1. Với áp lực của suy thoái kinh tế toàn cầu, việc sử dụng nghiên cứu thị trường
(NCTT) chuyên nghiệp để nắm rõ thị trường, đối thủ và khách hàng đang là
yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Mặc dù nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng tài chính
toàn cầu nhưng những dự báo về mức tăng trưởng của NCTT trong những năm tới
vẫn rất lạc quan. Hầu hết các nhà kinh tế học và chuyên gia trong lĩnh vực này đều
nhận thấy khả năng tăng trưởng bền vững từ 4 - 5% của ngành xuất phát từ những
nhu cầu thực tế của các công ty trên thị trường. Xét riêng ở khu vực châu Á, mức
tăng trường "nóng" vẫn đang tiếp tục được giữ vững hàng năm với tốc độ tăng
trưởng lên đến 8,4% (tương đương 6,2% nếu điều chỉnh theo lạm phát). Doanh thu
toàn cầu của NCTT năm 2007 đạt 28 tỷ USD, tương đương với tỷ lệ tăng trưởng là
6,5% và 3,9% nếu điều chỉnh theo lạm phát.
I, Triển vọng và khuynh hướng
Nhu cầu của khách hàng đang tăng nhanh và ngày càng đa dạng, điều đó đã và
đang thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành NCTT. Hơn bao giờ hết, các khách
đang cần thấu hiểu người tiêu dùng nhiều hơn nữa để ứng dụng hiểu biết đó vào
truyền thông, phát triển sản xuất và cho ra đời ý tưởng sản phẩm mới.
Tiếp cận những phương pháp và lý thuyết NCTT mới với cách thu thập thông tin,
kỹ thuật tổng hợp thông tin mới tạo ra cơ hội giải quyết những vấn đề của NCTT
cũng như tạo ra những rào cản lớn hơn cho những đối thủ đang nhăm nhe tham gia
thị trường. Nhu cầu tiến hành những cuộc khảo sát nhanh và chất lượng thông tin
đang nổi lên là vấn đề chính. Cùng với sự phát triển những phương pháp khảo sát
2. mới của ngành NCTT, việc duy trì chất lượng thông tin cao và chính xác vẫn đang
được đặt lên hàng đầu.
Hiện nay, mức độ bão hòa về NCTT rất khác nhau ở những thị trường khác nhau
trên toàn thế giới. Dù vậy, Việt Nam hiện vẫn đang nằm trong nhóm A với mức
tăng trưởng của NCTT khá ngoạn mục lên đến hơn 10%, một con số khá ấn tượng
so với mức trung bình của thế giới là 6,5% trong năm 2007 và doanh thu của ngành
được dự báo là sẽ đạt khoảng 50 triệu USD vào năm 2012. Điều này cũng cho thấy
tiềm năng của ngành NCTT ở Việt Nam vẫn còn rất rộng mở. Tuy nhiên, ngành
NCTT ở Việt Nam vẫn còn khá non trẻ với tổng mức chi cho NCTT chỉ khoảng 22
triệu USD (2007), được đánh giá là khá thấp so với các nước trong khu vực như:
Hàn Quốc (392 triệu USD), Thái Lan (80 triệu USD) và Malaysia (57 triệu USD).
Nếu xét về tổng chi cho NCTT tính trên đầu người trong năm 2007, Việt Nam chỉ
đạt mức 0.25 USD, Thái Lan là 1,21 USD, Malaysia là 2,13 USD, Singapore là
13,16 USD, cũng thuộc vào hàng thấp trong khu vực và gần như thấp nhất trên quy
mô thế giới. Vì vậy hầu hết các quan điểm nghiên cứu đều thừa nhận rằng các
doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự đầu tư cho hoạt động NCTT một cách bài
bản và chuyên nghiệp, cũng như chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng thiết yếu
của những kết quả NCTT đối với việc hoạch định chiến lược kinh doanh để tồn tại
và phát triển trong thời kỳ cạnh tranh.
3. II, Thay đổi quan niệm NCTT
Là một người làm marketing, tốt nhất là bạn nên cho hội đồng quản trị biết chính
xác một đồng bỏ ra sẽ đem lại cho công ty những gì, lợi nhuận trên vốn đầu tư
(Roi) trong thời đại ngày nay đang trở thành “câu thần chú” của marketing. Yếu tố
hiệu quả có được từ việc đưa ra những quyết định mang tính chiến lược chính xác
có thể làm thay đổi cục diện của "cuộc chiến" về thị phần giữa các công ty. Muốn
như vậy, dù là công ty lớn hay nhỏ việc nắm bắt được thông tin chính xác hiểu rõ
khách hàng, người tiêu dùng, hiểu rõ vị trí mình đang đứng, hiểu rõ điểm yếu,
điểm mạnh của mình cũng như của đối thủ chính là chìa khoá quan trọng để thành
công. Trên thực tế, các tập đoàn lớn đã sử dụng bài toán này rất hiệu quả. Họ
không chỉ lấy thông tin từ một nguồn mà còn kết hợp với kết quả khảo sát từ nhiều
công ty NCTT khác nhau và thậm chí tự xây dựng thêm đội ngũ NCTT để kiểm tra
chéo lại thông tin một lần nữa. Trong khi đó, các công ty nhỏ, vốn rất cần những
thông tin chính xác, đầy đủ để đưa ra quyết định chiến lược thì hầu như lại rất e dè
trong việc chi cho NCTT, dẫn đến kết quả là ngân sách vốn đã hạn hẹp lại được sử
dụng dàn trải và không hiệu quả.
ICP - một công ty nội địa với sản phẩm chủ lực là dầu gội X- Men làm ví dụ điển
hình. Khi thị trường dầu gội đang nằm trong tay của Unilever ( 48% thị phần) và
P&G ( 30% thị phần) thì vào năm 2004, ICP cho ra đời sản phẩm dầu gội đầu X-
Men đánh mạnh vào thị trường dầu gội nam còn bỏ ngỏ. Đến nay X-Men đã chiếm
lĩnh xấp xỉ 7% thị trường dầu gội và chiếm 60% thị phần dầu gội cho nam giới.
4. Một ví dụ khác, một số người làm marketing thường sử dụng khảo sát Brand health
check (kiểm tra sức khoẻ thương hiệu) định kỳ. Từ đó có thể lấy thông tin về mức
độ nhận biết nhãn hiệu, tỷ lệ dùng thử sản phẩm, tiếp tục sử dụng sản phẩm, đã
từng dùng sản phẩm, nhãn hiệu sử dụng chính... Với người làm marketing tinh ý,
chỉ cần đưa ra một vài sách lược kích nhẹ vào điểm yếu của nhãn hiệu là doanh số
đã có thể tăng lên ào ào như: tăng phát sản phẩm thử, tăng quảng cáo để tăng mức
độ nhận biết sản phẩm đối với sản phẩm có chất lượng tốt (tỉ lệ dùng thử và tiếp
tục dùng gần tương đương), tồn tại lâu đời nhưng ít được người tiêu dùng biết đến
(mức độ nhận biết nhãn hiệu thấp). Hay nhận ra điểm yếu nằm ở kênh phân phối
chưa phủ tốt mặc dù chất lượng sản phẩm đảm bảo; hay cần nghiêm túc xem xét lại
chất lượng sản phẩm hoặc thông điệp truyền đến người tiêu dùng bị sai lệch đối
với sản phẩm có tỉ lệ người tiêu dùng tiếp tục dùng sản phẩm sau khi dùng thử
thấp; hay xem lại chiến lược về giá, định vị... Đó là những điều NCTT có thể trả
lời được chỉ thông qua công cụ Brand health check mà nếu không có nó người làm
marketing sẽ trở nên lúng túng, quyết định đưa ra dựa nhiều vào cảm giác và nhận
định chủ quan, đôi lúc có thể gây ra sai lầm chết người và tiêu tốn những đồng tiền
cuối cùng của ngân sách dành cho marketing vào những nhận định sai lầm đó.
5. Sử dụng NCTT ngày nay không còn là của riêng các tập đoàn đa quốc gia hay các
công ty lớn, mà ngay cả các công ty vừa và nhỏ cũng có thể sử dụng tùy thuộc vào
ngân sách của mình. Các công ty NCTT có thể đưa ra nhiều lựa chọn về giá cho
khách hàng tùy thuộc vào lượng thông tin cần thu thập, phương pháp nghiên cứu
và độ tin cậy của kết quả (điều chỉnh số mẫu khảo sát). Qua đó, các công ty nhỏ
với ngân sách hạn hẹp vẫn hoàn toàn có thể sử dụng NCTT bằng cách xoáy sâu tập
trung vào những mục tiêu nghiên cứu cụ thể, chấp nhận một mức tin cậy của số
liệu vừa phải (như 90% thay vì 95%...).
.: Nghề chắt lọc thông tin thị trường
'Chắc không ít người cho rằng công việc của người nghiên cứu thị trường thật khô
khan với những bảng biểu và dãy số câm nín, nhưng với chúng tôi - những người
đã sống và trải nghiệm với nghề - nghiên cứu thị trường đó là một nghệ thuật' -
Richard Burrage - GĐ Điều hành Cty nghiên cứu thị trường Cimigo chia sẻ.
:
Đối với các doanh nghiệp, trước khi quyết định thâm nhập một thị trường, tung ra
một sản phẩm (SP) mới, hoặc thực hiện một chiến dịch quảng bá truyền thông, hay
quyết định điều chỉnh một trong các yếu tố chiêu thị như tăng giảm giá, thay đổi
bao bì SP, tái định vị...họ đều thực hiện NC&KSTT trước khi xây dựng kế hoạch
chi tiết.
Hiện nay, càng ngày càng nhiều công ty nghiên cứu thị trường ra đời và hoạt
động.Vai trò của công tác nghiên cứu thị trường đã và đang được khẳng định.Công
việc này nhanh chóng lọt vào tầm ngắm của nhiều sinh viên.Họ trở thành những
người có đầy đủ tố chất để làm tốt vai trò là nhân viên nghiên cứu thị trường.
Cơ hội việc làm của nghề NC&KSTT sẽ tăng trưởng ở mức cao do tính cạnh tranh
của nền kinh tế ngày càng gay gắt và sự toàn cầu hoá trong kinh doanh và tiêu thụ.
Mức tăng trưởng cơ hội việc làm trong 10 năm tới sẽ là 19.6%, tạo thêm rất nhiều
chỗ làm mới.
6. :
- Thu thập số liệu thống kê về các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu giá cả, doanh thu
và các phương pháp tiếp thị và phân phối, phân tích doanh thu quá khứ để dự đoán
doanh thu tương lai, phân tích doanh số bán hàng trong quá khứ để dự đoán việc
bán hàng trong tương lai.
- Thiết lập các phương pháp và thủ tục thu thập thông tin, tổ chức khảo sát thị
trường bằng điện thoại, thư, internet để ước đoán sở thích của KH. Bằng phỏng vấn
cá nhân, đi đến từng nhà, chủ trì những cuộc thảo luận nhóm trọng tâm, hoặc thiết
lập trạm nghiên cứu trong những khu vực công cộng như trung tâm mua sắm
lớn.Đưa ra các kết luận và đề xuất về chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp dựa
trên các kết quả nghiên cứu thị trường.
Nơi làm việc của nhân viên NC&KSTT là các văn phòng, và cũng thường đi ra
ngoài để tìm hiểu ý kiến KH, phần nhiều là làm việc theo nhóm. Chỗ làm thuận lợi
nhất cho chuyên viên nghiên cứu thị trường, về cả cơ hội thăng tiến lẫn lương
bổng, là các hãng tư vấn kinh doanh và hãng nghiên cứu thị trường.
.
- Phần lớn thời gian của việc nghiên cứu thị trường tiêu tốn vào việc phân tích dữ
liệu một cách tỉ mỉ, chính xác, vì vậy những người làm công việc này phải có khả
năng tập trung cao, chú ý đến chi tiết và tỉ mỉ.
- Sự kiên trì là hết sức cần thiết bởi vì công việc này phải trải qua nhiều giờ nghiên
cứu độc lập và giải quyết vấn đề. Cùng lúc đó còn phải làm việc tốt với những
nhân viên khác. Thông thường, phải giám sát các cuộc phỏng vấn của rất nhiều cá
nhân.
7. - Các kỹ năng về giao tiếp cũng quan trọng bởi vì các nhà nghiên cứu phải có khả
năng trình bày những khám phá của họ một cách rõ ràng chính xác cả bằng miệng
và viết.
- Có tinh thần học hỏi cao vì ngoài những kiến thức kỹ năng cần thiết của chuyên
ngành về kinh doanh, tiếp thị, hành vi KH...còn phải có những kiến thức rộng về
nhiều lĩnh vực khác. Các nhân viên nghiên cứu thị trường triển vọng nên học thêm
những khóa học khác về khoa học xã hội bao gồm kinh tế học, tâm lý học, tiếng
Anh, xã hội học, nhân học. Bởi vì tầm quan trọng của những kỹ năng về lượng đối
với ngành này nên những khóa học về toán học, thống kê học, thiết kế phương thức
lấy mẫu khảo sát và khoa học máy tính là cực kỳ hữu ích.
- Nghiên cứu thị trường là một nghề khó và thách thức hơn cả marketing, bán
hàng, thậm chí cả kế toán. Áp lực phải thành công của KH cũng sẽ là áp lực công
việc của bạn. Đôi khi là áp lực về thời gian, về tính cách, hay động lực kinh doanh
của mỗi KH. Nhưng chính con người và động lực của họ sẽ mê hoặc bạn. Đây là
một nghề đòi hỏi rất khắt khe - vì khi đã ra trận, bạn không có lựa chọn nào khác
ngoài chiến thắng!
4. Cam kết về Dịch vụ nghiên cứu thị trường của Việt Nam khi gia nhập WTO
Việt Nam cam kết mở cửa cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch
vụ nghiên cứu thị trường tại Việt Nam, bao gồm:
Các dịch vụ liên quan tới việc thu thập thông tin về triển vọng, tiềm năng,
hiện trạng của sản phẩm trên thị trường;
Các dịch vụ phân tích thị trường;
Các dịch vụ thu thập thông tin kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được cung cấp dịch
vụ thăm dò ý kiến công chúng về các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị…
Để hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực này, các nhà đầu tư nước ngoài có thể
hiện diện dưới các hình thức sau:
8. Lập văn phòng đại diện;
Lập liên doanh với đối tác Việt Nam (với điều kiện phần vốn góp của phía
nước ngoài không được vượt quá 51% vốn của liên doanh);
Lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (từ ngày 11/1/2009)
Ngoài ra, các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực này không có
hiện diện thương mại tại Việt Nam như nêu ở trên cũng được phép cung cấp các
dịch vụ nghiên cứu thị trường này cho các khách hàng tại Việt Nam thông qua
phương thức cung cấp qua biên giới. Trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam
không hạn chế phương thức cung cấp này.