4. thông dụng mà đã chiếm đến 2/3 các từ ngữ dùng trong những cuộc nói
chuyện trao đổi qua lại giữa chúng ta với nhau. Pitman nhận thấy rằng,
những từ ngữ này, kể cả những từ ngữ phái sinh của chúng, chiếm 80%
trong lời ăn tiếng nói thông thường. Trong trường hợp này, không tới 1% từ
ngữ (bộ từ điển New Oxford Shorter Oxford English Dictionary tập hợp nửa
triệu từ) được sử dụng trong 80% lượng thời gian. Chúng ta có thể gọi đây
là nguyên lý 80/1. Tương tự, trên 99% những trao đổi, chuyện trò sử dụng
không tới 20% vốn từ: chúng ta có thể gọi đây là nguyên lý 99/20.
Điện ảnh cũng có thể sử dụng để làm một minh họa cho nguyên lý 80/20.
Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng 1,3% các bộ phim đem về 80% tổng
doanh thu từ vé xem phim ở rạp, và ta có thể xem đây là quy luật 80/1 (xem
mục “Nguyên lý 80/20 phân loại phim – gà ra gà, công ra công, trang...).
Nguyên lý 80/20 không phải là một công thức huyền bí gì. Nhiều khi mối
quan hệ giữa kết quả và nguyên nhân gần tỷ lệ 70/30 hơn là 80/20 hay 80/1.
Nhưng có một thực tế là ít khi nào xảy ra trường hợp 50% các nguyên nhân
dẫn đến 50% kết quả. Chúng ta có thể thấy được vũ trụ này không cân đối,
không bằng cân. Một thiểu số lại đóng một vai trò quan yếu.
Những con người và tổ chức thật sự có hiệu quả đều biết bám sát, tận
dụng một số ít những động lực quan trọng có thể phát huy hiệu quả trong
lĩnh vực, thế giới của họ và chuyển chúng thành những lợi thế của họ. Các
bạn hãy tiếp tục đọc những trang sách sau đây để tìm hiểu xem các bạn cũng
có thể học hỏi và làm như thế nào để cũng được như những người ấy...
1
Dẫn nhập về Nguyên lý 80/20
Trong một thời gian dài, định luật Pareto [Nguyên lý 80/20] cứ lừng lững
tồn tại trong lĩnh vực kinh tế như một tảng đá bất trị không mời mà đến trên
một khoảng sân đã ngăn nắp đâu vào đó, một định luật thực chứng không ai
có thể giải thích nổi.
Josef Steind1
Nguyên lý 80/20 có thể và nên được áp dụng bởi mọi con người thông
minh trong cuộc sống thường nhật của họ, bởi mọi tổ chức, đơn vị, và bởi
mọi nhóm và hình thái xã hội. Nguyên lý này có thể giúp các cá nhân và tổ
5. chức đạt được nhiều kết quả hơn nhiều với lượng công sức ít hơn nhiều.
Nguyên lý 80/20 có thể làm cho con người ta hiệu quả hơn và hạnh phúc
hơn. Nó có thể nhân lên gấp bội mức độ lợi nhuận của các công ty và tính
hiệu quả của bất cứ tổ chức nào. Thậm chí nó còn đóng một vai trò quan yếu
trong việc nâng cao chất lượng và số lượng những dịch vụ công ích trong khi
cắt giảm chi phí. Cuốn sách này, công trình đầu tiên bàn về Nguyên lý
80/20,2 được viết ra từ một niềm xác tín cháy bỏng, đã được kiểm nghiệm và
thực chứng qua kinh nghiệm kinh doanh và cá nhân, rằng nguyên lý này là
một trong những phương cách tốt nhất để giải quyết và vượt qua được những
áp lực của cuộc sống hiện đại.
Nguyên lý 80/20 là gì?
Nguyên lý 80/20 khẳng định rằng một thiểu số nguyên nhân, “nguyên liệu
đầu vào”, hoặc công sức thường dẫn đến một đa số những kết quả, “sản
phẩm đầu ra”, hoặc những thành quả. Hiểu theo nghĩa đen, điều này có nghĩa
là, chẳng hạn, 80% những gì các bạn đạt được trong công việc của mình là
kết quả của 20% lượng thời gian các bạn đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói 4/5
những nỗ lực mà các bạn đã bỏ ra – chiếm một tỷ lệ rất lớn – đều chủ yếu là
không đem lại hiệu quả mong đợi. Thực tế này trái ngược với những gì
người ta thường nghĩ.
Như vậy Nguyên lý 80/20 khẳng định rằng tự trong nội tại quan hệ giữa
nguyên nhân và kết quả, “nguyên liệu đầu vào” và “sản phẩm đầu ra”, và
giữa công sức và thành quả thu được đã có một tình trạng mất cân đối. Một
chuẩn mức rất rõ cho tình trạng mất cân đối này có thể thấy qua quan hệ
80/20: công thức điển hình sẽ cho thấy rằng 80% những “sản phẩm đầu ra”
kết tựu từ 20% những “nguyên liệu đầu vào”; rằng 80% các kết quả xuất
phát từ 20% các nguyên nhân; hoặc rằng 80% những thành quả có được từ
20% công sức đã đầu tư. Hình 1 minh họa cho mối quan hệ này.
Trong kinh doanh, nhiều ví dụ minh họa cho Nguyên lý 80/20 đã được
kiểm chứng. 20% các sản phẩm thường chiếm 80% doanh số tính theo đô-la
Mỹ; và 20% các khách hàng cũng có một tầm quan trọng tương tự. 20% các
sản phẩm hoặc khách hàng thường chiếm khoảng 80% lợi nhuận của đơn vị.
Trong xã hội, 20% các tội phạm chiếm 80% giá trị của tất cả các tội phạm.
20% người lái xe gây ra 80% số tai nạn. 20% số người kết hôn cấu thành
80% số người ly dị (những kẻ cứ tái hôn rồi lại ly dị đã làm méo lệch các
8. nhà kinh tế học người Ý – khám phá ra năm 1897, cách đây đúng 100 năm.
Khám phá của ông cho đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau, như Nguyên
lý Pareto (Pareto Principle), Định luật Pareto (Pareto Law), Qui tắc 80/20
(80/20 Rule), Nguyên lý thiểu công (Principle of Least Effort), và Nguyên lý
bất cân bằng (Principle of Imbalance); trong bộ sách này chúng ta sẽ thống
nhất gọi là Nguyên lý 80/20. Qua cả một quá trình ảnh hưởng ngấm ngầm
đối với nhiều người thành đạt quan trọng, nhất là những người làm kinh
doanh, những người say mê máy tính, và những kỹ sư phụ trách về chất
lượng, Nguyên lý 80/20 đã góp phần tác động đến thế giới hiện đại. Tuy
nhiên, nó hãy còn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong thời đại chúng ta –
và ngay cả một số ít người biết và sử dụng Nguyên lý 80/20 cũng chỉ khai
thác được một phần nhỏ nhoi sức mạnh của nó.
Như vậy Vildredo Pareto đã khám phá ra cái gì? Ông đã tình cờ nghiên
cứu những quy luật về của cải và thu nhập ở nước Anh thế kỷ XIX. Ông
nhận thấy rằng, theo mẫu nghiên cứu của ông, hầu hết lượng thu nhập và của
cải về tay một nhóm người thiểu số. Có lẽ chuyện này cũng không có gì
đáng ngạc nhiên cho lắm. Nhưng ông cũng khám phá ra hai điều khác mà
ông cho là rất có ý nghĩa. Một là, có một mối quan hệ nhất quán, có tính toán
học giữa tỷ lệ người (lượng phần trăm trong tổng số đối tượng nghiên cứu
đang xét) và lượng thu nhập hoặc của cải mà nhóm này được hưởng.4 Nói
đơn giản hơn, nếu 20% của nhóm đối tượng nghiên cứu hưởng 80% lượng
của cải,5 thì các bạn có thể đoán chắc rằng 10% sẽ hưởng, chẳng hạn như,
65% lượng của cải, và 5% sẽ hưởng 50%. Điểm mấu chốt không phải ở chỗ
các con số phần trăm, mà là ở chỗ việc phân bố của cải trong một nhóm đối
tượng có thể tiên đoán là không cân đối.
Khám phá thứ hai của Pareto, một khám phá thật sự làm ông phấn khích,
là quy luật bất cân đối này lặp đi lặp lại một cách ổn định bất cứ khi nào ông
xem xét những dữ liệu liên quan đến những giai đoạn lịch sử khác nhau hoặc
những quốc gia khác nhau. Dù nghiên cứu nước Anh trong những giai đoạn
đầu, hoặc bất cứ dữ liệu nào có thể có được về những nước khác trong thời
đại của ông hoặc trước đó, ông đều thấy có một quy luật chung lặp đi lặp lại,
nhiều lần, với một sự chính xác toán học.
Đây là một sự trùng hợp lạ kỳ, hay là một điều gì đó có một tầm quan
trọng lớn lao đối với kinh tế học và xã hội? Quy luật này có còn đúng không
nếu áp dụng vào những tập hợp dữ liệu có liên quan đến những vấn đề khác
ngoài của cải hoặc thu nhập? Pareto là một nhà cách tân đại tài, vì trước ông
10. quá đâu vào đấy đối với những tài liệu, giấy tờ thường cần tham khảo.
1951: Quy luật về số ít quan yếu của Juran và sự hưng phát của Nhật
Bản
Một nhân vật tiên phong khác của Nguyên lý 80/20 là một người được
xem là tổ sư về chất lượng, kỹ sư Joseph Juran (sinh năm 1904), một người
Mỹ gốc Ru-ma-ni, một nhân vật quan trọng đứng sau cuộc Cách mạng Chất
lượng trong giai đoạn 1950-1990. Ông đã làm cho cái mà ông gọi là
“Nguyên lý Pareto” hoặc “Quy luật về số ít quan yếu” (Rule of the Vital
Few) hầu như đồng nghĩa với cuộc đi tìm chất lượng cao cho sản phẩm.
Năm 1924, Juran vào làm việc ở Western Electric, bộ phận chế tạo sản
xuất của Bell telephone System, khởi đầu sự nghiệp là một kỹ sư trong một
công ty và về sau đã thành danh như là một trong những chuyên gia tư vấn
về chất lượng hàng đầu của thế giới.
Ý tưởng tuyệt vời của ông là sử dụng Nguyên lý 80/20, cùng với những
phương pháp thống kê khác, để tìm và khắc phục những lỗi chất lượng và cải
thiện độ tin cậy và giá trị của các hàng hóa công nghiệp và tiêu dùng. Sổ tay
kiểm soát chất lượng, tác phẩm có tính mở đường của Juran, được xuất bản
lần đầu tiên vào năm 1951 và đã tán dương Nguyên lý 80/20 bằng những lời
lẽ rất hào phóng:
Nhà kinh tế học Pareto đã phát hiện ra rằng của cải cũng được phân phối
một cách thiên lệch [như những quan sát của Juran về mất tổn thất chất
lượng]. Ta có thể tìm thấy những trường hợp tương tự – sự phân bố tội phạm
giữa những tội nhân, sự phân bố tai nạn giữa những qui trình tiềm ẩn nguy
cơ, v.v... Nguyên lý của Pareto về sự phân bố không đồng đều áp dụng cho
sự phân bố của cải và cho sự phân bố tổn thất chất lượng.8
Không có nhà công nghiệp tai to mặt lớn nào ở Mỹ quan tâm đến những lý
thuyết của Juran. Năm 1953 ông được mời đến Nhật Bản để thuyết giảng, và
đã được nhiều người đón nhận ý tưởng của ông. Ông đã ở lại làm việc với
mấy tập đoàn của Nhật, làm biến chuyển giá trị và chất lượng những hàng
hóa tiêu dùng của họ. Mãi cho đến khi mối đe dọa của người Nhật đối với
nền công nghiệp Hoa Kỳ đã hiển hiện, thời gian sau năm 1970, thì ở phương
Tây người ta mới xem trọng Juran. Ông về nước để làm cho nền công nghiệp
Hoa Kỳ những gì ông đã làm cho người Nhật. Nguyên lý 80/20 chính là linh
hồn của cuộc cách mạng chất lượng toàn cầu.
11. Các thập niên 1960-1990: những tiến bộ từ việc áp dụng Nguyên lý
80/20
IBM là một trong những tập đoàn đầu tiên và thành công nhất đã phát hiện
và đưa vào áp dụng Nguyên lý 80/20, một điều giúp giải thích tại sao hầu hết
các chuyên gia hệ thống máy tính được đào tạo ở hai thập niên 1960 và 1970
đều biết đến ý tưởng này.
Năm 1963, IBM phát hiện ra rằng chừng 80% thời gian của một máy tính
được dành để thực hiện chừng 20% mã điều hành. Công ty ngay lập tức viết
lại phần mềm điều hành để 20% mã điều hành sử dụng thường xuyên nhất ấy
dễ tiếp cận và thân thiện với người sử dụng nhất, qua đó làm cho những
chiếc máy tính IBM trở nên hiệu quả hơn và nhanh hơn những chiếc máy
tính của các công ty đối thủ cạnh tranh trong đa số những chương trình ứng
dụng.
Những tập đoàn chế tạo máy tính cá nhân (PC) và viết phần mềm sử dụng
cho chúng ở thế hệ kế tiếp, như Apple, Lotus, và Microsoft, còn sốt sắng hơn
trong việc áp dụng Nguyên lý 80/20 để làm cho những chiếc máy tính của
mình rẻ hơn và dễ sử dụng hơn cho một lớp người sử dụng mới, trong đó có
những người “dốt máy tính” hiện được ca ngợi, o bế mà trước đây nhác thấy
chiếc máy chỉ dám “kính nhi viễn chi”.
Kẻ thắng gom tất
Sau Pareto một thế kỷ, ý nghĩa của Nguyên lý 80/20 lại hồi sinh trong
những tranh luận gần đây về mức thu nhập cao ngất trời và luôn tăng cao của
những siêu sao và những cá nhân rất thiểu số đầu ngành ở ngày một nhiều
các ngành nghề. Đạo diễn phim Steven Spielberg kiếm được 165 triệu đô-la
trong năm 1994. Joseph Jamial, luật sư tố tụng được trả thù lao hậu hĩ nhất,
90 triệu đô-la. Lẽ đương nhiên, những đạo diễn phim hay luật sư thường
thường bậc trung chỉ có được một mức thu nhập bé tẻo teo so với những
món tiền cỡ đó.
Thế kỷ XX đã có những nỗ lực to lớn nhằm cân bằng các mức thu nhập,
nhưng tình trạng bất đồng đều vừa mới được san phẳng chỗ này lại cứ nổi
lên chỗ khác. Ở Hoa Kỳ, từ 1973 đến 1995, thu nhập thực trung bình tăng
36%, nhưng con số tương ứng của các công nhân không có một chức vụ
quản lý gì lại giảm 14%. Trong thập niên 1980, tất cả của cải đã về tay 20%
những người thu nhập cao nhất, và 64% của tổng mức tăng – một điều không
16. bộ, thật dễ chịu và hữu ích vô cùng. Tất cả các hiện tượng đều được giản
lược quy về những mối quan hệ “có quy tắc”, có thể đoán trước, tuyến tính.
Ví dụ, a tạo ra b, b tạo ra c, và a + c thì tạo ra d. Một thế giới quan như thế
cho phép bất cứ thành phần cá nhân nào của vũ trụ – sự vận hành của trái tim
con người chẳng hạn, hoặc của bất cứ thị trường riêng rẽ nào – có thể được
phân tích riêng biệt, bởi vì tổng thể là tổng cộng của các thành phần và
ngược lại.
Nhưng trong nửa sau của thế kỷ XX thì dường như sẽ đúng hơn nhiều nếu
nhìn thế giới như một sinh vật đang vận động, tiến hóa trong đó toàn bộ hệ
thống lớn hơn tổng các thành phần, và trong đó quan hệ giữa các thành phần
là phi tuyến tính. Nguyên nhân không dễ xác định ngay, có những quan hệ
liên lập phức tạp giữa các nguyên nhân, và ranh giới phân định nguyên nhân
và kết quả có thể mờ nhạt, không rõ. Vấn đề với lối tư duy một chiều là
không phải lúc nào nó cũng đúng được, nhiều khi chỉ là một sự đơn giản hóa
quá mức thực tế. Cân bằng là chuyện viễn ảo, mong manh. Vũ trụ này vốn
rất khập khiễng, tròng trành.
Tuy nhiên, thuyết hỗn độn, mặc dù tên gọi là thế, không nói rằng mọi thứ
chỉ là một mớ hổ lốn không thể hiểu nổi và vô vọng. Đúng hơn là, có một lô-
gích nội tại ẩn mình dưới một vẻ ngoài mất trật tự, một tính chất phi tuyến
tính khả đoán – điều mà nhà kinh tế học Paul Krugman đã gọi là “chính xác”
đến “kỳ quái”, “đáng sợ”, và “khiếp đảm”.9 Lô-gích ấy thì nhận biết dễ hơn
là mô tả, và không hoàn toàn khác biệt vớ sự lặp đi lặp lại của một chủ đề
trong một nhạc phẩm. Một số quy luật đặc thù vẫn thường lặp đi lặp lại,
nhưng với một vẻ muôn hình vạn trạng vô cùng và khôn lường.
Thuyết hỗn độn và Nguyên lý 80/20 soi sáng minh chứng cho nhau
Thuyết hỗn độn và những khái niệm khoa học hữu quan có liên hệ như thế
nào với Nguyên lý 80/20? Mặc dù xem ra chưa có ai khác xác lập mối liên
hệ này nhưng tôi nghĩ câu trả lời là: rất nhiều.
4Nguyên lý không cân bằng
Sợi chỉ chung giữa thuyết hỗn độn và Nguyên lý 80/20 là vấn đề cân bằng
– hoặc, nói cho chính xác là, tình trạng không cân bằng. Cả thuyết hỗn độn
lẫn Nguyên lý 80/20 đều khẳng định (với rất nhiều cơ sở thực chứng) rằng
vũ trụ này là không cân bằng. Cả hai đều cho rằng thế giới này không hoạt
động theo tuyến tính; nguyên nhân và kết quả ít khi có một mối liên hệ cân
22. là mấy câu chữ có tính thủ tục. Tôi tin rằng Nguyên lý 80/20 đem lại một
niềm hy vọng vô cùng to lớn. Lẽ đương nhiên, nguyên lý này đã nêu ra
những điều có thể đã hẳn nhiên rồi: rằng đã có một khối lượng lãng phí vô
cùng lớn ở mọi nơi, trong cách vận hành của tự nhiên, trong sản xuất kinh
doanh, trong xã hội, và trong chính đời sống của từng cá nhân chúng ta. Nếu
công thức điển hình chung là 80% kết quả sinh ra từ 20% nguyên nhân thì tất
yếu cũng có một thực tế hiển nhiên là 80%, đa số chủ đạo, những nguyên
nhân đầu vào đang chỉ tạo ra một kết quả nhỏ bé – 20% – những ảnh hưởng,
tác động.
Điều nghịch lý là một sự lãng phí như thế có thể là một tin tuyệt vời, nếu
chúng ta có thể sử dụng Nguyên lý 80/20 một cách sáng tạo, không chỉ để
xác định và cắt tỉa những yếu tố năng suất kém cỏi mà còn để có những động
thái tích cực nữa. Trước mắt chúng ta đang sẵn có một “vùng đất” bao la để
có thể thực hiện những cải tiến, bằng cách sắp xếp lại và điều chỉnh lại cả tự
nhiên lẫn cuộc sống của chính chúng ta. Cải tiến tự nhiên, không chịu chấp
nhận hiện tình, là lộ trình cho tất cả mọi tiến bộ: về mặt tiến hóa, về mặt
khoa học, về mặt xã hội, và với mỗi cá nhân. George Bernard Shaw đã diễn
tả ý này rất hay: “Người biết thì thích ứng mình với thế giới. Người không
biết thì cứ nhất nhất một mực cố gò ép thế giới thích ứng với bản thân mình.
Do vậy, tất cả các tiến bộ là tùy ở người không biết”.15
Ý nghĩa của Nguyên lý 80/20 là những kết quả được sản sinh ra không chỉ
có thể được nâng lên mà còn có thể được nhân lên gấp nhiều lần, nếu chúng
ta có thể làm cho những nguyên nhân đầu vào vốn có năng suất, hiệu quả
kém kia trở nên có năng suất và hiệu quả như những nguyên nhân đầu vào
hữu hiệu. Những thử nghiệm thành công với Nguyên lý 80/20 trong đấu
trường sản xuất kinh doanh cho thấy rằng, nếu có óc sáng tạo và lòng quyết
tâm, sự nhảy vọt về giá trị này thường là điều khả dĩ.
Có hai con đường đi đến mục tiêu này. Một là tái phân bổ những nguồn
lực từ những áp dụng kém hiệu quả qua những áp dụng hiệu quả cao, một bí
quyết của tất cả mọi nhà doanh nghiệp qua mọi thời đại. Hãy tìm một cái lỗ
tròn cho một cây đinh tròn, một lỗ vuông cho một cây đinh vuông, và một
hình dạng phù khớp cho tất cả những cái khác tùy theo hình dạng của chúng.
Kinh nghiệm cho thấy rằng mỗi nguồn lực đều có “đấu trường” lý tưởng của
nó, ở đó nguồn lực ấy có thể trở nên hiệu quả gấp mười, gấp trăm lần nếu so
với những “đấu trường” khác.
32. Theo thông lệ Nguyên lý 80/20 cần đến cách phân tích 80/20, đó là
phương pháp định lượng để thiết lập mối quan hệ chính xác giữa một bên là
nguyên nhân/tác động/nỗ lực và một bên là hệ quả/thu hoạch/thành quả.
Phương pháp này chấp nhận mối quan hệ 80/20 như là giả thiết và rồi thu
thập dữ liệu để chứng minh mối quan hệ thực. Đây là một phương pháp duy
nghiệm có thể dẫn đến bất kỳ kết quả nào từ 50/50 cho đến 99,9/0,1. Nếu kết
quả thể hiện một sự chênh lệch thấy rõ giữa tác nhân và thu hoạch (chẳng
hạn 65/35 hay một con số còn chênh lệch hơn nữa), thì, thông thường, sau đó
phải có hành động can thiệp (xem dưới đây).
Một phương thức mới bổ sung để sử dụng Nguyên lý 80/20 là cách thức
mà tôi gọi là lối Tư duy 80/20. Điều này đòi hỏi suy nghĩ kỹ về bất kỳ vấn đề
nào quan trọng đối với bạn và đưa ra nhận định xem là Nguyên lý 80/20 có
áp dụng được trong lĩnh vực ấy không. Rồi bạn có thể hành động theo nhận
41. doanh số - mà là sự phân bố lợi nhuận – đó là 20% tựa sách vốn tạo ra 80%
lợi nhuận. Thường đấy không phải là những cuốn gọi là best-seller, những
cuốn sách được các tác giả nổi tiếng viết. Thực vậy một cuộc khảo sát ở
nước Mỹ cho thấy những cuốn best-seller chỉ mang lại 5% doanh số bán.5
Những cuốn sách bán chạy thực sự là những cuốn không bao giờ xuất hiện
trên biểu đồ nhưng lại bán chạy với một số lượng ổn định năm này qua năm
khác thường với mức lời cao. Nhóm khảo sát ở Mỹ nói trên bình luận
“những cuộc kiểm kê chính yếu cho thấy đó là những cuốn sách bán hết mùa
này đến mùa khác, chúng là con số 80 trong qui luật 80/20, thường chiếm số
lượng bán rất lớn về một chủ đề nào đó”.
Trường hợp vừa nêu rất bổ ích. Nó hoàn toàn chẳng hề vô hiệu hóa lối
phân tích 80/20 vì câu hỏi chủ yếu vẫn luôn là loại khách hàng nào và sản
phẩm nào mang lại 80% lợi nhuận. Nhưng nó cũng cho thấy nguy cơ suy
nghĩ một cách mù mờ về cách áp dụng lối phân tích này. Khi sử dụng
nguyên tắc 80/20 cần phải biết chọn lọc và tỉnh táo, đừng để bị huyễn hoặc
bởi cái biến số mà mọi người đang chú ý, ở đây là những cuốn sách trên
danh sách mới nhất trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất, là điều
thực sự đáng quan tâm. Đây là lối suy nghĩ một chiều. Một lối thấu hiểu giá
trị nhất về cách phân tích 80/20 sẽ luôn luôn xuất phát từ việc xem xét những
mối quan hệ “phi tuyến tính” mà người khác thường bỏ qua. Hơn nữa vì lối
phân tích 80/20 dựa vào một “khung” cố định về một tình hình ở một thời
điểm nào đó hơn là kết hợp xem xét những biến đổi theo thời gian nên bạn
cần ý thức rằng nếu bạn bất cẩn “đóng khung” một tình hình sai lạc hay
không đầy đủ, bạn sẽ có một cái nhìn không chính xác.
Tại sao lối tư duy 80/20 là cần thiết
Lối phân tích 80/20 thật vô cùng hữu ích nhưng phần lớn mọi người không
quen phân tích và thậm chí những nhà phân tích cũng không thể dừng lại để
khảo sát dữ liệu mỗi lần họ đưa ra quyết định, điều này sẽ khiến công việc
ngừng lại đột ngột. Đa số các quyết định quan trọng chưa bao giờ và sẽ
không bao giờ được thực hiện nhờ vào việc phân tích cho dù máy vi tính của
chúng ta thông minh đến thế nào đi nữa. Do đó nếu muốn nguyên tắc 80/20
trở thành kim chỉ nam trong đời sống hàng ngày, chúng ta cần một cái gì đó
yêu cầu ít phân tích hơn và dễ dàng thực hiện hơn lối phân tích 80/20: đó là
tư duy 80/20.
Tư duy 80/20 là cụm từ tôi gọi phương cách áp dụng Nguyên lý 80/20 cho