Báo Cáo Thực Tập Kỹ Năng Tham Gia Giải Quyết Vụ Án Hình Sự
Trong thời gian gần đây tình tình vi phạm, tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đang có chiều hướng gia tăng với tính chất mức độ, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy một số vụ việc xảy ra mâu thuẫn đã giải quyết bằng con đường bạo lực. Tuy nhiên, công tác đấu tranh và xử lý đối với loại tội phạm này còn thiếu tính kịp thời, thực tiễn giải quyết còn gặp nhiều khó khăn.
ĐỀ CƯƠNG + TEST ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 TIẾNG ANH 11 - GLOBAL SUCCESS (THEO CHUẨN MI...
Báo Cáo Thực Tập Kỹ Năng Tham Gia Giải Quyết Vụ Án Hình Sự.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Tải miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN
HỌ TÊN TÁC GIẢ
(Cỡ chữ 14)
KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÌNH SỰ - TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
THEO ĐIỀU 134 BLHS HIỆN HÀNH
Ngành: ……………..
Mã số ngành: …………….
Kiên Giang – năm 2022
2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN
HỌ TÊN TÁC GIẢ
MSSV: ………….
(Cỡ chữ 14)
KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÌNH SỰ - TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
THEO ĐIỀU 134 BLHS HIỆN HÀNH
BÁO CÁO THỰC TẬP
(Cỡ chữ 16)
Ngành: ……………..
Mã số ngành: …………….
(Cỡ chữ 14, in đậm)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
TS (Ths). NGUYỄN VĂN A
(Cỡ chữ 14, in đậm)
Kiên Giang – năm 2022
4. LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất
kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Ngày …. tháng …. năm …
Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi họ tên)
5. NHẬN XÉT SINH VIÊN THỰC TẬP
Kính gửi: Khoa Sư Phạm và Xã hội Nhân văn, Trường Đại Kiên Giang
Trong thời gian từ ngày .... / ... / .... đến ngày .... /... / ...., Đơn vị của
chúng tôi có nhận sinh viên ........................................... MSSV ........................
của Trường đến thực tập tại đơn vị. Sau khi hoàn tất quá trình thực tập, chúng
tôi có nhận xét về quá trình thực tập của sinh viên như sau:
Nội dung đánh giá Yếu Kém
Trung
bình
Khá Giỏi
1. Kiến thức: (Vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng)
Có kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội, kinh tế và chính trị
Có kiến thức lý thuyết và thực tiễn thuộc lĩnh vực pháp luật
Áp dụng kiến thức pháp luật để giải quyết các vấn đề
chuyên môn
2. Kỹ năng: (Vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng)
Có kỹ năng thực hành nghề nghiệp trong lĩnh vực pháp luật
Có kỹ năng nhận thức và giải quyết vấn đề chuyên môn
phức tạp trong lĩnh vực pháp luật
Có kỹ năng giao tiếp nói và viết, ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
hiệu quả
Có kỹ năng tiếng Anh ở mức độ cơ bản
Có kỹ năng sử dụng máy tính, Internet, tin học văn phòng
và xử lý văn bản
3. Năng lực tự chủ và chịu trách nhiệm: (Vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng)
Có năng lực làm việc độc lập và làm việc theo nhóm
Có năng lực tổ chức thực hiện công việc và học hỏi, phát
triển bản thân
Có ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp
……………………………..
…………………………….
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Mẫu K02. Nhận xét sinh viên thực tập
6. Có tinh thần kỷ luật, thái độ và tác phong làm việc tốt
Kết quả thực tập: Đạt Không Đạt
Một số ý kiến khác: ............................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
…………...., ngày ...... tháng ...... năm .......
Lãnh đạo đơn vị
(Ký, ghi rõ họ và tên, đóng dấu)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM & XHNV
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
7. Kiên Giang, ngày ….. tháng ….. năm 2022
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
1. Nhận xét của giảng viên hướng dẫn:
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
Giảng viên hướng dẫn
8. 2. Đánh giá:
Giảng
viên
Điểm thành phần Điểm tổng hợp
Ký tên
Chuyên
cần
Hình
thức
Phần 1 Phần 2 Phần 3
Điểm
số
Điểm
chữ
2.0 điểm 1.0 điểm
1.0
điểm
5.0
điểm
1.0
điểm
10
điểm
Mười
điểm
Chấm
1
Chấm
2
9. 7. Báo cáo đề tài thực tập
7.1. Cấu trúc của báo cáo thực tập
Gồm 3 phần: Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết luận.
Phần 1: Mở đầu
- Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là những giá trị
nhân thân vô cùng quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự là những quyền cơ bản, chính đáng và quan trọng nhất của mỗi
con người. Chính vì vậy, quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người là nội dung tất yếu trong pháp luật hình sự
của các quốc gia trên thế giới. Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, quy
định về nhóm tội phạm nêu trên đã được ghi nhận ngay trong các bộ luật thời
kỳ phong kiến. Qua quá trình phát triển của xã hội, quy định về các tội phạm
này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong từng thời kỳ. Trong đó, tội cố ý gây thương tích
là tội phạm phổ biến và luôn được quy định trong Bộ luật hình sự. Dù qua
nhiều năm phát triển với trình độ lập pháp ngày càng hoàn thiện, việc nghiên
cứu và hoàn thiện hơn tội phạm này là vấn đề cần thiết.
- Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở
pháp lý về tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 BLHS hiện hành, tìm hiểu
thực trạng áp dụng pháp luật hiện nay, từ đó đề xuất một số kiến nghị để khắc
phục những hạn chế còn tồn tại, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
- Phạm vi nghiên cứu: Báo cáo được nghiên cứu trong phạm vi Việt Nam
kể từ thời điểm BLHS hiện hành có hiệu lực đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lenin là cơ sở nền
tảng. Ngoài ra sử dụng các phương pháp sau:
10. + Phương pháp so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật hiện nay với
trước đây, giữa các quy định pháp luật với tình huống thực tế.
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích, bình luận nội dung của ản lệ cũng như
các vụ việc trong thực tiễn cuộc sống, xét xử liên quan đến quy định của pháp
luật về tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 BLHS
- Kết cấu của chuyên đề.
Không kể phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo
gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Tội cố ý gây thương tích
Chương 2: Thực trạng về kỹ năng tham gia giải quyết vụ án hình sự - tội
cố ý gây thương tích theo Điều 134 BLHS hiện hành
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội cố ý gây thương tích
theo Điều 134 BLHS hiện hành
11. 1
Phần 2: Nội dung:
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH THEO ĐIỀU 134
BLHS HIỆN HÀNH
Trong thời gian gần đây tình tình vi phạm, tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đang có chiều hướng gia tăng
với tính chất mức độ, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy
một số vụ việc xảy ra mâu thuẫn đã giải quyết bằng con đường bạo lực. Tuy
nhiên, công tác đấu tranh và xử lý đối với loại tội phạm này còn thiếu tính kịp
thời, thực tiễn giải quyết còn gặp nhiều khó khăn.
Tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 quy định Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: “Người nào cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ tổn thương
cơ thể từ 11% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm”.
Với quy định này việc xử lý các hành vi Cố ý gây thương tích chỉ được
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết khi có kết quả giám định tỷ lệ tổn thương
cơ thể của người bị hại. Vì vậy, trên thực tế hiện nay việc giải quyết đối với
loại vi phạm, tội phạm này thường bị kéo dài, thậm chí có những vụ việc trải
qua 2 đến 3 năm mới được giải quyết. Do sau khi sự việc xảy ra người bị hại
đang còn lo tập trung điều trị, phục hồi sức khỏe nên chưa thể tiến hành ngay
việc giám định. Mặt khác đối với trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại
kết quả giám định dưới 11% (nhưng không thuộc một trong các trường hợp
quy định từ Điểm a đến Điểm o khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự) thì khi
người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố các cơ quan tiến hành tố tụng mới tiến
hành giải quyết.
Khi có hành vi gây thương tích xảy ra cơ quan điều tra đã kịp thời tiến
hành các bước điều tra ban đầu như lấy lời khai, thu thập dấu vết, thu giữ hung
12. 2
khí gây án (nếu có), tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể người bị hại…
Nhưng do tâm lý chủ quan (xuất phát từ vụ, việc chưa được thụ lý giải quyết
ngay) nên việc xây dựng hồ sơ ban đầu (của một số cơ quan, đơn vị như: Công
an xã, phường, thị trấn hay Đồn Biên phòng… ) còn nhiều hạn chế, thiếu sót,
phần nào còn mang tính thủ tục và do nhận định chủ quan về tính chất thương
tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động nên không thông báo và
kịp thời chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà thụ lý giải quyết theo hồ sơ vụ việc
“đánh nhau” theo thủ tục vi phạm hành chính hoặc các bên thỏa thuận bồi
thường thiệt hại (dân sự). Trong đó, việc thu thập và phản ánh dấu vết trên vật
chứng còn sơ sài, chưa đầy đủ, việc xem xét vết thương không mô tả rõ cơ chế
hình thành và tác động, ví dụ như: Vết thương đó sắc nhọn hay nham nhớ, do
vật gì gây nên, chiều hướng như thế nào… Dẫn đến quá trình giải quyết theo
trình tự thủ tục tin báo hay vụ án đã khởi tố về sau gặp nhiều khó khăn, một số
vụ việc, vụ án Cơ quan điều tra đã phải tiến hành trưng cầu giám định lại hay
giám định bổ sung nhưng do vết thương tích đã lâu, hình thành sẹo nên không
thể kết luận được cơ chế và hung khí tạo nên vết thương, do vậy không thể kết
luận.
Đối với loại tội phạm Cố ý gây thương tích, tính chất đồng phạm diễn ra
phổ biến, do đó việc phân loại vai trò, vị trí của từng đối tượng từ đầu có ý
nghĩa quan trọng trong việc lượng hình. Nhưng sau khi sự việc xảy ra do vụ
việc chưa được giải quyết kịp thời, các biện pháp ngăn chặn chưa được áp
dụng nên các đối tượng trong các vụ việc (giải quyết theo trình tự thủ tục tin
báo), vụ án đã thống nhất lời khai, dễ dàng thông cung, dẫn đến nhiều vụ việc
(giải quyết theo trình tự tin báo), vụ án bị làm sai lệch, phản ánh không khách
quan nội dung vụ việc. Thậm chí một số đối tượng sau khi gây án đã bỏ trốn
làm ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kiểm tra, xác minh (giải quyết theo
trình tự thủ tục tin báo), đặc biệt là trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Do vậy hiện nay các vụ việc, vụ án Cố ý gây thương tích không được
giải quyết kịp thời dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện ở các cấp đang xảy ra phổ
biến và chiếm tỷ lệ cao.
13. 3
Ngoài ra một số nguyên nhân dẫn đến vụ án bị kéo dài nữa đó là sau khi
sự việc xảy ra hầu hết các bên để lại giải quyết thoả thuận đền bù dân sự, chỉ
sau khi không đạt được các thoả thuận lúc đó người bị hại mới có đơn yêu cầu
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết dẫn đến bỏ lọt tội phạm (nếu việc thoả
thuận dân sự thành). Việc hướng dẫn thực hiện giải quyết đối với thương tích
của người bị hại dưới 11% phải có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại đã
ảnh hưởng không nhỏ đến việc đấu tranh xử lý loại tội phạm này.
Bởi thực tế hiện nay một số trường hợp người bị hại bị dụ dỗ, mua chuộc
thậm trí có trường hợp đe doạ không chịu giám định thương tích dẫn đến
những người thực hiện hành vi có điều kiện, coi thường pháp luật dễ dàng chối
bỏ trách nhiệm hình sự, xâm phạm đến tính mạng sức khoẻ của người khác,
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, tính nghiêm minh của pháp
luật, làm giảm niềm tin trong quần chúng nhân dân.
Việc người bị hại không chịu đi giám định thương tích (không có lý do
chính đáng) mặc dù Cơ quan điều tra đã thi hành quyết định dẫn giải người bị
hại theo Điều 127 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhưng bị hại vẫn từ chối
thực hiện nên không tiến hành giám định được. Hiện chưa có quy định pháp
luật khác về chế tài hay hướng dẫn của Liên ngành Trung ương về trường hợp
này, nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn để giải quyết vụ
việc vì không có kết quả giám định thì không thể khởi tố vụ án hình sự.
Mặc dù Thông tư 22/2019/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 28/8/2019 quy
định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám
định pháp y tâm thần đã nêu rõ tỷ lệ phần trăm thương tích đối với từng
trường hợp cụ thể, nhưng trên thực tế việc áp dụng các quy định của Thông tư
22 để giải quyết hầu như không xảy ra, cho dù các thương tích đó qua đối
chiếu được phản ánh chính xác tại Thông tư. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ
tiến hành giải quyết khi bị hại có kết quả giám định.
Vụ án minh họa:
Tóm tắt vụ án:
14. 4
Khoảng 18 giờ ngày 06/12/2020, Trương Văn C, Nguyễn Hưng Q,
Trương Văn T, Nguyễn Viết D, Nguyễn S và Phạm Ngọc H đến quán cà phê
của ông Trần Song Nhật C thuộc thôn P, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa mua
bia về uống để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn. Đến khoảng 20 giờ cùng
ngày, Lê Phú V thấy quán đông người nên đi vào thì gặp nhóm của C; V đến
ngồi bàn bên cạnh nghe nhóm của C nói chuyện liên quan đến việc đánh nhau
trước đó, V đứng dậy quay mặt về phía C nói: “…anh ba, anh lớn rồi mà anh
sống dỡ...” thì C cầm ly thủy tinh đang uống bia đường kính khoảng 08cm,
cao khoảng 9,5cm ném vào mặt V làm ly vỡ gây thương tích cho V, sau đó V
bỏ chạy và được đưa đi cấp cứu.
Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số: 447/TgT-TTPY ngày
31/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận: Tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể của Lê Phú V là 19% (mười chín phần trăm).
Nhận định của Tòa án:
Khoảng 20 giờ ngày 06/12/2020, Trương Văn C đã có hành vi cố ý dùng
ly thủy tinh đang uống bia đường kính khoảng 08cm, cao khoảng 9,5cm ném
vào mặt V gây thương tích cho V với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích
gây nên là 19% (mười chín phần trăm).
Hành vi phạm tội của bị cáo Trương Văn C là rất nguy hiểm cho xã hội,
bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của công dân được
pháp luật hình sự bảo vệ, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự an
toàn xã hội tại địa phương. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy
đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm nào đúng, việc làm
nào sai. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết được hành vi dùng ly thủy tinh là
hung khí nguy hiểm ném vào bị hại để gây thương tích là vi phạm pháp luật
nhưng vẫn bất chấp hậu quả, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện
ý thức liều lĩnh và xem thường pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe của
người khác. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an tại
địa phương.
15. 5
Hơn nữa, bị cáo không có mâu thuẫn gì với bị hại, chỉ vì duyên cớ nhỏ
nhặt mà bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm và thực hiện hành vi phạm tội có
tính chất côn đồ để gây thương tích cho bị hại với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể
do thương tích gây nên là 19% (mười chín phần trăm). Hành vi của bị cáo C
đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được
quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 điều này) là hoàn toàn có căn cứ,
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra
khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, trở thành công dân có ích
trong xã hội và biết tôn trọng pháp luật.
Căn cứ điểm đ, khoản 2, Điều 134 (viện dẫn điểm a, i khoản 1 điều này);
điểm b, s khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 56; khoản 5 Điều
65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trương Văn C 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương
tích”. Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 01/2018/HS-ST ngày 03/01/2018 của
Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 (hai) năm 06
(sáu) tháng tù. Buộc bị cáo Trương Văn C phải chấp hành hình phạt chung là
04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Nhìn chung, đây là một vụ án đơn giản, bị cáo khai nhận tội danh, hội
đồng xét xử đã căn cứ vào lời khai và các chứng cứ khác xét xử bị cáo đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
16. 6
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH THEO ĐIỀU 134 BLHS HIỆN HÀNH
Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích cực đấu
tranh ngăn chặn các hành vi phạm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
những quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS) cho thấy còn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ.
Thứ nhất, không phân hóa rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội
Ví dụ: Nguyễn Văn A gây thương tích cho Nguyễn Văn B có tỷ lệ tổn
thương cơ thể là 27%, Nguyễn Văn C có tỷ lệ tổn thương cơ thể 26%, Nguyễn
Văn D có tỷ lệ tổn thương cơ thể 20% và Nguyễn Văn E có tỷ lệ tổn thương
cơ thể 26% mà tổng tỷ lệ tổn thương của 4 người là 99% và không thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm từ a đến k khoản 1 Điều 134 Bộ
luật Hình sự. Nếu trước đây Bộ luật Hình sự 1999 coi trường hợp phạm tội
này là “đặc biệt nghiêm trọng” và phải áp dụng khoản 4 của điều luật có
khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân, thì nay Nguyễn
Văn A chỉ bị áp dụng khoản 2 của điều 134 BLHS có khung hình phạt từ 02
năm đến 06 năm tù. Việc quy định tình tiết” Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ
11% đến 30%” vào điểm b khoản 2 Điều 134 là không phản ánh đúng tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và không phù hợp
với lý luận khoa học luật hình sự như đã phân tích ở trên. Lẽ ra điểm b khoản
2 của điều luật phải quy định: “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ hoặc
dưới 11% nhưng tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của các nạn nhân cộng lại là từ
11% đến 30%”. Như thế mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
17. 7
Trong trường hợp trên nếu Nguyễn Văn A chỉ gây thương tích cho
Nguyễn Văn B có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 27%, Nguyễn Văn C có tỷ lệ tổn
thương cơ thể 26% và gây thương tích thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự thì
Nguyễn Văn A sẽ bị xử lý tại điểm d khoản 3 Điều 134 với hình phạt tù từ 05
năm đến 10 năm.
Qua đó ta có thể thấy quy định điểm khoản khung hình phạt không phản
ánh đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội giữa
điểm b khoản 2 và điểm d khoản 3 Điều 134.
Trường hợp nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của rất
nhiều người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người dưới 11%, dù thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 của
điều luật thì người phạm tội cũng không bị áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3 của
điều luật, mà chỉ bị áp dụng khoản 1 của điều luật. Như vậy là chưa thể hiện
tính nghiêm minh của pháp luật. Lẽ ra điểm d khoản 3 của điều luật phải quy
định: “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ hoặc dưới 11% nhưng tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể của các nạn nhân cộng lại là từ 11% đến 30% và thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 của
điều luật” Có như thế mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự vì bỏ sót tình tiết
định tội tại Điều 134 BLHS năm 2015
Tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 nhà làm luật đã không đưa tình
tiết tình tiết tái phạm nguy hiểm, là dấu hiệu định tội quy định từ điểm a đến
điểm k vì vậy trên thực tiễn có trường hợp đối tượng gây thương tích tái phạm
nguy hiểm nhưng nạn nhân có tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% và không
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k
khoản 1 của điều luật thì đối tượng gây thương tích trong trường hợp này
không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
18. 8
Thứ ba, khó xác định mức truy cứu trách nhiệm hình sự vì bỏ sót tình
tiết định tội tại Điều 134 BLHS năm 2015
Một bất cập nữa là tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm nguy
hiểm” chỉ quy định ở Khoản 2 Điều 134 BLHS, mà không quy định ở khoản
3,4,5 của điều luật và việc quy định tình tiết không gắn liền với hậu quả tương
ứng đã gây ra một số bất cập.
Ví dụ: Nguyễn Văn A chỉ gây thương tích cho Nguyễn Văn B có tỷ lệ
tổn thương cơ thể là 27%, Nguyễn Văn C có tỷ lệ tổn thương cơ thể 26% và
gây thương tích thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm
a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự mà thuộc trường hợp A Phạm
tội 02 lần trở lên hoặc Tái phạm nguy hiểm thì lúc này Nguyễn Văn A bị xét
xử theo khoản 3 Điều 134 hay khoản 2 Điều 134. Điều này vô hình trung đã
tạo ra sự bất cập trong việc áp dụng pháp luật và bất cập quyết định hình phạt,
nhất là việc quyết định hình phạt đối với những trường hợp phạm tội nhiều
lần, các đối tượng nguy hiểm, coi thường pháp luật.
Thứ tư, Khó phân biệt tội danh
Mặc dù đã được quy định một cách cụ thể trong BLHS nhưng việc xác
định tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác lại khó xác định. Cụ thể: Tội giết người (chưa đạt) và tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đều có những dấu hiệu
giống nhau như hậu quả gây thương tích nặng cho bị hại, thực hiện do lỗi cố ý
và đều có hành vi khách quan như đánh, đâm, chém… nên khó phân biệt.
Ví dụ: Phạm Văn H là nhân viên tài chính của Phòng Tham mưu. Sáng
ngày 10/5/2019, H bị Võ Đức T (Đại đội trưởng) phê bình về công tác trực
đơn vị nhưng không hoàn thành nhiệm vụ. Khoảng 10 giờ cùng ngày, H cầm
sổ chi tiêu của đơn vị đến phòng Võ Đức T để trình ký nhưng T chưa ký ngay
mà nói để kiểm tra. Nghĩ rằng, T gây khó khăn cho mình, H đi đến bếp ăn của
đơn vị lấy một con dao (loại dao chặt xương) cầm về và bỏ vào trong cặp. H đi
đến phòng làm việc của T. Lúc này, T đang ngồi ở bàn làm việc đọc tài liệu, H
đến phía sau lưng bên trái cách T khoảng 80cm. Thấy sổ chi tiêu đơn vị chưa
19. 9
được T ký duyệt, H lấy dao từ trong cặp ra, tay trái cầm cặp, tay phải H cầm
dao vung lên chém một nhát từ trên xuống dưới vào phía sau đầu T, T ôm đầu
đứng dậy hỏi H “làm gì vậy”, H tiếp tục chém nhát thứ hai vào vùng sau cổ
của T, T ôm đầu bỏ chạy ra hành lang và được mọi người đưa đi cấp cứu. Tại
bản kết luận giám định pháp y thương tích số 333/TgT ngày 05/10/2019, kết
luận thương tích của anh T: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên
hiện tại là 46%, di chứng để lại: đau đầu, chóng mặt, có ảnh hưởng đến não bộ
tăng trương lực vỏ não, vận động cổ hạn chế.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 3 Điều 134; các điểm b, s, v khoản 1,
khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Văn H 5 năm tù.
Qua ví dụ trên, tôi cho rằng, Tòa án sơ thẩm kết án bị cáo Phạm Văn H
về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 BLHS là chưa hợp lý.
Bởi vì, do bực tức với T nên bị cáo H đã chuẩn bị con dao loại dao chặt
xương, to và nặng, đứng phía sau, chủ động chém hai nhát từ trên xuống dưới,
vào vùng sau đầu và cổ của Võ Đức T, vị trí hiểm yếu của cơ thể con người,
nạn nhân bị chém trong tình trạng hoàn toàn bị động, bất ngờ không thể chống
cự được, hành vi của bị cáo thể hiện tính nguy hiểm cao độ, anh T không chết
là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo
Phạm Văn H phải bị xét xử về tội Giết người (chưa đạt) mới chính xác (Điều
123 BLHS).
Việc xác định tội danh phải đánh giá đầy đủ các yếu tố thuộc mặt khách
quan và chủ quan của tội phạm. Nghị quyết số 04-HĐTP/NQ ngày 29/11/1986
và Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của HĐTP TANDTC; Công
văn số 03-TANDTC ngày 22/10/1987 và Công văn số 140/CV ngày
11/12/1998 của TANDTC là những văn bản hướng dẫn phân biệt khi xử lý đối
với hai tội danh này. Tuy nhiên, những văn bản này được ban hành đã lâu, nội
dung hướng dẫn còn chưa cụ thể, một số nội dung không còn phù hợp với thực
tiễn nên dẫn đến cơ quan THTT áp dụng pháp luật không thống nhất.
Bị hại từ chối giám định nếu không có lý do chính đáng phải được xem
là hành vi cản trở hoạt động của TTHS. Vì vậy, đề nghị bổ sung khoản 13 vào
20. 10
Điều 466 BLTTHS năm 2015:“Điều 466. Xử lý người có hành vi cản trở hoạt
động tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng… 13.Bị hại từ chối
giám định thương tích theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do
trở ngại khách quan”.
Hiện nay, tội phạm “Cố ý gây thương tích” xảy ra nhiều, theo quy định
tại Điều 155 BLTTHS năm 2015, việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
bị hại, đối tượng gây thương tích dưới 11% thì bị hại có quyền yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự. Thực tế có nhiều vụ án, bị cáo gây thương tích cho bị hại với tỷ
lệ tổn thương cơ thể chỉ từ 01 đến 03%, với hành vi gây thương tích ít nguy
hiểm, việc xử lý hình sự trong những trường hợp này là không cần thiết. Tác
giả đề xuất, trong quy định của BLHS, cần điều chỉnh mức tối thiểu tỷ lệ tổn
thương cơ thể mà bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là từ 04% trở
lên.
TANDTC cần có hướng dẫn về việc lấy kết quả giám định nào (kết quả
giám định lần đầu, kết quả giám định lại lần thứ nhất,..) làm cơ sở để giải
quyết vụ án cố ý gây thương tích. Theo quy định tại Điều 212 BLTTHS năm
2015: “Kết luận giám định lại trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải
quyết vụ án”. Còn các trường hợp giám định khác thì không có quy định cụ
thể, tránh trường hợp khi giám định kết quả lần đầu, Tòa án cấp sơ thẩm áp
dụng đúng trình tự thủ tục và căn cứ kết quả giám định để giải quyết vụ án.
Sau một thời gian dài, xét xử phúc thẩm lại ra quyết định trưng cầu định lại thì
kết quả tỷ lệ tổn thương cơ thể cao hơn, thấp hơn hoặc có trường hợp kết quả
là 0%, dẫn đến tình trạng chuyển khung hình phạt, thậm chí là đình chỉ vụ án.
Luật Giám định tư pháp số 44/VBHN-VPQH ngày 10 /12 /2018 của Văn
phòng Quốc hội, mặc dù đã có chế tài quy định tại Điều 6 “Các hành vi bị
nghiêm cấm” đối với giám định viên tư pháp. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp
dụng với lỗi cố ý đưa ra kết luận sai, còn lỗi vô ý đưa ra kết luận sai (lỗi do
cẩu thả, tự tin thái quá..), do trình độ chuyên môn thấp, không đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ thì luật không đề cập. Vì vậy, cần bổ sung quy chế ràng
21. 11
buộc vai trò, trách nhiệm, đối với giám định viên một cách cụ thể hơn, vì giám
định viên là người được đào tạo, có chuyên môn trong lĩnh vực pháp y, kết
quả giám định chính là nguồn chứng cứ quan trọng để cơ quan THTT áp dụng,
giải quyết đúng đắn vụ án.1
Khi vụ án hình sự xảy ra, việc thu thập vật chứng có vai trò rất quan
trọng, công tác khám nghiệm hiện trường, thu thập vật chứng là điểm then
chốt trong vụ án. Tuy nhiên, trong thực tiễn có nhiều vụ án “Cố ý gây thương
tích” thì CQĐT không thu thập được hung khí, vật chứng gây án. Chúng tôi
kiến nghị, cần xây dựng quy chế rõ ràng, ràng buộc trách nhiệm trong việc thu
thập vật chứng của người tiến hành tố tụng không kịp thời, không thu thập
được vật chứng gây án của tội phạm do lỗi chủ quan.
Ngoài ra, để khắc phục những khó khăn, vướng mắc cần sớm ban hành
Nghị quyết, Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể các trường hợp đang gặp khó
khăn, vướng mắc nêu trên để các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể vận dụng
kịp thời, đảm bảo thống nhất trong áp dụng pháp luật.2
1 https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/kho-khan-vuong-mac-trong-giai-quyet-vu-an-co-y-gay-
thuong-tich-va-de-xuat-kien-nghi
2 Lê Xuân Quang VKSND huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai và ThS. NCS. Hoàng Ngọc Anh, Trường
Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh,
https://vksnd.gialai.gov.vn/Nghien-cuu-Trao-doi/can-huong-dan-ap-dung-sua-doi-dieu-134-bo-luat-
hinh-su-1548.html
22. 12
Phần 3: Kết luận
“Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây tổn hại
cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác.
Thương tích được hiểu là tổn hại cho sức khỏe thể hiện qua dấu vết để lại trên
cơ thể con người, tổn thương khác được hiểu là tổn hại cho sức khỏe mà
không thể hiện thành dấu vết trên cơ thể con người. Hành vi cố ý gây thương
tích là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo
vệ sức khỏe của người khác”. Hiện nay đây là tội phạm được quy định tại
Điều 134 Bộ luật hình sự hiện hành.
Trong thời gian gần đây tình tình vi phạm, tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đang có chiều hướng gia tăng
với tính chất mức độ, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy
một số vụ việc xảy ra mâu thuẫn đã giải quyết bằng con đường bạo lực. Tuy
nhiên, công tác đấu tranh và xử lý đối với loại tội phạm này còn thiếu tính kịp
thời, thực tiễn giải quyết còn gặp nhiều khó khăn.
Cùng với đó, trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích
cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi phạm tội xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Báo cáo này dựa trên các bất
cập đang tồn tại trong thực tế, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật,
góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.
23. 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản quy phạm pháp luật
Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” trong tội “Giết
người” có đồng phạm có nêu: trường hợp thương tích bị tổn thương ở vùng
đầu, cổ, ngực... được xác định là vùng trọng yếu của cơ thể
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017;
Nghị quyết số 04/HĐTP/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn BLHS năm 1985
Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
Thông tư 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013 của Bộ Y tế hướng dẫn về
quy trình giám định tư pháp
Thông báo rút kinh nghiệm số 05/TB-VC1-HS ngày 13/02/2019 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thông báo rút kinh nghiệm số 06/TB-VC1-HS ngày 25/3/2019 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao
2. Tài liệu tham khảo khác
Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm), tập 1 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
24. 14
con người, (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh, tr.137
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phần chung /Trường Đại học Luật Hà Nội
; Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên; tr.77
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam.Phần các tội phạm, Quyển 1 /Trường Đại
học Luật Hà Nội ; Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên; tr.101
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/kho-khan-vuong-mac-trong-giai-
quyet-vu-an-co-y-gay-thuong-tich-va-de-xuat-kien-nghi
Lê Xuân Quang VKSND huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai và ThS. NCS. Hoàng
Ngọc Anh, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ
Chí Minh, https://vksnd.gialai.gov.vn/Nghien-cuu-Trao-doi/can-huong-dan-
ap-dung-sua-doi-dieu-134-bo-luat-hinh-su-1548.html
Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam - Quyển 1 (Phần chung), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/C%E1%BB%91_%C3%BD
http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Th%C6%B0%C6%A1ng_t%C3%ADch