SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
Dt2 tro choi o vn
1. Đối thoại 2: Gameshow ở VN?
Tóc dài hỏi: Lão có vẻ giỏi hùng biện, có dám thi hùng biện với chị
không?
Lão xích lô trả lời: Ở mình có những cuộc thi rất lạ! Không biết nó
là năng khiếu gì và mục đích là gì? Chị muốn rủ lão thi "hùng biện"
ở Thăng Long chứ gì. Ừ thì thôi cũng là năng khiếu "chém gió".
Chọn ra nhân tài "chém gió". Vì bọn đ... cần mấy tay chém gió hay.
Không cần biết mấy gã đó có làm được gì hay không, nhưng chém
gió hay là sẽ mị dân tốt. Người ta vẫn bảo "đừng nghe cs nói, hãy
xem cs làm". Tuy nhiên, cũng ít người hiểu được câu đó, nên cs
vẫn cần những tên chém gió tốt.
Nghe đâu cuộc thi hùng biện ở Thăng Long đặt tên là SOCRATES.
Cuộc thi hùng biện mà mang tên SOCRATES thì rất không đúng. Vì
SOCRATES không phải là một nhà hùng biện. SOCRATES là một
TRIẾT GIA. Có lẽ ông ấy là một trong những TRIẾT GIA vĩ đại nhất!
Theo đánh giá của thế giới TRIẾT HỌC. Ở khu vực Đông Nam Á, cho
đến nay, hình như mới có Trần Đức Thảo được coi như là một triết
gia. Một vài người khác được đánh giá là những người nghiên cứu
triết học. Còn lại, đa số những vị làm trong Viện Triết Học VN từ
trước đến nay đều mù tịt về Triết. Chẳng hạn điển hình là Nguyễn
Trọc Phú, luôn tự vỗ ngực là giáo sư, nhưng thực ra là mù tịt về
triết.
SOCRATES có một câu như thế này mà người ta hay nói đến: "The
only thing I know that is I don't know anything".
Nhưng Châu Âu có được văn minh, dân chủ, thượng tôn pháp luật
như ngày nay là đều bắt đầu từ SOCRATES và học trò của ông ấy là
PLATO.
Mình ước gì người VN chuyển đổi sang "tư tưởng Âu Hóa", thì xã
hội sẽ được văn minh mà không còn man rợ như hiện tại.
=====
2. Triết gia Trần Ðức Thảo: thơm mãi cỏ Khang Thành
Kiều Mai Sơn
“Phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Nguyễn Du)
Những ngày đầu tiên chính thức trở thành sinh viên trường Ðại học Sư phạm Hà
Nội, trong tuần sinh hoạt chính trị đầu năm học 2005 - 2006, tôi được nghe GS. TS
Ðinh Quang Báo nói chuyện về truyền thống vẻ vang của nhà trường. Từ câu
chuyện của thầy hiệu trưởng, tên tuổi những nhà giáo, nhà khoa học kiệt xuất của
Việt Nam với tài năng và đức độ đã xây nền đắp móng lập nên trường ÐHSP Hà
Nội – “máy cái” của nền giáo dục cả nước - cứ ám ảnh mãi trong tâm trí tôi: GS
Cao Xuân Huy, GS Ðặng Thai Mai, GS Ðào Duy Anh, GS Trần Văn Giàu, GS
Trương Tửu, GS Phạm Huy Thông, GS Trần Ðức Thảo, GS Lê Văn Thiêm… Tôi
đã “gặp” các thầy từ trong sách vở, từ trong những câu chuyện khi “lê la” hỏi
chuyện nhiều người mà tôi đã từng được gặp gỡ.
Triết gia Trần Ðức Thảo là người tôi được nghe kể với nhiều giai thoại và ngậm
ngùi, tiếc nuối. Cuộc đời ông như một trích tiên biếm trần, cốt cách của ông vững
vàng như tùng bách đã dạn tuyết sương, còn sự nghiệp ông để lại giống như loài cỏ
ở thư viện Khang Thành của học giả Trịnh Huyền thời Ðông Hán (Trung Quốc)
còn thơm mãi mãi.
GS Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Ðình Chú – trợ giảng của thầy Trần Ðức Thảo tại
trường ÐHSP Văn khoa năm 1957 - tâm sự rằng được làm học trò của nhà triết học
Trần Ðức Thảo “là một may mắn lớn nhưng cũng có phần vất vả. Có điều cái vất
vả thì đã qua đi, cái may mắn thì còn mãi mãi”.
Ông tiếc nuối vì sai lầm của một thời đã khiến ông không còn được theo chân nối
gót thầy trên con đường nghiên cứu triết học. Cái họa “dậu đổ bìm leo” đã khiến
nhà giáo trẻ Nguyễn Ðình Chú im lặng, rồi lặng lẽ tự nghiên cứu và giảng dạy văn
học. Ông cũng không ngờ mình lại có được danh vọng cùng với học hàm, học vị,
học hiệu như ngày hôm nay. Ðối với ông, có được thành công này một phần là nhờ
bản thân không ngừng tự phấn đấu nhưng quan trọng hơn cả, ông chịu ơn dạy dỗ,
chỉ đường dẫn lối của các thầy, đặc biệt: “Thầy Trần Ðức Thảo là một con người
siêu việt của Việt Nam đã đành, thầy còn đáng cho nền văn hoá Pháp tự hào. Con
người đó cũng có phần cấu thành của chung nhân loại…”
GS. NGND Nguyễn Ðình Chú trăn trở, sắp sang tuổi 80, ông muốn tạ ơn và nghĩa
với các thầy, nhưng một chữ viết ra, một lời nói về các thầy nặng tựa Thái Sơn,
ông không cho phép tự dễ dãi với chính bản thân mình: đức độ của thầy Ðặng Thai
Mai, uyên bác của thầy Cao Xuân Huy, trí tuệ của thầy Trần Ðức Thảo, nhân cách
của thầy Nguyễn Mạnh Tường và thầy Trương Tửu… Nên tại lễ kỷ niệm 55 năm
thành lập trường ÐHSP Hà Nội (11/10/1951 - 11/10/2006) ông đã có bài phát biểu
“Tự hào, biết ơn và mong ước” rằng: “Cái đáng kể, có thể nói là một đi nhưng
không bao giờ trở lại chính là chỗ nhà trường trong buổi đầu này đã có những thầy
3. giáo là những ông trùm văn hóa, ông trùm khoa học cho đất nước, không chỉ là
sáng danh thời đó mà cả với muôn thuở non sông…”
Hà Nội sang thu, hơi may dìu dịu, vài chiếc lá vàng khô mỏng xen với cánh hoàng
vĩ rơi trên ghế đá ký túc xá cũng khiến tôi giật mình nhớ lại buổi trò chuyện với bà
Ngô Thị Mỹ Văn – phu nhân nhà ngoại giao Hoàng Nguyên – bà là một người trí
thức Hà thành đã từng tham gia phong trào Việt kiều yêu nước tại Paris trong
kháng chiến chống Pháp:
“Khi mới đến Paris, do tổ chức Ðảng cho phép sang Pháp, tôi được nghe kể về
những trí thức Việt Nam yêu nước tại Pháp đã được gặp Bác Hồ năm 1946 và Bác
đã chọn đưa về nước tham gia kháng chiến như các anh Trần Ðại Nghĩa, Võ Quý
Huân, Trần Hữu Tước… cũng như nhiều anh khác tiếp tục bí mật từ bỏ Paris để về
Việt Bắc. Tôi cũng được nghe nói anh Trần Ðức Thảo có cuộc tranh luận với J. P.
Sartre trong thời gian anh chưa về nước (1949 – 1950). Sau này khi về nước nhiều
năm, tôi lại được nghe anh em trường đại học kể lại ngày đó các nhà tư tưởng, các
triết gia, văn nghệ sĩ… và cả công chúng có tri thức của châu Âu bị chấn động khi
vị ‘chủ soái’ của thuyết hiện sinh - J. P. Sartre - nhà văn nổi tiếng khắp thế giới
chủ động đưa lời mời ‘tranh luận’ với triết gia người Việt Nam: Trần Ðức Thảo”.
Cuộc tranh luận được tổ chức thành những buổi luận đàm trực tiếp có nhiều người
nghe. Lúc đó, thuyết hiện sinh của J. P. Sartre có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội
Pháp, lôi kéo được rất nhiều trí thức và giới sinh viên đi theo.
Bằng tâm hồn Việt Nam, trí tuệ Việt Nam và tư tưởng Việt Nam trong con người
ông lúc đó, Trần Đức Thảo đã chứng minh chất ưu đẳng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng theo cảm nhận của cá nhân mình. Ông đã bẻ gãy những “đòn” lập luận
lắt léo của J. P. Sartre với vốn Pháp văn tuyệt vời… Ngày cuối cùng, hai bên đi
đến việc định nghĩa lại những khái niệm nền tảng của triết học về “ý thức đầu
tiên” khởi sinh trong con người được Husserl - nhà hiện tượng học nổi danh bấy
giờ - trình bày trong cuốn Trải nghiệm và luận giải. J. P. Sartre không nắm rõ cuốn
đó nên cuộc tranh luận tạm ngừng. Trần Ðức Thảo hào hiệp đồng ý không kể lại
cuộc trao đổi này. Sau vì môn đồ của J. P. Sartre hậm hực đã tung tin đồn thất thiệt
với báo chí rằng cuộc tranh luận đã bị triết gia Việt Nam phá hỏng. Để bảo vệ quan
điểm và uy tín của mình, Trần Đức Thảo buộc lòng phải lên tiếng đề nghị cho in
bản tốc ký cuộc tranh luận. Lúc này cả châu Âu bàng hoàng hiểu rằng Trần Ðức
Thảo chính là người chiến thắng.
Năm 1951, Trần Ðức Thảo “tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Một nhà trí thức siêu
việt đã ỏ kinh thành Paris hoa lệ lại sau lưng, khước từ mọi vinh quang và tương lai
huy hoàng để về Việt Nam tham gia kháng chiến, đối diện với hoàn cảnh khổ cực
thiếu thốn đủ thứ và cái chết nhiều khi sẵn sàng chờ đón, biết bao trí thức không
chịu nổi đã “dinh tê” (enter) vào thành với thực dân Pháp. Sự kiện này đã gây sửng
sốt đối với mọi người. Chỉ có những con người với tình yêu Tổ quốc cháy bỏng
4. mới thấu hiểu hành động này. GS Nguyễn Ðình Chú cho biết, ngày đó cụ Trường
Chinh đã cử ông Vương Hoàng Tuyên, cán bộ Văn phòng Tổng Bí thư sang tận
Khu học xá Nam Ninh – Trung Quốc đón triết gia về Việt Bắc. Bắt đầu từ đây, triết
gia Trần Ðức Thảo tham gia công tác tại Ban Văn – Sử - Ðịa Trung ương (tiền thân
của Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam), trường Ðại học Sư phạm
Văn khoa, Ðại học Tổng hợp Hà Nội.
Sau vụ Nhân văn - Giai phẩm, GS Trần Đức Thảo phải chia tay với giảng đường,
lúc đó ông đang trên cương vị Phó Giám đốc trường ĐHSP Hà Nội, kiêm Trưởng
khoa Lịch sử chung cho cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội, về làm công tác dịch thuật
cho Nxb Sự thật (Nxb Chính trị Quốc gia ngày nay).
Nhập thế không thành công, triết gia lặng lẽ sống và làm việc trong mọi khó khăn
tại căn hộ ở khu tập thể Kim Liên, không vợ con, không người thân bên cạnh. Với
những người hàng xóm, ông nổi tiếng là người đãng trí, ngơ ngác trong các sự việc
đang diễn ra trước cuộc đời. Biết bao khó khăn, thiếu thốn, nhất là thiếu thốn về tư
liệu mới của tri thức học thuật, nhưng ông vẫn không nản. Từ khối óc của con
người lặng lẽ đó, những tác phẩm lần lượt ra đời: Sự hình thành con người, Vấn đề
con người và chủ nghĩa lý luận không có con người, Tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ
và ý thức… Những công trình này được in tại châu Âu đã làm các nhà khoa học
phương Tây kính nể. Không ít người mỏi mắt ngóng chờ Trần Ðức Thảo từ Việt
Nam. Một số người còn đến Việt Nam để tìm “ông Trần”. Vậy mà tại Việt Nam
nhiều người không rõ Trần Đức Thảo là ai, làm gì, ở đâu. Một số người biết ông lại
muốn “Quét sạch những nọc độc của Trần Ðức Thảo trong việc giảng dạy triết
học” (xin xem bài của Khắc Thành, Tạp chí Học tập - 1958).
“… Những tâm hồn thấp kém không thể hiểu thấu các bậc vĩ nhân, cũng như kẻ nô
lệ nhe răng cười khi nghe hai tiếng tự do”. Trần Ðức Thảo thấu hiểu những lời
trên của đại văn hào Pháp J. J. Rousseau viết trong sách Khế ước xã hội ra đời từ
năm 1762. Trong cuộc gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trần Ðức Thảo khi
Người là thượng khách sang thăm hữu nghị chính thức nước Pháp năm 1946, triết
gia đã bày tỏ nguyện vọng trở về nước hoạt động. Việt Nam đang đứng bên bờ một
cuộc chiến tranh khó tránh khỏi, vì quyền lực đang nằm trong tay những tên thực
dân hiếu chiến. Hồ Chủ tịch đã đồng ý với yêu cầu về nước của nhiều nhà khoa
học như kỹ sư Trần Ðại Nghĩa, kỹ sư Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước…
Nhưng với triết gia Trần Ðức Thảo…
Tôi có một số dịp được ngồi nghe nhà văn Sơn Tùng, một nhà văn đã dành tâm
huyết cả cuộc đời để nghiên cứu, viết sách về Hồ Chủ tịch và các danh nhân tại căn
hộ nhỏ nằm trên gác hai khu tập thể Văn Chương chênh vênh, rêu mốc. Những
ngày đó, bão đang vào gần bờ biển miền Trung, do ảnh hưởng thất thường của thời
tiết, vết thương trên cơ thể nhà văn tái phát. Khẽ đẩy hé cánh cửa buồng làm việc
mà sách vở chật kín bốn bề, thấy ông nằm trên tấm phản ghép từ hai mảnh gỗ, thân
hình gầy gò nghiêng nghiêng như con thuyền đang chống đỡ với bão tố, tôi ái ngại
5. quay ra thì ông đã ngồi dậy đón tôi bằng cái nhìn thân thiện, ấm áp. Buổi trưa vắng
khách, tôi tranh thủ hỏi riêng nhà văn Sơn Tùng về Bác Hồ và triết gia Trần Ðức
Thảo khi Người làm thượng khách sang thăm nước Pháp. Nghe xong, đôi mắt ông
sáng lên, lời ông nhè nhẹ trong nỗi đau sâu thăm thẳm, cao vời vợi. Thời gian Bác
Hồ sang Pháp, cụ Vũ Ðình Huỳnh – Bí thư của Người đã tín trọng trao lại cho nhà
văn những ký ức suốt cuộc đời không thể nào quên về Hồ Chí Minh với những nhà
trí thức yêu nước.
Trời Paris trong tuần hạ chí cao thăm thẳm không gợn một bóng mây. Nước sông
Sein hòa lẫn màu da trời. Hồ Chủ tịch tiếp chuyện triết gia Trần Ðức Thảo hồi 10h
ngày 25/6/1946, Người băn khoăn:
“Sớm muộn gì cuộc chiến tranh Việt – Pháp sẽ không tránh khỏi phải diễn ra. Chú
Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa – chú thích của tác giả), chú Võ Quý Huân về
nước sẽ chế tạo được vũ khí đánh giặc. Chú Trần Hữu Tước bào chế thuốc men…
Ðó là những yêu cầu khẩn thiết nhất lúc này. Còn chú, nhà triết học…” Người nở
nụ cười nhìn Trần Ðức Thảo dí dỏm… “Chú về lúc này sẽ không có đất mà cắm
dùi đâu…”
Thật không ngờ, tầm nhìn xa của vị lãnh tụ hay một lời tiên tri, câu nói ấy đã vận
vào cuộc đời triết gia Trần Ðức Thảo.
*
Một buổi tối mùa Đông năm 2006, theo thư của nhà văn Thái Vũ từ TP. Hồ Chí
Minh gửi ra, tôi tìm đến TS Phạm Thành Hưng, cựu Tổng biên tập Nxb Ðại học
Quốc gia Hà Nội. TS Phạm Thành Hưng là “người đỡ đầu” cho nhiều cuốn sách,
trong đó có cuốn Triết gia lữ hành Trần Ðức Thảo (Nxb Đai học Quốc gia Hà Nội
2006). Câu chuyện về Trần Đức Thảo đã làm tan biến không khí vốn yên tĩnh của
ngôi nhà riêng của ông ở trong khu tập thể Đại học Bách khoa và làm cho chúng
tôi thấy ấm áp trước những cơn gió lạnh giá của mùa Đông.
Hơn 10 năm sau ngày triết gia Trần Ðức Thảo về cõi thiên thu, TS Phạm Thành
Hưng lo xin giấy phép xuất bản rồi bồi hồi chờ từng ngày cho đến khi sách được in
ấn vẹn toàn. “Ðọc sách của cụ Trần Ðức Thảo khó vô cùng em ạ” - ông Phạm
Thành Hưng tâm sự - “thế hệ trẻ các em hiện nay gần như chỉ cảm nhận được thôi.
Nhưng mà đọc những bài viết về cụ, mình thấy xúc động nghẹn lòng… Trong quá
trình để cuốn sách đến tay độc giả, gặp rất nhiều khó khăn vì những lý do tế nhị.
Tuy nhiên Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) truy tặng triết gia Trần Ðức
Thảo, đó là sự khẳng định và đánh giá công lao của Ðảng - Nhà nước đối với cụ”.
Một niềm vui đối với vị Tổng biên tập là ban đầu ông xin được trợ cấp cho sách
trước khi in vì sợ ế nhưng khi Triết gia lữ hành Trần Ðức Thảo vừa phát hành đã
tạo nên một cơn sốt. Tiếp đó là sự kiện nhà thơ Việt Phương - Thư ký riêng đầu
6. tiên của cố Thủ tướng Phạm Văn Ðồng - trao lại toàn bộ di cảo của triết gia Trần
Đức Thảo đã gửi cụ Ðồng cho Nxb Ðại học Quốc gia Hà Nội.
“Vậy là vẫn còn di sản triết học và văn hóa học thuật của Trần Đức Thảo cả Việt
văn lẫn Pháp văn như chuỗi ngọc lấm bụi lịch sử, đòi hỏi sự sưu tầm, tập hợp, dịch
thuật, nghiên cứu, mài dũa để làm lộ sáng tất cả.” Ông Phạm Thành Hưng không
giấu được nỗi vui mừng xúc động.
Nhà văn Sơn Tùng cho biết rằng, năm 2000 khi xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh,
GS Phan Ngọc là người giải trình về các công trình triết học của cụ Trần Ðức Thảo
trước hội đồng khoa học. Ðược sự giúp đỡ của nhà văn Sơn Tùng, tôi mon men
đến cửa “Nhà bách khoa cuối cùng của một thế hệ”.
GS Phan Ngọc kể, thuở ở an toàn khu Việt Bắc, hai anh em cùng nằm chung một
cái sạp trao đổi kiến thức. Ðêm trước Phan Ngọc nói chuyện về triết học và văn
học phương Ðông, đêm sau Trần Ðức Thảo dạy về triết học và văn học phương
Tây.
“Anh Trần Ðức Thảo chỉ hỏi những điều sâu sa, khó, và huyền bí của triết học
phương Ðông thôi. Còn những cái khác anh ấy biết hết rồi.”
Kết thúc câu chuyện, GS Phan Ngọc nhắc lại điều ông đã phát biểu tại hội đồng
khoa học nhân dịp xét Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000):
“Có lẽ không nên bàn đến chuyện Trần Ðức Thảo xứng đáng với giải thưởng. Sự
nghiệp của ông là khách quan, của cả thế giới. Trí thức Việt kiều nhìn vào cách đối
xử với ông để đánh giá thái độ của Ðảng đối với trí thức do phương Tây đào tạo.
Một người như Trần Ðức Thảo tất nhiên có những suy nghĩ riêng về học thuyết
Xtalin, học thuyết Mao Trạch Ðông… Chỉ tiếc là ông đã thấy quá sớm. Cho nên tôi
nhắc lại việc trao phần thưởng cho nhà triết học Trần Ðức Thảo đã vượt ra ngoài
phạm vi một giải thưởng, mà khẳng định một đường lối của Ðảng ta đối với những
lao động trí óc nói chung và đối với Việt kiều làm việc trí óc nói riêng”.
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, 11/2007. Đăng lại có sửa chữa trên
tạp chí Tri thức Trẻ, chuyên san báo Tiền phong số 242 năm 2008.