% tổng lượng
nhập khẩu xơ nguyên liệu của
1.2. Lượngxơnguyênliệunhậpkhẩutiếptụcgiảmtrongnhữngthángđầunăm2023
37. 37
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Nhập khẩu xơ của Việt Nam
Giá nhập khẩu trung bình xơ nguyên liệu qua các tháng (Đvt: USD/tấn)
Nguồn: VITIC
Nguồn: VITIC
Việt Nam, giảm 10,4% về lượng
nhưng tăng 5,3% về trị giá so với
năm 2021. Riêng tháng 12/2022,
nhập khẩu xơ nguyên liệu từ thị
trường Đài Loan đạt 4,57 nghìn
tấn, trị giá 5,05 triệu USD, tăng
24,9% về lượng và tăng 13,1% về
trị giá so với tháng 11/2022; giảm
17,6% và giảm 25,2% về trị giá so
với tháng 12/2021.
Nhìn chung trong năm 2022,
nhập khẩu xơ nguyên liệu từ các
thị trường chính vào Việt Nam đều
giảm, trừ nhập khẩu từ thị trường
Thái Lan tăng 17,1% về lượng.
Đáng chú ý, lượng nhập khẩu
xơ nguyên liệu từ một số thị trường
tăng rất mạnh trong năm 2022
như nhập khẩu từ thị trường Đức
tăng 474,5% về lượng, từ Hy Lạp
tăng 5.213%.
Về giá: Tháng 12/2022, giá xơ nguyên liệu nhập
khẩu về Việt Nam đạt trung bình 1.254 USD/tấn,
giảm 7,9% so với tháng 11/2022 và giảm 4,6% so
với tháng 12/2021. Trong đó, giá xơ nguyên liệu nhập
khẩu từ Đài Loan thấp nhất đạt 1.105 USD/tấn; tiếp
đến là từ Thái Lan đạt 1.140 USD/tấn… và giá nhập
khẩu từ thị trường cao nhất là Singapore với mức giá
3.500 USD/tấn.
Tính chung năm 2022, giá nhập khẩu trung bình
mặt hàng xơ nguyên liệu vào Việt Nam đạt 1.396
USD/tấn, tăng 8,8% so với năm 2021.
38. 38
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Giá nhập khẩu xơ
Lượng nhập khẩu sợi nguyên liệu của Việt Nam (Đvt: nghìn tấn)
Nguồn: VITIC
Nguồn: VITIC
Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, nhập khẩu
sợi nguyên liệu trong tháng 12/2022 đạt 44,76
nghìn tấn, trị giá 123,55 triệu USD, giảm 14,5% về
lượng và giảm 10,1% về trị giá so với tháng 11/2022,
giảm 29,2% về lượng và giảm 36,2% về trị giá so với
tháng 12/2021.
Tính chung năm 2022, lượng nhập khẩu sợi
nguyên liệu đạt 681 nghìn tấn, trị giá 2,03 tỷ USD,
giảm 5,5% về lượng nhưng tăng 0,2% về trị giá so với
năm 2021.
Trung Quốc là thị trường cung
cấp sợi nguyên liệu lớn nhất cho
Việt Nam trong năm 2022, với
lượng nhập khẩu đạt 448 nghìn
tấn, trị giá 1,21 tỷ USD, chiếm
65,9% tổng lượng nhập khẩu, tăng
1,5% về lượng và tăng 6% về trị
giá so với năm 2021. Tính riêng
tháng 12/2022, lượng sợi nguyên
liệu nhập khẩu từ thị trường này
đạt 32,01 nghìn tấn, trị giá 77,28
triệu USD, giảm 17,4% về lượng và
giảm 13,7% về trị giá so với tháng
11/2022; giảm 20,8% về lượng và
giảm 32% về trị giá so với tháng
12/2021.
Nhập khẩu sợi nguyên liệu
từ thị trường Đài Loan trong năm
2022 đạt 91,45 nghìn tấn, trị giá
258,19 triệu USD, chiếm 13,4%
tổng lượng nhập khẩu sợi nguyên
liệu của Việt Nam, giảm 7,3% về
lượng nhưng tăng 0,9% về trị giá
so với năm 2021. Tháng 12/2022,
1.3. Giá nhập khẩu sợi nguyên liệu tăng nhẹ
39. 39
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Nhập khẩu sợi của Việt Nam
Giá nhập khẩu sợi nguyên liệu qua các tháng từ năm 2021 – 2022 (Đvt: USD/tấn)
Nguồn: VITIC
Nguồn: VITIC
nhập khẩu sợi nguyên liệu từ thị
trường Đài Loan đạt 5,38 nghìn
tấn, trị giá 14,92 triệu USD, giảm
13% về lượng và giảm 14,4% về
trị giá so với tháng 11/2022; giảm
31,3% về lượng và giảm 35,4% về
trị giá so với tháng 12/2021.
Nhìn chung trong năm 2022,
nhập khẩu sợi nguyên liệu từ các
thị trường cung cấp chính đều giảm
so với năm 2021, trừ nhập khẩu từ
thị trường Trung Quốc tăng nhẹ
1,5% về lượng
Về giá: Giá nhập khẩu sợi nguyên liệu tăng trở
lại sau 2 tháng giảm liên tiếp, đạt mức 2.760 USD/
tấn trong tháng 12/2022, tăng 5,2% so với tháng
11/2022 nhưng giảm 9,9% so với tháng 12/2021.
Tính chung năm 2022, giá sợi nguyên liệu nhập khẩu
về Việt Nam đạt trung bình 2.989 USD/tấn, tăng 6%
so với năm 2021.
Trong đó, giá sợi nguyên liệu nhập khẩu từ Trung
Quốc thấp nhất, đạt 2.414 USD/tấn; tiếp đến là từ
thị trường Đài Loan đạt 2.771 USD/tấn… và giá nhập
khẩu từ thị trường cao nhất là Hồng Kông với mức giá
là 7.998 USD/tấn.
40. 40
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Triển vọng nhu cầu hàng may
mặc thế giới có thể phục hồi là yếu
tố khiến giá sợi tăng. Với dữ liệu
cho thấy lạm phát đang hạ nhiệt ở
châu Âu và Mỹ, các thị trường kỳ
vọng nền kinh tế toàn cầu sẽ tránh
được suy thoái nghiêm trọng, có
khả năng thúc đẩy hoạt động mua
hàng may mặc. Đặc biệt, thị trường
quần áo lớn nhất thế giới là Trung
Quốc bãi bỏ chính sách Zero Covid
nghiêm ngặt càng làm tăng thêm
những kỳ vọng này.
Năm 2023, dự báo, kinh tế thế
giới vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
tổng cầu dệt may thế giới khoảng
700 tỷ USD, giảm 8% so với năm
2022. Tuy nhiên, với dự báo tổng
cầu dệt may thế giới phục hồi trong
nửa cuối năm 2023 sẽ kéo theo nhu
cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt
may tăng nói chung và nhập khẩu
sợi nói riêng.
Giá nhập khẩu sợi nguyên
liệu vào Việt Nam đã tăng trong
tháng 12/2022, tuy vậy hiện nhu
thị trường vẫn yếu, cùng với đó, giá
nhập khẩu sợi nguyên liệu thế giới
vẫn chưa điều chỉnh mạnh, dự báo
giá nhập khẩu sợi nguyên liệu vào
Việt Nam sẽ chỉ tăng nhẹ thời gian
tới.
Giá nhập khẩu sợi
Nguồn: VITIC
— Những thông tin và số liệu thống kê sử dụng trong bản tin được thu thập từ nhiều nguồn
gồm Tổng Cục Hải quan, Tổng Cục Thống kê, VITIC, Trung tâm Thương mại Quốc tế...
— Thông tin trong bản tin chỉ mang tính tham khảo. Các ước tính, dự báo có giá trị
đến ngày ra báo cáo và có thể thay đổi bởi những biến động thị trường.
— Báo cáo này cung cấp thông tin chung. VCOSA không chịu trách nhiệm về việc thông
tin được cung cấp là đầy đủ hoặc chính xác. Do các chu kỳ cập nhật khác nhau, số liệu
thống kê có thể hiển thị nhiều dữ liệu cập nhật hơn so với tham chiếu trong báo cáo.
— Rất mong nhận được sự phản hồi, trao đổi thông tin và đóng góp ý kiến của độc giả
để Bản tin Hiệp Hội Bông Sợi Việt Nam ngày càng chất lượng hơn.
Ban Thông tin Truyền thông
41. 41
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Tháng 1/2023 Việt Nam xuất khẩu 88,1 nghìn tấn
xơ, sợi dệt các loại, trị giá 225,5 triệu USD, giảm
33,8% về lượng và giảm 30,7% về trị giá so với tháng
trước; giảm 38,9% về lượng và giảm 52,4% về trị giá
so với cùng kỳ năm trước.
2. Số liệu xuất khẩu
Xuất khẩu xơ, sợi trong
tháng 1/2023 đạt 225,5
triệu USD, giảm 30,7% so với
tháng trước; xuất khẩu vải đạt
152,7 triệu USD, giảm 30%;
xuất khẩu nguyên phụ liệu
dệt may da giày đạt 121,2
triệu USD, giảm 29,7%; xuất
khẩu vải kỹ thuật giảm 7,7%
so với tháng trước, trị giá
57,8 triệu USD.
Việt Nam xuất khẩu xơ, sợi
trong tháng 1/2023 đạt 88,1
nghìn tấn, trị giá 225,5 triệu
USD, giảm 33,8% về lượng và
giảm 30,7% về trị giá so với
tháng trước.
42. 42
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Xuất khẩu hàng dệt may
trong tháng 1/2023 đạt 2,25
tỷ USD, giảm 22,4% so với
tháng trước.
Theo số liệu
sơ bộ trong tháng
1/2023, xuất khẩu
hàng dệt may đạt
2,25 tỷ USD, giảm
37,6% so với cùng
kỳ năm trước.
Tháng đầu năm
2023, Việt Nam xuất
khẩu xơ, sợi đạt trị giá
225,5 triệu USD, giảm
52,4% so với cùng kỳ
năm trước; xuất khẩu
vải đạt trị giá 152,7
triệu USD, giảm 39,2%;
xuất khẩu nguyên phụ
liệu dệt may da giày đạt
121,2 triệu USD, giảm
39,4%; xuất khẩu vải kỹ
thuật giảm 22,5%, trị
giá 57,8 triệu USD.
43. 43
Bản tin Tháng 02-2023
www.vcosa.org.vn
Xơ sợi dệt là một trong những
mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn
trong số các nhóm hàng dệt may
và nguyên liệu xuất khẩu của Việt
Nam, chiếm 13,6% tổng kim ngạch
xuất khẩu trong năm 2022. Đáng
chú ý, xuất khẩu mặt hàng này
của Việt Nam sau khi tăng trưởng
đáng kể trong những tháng đầu
năm 2022 thì đã giảm trở lại trong
những tháng cuối năm.
Theo thống kê từ Tổng cục Hải
quan, tính chung cả năm 2022,
xuất khẩu mặt hàng xơ, sợi dệt của
Việt Nam đạt 1,573 nghìn tấn, kim
ngạch 4,713 tỷ USD, giảm 18,4%
về lượng và giảm 16% về kim
ngạch so với năm 2021. Tính riêng
tháng 12/2022, xuất khẩu mặt
hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam đạt
133 nghìn tấn, trị giá 325,3 triệu
USD, tăng 11,4% về lượng và tăng
6,8% về kim ngạch so với tháng
11/2022; giảm 16,2% về lượng và
giảm 38,8% về trị giá so với tháng
12/2021.
2.1. Xuất khẩu xơ, sợi dệt chưa thể phục hồi trong quý 1/2023
Nguồn: VITIC
Nguồn: VITIC
Về giá: Đơn giá xuất khẩu xơ, sợi dệt của Việt
Nam giảm liên tiếp trong những tháng gần đây và đạt
mức trung bình 2.445 USD/tấn trong tháng 12/2022,
giảm 4,14% so với tháng 11/2022 và giảm 27% so
với tháng 12/2021. Tháng 12/2022 là tháng 8 liên
tiếp đơn giá xuất khẩu xơ, sợi dệt giảm.
Mặc dù giá nguyên liệu bông, xơ toàn cầu giảm
đáng kể trong những tháng gần đây, bên cạnh đó, chi
phí vận chuyển cũng giảm, nhưng do nhu cầu hàng
dệt may toàn cầu yếu đã khiến nhu cầu đối với nhóm
hàng nguyên liệu như mặt hàng xơ, sợi dệt giảm, đây
là nguyên nhân chính khiến đơn giá xuất khẩu bình
quân nhóm hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam giảm liên
tiếp trong những tháng gần đây.
Tính chung năm 2022, đơn giá xuất khẩu trung
bình mặt hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam đạt 2.995,2
USD/tấn, tăng 2,9% so với năm 2021.
44. 44
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
Giá nhập khẩu sợi
Nguồn: VITIC
Về thị trường xuất khẩu:
Năm 2022, Việt Nam xuất khẩu
xơ, sợi dệt các loại chủ yếu sang thị
trường Trung Quốc, chiếm 45,16%
tổng lượng và chiếm 46,27% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy, xuất
khẩu mặt hàng này sang thị trường
Trung Quốc đã giảm đáng kể so với
năm 2021, với tốc độ giảm lần lượt
là 30,8% về lượng và giảm 26,9%
về kim ngạch.
Có thể thấy, chính sách Zero
Covid mà Trung Quốc thực hiện đã
ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt
động của nền kinh tế nước này,
cùng với đó, việc siết chặt hoạt
động nhập khẩu hàng hóa qua các
cửa khẩu với Việt Nam cũng khiến
hoạt động xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang Trung Quốc bị
gián đoạn, trong đó có nhóm hàng
xơ, sợi dệt.
Ngoài Trung Quốc, xuất
khẩu mặt hàng xơ, sợi dệt của
Việt Nam sang một số thị trường
khác cũng giảm trong năm 2022
như Hàn Quốc, Đài Loan, Brazil,
Campuchia…
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu
mặt hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam
sang một số thị trường tăng trong
năm 2022 so với năm 2021 như
Ấn Độ, Thái Lan, đặc biệt là xuất
khẩu sang thị trường Philippinnes
tăng 276,1% về lượng và tăng
362% về kim ngạch.
Có thể thấy, mặc dù xuất khẩu
xơ, sợi dệt của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc giảm đáng kể
trong năm 2022, tuy vậy, với việc
mở cửa trở lại nền kinh tế từ ngày
08/01/2023 của Trung Quốc có thể
giúp hoạt động xuất khẩu xơ, sợi
của Việt Nam sang thị trường này
tăng trở lại bởi đây là thị trường
xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này nhiều năm qua.
Nhận định tình hình xuất khẩu
nhóm hàng xơ, sợi dệt của Việt
Nam thời gian tới thấy rằng, mặc
dù có tín hiệu tích cực từ thị trường
xuất khẩu chủ lực là Trung Quốc,
tuy vậy nhu cầu đối với hàng dệt
may toàn cầu theo nhiều dự báo
vẫn ảm đạm cho đến giữa năm
2023, do đó, xuất khẩu nhóm hàng
xơ, sợi dệt của Việt Nam sẽ vẫn
khó phục hồi ít nhất cho đến hết
quý 1/2023.
45. Bản tin Tháng 02-2023
Thị trường xuất khẩu xơ, sợi
Nguồn: VITIC
46. 46
Bản tin Tháng 02-2023
https://vietnamyarnprice.com
B
áo cáo mới nhất của USDA
điều chỉnh giảm sản lượng
toàn cầu dự kiến (-332.000
kiện xuống 115,4 triệu kiện) và tiêu
thụ toàn cầu dự kiến (-846.000
kiện xuống 110,9 triệu kiện) trong
vụ 2022/23. Dữ liệu lịch sử được
điều chỉnh làm giảm lượng hàng
tồn kho ban đầu (-148.000 kiện,
còn 85,3 triệu kiện). Do đó, tồn
kho cuối kỳ được điều chỉnh tăng
+372.000 kiện (đạt 89,9 triệu kiện).
Nếu thành hiện thực, đây sẽ là
lượng bông tồn kho toàn cầu cao
nhất, không kể vụ mùa chịu ảnh
hưởng nhiều nhất bởi sự bùng phát
của COVID (2019/20) và giai đoạn
dự trữ của Trung Quốc duy trì ở
mức cao (2012/13- 2015/16). Tỷ lệ
tồn kho/tiêu thụ toàn cầu hiện tại
đạt 80,5%, cao hơn khoảng 8 điểm
phần trăm so với niên vụ trước và
cao hơn khoảng 10 điểm so với
niên vụ 2020/21.
Ở phạm vi quốc gia, sản lượng
được điều chỉnh lớn nhất là ở Ấn Độ
(-1,0 triệu kiện, còn 26,5 triệu kiện),
Brazil (+300.000 kiện, đạt 13,3
triệu kiện) và Hoa Kỳ (+438.0000
kiện, đạt 14,7 triệu kiện).
Lượng tiêu thụ thay đổi lớn
nhất ở Ấn Độ (-500.000 kiện,
còn 22,5 triệu kiện), Indonesia
(-250.000 kiện, còn 2,2 triệu kiện)
và Việt Nam (-100.000 kiện xuống
6,4 triệu kiện).
Giao dịch thương mại toàn cầu
dự kiến đã giảm -645.000 kiện,
còn 41,6 triệu kiện. Lượng nhập
khẩu thay đổi lớn nhất là ở Trung
Quốc (-250.000 kiện, còn 7,8 triệu
kiện), Indonesia (-250.000 kiện,
còn 2,2 triệu kiện) và Việt Nam
(-200.000 kiện, còn 6,4 triệu kiện).
Lượng xuất khẩu thay đổi lớn nhất
ở Ấn Độ (-250.000 kiện, còn 3,1
triệu kiện) và Mỹ (-250.000 kiện,
còn 12,0 triệu kiện).
Giá bông Trung Quốc đã tăng
cao hơn kể từ đầu tháng Giêng.
Điều này đã tạo ra một số khác biệt
giữa giá tại thị trường nhập khẩu
lớn nhất thế giới và giá xuất khẩu
trung bình (Chỉ số A). Khoảng cách
hiện tại là khoảng 8 xu/lb. Khoảng
cách đó sẽ cần được mở rộng để
làm cho hàng nhập khẩu trở nên
hấp dẫn hơn (Chỉ số CC thường
cao hơn 15-20 xu/pound so với Chỉ
số A), nhưng nó cũng đã giúp thúc
đẩy thương mại quốc tế mạnh mẽ
hơn.
Nếu nhu cầu của thị trường sợi
tăng lên trong những tháng tới, các
vấn đề liên quan đến nguồn cung
có thể trở nên quan trọng hơn đối
với xu hướng giá. Giá hiện tại vẫn
cao so với tiêu chuẩn trước đây
(Chỉ số A đang giao dịch gần 100
xu/pound), nhưng chi phí đầu vào
cũng cao. Thời tiết được cải thiện
ở Tây Texas và Pakistan có thể là
một tin vui đối với sản lượng bông,
nhưng ở Hoa Kỳ, Brazil và các khu
vực nhạy cảm với giá nông sản, chi
phí đầu vào và giá cả của nông sản
cạnh tranh là ngô và đậu tương có
thể khiến diện tích gieo trồng bông
giảm trong năm 2023/24.
Nguồn: CI
3. Báo cáo bông toàn cầu