Chuyên Đề Tốt Nghiệp Mở Rộng Cho Vay Tiêu Dùng Tại Chi Nhánh Ngân Hàng Thương...
Bảo lãnh tín dụng
1. Bảo lãnh tính dụng cho doanh nghiệp
Ngày 22-1 tại Hà Nội đã diễn ra lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho doanh
nghiệp có nhu cầu vay vốn tại các ngân hàng thương mại để thực hiện dự án đầu tư,
phương án sản xuất kinh doanh với nguồn quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh vay vốn là 200 tỷ
đồng.
Theo Quyết định số 14/2009/QĐ/TTg ngày 21-1-2009 của Thủ tướng Chính phủ, VDB
được giao thêm nhiệm vụ mới là bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp (DN). Đây là hình
thức hỗ trợ quan trọng trong gói giải pháp kích cầu của Chính phủ đối với cộng đồng các
DN, tạo điều kiện cho DN tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa
là giúp các ngân hàng thương mại đưa vốn ra nhiều hơn và an toàn hơn. Hiện nay, nguồn
vốn ngân hàng đang lớn, nhưng đưa đến DN rất khó khăn, nhất là các DN nhỏ, bởi lẽ các
DN muốn vay nhưng không có tài sản thế chấp, còn các ngân hàng ngại cho vay vì sợ rủi
ro. Cơ chế bảo lãnh tín dụng mới sẽ khắc phục được điều đó.
Các DN (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ từ 20 tỷ đồng trở xuống, và sử dụng 500 lao
động trở xuống sẽ thuộc diện được xem xét bảo lãnh tín dụng từ VDB để vay vốn đầu tư
tài sản cố định theo dự án, hoặc vay vốn lưu động để ổn định và phát triển sản xuất kinh
doanh. Quy mô dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tối thiểu là 100
triệu đồng, không nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng, không nợ thuế; có vốn chủ sở hữu
tham gia tối thiểu 10% và sử dụng 100% giá trị tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp
bảo đảm bảo lãnh. Thời hạn bảo lãnh phù hợp với thời gian vay vốn từ các ngân hàng
thương mại, với mức vốn bảo lãnh là 100% nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) của DN đối với
ngân hàng. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp không thuộc diện được VDB xem xét
bảo lãnh tín dụng. Đó là các DN hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, kinh doanh bất động
sản, chứng khoán, dịch vụ (trừ dịch vụ vận tải hàng hóa, giáo dục đào tạo và y tế); hoặc
các khoản vay vốn để thanh toán nợ vay của các hợp đồng tín dụng khác.
Điều kiện để được bảo lãnh được đánh giá là ưu đãi đối với doanh nghiệp. Theo đó, DN
cần có dự án đầu tư phát triển, hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, quy mô
dự án tối thiểu là 100 triệu đồng; và DN cần có tối thiểu 10% vốn chủ sở hữu tham gia dự
án/phương án sản xuất kinh doanh. Mặt khác, DN phải sử dụng 100% giá trị tài sản hình
thành từ vốn vay (tối đa 90%) và vốn chủ sở hữu (tối thiểu 10%) để thế chấp bảo đảm
bảo lãnh tại VDB.
VDB là nơi thẩm tra tính khả thi của dự án và cấp chứng thư bảo lãnh. Đối với các ngân
hàng thương mại thì chứng thư bảo lãnh của VDB là thế chấp cao hơn so với tài sản thế
chấp của doanh nghiệp, vì đảm bảo an toàn hơn. Chính vì thế các DN vay vốn sẽ không
cần phải thế chấp.
Hơn nữa, thủ tục đơn giản vì được VDB giải quyết theo mô hình “một cửa”. Khi phát
sinh nhu cầu vay vốn có bảo lãnh, DN cần gửi hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn đến VDB,
2. hoặc phía các ngân hàng thương mại sẽ gửi hồ sơ đến VDB. Tối đa 20 ngày làm việc kể
từ khi nhận đủ hồ sơ, VDB sẽ tiến hành thẩm định. Nếu đủ điều kiện thì VDB sẽ có văn
bản chấp thuận bảo lãnh cho DN vay vốn, và nếu không đủ điều kiện thì DN cũng sẽ
được thông báo lý do cụ thể. Sau đó, ngân hàng thương mại sẽ xem xét và ký hợp đồng
tín dụng với DN. Tiếp đó, VDB sẽ ký hợp đồng bảo lãnh vay vốn, hợp đồng bảo đảm bảo
lãnh và phát hành chứng thư bảo lãnh để DN vay vốn tại ngân hàng. Ngoài ra, để tạo
thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xin bảo lãnh vay vốn, VDB cũng sẽ phân cấp mạnh cho
các chi nhánh, tùy theo từng lĩnh vực cụ thể và số vốn xin bảo lãnh, các giám đốc chi
nhánh có quyền quyết định bảo lãnh vay vốn lên tới 120 tỷ đồng
Việc bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp sẽ chính thức được triển khai từ 10/2/2009
Nhìn nhận về chủ trương trên nhiều doanh nghiệp cho rằng đó là “chủ trương đúng và kịp
thời”, tuy nhiên thực tế thì vẫn còn nhiều vướng mắc.
Theo TS Cao Sỹ Kiêm - Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam, mức vốn 200 tỷ đồng là
quá ít so với nhu cầu bảo lãnh của cộng đồng doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là DNNVV
chiếm 93, 95% tổng số doanh nghiệp. Còn việc tiếp cận với nguồn vốn từ Nhà nước còn
khó khăn do cả từ phía doanh nghiệp, như những hạn chế về nhân lực và quản lý khiến
các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng các dự án đầu tư. Nhiều chủ doanh
nghiệp nghĩ đến đâu làm đến đó, không mấy khi đầu tư cho việc xây dựng các dự án đầu
tư. Bên cạnh đó, các thói quen sử dụng dịch vụ trong DNNVV còn ít. Khi cần dự án để
vay vốn, các DNNVV mới vội đi thuê để viết. Hầu hết các dự án vay vốn được xây dựng
trong điều kiện như vậy có chất lượng không tốt, khó thuyết phục được ngân hàng, các tổ
chức tín dụng...
Trong thực tế điều kiện và thủ tục để được bảo lãnh vay vốn còn nhiêu khê cũng là một
trong những rào cản lớn để doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn. Điều kiện để được bảo
lãnh vẫn còn quá chặt và phức tạp khi vừa yêu cầu thẩm định hiệu quả phương thức kinh
doanh, khả năng trả lãi và hoàn vốn, lại vừa yêu cầu doanh nghiệp phải thế chấp 100%
giá trị tài sản hình thành từ nguồn vốn vay được bảo lãnh và vốn chủ sở hữu tại VDB.
Quy trình làm thủ tục cũng khá phức tạp và mất nhiều thời gian. Các DN phải mất tối đa
20 ngày chờ ngân hàng thẩm định hiệu quả dự án kinh doanh, sản xuất. Đồng thời mất tối
đa 60 ngày chờ ngân hàng nhận bảo lãnh thoả thuân về việc thực hiện hay không nghĩa
vụ bảo lãnh. Đó là chưa kể khi nhân hang đòi thẩm định về môi trường, phòng cháy chữa
cháy,… Với quy định như vậy, doanh nghiệp phải mất hai đến ba tháng chờ xem được
bảo lãnh hay không, nếu được thì không biết bao giờ mới được giải nhân vốn vay. Như
vậy nếu doanh nghiệp lo xong theo yêu cầu thì có thể mất cả năm, bỏ lỡ cơ hội tiếp cận
nguồn vốn ưu đãi, và cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn vay khó đến đúng đối tượng, mục
tiêu kích cầu khó đạt được.
!