1. CATHEDRAL SAIGON *
NHÀ THỜ ĐỨC BÀ SAIGON
VÕ HIẾU NGHĨA
Sau bài viết về nhà hàng GIVRAL của tôi, nhiều bạn bè trong ngoài
nước đã khuyến khích mình nên viết lại những kỷ niệm về Saigon, vì
đã là người sinh đẻ ở Saigon, lớn lên và học hành ở Saigon, và có lẽ
cũng sẽ gởi nấm mộ ở Saigon. Saigon không chỉ là những nơi ăn
uống, giải trí, sống lây lất các cuộc đời thường, mà trên đó còn là
TINH THẦN, là nơi hun đúc một tâm hồn Việt Nam.
Do vậy VHN tôi xin sẽ viết lại, nếu không tất cả, thì khu trú ít ra cũng
trong khu vực Tự Do, đường Tự Do (Đồng Khởi), đường Nguyễn Du
với trường Taberd mà tôi yêu quí, nơi tôi đã học và cũng là nơi tôi đã
dạy học, và đường Lê Thánh Tôn với Thư viện Gia Long cũ, nơi tôi đã
ngồi học các bài vở của Trường Đại học Sư Phạm và Đại học Khoa
học Saigon mà tôi mang theo, cũng là nơi tôi đã từng đọc rất nhiều
sách vở, từ Socrate, Platon đến Jean Paul Sartre, từ Bùi Giáng, Lê
Văn Trương đến Khái Hưng, Nhất Linh... với anh thơ ký nhỏ người
hiền hậu cùng chiếc thang cây để leo lên kệ sách trên cao.
*
Trong một dịp đám cưới của người cháu tại Nhà Thờ Đức Bà Saigon, tôi lại
vào ngôi nhà thờ này.
1
2. Cảm giác rưng rưng vì nhớ lại bao câu kinh bài hát nằm lòng từ thuở nhỏ,
như Veni Creator Spiritus , Jesus dulci, Agnus Dei…Đêm đông lạnh lẽo Chúa
sinh ra đời, Cao Cung lên…
Thế nào là Đạo, thế nào là Đời, để trả lời, tôi mượn bài viết của Giáo sư Lý
Chánh Trung trong quyển Tôn Giáo và Dân Tộc (1973) của ông :”
Đối với con người, tôn giáo và dân tộc là hai thực tại vừa thân mật vừa thiêng
liêng, hai thực tại mà con người sẵn sàng chết để bảo vệ.
Trong trần gian nầy, còn gì quí hơn mạng sống. Nhưng trong trần gian nầy, luôn
luôn có một số đông người dám hy sinh mạng sống của mình cho tôn giáo hoặc
cho dân tộc. Bởi vì đối với con người, vấn đề không phải chỉ là được sống, mà
còn là được sống như con người. Mà chúng ta đã sống như con người phần lớn
là nhờ dân tộc và tôn giáo. Mất đi một trong hai thực tại nầy, cuộc đời sẽ trở
thành vô nghĩa, không còn đáng sống nữa.”.
Tôi may mắn gặp ông ngay bên trong Nhà thờ này, Ông đang dự lễ “Rửa
tội”, làm cha đở đầu cho một người mới vào Đạo Thiên Chúa giáo.
Tôi với ông đã có rất nhiều cơ duyên gặp gở. Lúc học Đại học Sư Phạm
Saigon, ở năm học cuối 1964-1965, tôi được bầu vào trong Ban Đại diện Sinh
viên Đại học Sư Phạm Saigon. Tôi bèn tổ chức một
Trường để có nơi thực tập giảng dạy cho anh em giáo
sinh ĐHSP. Tôi bèn xin phép Khoa Trưởng của chúng
tôi lúc bấy giờ là Giáo sư Trần Văn Tấn, rồi chuyển lên
Bộ Giáo dục thì tôi gặp GS Lý Chánh Trung lúc đó
đang làm Đổng lý Văn phòng Bộ Giáo dục. Ông ký
giấy cho phép cái rụp. Thế là chúng tôi đã mở ra được
Trung Tâm Giáo khoa Pétrus Ký, và làm gíám đốc điều
khiển tạm thời ngay tại Trường Trung học Pétrus Ký
lúc bấy giờ (nay là Trường Lê Hồng Phong). Trung tâm
có trên 1500 học viên miễn phí với 25 lớp học, và học
vào ban đêm. Đây là niên học duy nhất của Trường Đại
học Sư Phạm Saigon có tổ chức dạy thực tập.
Sau đó còn nhiều lần gặp gỡ ở Bộ Giáo dục VNCH, Văn phòng Đại biểu
Quốc hội CHXHCNVN ở đường Thống nhất, trong các lần phát hành sách Tin
học của tôi tại Văn phòng LIÊN HIỆP HỘI KHOA HỌC KỸ THUẬT THÀNH
PHỐ, trong đó có Hội TIN HỌC, ở đường Nguyễn Thông. Các lần gặp gỡ đều
đem lại ấn tượng tốt đẹp đối với ông.
2
3. Quỳ gối trong Nhà thờ, tôi không thể nào quên được cái người dám cả gan
nhắc đến đạo Công giáo, các bà phước Công giáo trong thời kỳ Tôn giáo này bị
đè ép xuống tận cùng dưới đáy xã hội, đến nổi Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim
Điền gọi là các công dân hạng hai. Người mà tôi muốn nói đến là đạo diển Trần
Văn Thủy với cuốn phim NGƯỜI TỬ TẾ.
Tôi giật bắn người khi chợt thấy trong phim kể đến chuyện người Công giáo,
nhưng không phải để dè bỉu chê bai, mà là để ca tụng các bà sơ (bà phước) không
ngại bệnh tật lây lan, cùi hủi, cứ lo chăm sóc các người bệnh cùi, trong các trại
phong. Phải nói anh Thủy cũng là một người tử tế. Tôi rất kính trọng anh.
Tôi lại không thể nào quên đấng chủ chiên khôn ngoan và đạo đức, Đức
Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình.
Bà mẹ kế của ông, được gọi là bà Biện Trượng, vì cha của Đức Cha Bình tên là
Trượng, trước làm ông Biện nhà thờ, một chức vụ phụ giúp cha chánh xứ trong
các lễ lạc ở nhà thờ. Bà Biện Trượng, sau khi ông Biện mất, đã dọn về sống gần
nhà chúng tôi ở đường Mayer (sau đổi lại là Hiền Vương và hiện nay là Võ Thị
Sáu), nhà Bà ở cùng dãy phố và cách nhà chúng tôi 3 căn nhà. Bà thường khám
bệnh và bốc thuốc viên, thuốc tễ theo y học dân tộc. Mỗi năm, cứ Tết đến, Đức
Cha Bình đều đến thăm viếng Bà. Sau đó, ông sang qua nhà chúng tôi và ban
phước lành cho cả nhà. Ông kêu Ba tôi là anh Ba Viên, thăm hỏi anh Ba vẫn còn
làm công việc Tông đồ trong hội Bác ái thánh Vinh-xăn đệ Phao lồ- Vincent De
Paul nữa không. Ba tôi vẫn thường ôm hộp xin tiền “Donnez aux pauvres”, đứng
trước cổng nhà thờ Tân định, để xin tiền cho người nghèo vào tất cả các buổi lễ
sáng chúa nhật. Ba tôi vẫn tiếp tục làm việc bác ái cho tới khi ông về với Chúa.
Ông thăm hỏi tôi học đến đâu, và nhất là thăm hỏi anh tôi là Võ Hữu Hạnh, sĩ
3
4. quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa (sau là Đại tá Tỉnh Trưởng Hậu nghĩa, rồi Tư
lệnh Biệt Khu 44 thuộc Quân khu 4), dĩ nhiên lúc đó anh Hạnh vắng mặt.
Đức Cha Bình rất khôn khéo, điều hành Giáo phận thành phố một cách cực
kỳ thông minh và hiểu biết đối với cả hai bên : phần đạo và phần đời. Theo chính
sách của nhà nước Cộng sản, đáng lẽ Giáo phận phải bị mất hết các cơ sở Đạo và
vừa Đạo vừa đời, như trường Taberd, Trường Lê Thị Hồng Gấm (tức trường
Regina Mundi cũ), trường Hai Bà Trưng v.v… Nhưng ông đã thương thuyết tốt
đẹp để có lại được một nửa, các phần thuộc về tôn giáo. Nếu quí bạn là một người
Saigon và sống trong thời buổi đó, mới thấy được đạo đức, sự khôn ngoan và
cách sống thánh thiện của Ngài.
Và Nhà thờ chánh tòa hay Vương Cung Thánh đường vẫn sừng sững trước
các cơn bão táp, vững vàng cùng với Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình.
Một hiện tượng đặc biệt xảy ra phải được kể đến là sự kiện tượng Đức Mẹ
Maria phía trước Nhà thờ Đức Bà khóc. Trưa hôm đó, ngày 30/10/2005 đã được
ghi trên ảnh chụp, do chính đích thân tôi tới và chụp được khá nhiều ảnh, sau đó
cùng với đồng bào công giáo, chúng tôi đọc kinh ĐỨC MẸ : Kính mừng Maria,
đầy ơn phước….
4
5. Cũng như mọi Tôn giáo khác ở Việt Nam, chúng đều không tự xuất phát từ
trong nước. Đạo Phật, Khổng, Lão, từ Trung hoa đưa vào, không thể nói là Trung
hoa không có ý đồ. Đạo Thiên Chúa giáo do Pháp đưa vào, tất nhiên cũng không
5
6. thể nói là không có ý đồ. Tuy nhiên một khi người dân Việt thờ đạo Phật, đạo
Thiên Chúa, thì không thể nói đó là đạo của Trung hoa, Tây Tạng, Ấn độ hay của
Pháp, Do Thái.
Cùng với mọi thăng trầm của đất nước, người theo đạo Công giáo, cũng đã
từng bị bắt bớ, xử tử, cấm đạo, nhưng lòng tin của họ vượt qua tất cả để tồn tại tới
ngày nay.
Để kết luận, chúng tôi xin góp một vài ý thơ sau :
TẠI SAO MẸ KHÓC
Con Người gồm vật chất lẫn tinh thần
không thể sống nếu mất đi một phần
Người không có tinh thần, tựa súc vật
không vật chất hồn lấy gì khởi tân.
Trong trần gian, còn gì hơn cuộc sống.
Nhưng nơi đây, vẫn có một số người
dám hy sinh tính mạng cho tôn giáo
cho dân tộc quê hương cho cuộc đời.
Phải nhận định, bất cứ đâu cũng có
Những người tốt, sống giữa những người không
Và phần lớn bao gồm cả tốt xấu
Nổi bật lên, “người tử tế” có lòng.
Mẹ gởi đấng chăn chiên đến chúng con
Giúp con Mẹ qua khỏi chuỗi sống còn
Vượt qua phút gian nguy cơn sóng gió
Đưa thuyền con sớm tới chốn an toàn.
6
7. Mẹ thương người Mẹ khóc cho mọi người
Mẹ khóc vì đạo đức đã suy đồi
Con người lại xa dần tính bản thiện
Xa Đạo Trời cái ác lộng hành thôi.
Kính mừng Maria, đầy Ơn Phước…
Ave Maria, gratia plena.
VÕ HIẾU NGHĨA
16/06/2013 - 11/8/2013
Xem thêm :
http://vohieunghia.com
http://vhnghia40.blogspot.com/
http://www.daihocsuphamsaigon.org/
http://www.ptgdtdusa.com/vanhoc.html
7