SlideShare a Scribd company logo
1 of 106
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN CAO TRÍ
PHÁ P LUẬT VỀ QUẢ N LÝ BÁ N ĐẤ U GIÁ
TÀ I SẢ N TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾ N PHÁ P VÀ LUẬT HÀ NH CHÍNH
ĐĂK LĂK - NĂM 2016
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN CAO TRÍ
PHÁ P LUẬT VỀ QUẢ N LÝ BÁ N ĐẤ U GIÁ
TÀ I SẢ N TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾ N PHÁ P VÀ LUẬT HÀ NH CHÍNH
Chuyên ngành: Luâ ̣t Hiến pháp và Luâ ̣t Hành chính
Mã số : 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦ N THI ̣CÚ C
ĐĂK LĂK - NĂM 2016
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................4
2. Tình hình nghiên cứu..........................................................................................5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..........................................................................8
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................8
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn..............................................9
7. Kết cấu của luận văn.........................................................................................10
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢ N LÝ BÁN ĐẤU GIÁ TÀ I
SẢ N...........................................................................................................................11
1.1. Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản ..............................................................11
1.2. Pháp luật về bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tại Việt Nam ....................26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁ P LUẬT VÀ TỔ CHỨ C THỰC HIỆN PHÁ P
LUẬT QUẢ N LÝ BÁ N ĐẤ U GIÁ TÀ I SẢ N Ở TỈNH GIA LAI...........................48
2.1. Khái quát chung về tỉnh Gia Lai và hoạt động bán đấu giá tài......................48
2.2. Thực tra ̣ng pháp luâ ̣t bán đấu giá tài sản và quản lý bán đấu giá ..................49
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚ NG, GIẢ I PHÁ P HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ BÁN ĐẤU GIÁ......................................................................................88
3.1. Phương hướng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá ........................88
3.2. Giải pháp hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá ................................90
3. 3. Kiến nghị hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá ...............................98
KẾT LUẬN.............................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................103
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, hàng hóa trở nên đa dạng và phong
phú, phần lớn sản phẩm của lao động là hàng hóa, là tài sản. Tài sản vừa có giá trị
sử dụng vừa có giá trị kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường nó trở thành yếu tố
quan trọng trong giao lưu dân sự. Hoạt động mua bán và tiêu thụ hàng hóa nói
chung và bán đấu giá tài sản nói riêng cũng trở nên đa dạng và sôi động. Nhiều hình
thức bán đấu giá tài sản ra đời và phát triển. Đấu giá tài sản với tư cách là hoạt động
di ̣ch vụ đặc thù ra đời, đã giải quyết được nhu cầu lợi ích kinh tế từ các bên tham
gia. Thông qua đấu giá tài sản, các bên tham gia đều thể hiện, hướng đến lợi nhuận
mong muốn đạt được kết quả giá bán tài sản cao nhất.
Đấu giá tài sản là một hoa ̣t động di ̣ch vụ trong nền kinh tế thị trường hiện
nay. Đấu giá tài sản có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc đa
dạng hóa các hình thức trao đổi, mua bán lưu thông hàng hóa. Mặt khác, thông qua
bán đấu giá tài sản, hoạt động mua bán nói chung và bán đấu giá tài sản nói riêng
được công khai, minh bạch hơn.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động bán đấu giá như trên, các
quốc gia đều ban hành các đạo luật điều chỉnh hoạt động này phù hợp. Ở Việt Nam,
các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản được ban hành ở mức độ sơ khởi từ
những năm đầu của thế kỷ XX. Hoạt động bán đấu giá tài sản chỉ được pháp luật
quy định điều chỉnh sau khi nước ta đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa từ sau Đa ̣i hội VI
(năm 1986).
Bên cạnh viê ̣c xây dựng và ban hành các bộ luâ ̣t, luâ ̣t và các văn bản quy
pha ̣m pháp luâ ̣t phù hợp với nền kinh tế thi ̣trường đi ̣nh hướng xã hội chủ nghĩa thì
các quy định về bán đấu giá tài sản cũng được ban hành và nhiều lần sửa đổi, bổ
sung tại các văn bản pháp luật như: Bộ Luật Dân sự năm 2005 thay thế Bộ luật Dân
sự năm 1995, Luật Thương mại năm 2005 thay thế Luật Thương mại năm 1997,
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
5
2004, Luâ ̣t Xử lý vi pha ̣m hành chính năm 2012 thay thế Pháp lê ̣nh Xử lý vi pha ̣m
hành chính năm 2008, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày
18/01/2005 về đấu giá tài sản; các Thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết các quy
định pháp luật về đấu giá tài sản.
Sau thời gian áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động bán đấu giá, các văn
bản quy phạm này đã xuất hiện một số điểm mâu thuẫn, chồng chéo, chưa thống
nhất, đặc biệt là các quy định trực tiếp đến hoạt động bán đấu giá tài sản. Quy định
pháp luật về đấu giá tài sản đang bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với thực
tế nền kinh tế thi ̣trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, chưa thực sự tạo ra
hành lang pháp lý cần thiết thúc đẩy hoạt động bán đấu giá tài sản phát triển. Các
quy định pháp luật này đang rất cần sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện. Việc tiếp tục
nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về bán đấu giá tài
sản, sự thể hiện chúng trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đánh
giá việc áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tiễn để đưa ra đề xuất,
kiến nghi ̣trong quá trình lập pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm pháp
luâ ̣t về lĩnh vực này trong giai đoạn hiện nay, không những có ý nghĩa lý luận - thực
tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luâ ̣t về quản lý
bán đấu giá tài sản từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học,
chuyên ngành Luâ ̣t Hiến pháp và Luâ ̣t Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều Hội nghi ̣, Hội thảo, phát
hành tài liệu về pháp luật bán đấu giá tài sản. Học viện Tư pháp (Bộ Tư pháp) đã
biên soạn Tập bài giảng về pháp luật đấu giá. Nhiều học giả thực hiện đề tài có nội
dung về bán đấu giá ở dạng công trình Luận văn. Nhiều nhà nghiên cứu viết bài ở
góc độ đăng bài tạp chí hoặc trao đổi trên các diễn đàn khoa học pháp lý. Nhiều học
viên Cao học đã thực hiện đề tài có nội dung tương tự hoặc có liên quan để làm đề
6
tài Luận văn thạc sĩ. Tác giả xin liệt kê một số công trình đã nghiên cứu, tham khảo
có nội dung liên quan đến đề tài này như:
Bộ Tư pháp (2010), Đặc san tuyên truyền pháp luật. Chủ đề đấu giá tài sản
và pháp luật về đấu giá tài sản.
Bộ Tư pháp (2010), Tài liệu Hội nghị tập huấn triển khai thi hành Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản.
Học viện Tư pháp (2011), Tập bài giảng pháp luật đấu giá.
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công “Quản lý nhà nước về đấu giá quyền sử
dụng đất ở trên địa bàn huyện Bố trạch, tỉnh Quảng Bình” (2014) của tác giả Trần
Lích - Học viện Hành chính Quốc gia.
Luận văn Thạc sĩ Hành chính công “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu
giá tài sản” (2006) của tác giả Phạm Văn Sỹ - Học viện Hành chính Quốc gia.
Tài liê ̣u Hội Nghi ̣ trực tuyến sơ kết 04 năm thi hành Nghị định số
17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
Tài liê ̣u tâ ̣p huấn về kỹ năng quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản của Bộ
Tư pháp tháng 10/2015.
Bài “Một số vấn đề về xử phạt vi phạm hà nh chính trong lĩnh vực bá n đấu
giá tà i sản” (2014), của tác giả Đoàn Văn Hường đăng trên Tạp chí Dân chủ và
pháp luật số tháng 9 năm 2014.
Bài “Cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đối vớ i ngườ i thứ ba ngay tình trong mua
tà i sản bá n đấu giá ” (2014) của tác giả Võ Hải Phương đăng trên Tạp chí Dân chủ
và pháp luật số tháng 12/2014.
Bài “Nâng cao hiệu quả bá n đấu giá tà i sản trong thi hà nh á n dân sự"
(2015) của tác giả Bùi Thi ̣Thu Hiền đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
chuyên đề tháng 7 năm 2015.
Tác giả thấy rằng, ở mỗi công trình, tác phẩm nêu trên đều có cách tiếp cận,
với phạm vi nghiên cứu chung hay riêng khác nhau. Các tác giả đã tập trung nghiên
cứu, có đề xuất, kiến nghị trong lĩnh vực đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật
7
dân sự. Nhìn chung các công trình trên đã đóng góp cho công tác nghiên cứu lý
luận, có những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản, với
mong muốn làm cho các quy định pháp luật phát huy tính khả thi trong thực tiễn
hơn nữa, một số kiến nghị đã được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá
tài sản. Các tác giả nghiên cứu pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản là rất ít, nếu
có cũng chỉ dừng lại ở việc nêu và phân tích các quy định của pháp luật về đấu giá
tài sản trên phương diện lý luận. Tổng hợp một số kiến nghị cụ thể, đáng chú ý ở
các công trình trên gồm: tăng cường tính xã hội hóa của hoạt động bán đấu giá tài
sản, tạo môi trường bình đẳng tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán đấu giá
tài sản với các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; đề xuất ban hành Luật về bán
đấu giá tài sản trên cơ sở những quy định về đấu giá tài sản; quy định cụ thể về tiêu
chuẩn, trình độ của người điều hành đấu giá; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến sâu rộng đến đông đảo tầng lớp nhân dân pháp luật về đấu giá tài sản; bổ sung
quy định về từ chối mua tài sản trúng đấu giá và quyền ưu tiên thuộc về người trả
giá liền kề. Ngoài ra, còn nhiều kiến nghị mang tính định hướng chung, góp phần
hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu và có
kiến nghị cụ thể, nhằm góp phần hoàn thiện pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản
- với tư cách là một hoạt động di ̣ch vụ đặc thù chịu sự điều chỉnh của pháp luâ ̣t về
bán đấu giá tài sản. Vì vậy, tác giả chọn đề tài“Phá p luật về quản lý bá n đấu giá tà i
sản từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm luận văn tha ̣c sĩ chuyên ngành Luâ ̣t hiến pháp và
Luâ ̣t hành chính là không trùng lắp với bất kỳ công trình nào trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích các hạn chế, bất cập thực hiện pháp luật trong hoạt động bán đấu
giá, bất cập trong quản lý về bán đấu giá, tìm nguyên nhân của các hạn chế, bất cập
qua thực tiễn tại tỉnh Gia Lai.
- Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bán đấu
giá và quản lý bán đấu giá tài sản.
8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Trình bày và làm sáng rõ những cơ sở lý luận về bán đấu giá; pháp luật về
quản lý bán đấu giá tài sản.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý bán đấu giá tài sản trên
địa bàn tỉnh Gia Lai.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá; đề xuất
biện pháp quản lý bán đấu giá tài sản trên đi ̣a bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về hoạt động
bán đấu giá tài sản bao gồm các văn bản sau: Các quy định về đấu giá tài sản trong
Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại 2005, Luật Thi hành án dân sự năm
2008, Luâ ̣t Xử lý vi pha ̣m hành chính năm 2012, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản…, các văn bản quy
định về đấu giá hàng hóa đặc thù như đấu giá hàng dự trữ quốc gia, đấu giá hàng
hóa lưu giữ bằng đường biển . . .
Thực tiễn hoạt động bán đấu giá tài sản theo quy định pháp luật tại các tổ
chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p tại tỉnh Gia Lai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luâ ̣t về quản lý
bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến 31.12.2015
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử.
9
Cơ sở lý luận của nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản
lý bán đấu giá tài sản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây:
Phương pháp phân tích: Tác giả phân tích những quy định tại Bộ Luật Dân
sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luâ ̣t
Xử lý vi pha ̣m hành chính 2012, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3
năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và ở các văn bản pháp luật khác có
quy định về bán đấu giá tài sản...
Phương pháp so sánh: Qua phân tích các quy định của pháp luật về bán đấu
giá tài sản, đưa ra so sánh, đối chiếu ở các văn bản khác nhau để tìm ra những bất
cập, mâu thuẫn, chồng chéo khi quy định về cùng một vấn đề bán đấu giá để có kiến
nghị, đề xuất phù hợp.
Phương pháp khảo sát thực tiễn: Không chỉ nghiên cứu vấn đề ở lý luận, tác
giả còn đến các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp để khảo sát thực tiễn, thu thập số
liệu, tổng hợp các vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng pháp luật về bán đấu
giá tài sản theo quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t.
Phương pháp thống kê, tổng hợp: Khi đã tiến hành bằng nhiều phương pháp
khác nhau, tác giả thống kê, tổng hợp lại cả quá trình nghiên cứu và quá trình thực
tiễn áp dụng pháp luật để đưa ra kết luận chung, có cách nhìn nhận đánh giá vấn đề
một cách toàn diện, khách quan giữa quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài
sản, Luận văn đã phân tích cơ sở lý thuyết để hình thành các quy định pháp luật trực
tiếp điều chỉnh các hoạt động đấu giá tài sản, đặc điểm, bản chất của bán đấu giá
trên thế giới và tại Việt Nam. Đề tài góp phần hệ thống hóa các quy đi ̣nh của pháp
10
luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Phân tích, đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý bán đấu
giá tài sản ở tỉnh Gia Lai qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
bán đấu giá tài sản theo quy định pháp luật ở tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người
hoạt động trong lĩnh vực bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tài sản .
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về quản lý bán đấu giá.
- Chương 2: Thực tra ̣ng pháp luật và tổ chứ c thực hiê ̣n pháp luâ ̣t quản lý bán
đấu giá tài sản ở tỉnh Gia Lai.
- Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý bán
đấu giá.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢ N LÝ
BÁN ĐẤU GIÁ TÀ I SẢ N
1. 1. Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và hình thứ c bán đấu giá tài sản
1.1.1.1. Khái niệm
- Đấu giá: Ở góc độ khái quát nhất, đấu giá là một hình thức mua bán hàng
hóa công khai mà người trả giá cao nhất là người trúng đấu giá.
Theo từ điển kinh tế học hiện đại: “Đấu giá (auctions) là một kiểu thị trường
trong đó người mua tiềm tàng đặt giá cho hàng hóa chứ không phải đơn thuần trả
giá theo giá công bố của người bán”[16, tr.62].
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Bán đấu giá là bán theo phương thức để cho
những người mua công khai trả giá, ai trả giá cao nhất thì bán:”[1, tr.95], hoặc
“Bán đấu giá là bán bằng hình thức để cho những người mua lần lượt trả giá, ai trả
giá cao nhất thì được mua”[47, tr.46].
Theo Từ điển Luật học: “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một
tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người
trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài
sản”[46, tr.240].
Ở góc độ pháp lý, định nghĩa về bán đấu giá được quy định trong các điều
luật cụ thể của pháp luật mỗi quốc gia: Điều 3 Luật Bán đấu giá tài sản nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy định “Bán đấu giá là hình thức bán và mua
tài sản công khai, theo đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá
cao nhất”[49].
Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam quy định “Tài sản có thể được đem bán
đấu giá theo ý muốn của chủ sở hữu hoặc pháp luật có quy định”[25, tr.156].
Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản quy định “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai
12
theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên
tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này”[11, tr.2].
“Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó, người bán hàng tự
mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để
chọn người mua trả giá cao nhất”[28, tr.48].
Ở Việt Nam, pháp luâ ̣t quy định về hoạt động bán đấu giá ở nhiều văn bản
pháp luật khác nhau tùy thuộc vào đối tượng của hoạt động này. Tuy vậy, về bản
chất, bán đấu giá là hình thức mua bán công khai, có nhiều người cùng tham gia trả
giá, theo trình tự thủ tục nhất định, đối tượng đưa ra đấu giá được bán cho người
chấp nhận mua ở mức giá cao nhất.
- Tài sản (asset) theo định nghĩa của Từ điển kinh tế, tài chính ngân hàng
của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Lê Văn Tề (NXB Thanh niên-1999) là một vật thuộc
quyền sở hữu cá nhân biểu hiện dưới hình thức giá trị hoặc theo David W.Pearce
thì: “Tài sản là một thực thể có giá trị thị trường hoặc giá trị trao đổi và là bộ phận
cấu thành của cải hay tài sản của chủ sở hữu”. Theo quy định của Bộ Luật dân sự
Việt Nam thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Pháp luật Việt
Nam chia tài sản thành hai loại bất động sản và động sàn. “Bất động sản bao gồm
đất đai, nhà, các tài sản khác gắn liền với đất đai và những loại tài sản theo quy định
của pháp luật. Động sản không phải là bất động sản”[25, tr.66-67]. Nghị định
17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản
cũng xác định các loại tài sản bán đấu giá chỉ bao gồm:
Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà
nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao dịch bảo đảm quy định
phải xử lý bằng bán đấu giá;
Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của pháp luật
về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp
Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được bán đấu giá theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
13
Các tài sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
- Bán đấ u giá tài sản: Theo quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua
bán hàng, tài sản công khai mà những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi
trả giá cao nhất và người bán đấu giá đồng ý bán bằng cách gõ búa. Dưới góc độ
pháp lý, theo quy định của pháp luật của hầu hết các nước, định nghĩa về bán đấu
giá tài sản thường được quy định trong những điều luật cụ thể. Chẳng hạn Điều 3
Luật về bán đấu giá tài sản nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa năm 1996
quy định “Bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản công khai, theo đó các tài
sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất”[49, tr.38-39]. Đạo luật
của Floriada năm 2003 đưa ra khái niệm “Bán đấu giá tuyệt đối” là cuộc bán đấu
giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà hàng hoá sẽ được bán cho người trả
giá cao nhất. Còn Quy chế của Ủy ban đấu giá bang Alabama (Hoa kỳ) đưa ra khái
niệm: “Bán đấu giá là việc bán công khai một tài sản cho người trả giá cao nhất”. Ở
Viê ̣t Nam, ta ̣i Khoản 1, Điều 2, Nghi ̣đi ̣nh 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm
2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định: “Bán đấu giá tài sản là hình
thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên
tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định
này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao cho đến khi có
người trả giá cao nhất”[11, tr.2].
1.1.1.2. Đặc điểm
Bán đấu giá tài sản là một hình thức bán tài sản công khai nhằm bán được tài
sản với giá cao nhất. Theo quy định của pháp luật thì việc chia các loại hình đấu giá
được xem xét trong từng lĩnh vực cụ thể: Chẳng hạn trong lĩnh vực thương mại,
đấu giá là một trong những hoạt động thương mại cụ thể, do thương nhân tiến hành
bằng hành vi thương mại của mình, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê
người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người
mua trả giá cao nhất. Trong lĩnh vực dân sự thì bản chất đấu giá là các giao dịch
mua bán tài sản thông qua trung gian, theo trình tự thủ tục luật định. Còn trong các
hình thức đấu giá cho các đối tượng cụ thể khác như đấu giá quyền sử dụng đất,
14
đấu giá hàng hóa dự trữ quốc gia, đấu giá quyền khai thác khoáng sản, . . . thì đấu
giá nhằm lựa chọn người mua hàng hóa, dịch vụ trả giá cao nhất và khả thi nhất.
Đấu giá là một hành vi pháp lý, có thể là một hành vi dân sự hoặc một hoạt
động thương mại độc lập của thương nhân. Đối tượng của bán đấu giá là tài sản
hoặc hàng hóa thương mại được phép lưu thông, quan hệ đấu giá được xác lập dưới
những hình thức nhất định. Là một trong các hình thức mua bán, bán đấu giá mang
những đặc điểm chung của hoạt động mua bán. Tuy nhiên, đấu giá cũng có những
đặc điểm riêng khác biệt so với các hoạt động mua bán thông thường khác, cụ thể:
Thứ nhất, đấu giá là hình thức mua bán công khai nhất. Đặc điểm nổi bật
này của đấu giá cũng là một trong những nguyên tắc của hoạt động mua bán thông
qua đấu giá. Tại Điều 188 Luật Thương mại năm 2005 quy định “Việc đấu giá
hàng hoá trong thương mại phải được thực hiện theo nguyên tắc công khai, trung
thực, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia”[28, tr.48]. Khoản 1
Điều 3 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản cũng quy định đặc điểm công khai của hoạt động mua bán tài
sản bằng việc quy định nguyên tắc sau: “Việc bán đấu giá tài sản được thực hiện
theo nguyên tắc công khai, liên tục, khách quan, trung thực, bình đẳng, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia”[11, tr.2].
Như vậy, tính công khai của hình thức bán đấu giá được quy định trong Luật
Thương mại năm 2005, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm
2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và các văn bản quy định đấu giá các đối
tượng cụ thể khác, thể hiện ở việc công khai các thông tin liên quan đến tài sản,
người đăng ký tham gia đấu giá có thể trực tiếp xem tài sản đưa ra đấu giá; công
khai thông báo và niêm yết thông báo bán đấu giá tài sản với đầy đủ các thông tin
cần công khai như về thời gian, địa điểm đấu giá; tên, địa chỉ của người tổ chức đấu
giá; tên, địa chỉ của người có tài sản; danh mục tài sản, số lượng, chất lượng tài sản;
giá khởi điểm; thông tin cần thiết liên quan đến tài sản; địa điểm, thời gian trưng
bày tài sản; địa điểm, thời gian tham khảo hồ sơ về tài sản; địa điểm, thời gian đăng
ký mua tài sản.
15
Tại cuộc đấu giá, mọi hoạt động cũng phải công khai như về giá khởi điểm,
về người mua trúng đấu giá, . . . Về yêu cầu công khai tại cuộc bán đấu giá, Điều
201 Luật Thương mại năm 2005 quy định cụ thể như sau: Đối với phương thức trả
giá lên, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác giá đã trả
sau cùng cao hơn giá người trước đã trả ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất
ba mươi giây. Người điều hành đấu giá chỉ được công bố người mua tài sản bán
đấu giá, nếu sau ba lần nhắc lại giá người đó đã trả mà không có người nào trả giá
cao hơn. Đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải nhắc lại
một cách rõ ràng, chính xác từng mức giá được hạ xuống thấp hơn giá khởi điểm ít
nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá
phải công bố ngay người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá hạ
thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua tài sản đấu giá.
Đối với hình thức mua bán thông thường thì yêu cầu về tính công khai là
không bắt buộc, chỉ khi nào người bán cần nhiều người trả giá hoặc chủ ý công
khai bán tài sản thì việc mua bán được công khai rộng rãi. Nhiều trường hợp, một
trong các bên hoặc cả người bán và người mua không muốn công khai thì việc mua
bán cũng được giữ bí mật, việc không công khai này cũng không vi phạm pháp luật
mà vẫn có hiệu lực đối với các bên. Trong hình thức đấu thầu thì yêu cầu công khai
là không tuyệt đối với tất cả các trình tự thủ tục và các giai đoạn, nhưng giá cả
trong đấu thầu lại luôn là yết tố bí mật. Khác với các hình thức mua bán trên, đặc
tính cơ bản của đấu giá là công khai toàn bộ trình tự, thủ tục, các thông tin liên
quan đến cuộc đấu giá.
Thứ hai, đấu giá là hình thức mua bán thông qua trung gian. Đây không
phải là đặc tính tuyệt đối của bán đấu giá, nhưng việc bán đấu giá thường được
thực hiện thông qua một bên trung gian.
Tính trung gian trong hoạt động bán đấu giá được hình thành từ rất lâu đời.
Có thể nói đặc tính này gắn với sự ra đời của hoạt động bán đấu giá. Từ thế kỷ
XVIII, tại Anh đã có hai nhà đấu giá chuyên nghiệp ra đời và duy trì hoạt động cho
tới ngày nay là Sotherby năm 1744 và Christie năm 1766. Tại Pháp từ thế kỷ XV
16
hoạt động đấu giá đã phát triển thông qua các tổ chức chuyên đóng vai trò làm
trung gian tổ chức các cuộc bán đấu giá. Tại Trung Quốc, doanh nghiệp bán đấu giá
chuyên nghiệp China Guardian Auction mới thành lập năm 1993 nhưng đã thể hiện
được vị thế với vai trò làm trung gian trong hoạt động đấu giá, đủ sức cạnh tranh
với các tổ chức đấu giá có lịch sử vài trăm năm như ở các nước đã phát triển. Các
tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đấu giá đều thực hiện vai trò chính là làm trung
gian cho các giao dịch mua bán thông qua đấu giá.
Tại Việt Nam, theo pháp luật hiện hành thì vai trò trung gian này được xác
định thông qua các tổ chức thực hiện việc bán đấu giá có tên gọi là Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc các doanh
nghiệp có chức năng thực hiện nghiệp vụ bán đấu giá hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp. Ở các tổ chức bán đấu giá này phải có đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu
giá. Các tổ chức trung gian này thường được thành lập, tồn tại dưới các hình thức
sau:
+ Các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
thành lập theo quy định của Chính phủ.
+ Doanh nghiệp chuyên thực hiện chức năng kinh doanh dịch vụ bán đấu giá
tài sản. Đây là tổ chức được thành lập với chức năng duy nhất đó là kinh doanh
dịch vụ đấu giá, mà không có chức năng kinh doanh nào khác. Có nghĩa là doanh
nghiệp chuyên thực hiện hoạt động đấu giá trên cơ sở ký kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ bán đấu giá với các tổ chức, cá nhân có tài sản muốn bán thông qua hình
thức bán đấu giá. Để tổ chức bán đấu giá, doanh nghiệp này ký hợp đồng nhận ủy
quyền bán đấu giá tài sản, tài sản từ các tổ chức cá nhân có nhu cầu.
+ Một bộ phận của doanh nghiệp, tập đoàn có chức năng bán đấu giá tài sản,
hàng hóa của doanh nghiệp, tập đoàn mình làm ra hoặc nhận được ủy quyền từ các
cá nhân, tổ chức khác.
+ Hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt: Pháp luật Việt
Nam có quy định ngoài các Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp các Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá và các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh dịch vụ bán đấu giá.
17
Trong trường hợp cần thiết, hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt
cũng được thành lập để bán đấu giá tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất
có giá trị lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá. Vì là hội đồng đặc biệt để bán đấu giá
nên thành phần của hội đồng bán đấu giá tài sản cũng rất đặc biệt, bao gồm đại diện
của cơ quan có thẩm quyền quyết định bán đấu giá tài sản, cơ quan tài chính, cơ
quan tư pháp cùng cấp và đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thứ ba, trong hoạt động đấu giá, giá bán thành công chính thức do bên
mua xác định. Trong hình thức bán đấu giá, bên có tài sản muốn bán xác định giá
khởi điểm. Bên mua chấp nhận trả giá cao nhất so với giá khởi điểm theo phương
thức trả giá lên hoặc là người đầu tiên chấp nhận giá theo phương thức đặt giá
xuống là người mua trúng đấu giá. Đối tượng đưa ra bán đấu giá sẽ được bán theo
giá cao nhất do người mua xác định.
Gián tiếp nêu lên đặc điểm này của đấu giá, Điều 185 Luật Thương mại năm
2005 quy định đối với phương thức trả giá lên thì người trả giá cao nhất so với giá
khởi điểm là người có quyền mua tài sản, còn đối với phương thức đặt giá xuống
thì người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ là
người có quyền mua tài sản.
Khoản 3 Điều 2 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định: “Người mua được tài sản bán đấu giá là
người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm; trong trường hợp không có người trả
giá cao hơn giá khởi điểm thì tài sản được bán bằng giá khởi điểm””[11, tr.2].
Đây cũng là một đặc điểm khác biệt hoàn toàn với hình thức mua bán thông
thường hoặc với cả hình thức đấu thầu. Trong hình thức mua bán thông thường,
bên bán và bên mua có thể thỏa thuận về giá cả thông qua trao đổi trực tiếp, cả hai
bên đều có quyền thay đổi mức giá trong quá trình thương lượng, đến khi hai bên
thống nhất mức giá cuối cùng thì việc mua bán hoàn thành. Trong hình thức đấu
thầu thì ngược lại hoàn toàn, bên mua lại không phải là người quyết định về giá
18
trúng thầu, giá trúng thầu sẽ do nhà cung cấp là người bán xác định, khi người bán
đưa ra một mức giá phù hợp nhất thì bên mua sẽ chấp nhận.
Thứ tư, hoạt động bán đấu giá được thực hiện theo một trình tự thủ tục
chặt chẽ. Trình tự thủ tục này do luật hoặc các văn bản dưới luật hướng dẫn quy
định. Khi các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc đấu giá phải tuân thủ, như về cách
thức xác định giá khởi điểm, về thông báo bán đấu giá, về số tiền đặt trước, về
nguyên tắc, về không gian, thời gian, cách trả giá, nội quy phiên đấu giá,. . . Đặc
điểm này rất khác so với cách mua bán thông thường, việc mua bán thông thường
đôi khi chỉ cần hai bên thỏa thuận miệng với nhau một lần, thỏa thuận qua thư, qua
điện thoại, ở bất kỳ không gian thời gian nào cũng được, các bên không bị bắt buộc
phải theo một trình tự thủ tục nhất định nào. Khi các bên thống nhất cụ thể với
nhau về đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán và các nội dung thỏa thuận khác
của việc mua bán thông thường là giao dịch hoàn tất.
Thứ năm, kết quả của việc mua bán thông qua đấu giá được pháp luật
thừa nhận và bảo hộ. Trong khi việc mua bán thông thường trong một số trường
hợp dù đã hoàn thành rồi vẫn chứa đựng nhiều rủi ro về pháp lý mà bên bán hoặc
bên mua không thể lường trước được. Đôi khi người bán thực hiện việc bán tài sản,
hàng hóa nhằm để che dấu một giao dịch khác, hoặc việc bán nhằm tẩu tán tài sản,
nếu bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu và người mua
luôn là người phải gánh chịu rủi ro, thiệt hại trước tiên. Chứng minh cho việc có sự
không an toàn trong hoạt động mua bán thông thường (mặc dù người mua không có
lỗi).
Khác với việc mua bán thông thường, đối tượng được đưa ra đấu giá thường
được thẩm định kỹ về thủ tục pháp lý như về nguốc gốc, chủ sở hữu, khả năng
chuyển quyền sở hữu cho người mua trúng đấu giá, các biện pháp bảo đảm quyền
lợi ích hợp pháp của người tham gia đấu giá. . . . Khẳng định giá trị pháp lý của các
giao dịch thông qua đấu giá được pháp luật bảo hộ tuyệt đối cho người mua, Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động
sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một
19
giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu,
trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá
hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài
sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa"[25, tr.52]. Như vậy, pháp luật bảo hộ tuyệt
đối giá trị pháp lý đối với giao dịch mua tài sản khi người mua được tài sản thông
qua hình thức đấu giá.
1.1.1.3. Các nguyên tắc bán đấu giá
Nhằm bảo đảm cho hoạt động đấu giá tài sản diễn ra trong khuôn khổ pháp
luật, bảo đảm sự thống nhất quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền nghĩa vụ các bên
tham gia, pháp luâ ̣t về bán đấu giá tài sản quy đi ̣nh một số nguyên tắc cụthể sau:
- Nguyên tắc công khai
Nguyên tắc này yêu cầu trong hoạt động bán đấu giá tài sản phải công khai
tất cả các thông tin liên quan đến tài sản bán đấu giá, công khai ngay từ giai đoạn ra
thông báo bán đấu giá về các thông tin như: chủ sở hữu tài sản, người có tài sản bán
đấu giá, tổ chức bán đấu giá tài sản; công khai về giá khởi điểm, thời gian, địa điểm
bán đấu giá; công khai về các đặc tính kỹ thuật, tình trạng tài sản, số lượng, chất
lượng tài sản. Tại cuộc bán đấu giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai tất
cả các thông tin liên quan như: giới thiệu từng tài sản bán đấu giá, nhắc lại giá khởi
điểm, trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá và yêu cầu người tham gia đấu
giá trả giá. . .
- Nguyên tắc trung thực
Nguyên tắc này yêu cầu tất cả thông tin liên quan đến cuộc bán đấu giá đều
phải trung thực, khách quan, không sai lệch. Các thông tin về tài sản, người có tài
sản bán đấu giá, người tổ chức bán đấu giá, nguồn gốc xuất sứ tài sản, chất lượng
tài sản. . . đều chính xác, các bên không được gian dối, không được đăng thông tin
sai lệch về việc đấu giá. Nếu việc bán đấu giá thông qua ủy quyền thì người tổ chức
bán đấu giá có quyền yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp đầy đủ, chính
xác, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến tài sản bán đấu giá, tạo điều kiện
20
cho người tổ chức bán đấu giá hoặc người tham gia đấu giá kiểm tra tài sản bán đấu
giá. Người đăng ký tham gia đấu giá cũng phải trung thực về các thông tin từ khi
đăng ký tham gia đấu giá.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
Nguyên tắc này thể hiện ở yêu cầu bảo đảm cho các bên tham gia hoạt động
bán đấu giá tài sản được tự thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của mình, được yêu
cầu các bên liên quan phải thực hiện đúng nội dung công việc như đã công khai
thông báo.
1.1.1.4. Hình thức bán đấu giá
Theo Điều 33 Nghi ̣ đi ̣nh 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy đi ̣nh hình thứ c đấu giá: “Tổ chức bán đấu giá
tài sản có thể lựa chọn một trong các hình thức đấu giá sau đây để tiến hành cuộc
bán đấu giá tài sản: Đấu giá trực tiếp bằng lời nói; Đấu giá bằng bỏ phiếu. Các hình
thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản thỏa
thuận”[11, tr.12].
Đấu giá trực tiếp bằng lời nói: Bắt đầu phiên đấu giá, Đấu giá viên điều
hành phiên đấu giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm, bước giá. Những
người tham gia đấu giá sẽ đặt giá cũng bằng lời nói để người điều hành đấu giá biết.
Đối với hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói có ưu điểm là sự trả giá của mọi
người mua đều công khai, người trả giá cao nhất được xác định ngay mà không phải
mất nhiều thời giờ để so sánh, vì thế mà cuộc đấu giá nhanh chóng kết thúc.
Đấu giá bằng bỏ phiếu: Đấu giá viên điều hành đấu giá sẽ công bố “…số
vòng bỏ phiếu, cách thức tiến hành bỏ phiếu phải được tổ chức bán đấu giá tài sản
hoặc đấu giá viên thỏa thuận với người có tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp
thực hiện cách thức bỏ phiếu nhiều vòng thì mỗi người tham gia đấu giá được phát
một tờ phiếu trả giá, ghi giá muốn trả vào phiếu của mình và bỏ phiếu vào hòm
phiếu. Sau khi thu hết các phiếu đã phát, đấu giá viên công bố mức giá trả cao nhất
của vòng bỏ phiếu mà không công bố tên của người đã trả giá cao nhất, tiếp tục phát
phiếu cho những người tham gia đấu giá để bắt đầu trả giá cho vòng tiếp theo. Cuộc
21
bán đấu giá kết thúc khi không còn ai yêu cầu trả giá tiếp”[6, tr.7-8]. Với hình thứ c
đấu giá này tuy thủ tục có phức tạp và làm mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức
này hạn chế được tình trạng chạy đua của những người mua nâng giá lên một cách
quá cao so với giá trị thực của tài sản.
Các hình thức đấu giá khác: Có nhiều hình thứ c đấu giá khác đã được các tổ
chứ c bán đấu giá chuyên nghiê ̣p áp dụng như: Đấu giá bằng bỏ phiếu kín ngay sau
khi đăng ký tham gia đấu giá, nghĩa là người tham gia đấu giá đến đăng ký đấu giá
thực hiê ̣n xong các thủ tục cần thiết theo quy đi ̣nh thì đồng thời được phát cho một
phiếu trả giá mua tài sản và người tham gia đấu giá viết phiếu trả giá và niêm phong
la ̣i gử i cho tổ chứ c bán đấu giá giữ, đến khi phiên bán đấu giá diễn ra thì đấu giá
viên sẽ bóc lần lượt từ ng phiếu trả giá và công bố giá đã trả của từ ng người tham
gia và người trả giá cao nhất là người trúng đấu giá. Hình thứ c đấu giá này có ưu
điểm là ha ̣n chế bớt tình tra ̣ng thông đồng giữa những người tham gia đấu giá với
nhau nhưng có nhược điểm là không trao cơ hội cho những người có nhu cầu trả giá
cao hơn để mua tài sản. Ngoài ra, còn các hình thứ c đấu giá khác như đấu giá thông
qua mạng Internet, …
1.1.1.5. Vai trò của hình thức bán đấu giá trong hoạt động mua bán
- Đối với nền kinh tế
Bán đấu giá là hình thức mua bán công khai, thông qua hoa ̣t động bán đấu
giá quyền, lợi ích của các bên được công khai thừa nhận và được pháp luật bảo hộ,
hoạt động mua bán thông qua đấu giá được minh bạch hơn, các giao dịch được an
toàn, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, ít tiềm ẩn rủi ro. Thông qua
hoạt động bán đấu giá, sẽ hạn chế các tranh chấp thường nảy sinh trong các giao
dịch mua bán thông thường, các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho các bên tham gia đấu
giá cũng được bảo đảm.
Đối với các bên tham gia đấu giá
Ngoài vai trò chung tác động trực tiếp đối với nền kinh tế, hoạt động bán đấu
giá cũng có vai trò tích cực đối với các bên tham gia đấu giá, được thể hiê ̣n dưới
những khía ca ̣nh sau:
22
Đối với bên có tài sản:
Bên có tà i sản luôn đạt được giá trị bán tà i sản vớ i giá cao nhất: Thông qua
bán đấu giá, bên có tài sản sẽ chọn được bên mua trả giá cao nhất cho tài sản của
mình. Khi thực hiện việc bán đấu giá, bên có tài sản hoặc tổ chức bán đấu giá thông
báo, niêm yết công khai thông báo bán đấu giá, đồng thời đăng thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng theo quy đi ̣nh để người có nhu cầu mua tài sản biết,
đăng ký tham gia đấu giá. Chính vì vậy, tài sản khi bán thông qua hình thức bán đấu
giá có nhiều người tranh nhau trả giá cao để mua được tài sản và từ đó tài sản sẽ
được bán với giá cao nhất. Bên có tài sản sẽ bán được tài sản với giá cao nhất, mang
lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với mua bán tài sản thông thường.
Bên có tà i sản có thể thu hồi tiền bán tài sản nhanh chóng: Thông qua hoạt
động bán đấu giá, với nội quy, quy chế cụ thể từng phiên đấu giá, chủ sở hữu tài sản
(bên có tài sản) ký hợp đồng ủy quyền cho tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên
nghiê ̣p, tổ chức này chịu trách nhiệm thu tiền bán tài sản khi cuộc bán đấu giá
thành. Người mua tài sản bán đấu giá phải thanh toán toàn bộ số tiền mua tài sản
trong một thời hạn nhất định đã quy đi ̣nh trong quy chế bán đấu giá hoă ̣c hợp đồng
mua bán tài sản mà không được dây dưa kéo dài. Người tham gia đấu giá phải nộp
một khoản tiền đặt trước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu
người mua trúng đấu giá tài sản không nộp tiền mua tài sản đúng hạn, vi pha ̣m quy
chế bán đấu giá thì sẽ bị mất toàn bộ số tiền đặt trước.
Bên có tà i sản tiết kiệm được các chi phí liên quan đến việc bán tà i sản: Các
tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p luôn có chức năng, có chuyên môn và trình độ
nhất định trong lĩnh vực tổ chức bán đấu giá. Bên có tài sản thông qua hình thức
bán đấu giá sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí do không phải thực hiện các hoạt động
không chuyên nghiệp. Hoạt động bán đấu giá tài sản được thực hiê ̣n chuyên nghiệp
nên trình tự thủ tục luôn được bảo đảm đúng quy định của pháp luâ ̣t, với các chi phí
quản lý, chi phí thuê dịch vụ liên quan đến hoạt động bán đấu giá được các bên tính
toán sao cho tiết kiệm nhất và mang lại hiê ̣u quả kinh tế tối ưu nhất.
Đối với bên mua tài sản:
23
Bên mua giảm thiểu được các rủi ro liên quan đến nguồn gốc và chất lượng
của tà i sản: Tài sản được đưa ra đấu giá thông thường được bên có tài sản và bên tổ
chức bán đấu giá kiểm tra về nguồn gốc xuất sứ, tính hợp pháp của tài sản, bảo đảm
tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với thông báo bán đấu giá. Bên mua tài sản không
phải mất nhiều thời gian, chi phí để thương lượng mua bán, cũng không phải mất
thời gian thẩm định về nguồn gốc chất lượng của tài sản được đưa ra đấu giá, các tổ
chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p sẽ thay khách hàng làm việc này. Các thủ tục của
người bán, người mua hàng, cũng như quy trình tổ chức bán đấu giá được thực hiện
công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, các bên tham gia
hoàn toàn yên tâm, các thông tin về tài sản đấu giá luôn được công khai xuyên suốt
quá trình đấu giá. Tổ chức bán đấu giá chịu trách nhiệm bồi thường nếu tài sản
không đúng với thông báo trước đó.
Bên mua sẽ được mua tà i sản với giá của chính mình: Với nguyên tắc cơ bản
là công khai trong hoạt động bán đấu giá, người mua tài sản được thông báo kỹ về
chất lượng chủng loại, toàn bộ các thông tin liên quan đến tài sản. Người tham gia
đấu giá được trực tiếp xem, giám định tài sản và tự mình quyết định đưa ra mứ c trả
giá mua tài sản phù hợp với giá trị sử dụng mong muốn. Người mua tự định giá tài
sản cho riêng mình trước khi quyết định mua. Cùng một mức giá, với người này là
rất cao, nhưng với người mong muốn mua được tài sản lại là phù hợp ở mức giá đó.
Đối với cá c tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p:
Thông qua vai trò làm trung gian, tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p được
bên có tài sản trả các chi phí phù hợp trực tiếp phát sinh từ hoạt động bán đấu giá
và khoản phí phần trăm (%) trên tổng giá trị tài sản bán đấu giá thành. Bên mua khi
tham gia đấu giá phải nộp một khoản tiền đặt trước để bảo đảm cho việc tham gia
phiên đấu giá, bảo đảm cho việc đấu giá thành sẽ mua tài sản. Vì bất kỳ lý do gì bên
mua không tham gia đấu giá hoặc từ chối mua tài sản trúng đấu giá thì số tiền đặt
trước thuộc về tổ chức bán đấu giá.
Bán đấu giá là hình thức bán hàng thường được thực hiện thông qua trung
gian, do các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá thực hiện. Khi hoạt động mua
24
bán thông qua đấu giá phát triển, tạo điều kiện thu hút nhiều nhân lực cho ngành
này, giải quyết nhiều việc làm hơn cho xã hội. Hoạt động bán đấu giá phát triển sẽ
đem lại nguồn thu tài chính nhiều hơn cho chính các tổ chức kinh doanh dịch vụ
bán đấu giá, làm giàu cho cho các tổ chứ c này. Thông qua đó, việc thu ngân sách từ
các loại thuế mà tổ chức bán đấu giá phải nộp cũng tăng lên, tăng thu cho ngân
sách, tăng nguồn bảo đảm cho các khoản chi an sinh xã hội của Nhà nước.
1.1.2. Lịch sử ra đời, phát triển và một số hình thức đấu giá tiêu biểu trên
thế giới
1.1.2.1. Lịch sử ra đời
Mua bán là hoạt động chỉ có do con người thực hiện, nhưng hoạt động mua
bán không ra đời cùng sự xuất hiện của loài người. Thời kỳ Công xã nguyên thủy,
cuộc sống loài người còn mông muội, các nhu cầu tồn tại sự sống dựa vào săn bắn,
hái lượm là chính. Công cụ sản xuất do con người tạo ra kết hợp với các yếu tố tự
nhiên làm cho của cải trong xã hội ngày càng dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng. Từ
đó xuất hiện hoạt động trao đổi, mua bán, các bên đều tự do thỏa thuận xác lập giao
dịch nhằm đạt mục đích của mình. Sau thời gian hoạt động mua bán xuất hiện, đấu
giá với vai trò là một hình thức của hoạt động mua bán cũng ra đời. Từ những năm
500 trước Công nguyên, hình thức đấu giá đã được hình thành. Giai đoạn đầu mới
hình thành, các bên tham gia tự nguyện tuân theo nguyên tắc bất thành văn là hàng
hóa có giá khởi điểm, ai trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người trúng đấu
giá. Đối tượng được đưa ra bán đấu giá thời kỳ này cũng rất đặc biệt, là những phụ
nữ trẻ đẹp, người tham gia đấu giá chỉ là đàn ông. Người phụ nữ bị coi như một thứ
hàng hóa đem ra đấu giá công khai, người đàn ông trả giá cao nhất sẽ là người được
sở hữu người vợ do đấu giá thành. Sau đó, trong các cuộc chiến tranh xâm lược, các
chiến binh chiếm giữ được tài sản hay vũ khí mà không có nhu cầu sử dụng thì cũng
được đem ra đấu giá, những chiến binh La Mã dùng đấu giá để bán những tài sản
mà họ có được sau những cuộc chinh phục. Đến thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ, nô
lệ bị xã hội coi là một thứ tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ nô, nô lệ là mặt hàng
rất thông dụng được các chủ nô mua và bán thông qua hình thức đấu giá.
25
Đến thế kỷ XV hoạt động bán đấu giá và nghề đấu giá tại Pháp đã rất phát
triển, nhiều tổ chức đấu giá chuyên nghiệp được thành lập. Cùng với đó, đấu giá đã
trở nên rất phổ biến tại Anh, nơi những quán rượu tổ chức đấu giá cho những tác
phẩm nghệ thuật hay các đồ dùng nội thất. Đến thế kỷ XVIII, cũng tại Anh, hai nhà
đấu giá được ra đời là Sotherby năm 1744 và Christie năm 1766, đến nay hai hãng
đấu giá này vẫn là những hãng tổ chức đấu giá nổi tiếng…
Từ khi hình thành cho đến nay có rất nhiều hình thức đấu giá đã được sử
dụng, điều đó cho thấy sự phát triển của loại hình kinh doanh này như một phần
không thể thiếu của sự phát triển kinh tế thế giới.
1.1.2.2. Một số hình thức đấu giá tiêu biểu trên thế giới
Với vai trò là một hình thức của hoạt động mua bán, trên thế giới đã và đang
tồn tại nhiều loại hình đấu giá. Tuy nhiên, khi xem xét tiếp cận dưới các góc độ, tiêu
chí và cách nhìn khác nhau, mỗi loại hình đấu giá đều có những ưu điểm và nhược
điểm của mình. Trong giới hạn phạm vi của đề tài này thì tác giả đã tổng hợp một
số hình thức đấu giá điển hình trên thế giới nhằm mục đích tham khảo đó là:
- Căn cứ vào phương thức trả giá, có thể chia đấu giá ra thành:
+ Đấu giá theo kiểu Anh: Đây là hình thức được nhiều người biết đến nhất,
tiêu biểu cho phương thức trả giá lên. Mọi người tham gia trả giá công khai với
nhau, giá đưa ra sau bao giờ cũng cao hơn giá đưa ra trước đó. Cuộc đấu giá kết
thúc khi người ra giá cao nhất so với giá khởi điểm sẽ được mua được tài sản với
giá mà mình đã trả.
+ Đấu giá theo kiểu Hà Lan: Đây là hình thức đấu giá tiêu biểu cho phương
thức đặt giá xuống, trong một sàn đấu giá kiểu Hà Lan truyền thống, giá khởi điểm
để mọi người tham gia trả được coi là giá cao nhất. Nếu người tham gia phiên đấu
giá không chấp nhận mua ngay mức giá khởi điểm, thì mức giá được hạ thấp dần
cho tới khi có người mua chấp nhận mức giá đó hoặc chạm đến mức giá sàn dự
định bán ra mà vẫn không có người mua thì thôi không bán nữa.
- Căn cứ vào cách thức biểu đạt lời nói được dùng trong phiên đấu giá,
có thể chia làm các hình thức:
26
+ Đấu giá kín theo giá thứ nhất: Tất cả mọi người cùng đặt giá đồng thời,
không ai biết giá của ai, người ra giá cao nhất là người được mua tài sản.
+ Đấu giá kín theo giá thứ hai (đấu giá Vickrey): Tương tự như đấu giá kín
theo giá thứ nhất, tuy nhiên người thắng (là người trả giá cao nhất so với giá khởi
điểm) chỉ phải mua tài sản với mức giá cao thứ hai chứ không phải giá cao nhất
mình đặt ra.
- Căn cứ vào nội dung lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ, có các
hình thức đấu giá sau:
+ Đấu giá nhượng quyền: Đây là hình thức đấu giá quyền sử dụng đối với
những sản phẩm có thể được tái bản (bản thu âm, phần mềm, công thức làm
thuốc...), người đấu giá đặt công khai giá lớn nhất của họ, người bán có thể xem xét
kết thúc cuộc đấu giá bất cứ lúc nào khi chọn được mức giá kỳ vọng. Người thắng
cuộc là người đặt giá bằng hoặc cao hơn giá được chọn, và sẽ nhận được phiên bản
của sản phẩm.
+ Đấu giá theo kiểu đấu thầu (Đấu thầu): Hình thức này hoán đổi vai trò
người bán và người mua. Người mua đưa ra bản yêu cầu báo giá cho một loại hàng
hóa dịch vụ nào đó và các nhà cung cấp sẽ đưa ra giá thấp dần với mong muốn
giành lấy gói thầu đó. Vào cuối buổi đấu thầu, người ra giá thấp nhất sẽ thắng cuộc.
Người đi mua sản phẩm, dịch vụ sẽ chọn nhà thầu nào ra giá thấp nhất, hiệu quả
nhất là người trúng thầu.
Việc phân loại các hình thức đấu giá trên thế giới không chỉ dừng lại ở các
tiêu chí trên, tùy theo phương pháp và mục đích tiếp cận mà có rất nhiều tiêu chí
phân loại khác nhau.
1.2. Pháp luật về bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tại Việt Nam
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bán đấu giá và quản lý
bán đấu giá tại Việt Nam
Hoạt động bán đấu giá có lịch sử hình thành từ lâu đời ở các nước có nền
kinh tế phát triển. Ở nước ta, sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của
Đảng thì nước ta mới khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
27
Xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế từ thời điểm này có chuyển biến căn bản, hài hòa với
xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Để phù hợp với những thay đổi
trong các quan hệ kinh tế, các quy định pháp luật cũng được sửa đổi, bổ sung đồng
bộ, đáp ứng được các yêu cầu trong tình hình mới. Cùng với xu thế chung đó, quy
định pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng được quy định tại Pháp lệnh Thi hành
án dân sự ngày 28 tháng 8 năm 1989 (Có hiệu lực từ ngày 01/01/1990). Với
quy định về bán đấu giá tài sản trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989,
tuy các quy định chưa được toàn diện, chưa cụ thể chi tiết, nhưng đây là lần
đầu tiên hoạt động bán đấu giá từ ngày nước Việt Nam độc lập, thống nhất
được chính thức quy định trong một văn bản dướ i da ̣ng văn bản pháp luâ ̣t là
Pháp lệnh. Chính từ mốc lịch sử quan trọng này, tác giả xin chia sự hình thành và
phát triển của hình thức bán đấu giá tại Việt Nam thành các giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn 1: Trước năm 1990
Ở Việt Nam vào thời kỳ phong kiến chưa có quy định nào về bán đấu giá, từ
khi thực dân Pháp sang đô hộ, hình thức bán đấu giá mới xuất hiện, tuy nhiên hoạt
động này còn nhỏ lẻ chưa có một văn bản độc lập nào quy định. Nhìn chung hoạt
động bán đấu giá ở Việt Nam ra đời khá muộn, được hình thành cùng với bộ máy
cai trị của thực dân Pháp, thời kỳ đầu được tổ chức một cách sơ khởi và chỉ được
xem là một bộ phận của Tư pháp do Tòa án thực hiê ̣n. Pháp luật thời kỳ này có quy
định về bán đấu giá nhằm bảo đảm thi hành các phán quyết của Tòa án, bảo đảm kết
quả công tác xét xử về dân sự đạt kết quả từ thực tiễn. Hoạt động bán đấu giá thời
kỳ này chưa được pháp luật ghi nhận là một hoạt động kinh tế hay là một hoa ̣t động
di ̣ch vụ.
Chế độ thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị trên cả ba miền Bắc - Trung -
Nam nhằm bảo đảm cho sự đô hộ lâu dài của chủ nghĩa thực dân. Do đó, hầu hết
các văn bản pháp luật của thời kỳ này đều là khuôn mẫu của pháp luật “Mẫu quốc”.
Các văn bản pháp luật thời kỳ này có: Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Hồng Việt Trung Kỳ và
Hộ luật Nam Kỳ; về tố tụng có Bộ dân sự tố tụng Bắc Kỳ (1917) áp dụng tại Bắc
Kỳ, Bộ dân sự tố tụng Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định ngày 16/3/1910 áp
28
dụng tại Nam Kỳ; Bộ Hộ sự, Thương sự tố tụng Trung Việt (1942) áp dụng tại
Trung Kỳ. Như vậy, mỗi miền lại có các văn bản riêng song các văn bản đều xác
định chung: Thừa phát lại có nhiệm vụ thi hành các bản án và thực hiện các hành vi
tố tụng khác.
Đối với trường hợp xử lý tài sản di nhượng được áp dụng theo quy định tại
Dụ số 31 ngày 23/7/1934, về cách thức thi hành án thì Tòa án nào đã cho phép xử
di nhượng thì cử ra một người thanh toán để quản trị tài sản của người mắc nợ để
lấy hoa lợi và phân phát tiền phát mại tài sản. Khi phát mại nếu không có ai trả giá
đã đặt thì người thanh toán tùy theo tình hình xin Tòa án cho hạ giá. Năm 1920 Tòa
án Nam kỳ đã ra một phán quyết: “Nếu đến kỳ hạn người đi vay không đi chuộc lại
thì người cho vay không thể đương nhiên trở thành chủ sở hữu của ruộng đất ấy mà
phải kiện đến Tòa án xin đem bất động sản đã thế chấp đó ra phạt lãi bán đấu giá
lấy món nợ thiếu”[36, tr.5]. Thực chất đây là một phán quyết của Tòa án, trong khi
chưa có văn bản nào quy định cụ thể về trình tự thủ tục bán đấu giá tài sản, nhưng
qua đó cũng có thể thấy rằng hình thức bán đấu giá đã tồn tại và đang được áp dụng
thời bấy giờ tại Việt Nam.
Vào năm 1936 Triều đình nhà Nguyễn đã ban hành Luật dân sự, Thương sự
tố tụng được áp dụng cho các Tòa án xứ Bắc kỳ, trong đó có quy định về tài sản
cưỡng chế và phát mãi tài sản. Sau đó ban hành Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật áp
dụng cho xứ Trung kỳ, trong đó cũng quy định về phát mãi tài sản giống như Hộ
Luật Bắc Kỳ.
Sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, trên cơ sở các quy định trước đây và quyền
tự quyết của quốc gia, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950.
Tại Điều 19 Sắc lệnh đã quy định nội dung: Thẩm phán Tòa án huyện có nhiệm vụ
đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ mà
chính Tòa án huyện hoặc Tòa án cấp trên đã tuyên. Việc cưỡng chế thi hành án
được quy định khá cụ thể về thẩm quyền và đối tượng, theo đó Thẩm phán huyện
có quyền được tổ chức cưỡng chế khi cần thiết. Đối tượng cưỡng chế là bất động
29
sản thì Điều 19 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 cũng quy đi ̣nh: “Việc phát mại
đối tượng bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách.
Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì Biện lý
sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho chủ nợ lẫn
người mắc nợ.”
Như vậy, thời kỳ trước năm 1954 việc phát mại tài sản (bản chất là bán đấu
giá tài sản) do Thừa phát lại và Thẩm phán Tòa án huyện tổ chức theo lệnh của Tòa
án.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn là thuộc
địa của Mỹ, nền kinh tế miền Bắc nước ta quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp,
đời sống nhân dân rất khó khăn, tài sản chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt tối thiểu và
các tư liệu sản xuất nhỏ. Việc phát mại tài sản phải tuân thủ nguyên tắc vừa bảo
đảm thi hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ, vừa phải chú ý đến quyền lợi của người bị
phát mại tài sản. Đối với tài sản là đối tượng để kê biên phát mại chỉ là những động
sản. Theo Thông tư số 04-NCPL ngày 14/4/1966 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn nội dung sau: Tòa án chỉ cần kê biên những tài sản đủ để thi hành án,
trong đó chú ý kê biên những tài sản có giá trị dễ bán để thi hành án (xe đạp, đồng
hồ, radio, quạt máy, tre, xoan, gỗ, . . .). Nếu những tài sản đó không đủ bảo đảm để
thi hành án thì mới kê biên đến nhà cửa. Đối với tư liệu sản xuất thì không được kê
biên phát mại. Việc bán các tài sản kê biên có thể giao cho cơ quan Thương nghiệp,
nơi nào chưa có cơ quan Thương nghiệp thì Tòa án tự đứng ra bán.
Ở miền Nam, năm 1972 chế độ Miền Nam Cộng Hòa ban hành Bộ luật Dân
sự và Thương sự tố tụng, trong đó cũng có nhiều quy định về phát mãi tài sản để
đảm bảo thi hành án, việc phát mãi tài sản này do các “Thừa phát lại” hoặc “Hỗ giá
viên” có quyền thực hiện. Bản chất của việc phát mại tài sản được quy định tại Bộ
luật này là đấu giá. Điều thứ 389 Bộ luật dân sự và Thương sự tố tụng năm 1972
quy định về thẩm quyền bán đấu giá tài sản “Đến ngày đã định, việc phát mại sẽ
thực hiện do thừa phát lại hoặc do hỗ giá viên, trong phạm vi chức nhiệm của công
lại này”. Mục đích cuối cùng của việc bán đấu giá tài sản nhằm để thanh toán các
30
nghĩa vụ tài sản của “con nợ” đối với “chủ nợ”, cụ thể như quy định “Trong trường
hợp tài sản bị sai áp là giá khoán hay động sản, án văn sẽ hoán cải sự sai áp chi phó
ra sai áp chấp hành; số tiền thâu được do sự phát mại sẽ dùng trả cho chủ nợ”[23].
Về đối tượng được đưa ra phát mại, Bộ luật đã quy định rất đa dạng, gồm
động sản, bất động sản và cả hàng hóa. Đối tượng là hàng hóa được nhắc đến trong
quá trình cưỡng chế, phát mại chỉ dừng lại ở mức độ nêu tên gọi thuộc động sản,
hàng hóa là một phần của động sản, Luật không nêu cụ thể khái niệm hàng hóa là
gì. Điều 385 Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng năm 1972 quy định các loại động
sản bị cưỡng chế và có thể bị bán đấu giá để thi hành án “Nếu trong các động sản bị
sai áp có hàng hóa, hàng hóa này sẽ được cân, đo lường tùy theo bản chất của mỗi
thứ. Nếu có đồ bằng vàng, bạc, mỗi món đều phải được ghi rõ trọng lượng cùng
tuổi vàng hoặc tuổi bạc”[23]. Việc bán đấu giá tài sản bị cưỡng chế cũng được niêm
yết công khai, sau mười lăm ngày kể từ ngày niêm yết mới được tổ chức bán đấu
giá “Sự phát mại đồ bị sai áp chỉ được thực hiện ít nhất mười lăm ngày sau khi đã
được công bố bằng yết thị”[23]. Nhìn chung, những quy đi ̣nh về bán đấu giá trong
chế độ Miền Nam cộng hòa đã được đề câ ̣p, điều chỉnh một số vấn đề cơ bản liên
quan đến hoạt động bán đấu giá. Tuy nhiên, hoạt động bán đấu giá ở chế độ này
nhằm mục đích để thi hành các phán quyết của Tòa án, phục vụ công tác Tư pháp là
chính, mà chưa là hoạt động thương mại hay hoạt động đấu giá tài sản trong giao
dịch dân sự.
- Giai đoạn 2: Từ năm 1990 đến năm 2005
Trước thách thức và yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, đòi hỏi phải
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, trong đó có công tác
bảo đảm thi hành các phán quyết dân sự của Tòa án thông qua bán đấu giá tài sản.
Có thể nói hình thức bán đấu giá tại Việt Nam được hình thành và phát triển từ việc
bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự. Bởi lẽ, các quy định về bán đấu giá tài sản
được xuất hiện đầu tiên trong pháp luật về thi hành án dân sự từ những thập niên 20
của thế kỷ XX .
31
Pháp luật về bán đấu giá tài sản tại Việt Nam từ sau đổi mới 1986 thực
sự được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 28
tháng 8 năm 1989 (Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989), quy định về bán
đấu giá tài sản để thi hành án. Khoản 1, Điều 28 của Pháp lệnh Thi hành án dân
sự năm 1989 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên. Đối với các loại tài sản
này, thời gian bán đấu giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án và Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự, chậm nhất
là bảy ngày trước ngày bán đấu giá. “…Tài sản đã kê biên được bán cho người trả
giá cao nhất. Nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định thì tài sản được bán cho
người mua theo giá mà Hội đồng định giá đã định. Tài sản không bán được thì định
giá lại để tiếp tục bán đấu giá”[37,tr.8].
Để thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Tòa án nhân dân Tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên ngành
số 06-89/TTLN ngày 07 tháng 12 năm 1989 (Thông tư liên ngành 06-89/TTLN)
hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989.
Mục VI của Thông tư hướng dẫn về bán đấu giá tài sản đã kê biên theo quy định tại
khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 thì khi kê biên tài sản,
nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó
khăn, Chấp hành viên mời Hội đồng định giá để định giá tài sản đã kê biên.
Theo các Điều 28, 30 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 thì việc bán
đấu giá do Chấp hành viên tổ chức. Tại mục VI Thông tư liên ngành 06-89/TTLN
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 quy định: “…Chậm
nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá, Chấp hành viên phải niêm yết công khai
tại trụ sở Tòa án, Uỷ ban nhân dân nơi có tài sản và thông báo rộng rãi danh mục tài
sản, giá khởi điểm, thời gian và địa điểm bán đấu giá. Đồng thời phải báo cho các
bên đương sự biết. Trong thông báo có thể nêu rõ những yêu cầu đối với người
tham gia đấu giá. Trước khi bán đấu giá, người phải thi hành án có thể nộp tiền thi
hành án để lấy lại tài sản bị kê biên và người được thi hành án có thể nhận tài sản
đã kê biên để thi hành án theo giá đã định”[35, tr.4].
32
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành thay thế Pháp lệnh
Thi hành án dân sự năm 1989. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 bổ sung
thêm một số quy định về bán đấu giá tài sản thi hành án. Quy định cụ thể hơn về
thành phần Hội đồng định giá gồm đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn
có liên quan và do chấp hành viên chủ trì để đánh giá sơ bộ tài sản đã kê biên,
người được thi hành án, người phải thi hành án được tham gia ý kiến vào việc định
giá, nhưng quyền quyết định giá thuộc Hội đồng định giá. Tài sản không bán được
thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên ở nước ta được được thông qua tại kỳ
họp thứ 8 Quốc hội khóa IX. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh
các quan hệ giao kết dân sự trong đó có quan hệ về bán đấu giá tài sản. Bộ luật
Dân sự năm 1995 đã quy định giao cho Chính phủ ban hành quy chế bán đấu giá.
Trên cơ sở đó, ngày 19 tháng 12 năm 1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
86/CP về việc ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản. Đây là văn bản pháp lý chuyên
ngành đầu tiên điều chỉnh về lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Nghị định quy định các
đối tượng là tài sản được bán đấu giá, người bán đấu giá, trình tự, thủ tục bán đấu
giá, giải quyết khiếu nại, tranh chấp về bán đấu giá. Có thể nói hoạt động bán đấu
giá tài sản chuyên nghiệp ở nước ta được hình thành từ năm 1997 trên cơ sở của Bộ
luật Dân sự 1995, Luật Thương mại năm 1997 và Nghị định số 86/CP ngày
19/12/1996 của Chính phủ về viê ̣c ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản.
Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 86/CP thì Người bán đấu giá là
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản được thành lập theo quyết định của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do Sở Tư pháp trực tiếp
quản lý. Người bán đấu giá cũng có thể là doanh nghiệp nhà nước được thành lập
theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần
được thành lập theo Luật Công ty năm 1990 hoạt động bán đấu giá chuyên nghiệp
và không kinh doanh ngành nghề khác do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ. Cũng
theo quy định tại Nghị định này thì việc bán đấu giá tài sản được tiến hành sau khi
người có tài sản ký hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản với người bán đấu giá,
33
xác định giá khởi điểm để bán đấu giá. Người bán đấu giá tài sản phải niêm yết,
thông báo công khai việc bán đấu giá, tài sản bán đấu giá, giá khởi điểm... Người
muốn tham gia đấu giá bất động sản hoặc động sản có giá khởi điểm từ mười triệu
đồng trở lên phải đăng ký mua chậm nhất là hai ngày trước ngày mở cuộc bán đấu
giá và phải nộp một khoản tiền đặt trước bằng 1% giá khởi điểm.
Ngày 07 tháng 04 năm 1997 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số
399/PLDSKT hướng dẫn một số quy định về bán đấu giá tài sản. Ở đa số các địa
phương, quán triệt tinh thần Nghị định số 86/CP và Thông tư số 399/PLDSKT ngày
07/4/1997 của Bộ Tư pháp, các Trung tâm đã tổ chức bán đấu giá công khai, rộng
rãi, đúng trình tự, thủ tục. Khách hàng tham gia đấu giá ngày càng nhiều, giá tài sản
bán được phần lớn tăng hơn nhiều so với giá khởi điểm. Thông qua hoạt động đấu
giá làm lợi cho người có tài sản bán đấu giá, khoản lệ phí nộp ngân sách đạt được
chỉ tiêu mà các Trung tâm đề ra, đảm bảo cho hoạt động bán đấu giá đạt hiệu quả.
Đồng thời với Nghị định số 86/CP, Bộ luật Dân sự năm 1995, Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 1993 cùng các văn bản hướng dẫn đang có hiệu lực thi hành thì
Luật Thương mại năm 1997 đã có quy định về đấu giá hàng hóa. Nếu như trước
đây, các văn bản pháp luật chỉ quy định về đấu giá tài sản, với mục đích chính là
đấu giá tài sản để thi hành án và để đảm bảo tính minh bạch, công khai trong việc
bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Nay, Luật Thương mại lần đầu tiên quy
định về hoạt động bán đấu giá với tư cách là một hoạt động thương mại. Tuy nhiên,
Luật Thương mại năm 1997 chỉ dành 02 điều (Điều 139 và điều 140) quy định về
đấu giá hàng hóa, việc đấu giá hàng hóa này lại theo quy định của luật dân sự:
“Việc thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hoá được thực hiện theo
quy định của Bộ luật Dân sự và Quy chế bán đấu giá hàng hoá do Chính phủ quy
định”[26,tr.28]. Thực chất đấu giá hàng hóa thời kỳ này không tách biệt với đấu
giá tài sản, hoạt động đấu giá hàng hóa chịu sự điều chỉnh của các quy định về
bán đấu giá tài sản.
Nghị định số 86/CP, Bộ luật Dân sự 1995 và Luật Thương mại năm 1997 là
những văn bản pháp luật quan trọng đặt nền móng cho hoạt động đấu giá ở nước ta
34
trong thời kỳ đầu đổi mới. Tuy nhiên, nội dung của các văn bản pháp luật trên được
ban hành khi nước ta mới chuyển hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa. Các quy định còn chứa đựng một số bất cập, hạn chế nhất
định, không còn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung cho khả thi hơn với thực tiễn.
- Giai đoạn 3: Từ năm 2005 đến nay
Ngày 18/01/2005, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu
giá tài sản được ban hành thay thế Nghị định số 86/CP. Ngay sau khi Nghị định số
05/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số
03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP.
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản là cơ sở pháp lý quan trọng để
phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa làm cơ sở cho các sự ra đời các văn bản pháp luật tiếp theo về bán đấu
giá.
1.2.2. Pháp luật về bán đấu giá tài sản
Pháp luật về bán đấu giá là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chính các quan hệ xã hội trong hoạt
động bán đấu giá. Văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự phát triển của hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá.
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản là văn bản pháp luật
chuyên ngành, là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với Nghị
định số 05/2005/NĐ-CP thì còn có nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều
chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản như Bộ Luật Dân sự năm 2005; Luật Thương
mại năm 2005; Luật Quản lý và sử dụng tài sản nhà nước năm 2008; Luật kinh
doanh bất động sản năm 2005; Pháp lê ̣nh xử lý vi phạm hành chính năm 2002,
Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về bán đấu giá quyền
sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, Nghị định số
159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 181/2004/NĐ-
35
CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành luật đất đai; Nghị định số 84/2007/NĐ-
CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
đai; Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004 hướng
dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất và Tổ chức phát triển quỹ đất.
Sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản được ban hành,
hoạt động bán đấu giá tài sản đã đạt được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở pháp lý
quan trọng đối với việc củng cố và phát triển các tổ chức bán đấu giá tài sản ở các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, góp phần thống nhất pháp luật về trình tự,
thủ tục bán đấu giá tài sản và đáp ứng phần lớn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong
lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật về hoạt
động bán đấu giá tài sản trong thời kỳ này còn nhiều vấn đề bất cập.
Thứ nhất, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh
hoạt động bán đấu giá tài sản. Bên cạnh một số luật, pháp lệnh còn có nghị định của
Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư liên tịch của các Bộ,
ngành... Nhiều điều khoản của các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài
sản không thống nhất với quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu
giá tài sản, nội dung một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn về trình tự, thủ tục
bán đấu giá, về tổ chức bán đấu giá, gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong thi hành và áp dụng pháp luật.
Thứ hai, do sự không đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật
nên trong giai đoa ̣n này có nhiều loại tổ chức thực hiện việc bán đấu giá tài sản và
bán đấu giá theo các trình tự, thủ tục rất khác nhau, không chặt chẽ dẫn đến việc
khó quản lý, kiểm soát hoạt động này và gây thất thoát tài sản, nhất là tài sản công.
Trong số các tổ chức thực hiện việc bán đấu giá tài sản thì hoạt động của các Hội
đồng bán đấu giá tài sản đang có nhiều bất cập. Các Hội đồng này được thành lập
để bán đấu giá theo vụ việc, không mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp. Khi
36
kết thúc cuộc bán đấu giá, Hội đồng tự giải thể. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra liên
quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia đấu giá, người trúng
đấu giá, các bên không có cơ sở pháp lý để khiếu nại Hội đồng. Ngoài ra, do cơ chế
hoạt động (bao gồm cả cơ chế tài chính) và trách nhiệm pháp lý của Hội đồng bán
đấu giá tài sản không rõ ràng, nên khó kiểm soát, dẫn đến thất thoát, thiệt hại về vật
chất trong việc bán đấu giá các loại tài sản của Nhà nước.
Thứ ba, phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá
tài sản chưa xác định rõ phạm vi áp dụng của Nghị định đối với việc bán đấu giá
những loại tài sản nào. Chính vì vậy, trên thực tế, các cơ quan, tổ chức còn lúng
túng khi áp dụng Nghị định số 05/2005/NĐ-CP dẫn đến việc bán đấu giá tài sản,
nhất là tài sản công chưa được thực hiện theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Đây
cũng là bất cập lớn cần phải sớm khắc phục.
Thứ tư, một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về trình tự, thủ
tục bán đấu giá còn chưa đầy đủ và chặt chẽ, thậm chí có kẽ hở, dễ dẫn đến hiện
tượng tiêu cực như thông đồng, dìm giá, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, quy định về điều kiện cấp thẻ đấu giá viên, điều kiện hoạt động
của doanh nghiệp bán đấu giá còn đơn giản, dễ dãi; việc đăng ký hành nghề đối với
đấu giá viên chưa được quy định chặt chẽ. Vai trò của đấu giá viên với tư cách là
chức danh chuyên nghiệp trong hoạt động bán đấu giá chưa được phát huy, nhiều
cuộc bán đấu giá không do đấu giá viên điều hành. Nhìn chung, tính chuyên nghiệp
của hoạt động bán đấu giá tài sản còn thấp.
Thứ sáu, quy định về quản lý nhà nước trong Nghị định số 05/2005/NĐ-CP
về bán đấu giá tài sản còn thiếu, nội dung chưa rõ ràng dẫn đến việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản còn lỏng lẻo, vai trò của cơ quan chủ trì
giúp Chính phủ và Ủ y ban nhân dân các địa phương thống nhất quản lý nhà nước về
bán đấu giá tài sản chưa được phát huy đầy đủ. Một số Sở Tư pháp, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh chưa nhận thức rõ chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện
37
quản lý nhà nước trong lĩnh vực đấu giá tài sản tại địa phương. Công tác quản lý
hoạt động đấu giá tài sản ở cấp huyện còn buông lỏng.
Thứ bảy, nhận thức và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và
địa phương về quản lý hoạt động bán đấu giá tài sản còn chưa thống nhất, chặt chẽ
và đồng bộ. Một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản trong một số trường hợp còn từ chối hoặc chậm trong việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đã bán đấu giá đối với tài sản mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Việc giao tài sản thi
hành án đã được bán đấu giá nhiều khi bị chậm trễ, kéo dài làm ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản, cũng như uy tín của các tổ
chức bán đấu giá tài sản.
Cùng với Bộ luật Dân sự năm 2005 (từ Điều 456 đến Điều 469 có liên quan
đến bán đấu giá tài sản), Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu
giá tài sản là một bước phát triển mới trong công tác bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên,
sau 4 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập, vướng
mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vâ ̣y, để lĩnh vực bán đấu giá
tài sản ngày càng phát triển, ổn định, phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội thì rất cần phải sớm khắc phục những hạn chế của Nghi ̣đi ̣nh 05/2005/NĐ-CP,
do đó ngày 04/3/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thay
thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP và Nghi ̣ đi ̣nh này được áp dụng từ ngày
01/7/2010 cho đến nay.
Dưới đây là những văn bản quy phạm pháp luật cơ bản điều chỉnh các hoạt
động bán đấu giá tài sản:
- Bộ luật Dân sự năm 2005: Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc về các tài sản
được bán đấu giá thuộc loại tài sản được phép giao dịch là đối tượng của hợp đồng mua
bán nói chung (Điều 429) và quy định riêng về bán đấu giá tài sản (từ Điều 456 đến
Điều 459), trong đó, chủ thể bán đấu giá, một số nguyên tắc về trình tự thủ tục bán đấu
giá (Điều 456, Điều 457), bán đấu giá bất động sản (Điều 459) giao Chính phủ quy
định chi tiết về tổ chức và thủ tục bán đấu giá tài sản cụ thể (Điều 458).
38
- Luật Thương mại năm 2005: Điều 3 quy định bán đấu giá tài sản là hàng hóa
bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và
những vật gắn liền với đất đai.
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008: Điều 101 quy định tài sản bán đấu giá
là tài sản đã kê biên.
- Luật Quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước năm 2008: Điều 1 quy định bán
đấu giá tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ
quan, tổ chức) bao gồm trụ sở làm việc và tài sản khác gắn liền với đất; quyền sử
dụng đất đối với đất dùng để xây dựng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp
của cơ quan, tổ chức, đơn vị; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc
và các tài sản khác do pháp luật quy định.
- Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009: Điều 18 quy định bán đấu giá tài sản
là quyền sử dụng tần số vô tuyến điện.
- Luật Khoáng sản năm 2010: Quy định bán đấu giá tài sản là quyền khai
thác khoáng sản
- Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012: Điều 82 quy định tài sản bán
đấu giá là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu.
- Luật Dự trữ quốc gia năm 2012: Ta ̣i Điều 4 quy định tài sản bán đấu giá là
hàng dự trữ quốc gia bao gồm vật tư, thiết bị, hàng hóa trong Danh mục hàng dự trữ
quốc gia do Nhà nước quản lý, nắm giữ để sử dụng vào mục tiêu dự trữ quốc gia.
- Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2013: Điều 118 quy định bán đấu giá tài
sản là quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê
đất trong các trường hợp:
Đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê hoặc cho thuê mua;
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê;
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY

More Related Content

What's hot

Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịchĐề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịchDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt NamĐề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở xã hội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở xã hội theo pháp luật, HAYLuận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở xã hội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở xã hội theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc
Đề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh PhúcĐề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc
Đề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc
 
Vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện hành
 Vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện hành  Vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện hành
Vấn đề về hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật hiện hành
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở chung cư trong các dự án, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở chung cư trong các dự án, 9đLuận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở chung cư trong các dự án, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở chung cư trong các dự án, 9đ
 
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịchĐề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
 
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản thế chấp, HAY, 9đ
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản thế chấp, HAY, 9đLuận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản thế chấp, HAY, 9đ
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản thế chấp, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtLuận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, HAY
Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, HAYGiải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, HAY
Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, HAY
 
Luận án: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Bắc Trung bộ
Luận án: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Bắc Trung bộLuận án: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Bắc Trung bộ
Luận án: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Bắc Trung bộ
 
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luậtLuận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
 
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở, HOT
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở, HOTLuận văn: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở, HOT
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở, HOT
 
Bỏ Túi 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Văn Phòng Công Chứng, 9 Điểm
Bỏ Túi 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Văn Phòng Công Chứng, 9 ĐiểmBỏ Túi 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Văn Phòng Công Chứng, 9 Điểm
Bỏ Túi 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Văn Phòng Công Chứng, 9 Điểm
 
Khóa Luận Pháp Luật Về Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất.docx
Khóa Luận Pháp Luật Về Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất.docxKhóa Luận Pháp Luật Về Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất.docx
Khóa Luận Pháp Luật Về Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất.docx
 
Luận văn: Pháp luật về nhà ở hình thành trong tương lai, HOT
Luận văn: Pháp luật về nhà ở hình thành trong tương lai, HOTLuận văn: Pháp luật về nhà ở hình thành trong tương lai, HOT
Luận văn: Pháp luật về nhà ở hình thành trong tương lai, HOT
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY

Phap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaPhap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaHung Nguyen
 
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcĐấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdfBán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdfNuioKila
 
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sựĐấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sảnHoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sảnGustave Hegmann
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY (20)

Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện Nay
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện NayHoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện Nay
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện Nay
 
Phap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaPhap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau gia
 
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcĐấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
 
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdfBán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCMLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đ
Luận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đLuận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đ
Luận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đ
 
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
 
Luận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luật
Luận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luậtLuận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luật
Luận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luật
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAYLuận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
 
Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.doc
Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.docHậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.doc
Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.doc
 
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự, HAY
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự, HAYĐấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự, HAY
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đ...
 
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sựĐấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự
Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự
 
Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại việt nam
Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại việt namPháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại việt nam
Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại việt nam
 
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sảnHoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
 
Bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
Bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sựBán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
Bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
 
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giáLuận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 

Recently uploaded (20)

Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 

Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN CAO TRÍ PHÁ P LUẬT VỀ QUẢ N LÝ BÁ N ĐẤ U GIÁ TÀ I SẢ N TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾ N PHÁ P VÀ LUẬT HÀ NH CHÍNH ĐĂK LĂK - NĂM 2016
  • 2. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN CAO TRÍ PHÁ P LUẬT VỀ QUẢ N LÝ BÁ N ĐẤ U GIÁ TÀ I SẢ N TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾ N PHÁ P VÀ LUẬT HÀ NH CHÍNH Chuyên ngành: Luâ ̣t Hiến pháp và Luâ ̣t Hành chính Mã số : 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦ N THI ̣CÚ C ĐĂK LĂK - NĂM 2016
  • 3. 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU.....................................................................................................................4 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................4 2. Tình hình nghiên cứu..........................................................................................5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................7 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..........................................................................8 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................8 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn..............................................9 7. Kết cấu của luận văn.........................................................................................10 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢ N LÝ BÁN ĐẤU GIÁ TÀ I SẢ N...........................................................................................................................11 1.1. Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản ..............................................................11 1.2. Pháp luật về bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tại Việt Nam ....................26 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁ P LUẬT VÀ TỔ CHỨ C THỰC HIỆN PHÁ P LUẬT QUẢ N LÝ BÁ N ĐẤ U GIÁ TÀ I SẢ N Ở TỈNH GIA LAI...........................48 2.1. Khái quát chung về tỉnh Gia Lai và hoạt động bán đấu giá tài......................48 2.2. Thực tra ̣ng pháp luâ ̣t bán đấu giá tài sản và quản lý bán đấu giá ..................49 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚ NG, GIẢ I PHÁ P HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ BÁN ĐẤU GIÁ......................................................................................88 3.1. Phương hướng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá ........................88 3.2. Giải pháp hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá ................................90 3. 3. Kiến nghị hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá ...............................98 KẾT LUẬN.............................................................................................................101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................103
  • 4. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi nền kinh tế thị trường phát triển, hàng hóa trở nên đa dạng và phong phú, phần lớn sản phẩm của lao động là hàng hóa, là tài sản. Tài sản vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường nó trở thành yếu tố quan trọng trong giao lưu dân sự. Hoạt động mua bán và tiêu thụ hàng hóa nói chung và bán đấu giá tài sản nói riêng cũng trở nên đa dạng và sôi động. Nhiều hình thức bán đấu giá tài sản ra đời và phát triển. Đấu giá tài sản với tư cách là hoạt động di ̣ch vụ đặc thù ra đời, đã giải quyết được nhu cầu lợi ích kinh tế từ các bên tham gia. Thông qua đấu giá tài sản, các bên tham gia đều thể hiện, hướng đến lợi nhuận mong muốn đạt được kết quả giá bán tài sản cao nhất. Đấu giá tài sản là một hoa ̣t động di ̣ch vụ trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Đấu giá tài sản có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc đa dạng hóa các hình thức trao đổi, mua bán lưu thông hàng hóa. Mặt khác, thông qua bán đấu giá tài sản, hoạt động mua bán nói chung và bán đấu giá tài sản nói riêng được công khai, minh bạch hơn. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động bán đấu giá như trên, các quốc gia đều ban hành các đạo luật điều chỉnh hoạt động này phù hợp. Ở Việt Nam, các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản được ban hành ở mức độ sơ khởi từ những năm đầu của thế kỷ XX. Hoạt động bán đấu giá tài sản chỉ được pháp luật quy định điều chỉnh sau khi nước ta đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa từ sau Đa ̣i hội VI (năm 1986). Bên cạnh viê ̣c xây dựng và ban hành các bộ luâ ̣t, luâ ̣t và các văn bản quy pha ̣m pháp luâ ̣t phù hợp với nền kinh tế thi ̣trường đi ̣nh hướng xã hội chủ nghĩa thì các quy định về bán đấu giá tài sản cũng được ban hành và nhiều lần sửa đổi, bổ sung tại các văn bản pháp luật như: Bộ Luật Dân sự năm 2005 thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại năm 2005 thay thế Luật Thương mại năm 1997, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
  • 5. 5 2004, Luâ ̣t Xử lý vi pha ̣m hành chính năm 2012 thay thế Pháp lê ̣nh Xử lý vi pha ̣m hành chính năm 2008, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về đấu giá tài sản; các Thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết các quy định pháp luật về đấu giá tài sản. Sau thời gian áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động bán đấu giá, các văn bản quy phạm này đã xuất hiện một số điểm mâu thuẫn, chồng chéo, chưa thống nhất, đặc biệt là các quy định trực tiếp đến hoạt động bán đấu giá tài sản. Quy định pháp luật về đấu giá tài sản đang bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với thực tế nền kinh tế thi ̣trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, chưa thực sự tạo ra hành lang pháp lý cần thiết thúc đẩy hoạt động bán đấu giá tài sản phát triển. Các quy định pháp luật này đang rất cần sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện. Việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về bán đấu giá tài sản, sự thể hiện chúng trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tiễn để đưa ra đề xuất, kiến nghi ̣trong quá trình lập pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm pháp luâ ̣t về lĩnh vực này trong giai đoạn hiện nay, không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luâ ̣t Hiến pháp và Luâ ̣t Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều Hội nghi ̣, Hội thảo, phát hành tài liệu về pháp luật bán đấu giá tài sản. Học viện Tư pháp (Bộ Tư pháp) đã biên soạn Tập bài giảng về pháp luật đấu giá. Nhiều học giả thực hiện đề tài có nội dung về bán đấu giá ở dạng công trình Luận văn. Nhiều nhà nghiên cứu viết bài ở góc độ đăng bài tạp chí hoặc trao đổi trên các diễn đàn khoa học pháp lý. Nhiều học viên Cao học đã thực hiện đề tài có nội dung tương tự hoặc có liên quan để làm đề
  • 6. 6 tài Luận văn thạc sĩ. Tác giả xin liệt kê một số công trình đã nghiên cứu, tham khảo có nội dung liên quan đến đề tài này như: Bộ Tư pháp (2010), Đặc san tuyên truyền pháp luật. Chủ đề đấu giá tài sản và pháp luật về đấu giá tài sản. Bộ Tư pháp (2010), Tài liệu Hội nghị tập huấn triển khai thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản. Học viện Tư pháp (2011), Tập bài giảng pháp luật đấu giá. Luận văn Thạc sĩ Quản lý công “Quản lý nhà nước về đấu giá quyền sử dụng đất ở trên địa bàn huyện Bố trạch, tỉnh Quảng Bình” (2014) của tác giả Trần Lích - Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn Thạc sĩ Hành chính công “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản” (2006) của tác giả Phạm Văn Sỹ - Học viện Hành chính Quốc gia. Tài liê ̣u Hội Nghi ̣ trực tuyến sơ kết 04 năm thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản. Tài liê ̣u tâ ̣p huấn về kỹ năng quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản của Bộ Tư pháp tháng 10/2015. Bài “Một số vấn đề về xử phạt vi phạm hà nh chính trong lĩnh vực bá n đấu giá tà i sản” (2014), của tác giả Đoàn Văn Hường đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 9 năm 2014. Bài “Cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đối vớ i ngườ i thứ ba ngay tình trong mua tà i sản bá n đấu giá ” (2014) của tác giả Võ Hải Phương đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 12/2014. Bài “Nâng cao hiệu quả bá n đấu giá tà i sản trong thi hà nh á n dân sự" (2015) của tác giả Bùi Thi ̣Thu Hiền đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7 năm 2015. Tác giả thấy rằng, ở mỗi công trình, tác phẩm nêu trên đều có cách tiếp cận, với phạm vi nghiên cứu chung hay riêng khác nhau. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu, có đề xuất, kiến nghị trong lĩnh vực đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật
  • 7. 7 dân sự. Nhìn chung các công trình trên đã đóng góp cho công tác nghiên cứu lý luận, có những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản, với mong muốn làm cho các quy định pháp luật phát huy tính khả thi trong thực tiễn hơn nữa, một số kiến nghị đã được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá tài sản. Các tác giả nghiên cứu pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản là rất ít, nếu có cũng chỉ dừng lại ở việc nêu và phân tích các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản trên phương diện lý luận. Tổng hợp một số kiến nghị cụ thể, đáng chú ý ở các công trình trên gồm: tăng cường tính xã hội hóa của hoạt động bán đấu giá tài sản, tạo môi trường bình đẳng tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản với các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; đề xuất ban hành Luật về bán đấu giá tài sản trên cơ sở những quy định về đấu giá tài sản; quy định cụ thể về tiêu chuẩn, trình độ của người điều hành đấu giá; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến đông đảo tầng lớp nhân dân pháp luật về đấu giá tài sản; bổ sung quy định về từ chối mua tài sản trúng đấu giá và quyền ưu tiên thuộc về người trả giá liền kề. Ngoài ra, còn nhiều kiến nghị mang tính định hướng chung, góp phần hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu và có kiến nghị cụ thể, nhằm góp phần hoàn thiện pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản - với tư cách là một hoạt động di ̣ch vụ đặc thù chịu sự điều chỉnh của pháp luâ ̣t về bán đấu giá tài sản. Vì vậy, tác giả chọn đề tài“Phá p luật về quản lý bá n đấu giá tà i sản từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm luận văn tha ̣c sĩ chuyên ngành Luâ ̣t hiến pháp và Luâ ̣t hành chính là không trùng lắp với bất kỳ công trình nào trước đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Phân tích các hạn chế, bất cập thực hiện pháp luật trong hoạt động bán đấu giá, bất cập trong quản lý về bán đấu giá, tìm nguyên nhân của các hạn chế, bất cập qua thực tiễn tại tỉnh Gia Lai. - Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tài sản.
  • 8. 8 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt mục tiêu trên, nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Trình bày và làm sáng rõ những cơ sở lý luận về bán đấu giá; pháp luật về quản lý bán đấu giá tài sản. - Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá; đề xuất biện pháp quản lý bán đấu giá tài sản trên đi ̣a bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về hoạt động bán đấu giá tài sản bao gồm các văn bản sau: Các quy định về đấu giá tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại 2005, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luâ ̣t Xử lý vi pha ̣m hành chính năm 2012, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản…, các văn bản quy định về đấu giá hàng hóa đặc thù như đấu giá hàng dự trữ quốc gia, đấu giá hàng hóa lưu giữ bằng đường biển . . . Thực tiễn hoạt động bán đấu giá tài sản theo quy định pháp luật tại các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p tại tỉnh Gia Lai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai. - Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến 31.12.2015 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
  • 9. 9 Cơ sở lý luận của nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý bán đấu giá tài sản. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: Phương pháp phân tích: Tác giả phân tích những quy định tại Bộ Luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luâ ̣t Xử lý vi pha ̣m hành chính 2012, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và ở các văn bản pháp luật khác có quy định về bán đấu giá tài sản... Phương pháp so sánh: Qua phân tích các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản, đưa ra so sánh, đối chiếu ở các văn bản khác nhau để tìm ra những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo khi quy định về cùng một vấn đề bán đấu giá để có kiến nghị, đề xuất phù hợp. Phương pháp khảo sát thực tiễn: Không chỉ nghiên cứu vấn đề ở lý luận, tác giả còn đến các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp để khảo sát thực tiễn, thu thập số liệu, tổng hợp các vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng pháp luật về bán đấu giá tài sản theo quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t. Phương pháp thống kê, tổng hợp: Khi đã tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau, tác giả thống kê, tổng hợp lại cả quá trình nghiên cứu và quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật để đưa ra kết luận chung, có cách nhìn nhận đánh giá vấn đề một cách toàn diện, khách quan giữa quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản, Luận văn đã phân tích cơ sở lý thuyết để hình thành các quy định pháp luật trực tiếp điều chỉnh các hoạt động đấu giá tài sản, đặc điểm, bản chất của bán đấu giá trên thế giới và tại Việt Nam. Đề tài góp phần hệ thống hóa các quy đi ̣nh của pháp
  • 10. 10 luâ ̣t về quản lý bán đấu giá tài sản. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Phân tích, đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý bán đấu giá tài sản ở tỉnh Gia Lai qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bán đấu giá tài sản theo quy định pháp luật ở tỉnh Gia Lai trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người hoạt động trong lĩnh vực bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tài sản . 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về quản lý bán đấu giá. - Chương 2: Thực tra ̣ng pháp luật và tổ chứ c thực hiê ̣n pháp luâ ̣t quản lý bán đấu giá tài sản ở tỉnh Gia Lai. - Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý bán đấu giá.
  • 11. 11 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢ N LÝ BÁN ĐẤU GIÁ TÀ I SẢ N 1. 1. Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và hình thứ c bán đấu giá tài sản 1.1.1.1. Khái niệm - Đấu giá: Ở góc độ khái quát nhất, đấu giá là một hình thức mua bán hàng hóa công khai mà người trả giá cao nhất là người trúng đấu giá. Theo từ điển kinh tế học hiện đại: “Đấu giá (auctions) là một kiểu thị trường trong đó người mua tiềm tàng đặt giá cho hàng hóa chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công bố của người bán”[16, tr.62]. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Bán đấu giá là bán theo phương thức để cho những người mua công khai trả giá, ai trả giá cao nhất thì bán:”[1, tr.95], hoặc “Bán đấu giá là bán bằng hình thức để cho những người mua lần lượt trả giá, ai trả giá cao nhất thì được mua”[47, tr.46]. Theo Từ điển Luật học: “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản”[46, tr.240]. Ở góc độ pháp lý, định nghĩa về bán đấu giá được quy định trong các điều luật cụ thể của pháp luật mỗi quốc gia: Điều 3 Luật Bán đấu giá tài sản nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy định “Bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản công khai, theo đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất”[49]. Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam quy định “Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý muốn của chủ sở hữu hoặc pháp luật có quy định”[25, tr.156]. Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai
  • 12. 12 theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này”[11, tr.2]. “Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó, người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất”[28, tr.48]. Ở Việt Nam, pháp luâ ̣t quy định về hoạt động bán đấu giá ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau tùy thuộc vào đối tượng của hoạt động này. Tuy vậy, về bản chất, bán đấu giá là hình thức mua bán công khai, có nhiều người cùng tham gia trả giá, theo trình tự thủ tục nhất định, đối tượng đưa ra đấu giá được bán cho người chấp nhận mua ở mức giá cao nhất. - Tài sản (asset) theo định nghĩa của Từ điển kinh tế, tài chính ngân hàng của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Lê Văn Tề (NXB Thanh niên-1999) là một vật thuộc quyền sở hữu cá nhân biểu hiện dưới hình thức giá trị hoặc theo David W.Pearce thì: “Tài sản là một thực thể có giá trị thị trường hoặc giá trị trao đổi và là bộ phận cấu thành của cải hay tài sản của chủ sở hữu”. Theo quy định của Bộ Luật dân sự Việt Nam thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Pháp luật Việt Nam chia tài sản thành hai loại bất động sản và động sàn. “Bất động sản bao gồm đất đai, nhà, các tài sản khác gắn liền với đất đai và những loại tài sản theo quy định của pháp luật. Động sản không phải là bất động sản”[25, tr.66-67]. Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản cũng xác định các loại tài sản bán đấu giá chỉ bao gồm: Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao dịch bảo đảm quy định phải xử lý bằng bán đấu giá; Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
  • 13. 13 Các tài sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật. - Bán đấ u giá tài sản: Theo quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua bán hàng, tài sản công khai mà những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi trả giá cao nhất và người bán đấu giá đồng ý bán bằng cách gõ búa. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định của pháp luật của hầu hết các nước, định nghĩa về bán đấu giá tài sản thường được quy định trong những điều luật cụ thể. Chẳng hạn Điều 3 Luật về bán đấu giá tài sản nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy định “Bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản công khai, theo đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất”[49, tr.38-39]. Đạo luật của Floriada năm 2003 đưa ra khái niệm “Bán đấu giá tuyệt đối” là cuộc bán đấu giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà hàng hoá sẽ được bán cho người trả giá cao nhất. Còn Quy chế của Ủy ban đấu giá bang Alabama (Hoa kỳ) đưa ra khái niệm: “Bán đấu giá là việc bán công khai một tài sản cho người trả giá cao nhất”. Ở Viê ̣t Nam, ta ̣i Khoản 1, Điều 2, Nghi ̣đi ̣nh 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định: “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao cho đến khi có người trả giá cao nhất”[11, tr.2]. 1.1.1.2. Đặc điểm Bán đấu giá tài sản là một hình thức bán tài sản công khai nhằm bán được tài sản với giá cao nhất. Theo quy định của pháp luật thì việc chia các loại hình đấu giá được xem xét trong từng lĩnh vực cụ thể: Chẳng hạn trong lĩnh vực thương mại, đấu giá là một trong những hoạt động thương mại cụ thể, do thương nhân tiến hành bằng hành vi thương mại của mình, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất. Trong lĩnh vực dân sự thì bản chất đấu giá là các giao dịch mua bán tài sản thông qua trung gian, theo trình tự thủ tục luật định. Còn trong các hình thức đấu giá cho các đối tượng cụ thể khác như đấu giá quyền sử dụng đất,
  • 14. 14 đấu giá hàng hóa dự trữ quốc gia, đấu giá quyền khai thác khoáng sản, . . . thì đấu giá nhằm lựa chọn người mua hàng hóa, dịch vụ trả giá cao nhất và khả thi nhất. Đấu giá là một hành vi pháp lý, có thể là một hành vi dân sự hoặc một hoạt động thương mại độc lập của thương nhân. Đối tượng của bán đấu giá là tài sản hoặc hàng hóa thương mại được phép lưu thông, quan hệ đấu giá được xác lập dưới những hình thức nhất định. Là một trong các hình thức mua bán, bán đấu giá mang những đặc điểm chung của hoạt động mua bán. Tuy nhiên, đấu giá cũng có những đặc điểm riêng khác biệt so với các hoạt động mua bán thông thường khác, cụ thể: Thứ nhất, đấu giá là hình thức mua bán công khai nhất. Đặc điểm nổi bật này của đấu giá cũng là một trong những nguyên tắc của hoạt động mua bán thông qua đấu giá. Tại Điều 188 Luật Thương mại năm 2005 quy định “Việc đấu giá hàng hoá trong thương mại phải được thực hiện theo nguyên tắc công khai, trung thực, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia”[28, tr.48]. Khoản 1 Điều 3 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản cũng quy định đặc điểm công khai của hoạt động mua bán tài sản bằng việc quy định nguyên tắc sau: “Việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo nguyên tắc công khai, liên tục, khách quan, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia”[11, tr.2]. Như vậy, tính công khai của hình thức bán đấu giá được quy định trong Luật Thương mại năm 2005, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và các văn bản quy định đấu giá các đối tượng cụ thể khác, thể hiện ở việc công khai các thông tin liên quan đến tài sản, người đăng ký tham gia đấu giá có thể trực tiếp xem tài sản đưa ra đấu giá; công khai thông báo và niêm yết thông báo bán đấu giá tài sản với đầy đủ các thông tin cần công khai như về thời gian, địa điểm đấu giá; tên, địa chỉ của người tổ chức đấu giá; tên, địa chỉ của người có tài sản; danh mục tài sản, số lượng, chất lượng tài sản; giá khởi điểm; thông tin cần thiết liên quan đến tài sản; địa điểm, thời gian trưng bày tài sản; địa điểm, thời gian tham khảo hồ sơ về tài sản; địa điểm, thời gian đăng ký mua tài sản.
  • 15. 15 Tại cuộc đấu giá, mọi hoạt động cũng phải công khai như về giá khởi điểm, về người mua trúng đấu giá, . . . Về yêu cầu công khai tại cuộc bán đấu giá, Điều 201 Luật Thương mại năm 2005 quy định cụ thể như sau: Đối với phương thức trả giá lên, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác giá đã trả sau cùng cao hơn giá người trước đã trả ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá chỉ được công bố người mua tài sản bán đấu giá, nếu sau ba lần nhắc lại giá người đó đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn. Đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác từng mức giá được hạ xuống thấp hơn giá khởi điểm ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá phải công bố ngay người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua tài sản đấu giá. Đối với hình thức mua bán thông thường thì yêu cầu về tính công khai là không bắt buộc, chỉ khi nào người bán cần nhiều người trả giá hoặc chủ ý công khai bán tài sản thì việc mua bán được công khai rộng rãi. Nhiều trường hợp, một trong các bên hoặc cả người bán và người mua không muốn công khai thì việc mua bán cũng được giữ bí mật, việc không công khai này cũng không vi phạm pháp luật mà vẫn có hiệu lực đối với các bên. Trong hình thức đấu thầu thì yêu cầu công khai là không tuyệt đối với tất cả các trình tự thủ tục và các giai đoạn, nhưng giá cả trong đấu thầu lại luôn là yết tố bí mật. Khác với các hình thức mua bán trên, đặc tính cơ bản của đấu giá là công khai toàn bộ trình tự, thủ tục, các thông tin liên quan đến cuộc đấu giá. Thứ hai, đấu giá là hình thức mua bán thông qua trung gian. Đây không phải là đặc tính tuyệt đối của bán đấu giá, nhưng việc bán đấu giá thường được thực hiện thông qua một bên trung gian. Tính trung gian trong hoạt động bán đấu giá được hình thành từ rất lâu đời. Có thể nói đặc tính này gắn với sự ra đời của hoạt động bán đấu giá. Từ thế kỷ XVIII, tại Anh đã có hai nhà đấu giá chuyên nghiệp ra đời và duy trì hoạt động cho tới ngày nay là Sotherby năm 1744 và Christie năm 1766. Tại Pháp từ thế kỷ XV
  • 16. 16 hoạt động đấu giá đã phát triển thông qua các tổ chức chuyên đóng vai trò làm trung gian tổ chức các cuộc bán đấu giá. Tại Trung Quốc, doanh nghiệp bán đấu giá chuyên nghiệp China Guardian Auction mới thành lập năm 1993 nhưng đã thể hiện được vị thế với vai trò làm trung gian trong hoạt động đấu giá, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức đấu giá có lịch sử vài trăm năm như ở các nước đã phát triển. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đấu giá đều thực hiện vai trò chính là làm trung gian cho các giao dịch mua bán thông qua đấu giá. Tại Việt Nam, theo pháp luật hiện hành thì vai trò trung gian này được xác định thông qua các tổ chức thực hiện việc bán đấu giá có tên gọi là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc các doanh nghiệp có chức năng thực hiện nghiệp vụ bán đấu giá hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Ở các tổ chức bán đấu giá này phải có đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá. Các tổ chức trung gian này thường được thành lập, tồn tại dưới các hình thức sau: + Các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập theo quy định của Chính phủ. + Doanh nghiệp chuyên thực hiện chức năng kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản. Đây là tổ chức được thành lập với chức năng duy nhất đó là kinh doanh dịch vụ đấu giá, mà không có chức năng kinh doanh nào khác. Có nghĩa là doanh nghiệp chuyên thực hiện hoạt động đấu giá trên cơ sở ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ bán đấu giá với các tổ chức, cá nhân có tài sản muốn bán thông qua hình thức bán đấu giá. Để tổ chức bán đấu giá, doanh nghiệp này ký hợp đồng nhận ủy quyền bán đấu giá tài sản, tài sản từ các tổ chức cá nhân có nhu cầu. + Một bộ phận của doanh nghiệp, tập đoàn có chức năng bán đấu giá tài sản, hàng hóa của doanh nghiệp, tập đoàn mình làm ra hoặc nhận được ủy quyền từ các cá nhân, tổ chức khác. + Hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt: Pháp luật Việt Nam có quy định ngoài các Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá và các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh dịch vụ bán đấu giá.
  • 17. 17 Trong trường hợp cần thiết, hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt cũng được thành lập để bán đấu giá tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất có giá trị lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá. Vì là hội đồng đặc biệt để bán đấu giá nên thành phần của hội đồng bán đấu giá tài sản cũng rất đặc biệt, bao gồm đại diện của cơ quan có thẩm quyền quyết định bán đấu giá tài sản, cơ quan tài chính, cơ quan tư pháp cùng cấp và đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan. Thứ ba, trong hoạt động đấu giá, giá bán thành công chính thức do bên mua xác định. Trong hình thức bán đấu giá, bên có tài sản muốn bán xác định giá khởi điểm. Bên mua chấp nhận trả giá cao nhất so với giá khởi điểm theo phương thức trả giá lên hoặc là người đầu tiên chấp nhận giá theo phương thức đặt giá xuống là người mua trúng đấu giá. Đối tượng đưa ra bán đấu giá sẽ được bán theo giá cao nhất do người mua xác định. Gián tiếp nêu lên đặc điểm này của đấu giá, Điều 185 Luật Thương mại năm 2005 quy định đối với phương thức trả giá lên thì người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua tài sản, còn đối với phương thức đặt giá xuống thì người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ là người có quyền mua tài sản. Khoản 3 Điều 2 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định: “Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm; trong trường hợp không có người trả giá cao hơn giá khởi điểm thì tài sản được bán bằng giá khởi điểm””[11, tr.2]. Đây cũng là một đặc điểm khác biệt hoàn toàn với hình thức mua bán thông thường hoặc với cả hình thức đấu thầu. Trong hình thức mua bán thông thường, bên bán và bên mua có thể thỏa thuận về giá cả thông qua trao đổi trực tiếp, cả hai bên đều có quyền thay đổi mức giá trong quá trình thương lượng, đến khi hai bên thống nhất mức giá cuối cùng thì việc mua bán hoàn thành. Trong hình thức đấu thầu thì ngược lại hoàn toàn, bên mua lại không phải là người quyết định về giá
  • 18. 18 trúng thầu, giá trúng thầu sẽ do nhà cung cấp là người bán xác định, khi người bán đưa ra một mức giá phù hợp nhất thì bên mua sẽ chấp nhận. Thứ tư, hoạt động bán đấu giá được thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Trình tự thủ tục này do luật hoặc các văn bản dưới luật hướng dẫn quy định. Khi các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc đấu giá phải tuân thủ, như về cách thức xác định giá khởi điểm, về thông báo bán đấu giá, về số tiền đặt trước, về nguyên tắc, về không gian, thời gian, cách trả giá, nội quy phiên đấu giá,. . . Đặc điểm này rất khác so với cách mua bán thông thường, việc mua bán thông thường đôi khi chỉ cần hai bên thỏa thuận miệng với nhau một lần, thỏa thuận qua thư, qua điện thoại, ở bất kỳ không gian thời gian nào cũng được, các bên không bị bắt buộc phải theo một trình tự thủ tục nhất định nào. Khi các bên thống nhất cụ thể với nhau về đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán và các nội dung thỏa thuận khác của việc mua bán thông thường là giao dịch hoàn tất. Thứ năm, kết quả của việc mua bán thông qua đấu giá được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trong khi việc mua bán thông thường trong một số trường hợp dù đã hoàn thành rồi vẫn chứa đựng nhiều rủi ro về pháp lý mà bên bán hoặc bên mua không thể lường trước được. Đôi khi người bán thực hiện việc bán tài sản, hàng hóa nhằm để che dấu một giao dịch khác, hoặc việc bán nhằm tẩu tán tài sản, nếu bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu và người mua luôn là người phải gánh chịu rủi ro, thiệt hại trước tiên. Chứng minh cho việc có sự không an toàn trong hoạt động mua bán thông thường (mặc dù người mua không có lỗi). Khác với việc mua bán thông thường, đối tượng được đưa ra đấu giá thường được thẩm định kỹ về thủ tục pháp lý như về nguốc gốc, chủ sở hữu, khả năng chuyển quyền sở hữu cho người mua trúng đấu giá, các biện pháp bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của người tham gia đấu giá. . . . Khẳng định giá trị pháp lý của các giao dịch thông qua đấu giá được pháp luật bảo hộ tuyệt đối cho người mua, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một
  • 19. 19 giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa"[25, tr.52]. Như vậy, pháp luật bảo hộ tuyệt đối giá trị pháp lý đối với giao dịch mua tài sản khi người mua được tài sản thông qua hình thức đấu giá. 1.1.1.3. Các nguyên tắc bán đấu giá Nhằm bảo đảm cho hoạt động đấu giá tài sản diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm sự thống nhất quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền nghĩa vụ các bên tham gia, pháp luâ ̣t về bán đấu giá tài sản quy đi ̣nh một số nguyên tắc cụthể sau: - Nguyên tắc công khai Nguyên tắc này yêu cầu trong hoạt động bán đấu giá tài sản phải công khai tất cả các thông tin liên quan đến tài sản bán đấu giá, công khai ngay từ giai đoạn ra thông báo bán đấu giá về các thông tin như: chủ sở hữu tài sản, người có tài sản bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá tài sản; công khai về giá khởi điểm, thời gian, địa điểm bán đấu giá; công khai về các đặc tính kỹ thuật, tình trạng tài sản, số lượng, chất lượng tài sản. Tại cuộc bán đấu giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai tất cả các thông tin liên quan như: giới thiệu từng tài sản bán đấu giá, nhắc lại giá khởi điểm, trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá và yêu cầu người tham gia đấu giá trả giá. . . - Nguyên tắc trung thực Nguyên tắc này yêu cầu tất cả thông tin liên quan đến cuộc bán đấu giá đều phải trung thực, khách quan, không sai lệch. Các thông tin về tài sản, người có tài sản bán đấu giá, người tổ chức bán đấu giá, nguồn gốc xuất sứ tài sản, chất lượng tài sản. . . đều chính xác, các bên không được gian dối, không được đăng thông tin sai lệch về việc đấu giá. Nếu việc bán đấu giá thông qua ủy quyền thì người tổ chức bán đấu giá có quyền yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến tài sản bán đấu giá, tạo điều kiện
  • 20. 20 cho người tổ chức bán đấu giá hoặc người tham gia đấu giá kiểm tra tài sản bán đấu giá. Người đăng ký tham gia đấu giá cũng phải trung thực về các thông tin từ khi đăng ký tham gia đấu giá. - Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên Nguyên tắc này thể hiện ở yêu cầu bảo đảm cho các bên tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản được tự thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của mình, được yêu cầu các bên liên quan phải thực hiện đúng nội dung công việc như đã công khai thông báo. 1.1.1.4. Hình thức bán đấu giá Theo Điều 33 Nghi ̣ đi ̣nh 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy đi ̣nh hình thứ c đấu giá: “Tổ chức bán đấu giá tài sản có thể lựa chọn một trong các hình thức đấu giá sau đây để tiến hành cuộc bán đấu giá tài sản: Đấu giá trực tiếp bằng lời nói; Đấu giá bằng bỏ phiếu. Các hình thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản thỏa thuận”[11, tr.12]. Đấu giá trực tiếp bằng lời nói: Bắt đầu phiên đấu giá, Đấu giá viên điều hành phiên đấu giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm, bước giá. Những người tham gia đấu giá sẽ đặt giá cũng bằng lời nói để người điều hành đấu giá biết. Đối với hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói có ưu điểm là sự trả giá của mọi người mua đều công khai, người trả giá cao nhất được xác định ngay mà không phải mất nhiều thời giờ để so sánh, vì thế mà cuộc đấu giá nhanh chóng kết thúc. Đấu giá bằng bỏ phiếu: Đấu giá viên điều hành đấu giá sẽ công bố “…số vòng bỏ phiếu, cách thức tiến hành bỏ phiếu phải được tổ chức bán đấu giá tài sản hoặc đấu giá viên thỏa thuận với người có tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp thực hiện cách thức bỏ phiếu nhiều vòng thì mỗi người tham gia đấu giá được phát một tờ phiếu trả giá, ghi giá muốn trả vào phiếu của mình và bỏ phiếu vào hòm phiếu. Sau khi thu hết các phiếu đã phát, đấu giá viên công bố mức giá trả cao nhất của vòng bỏ phiếu mà không công bố tên của người đã trả giá cao nhất, tiếp tục phát phiếu cho những người tham gia đấu giá để bắt đầu trả giá cho vòng tiếp theo. Cuộc
  • 21. 21 bán đấu giá kết thúc khi không còn ai yêu cầu trả giá tiếp”[6, tr.7-8]. Với hình thứ c đấu giá này tuy thủ tục có phức tạp và làm mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này hạn chế được tình trạng chạy đua của những người mua nâng giá lên một cách quá cao so với giá trị thực của tài sản. Các hình thức đấu giá khác: Có nhiều hình thứ c đấu giá khác đã được các tổ chứ c bán đấu giá chuyên nghiê ̣p áp dụng như: Đấu giá bằng bỏ phiếu kín ngay sau khi đăng ký tham gia đấu giá, nghĩa là người tham gia đấu giá đến đăng ký đấu giá thực hiê ̣n xong các thủ tục cần thiết theo quy đi ̣nh thì đồng thời được phát cho một phiếu trả giá mua tài sản và người tham gia đấu giá viết phiếu trả giá và niêm phong la ̣i gử i cho tổ chứ c bán đấu giá giữ, đến khi phiên bán đấu giá diễn ra thì đấu giá viên sẽ bóc lần lượt từ ng phiếu trả giá và công bố giá đã trả của từ ng người tham gia và người trả giá cao nhất là người trúng đấu giá. Hình thứ c đấu giá này có ưu điểm là ha ̣n chế bớt tình tra ̣ng thông đồng giữa những người tham gia đấu giá với nhau nhưng có nhược điểm là không trao cơ hội cho những người có nhu cầu trả giá cao hơn để mua tài sản. Ngoài ra, còn các hình thứ c đấu giá khác như đấu giá thông qua mạng Internet, … 1.1.1.5. Vai trò của hình thức bán đấu giá trong hoạt động mua bán - Đối với nền kinh tế Bán đấu giá là hình thức mua bán công khai, thông qua hoa ̣t động bán đấu giá quyền, lợi ích của các bên được công khai thừa nhận và được pháp luật bảo hộ, hoạt động mua bán thông qua đấu giá được minh bạch hơn, các giao dịch được an toàn, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, ít tiềm ẩn rủi ro. Thông qua hoạt động bán đấu giá, sẽ hạn chế các tranh chấp thường nảy sinh trong các giao dịch mua bán thông thường, các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho các bên tham gia đấu giá cũng được bảo đảm. Đối với các bên tham gia đấu giá Ngoài vai trò chung tác động trực tiếp đối với nền kinh tế, hoạt động bán đấu giá cũng có vai trò tích cực đối với các bên tham gia đấu giá, được thể hiê ̣n dưới những khía ca ̣nh sau:
  • 22. 22 Đối với bên có tài sản: Bên có tà i sản luôn đạt được giá trị bán tà i sản vớ i giá cao nhất: Thông qua bán đấu giá, bên có tài sản sẽ chọn được bên mua trả giá cao nhất cho tài sản của mình. Khi thực hiện việc bán đấu giá, bên có tài sản hoặc tổ chức bán đấu giá thông báo, niêm yết công khai thông báo bán đấu giá, đồng thời đăng thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy đi ̣nh để người có nhu cầu mua tài sản biết, đăng ký tham gia đấu giá. Chính vì vậy, tài sản khi bán thông qua hình thức bán đấu giá có nhiều người tranh nhau trả giá cao để mua được tài sản và từ đó tài sản sẽ được bán với giá cao nhất. Bên có tài sản sẽ bán được tài sản với giá cao nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với mua bán tài sản thông thường. Bên có tà i sản có thể thu hồi tiền bán tài sản nhanh chóng: Thông qua hoạt động bán đấu giá, với nội quy, quy chế cụ thể từng phiên đấu giá, chủ sở hữu tài sản (bên có tài sản) ký hợp đồng ủy quyền cho tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiê ̣p, tổ chức này chịu trách nhiệm thu tiền bán tài sản khi cuộc bán đấu giá thành. Người mua tài sản bán đấu giá phải thanh toán toàn bộ số tiền mua tài sản trong một thời hạn nhất định đã quy đi ̣nh trong quy chế bán đấu giá hoă ̣c hợp đồng mua bán tài sản mà không được dây dưa kéo dài. Người tham gia đấu giá phải nộp một khoản tiền đặt trước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu người mua trúng đấu giá tài sản không nộp tiền mua tài sản đúng hạn, vi pha ̣m quy chế bán đấu giá thì sẽ bị mất toàn bộ số tiền đặt trước. Bên có tà i sản tiết kiệm được các chi phí liên quan đến việc bán tà i sản: Các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p luôn có chức năng, có chuyên môn và trình độ nhất định trong lĩnh vực tổ chức bán đấu giá. Bên có tài sản thông qua hình thức bán đấu giá sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí do không phải thực hiện các hoạt động không chuyên nghiệp. Hoạt động bán đấu giá tài sản được thực hiê ̣n chuyên nghiệp nên trình tự thủ tục luôn được bảo đảm đúng quy định của pháp luâ ̣t, với các chi phí quản lý, chi phí thuê dịch vụ liên quan đến hoạt động bán đấu giá được các bên tính toán sao cho tiết kiệm nhất và mang lại hiê ̣u quả kinh tế tối ưu nhất. Đối với bên mua tài sản:
  • 23. 23 Bên mua giảm thiểu được các rủi ro liên quan đến nguồn gốc và chất lượng của tà i sản: Tài sản được đưa ra đấu giá thông thường được bên có tài sản và bên tổ chức bán đấu giá kiểm tra về nguồn gốc xuất sứ, tính hợp pháp của tài sản, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với thông báo bán đấu giá. Bên mua tài sản không phải mất nhiều thời gian, chi phí để thương lượng mua bán, cũng không phải mất thời gian thẩm định về nguồn gốc chất lượng của tài sản được đưa ra đấu giá, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p sẽ thay khách hàng làm việc này. Các thủ tục của người bán, người mua hàng, cũng như quy trình tổ chức bán đấu giá được thực hiện công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, các bên tham gia hoàn toàn yên tâm, các thông tin về tài sản đấu giá luôn được công khai xuyên suốt quá trình đấu giá. Tổ chức bán đấu giá chịu trách nhiệm bồi thường nếu tài sản không đúng với thông báo trước đó. Bên mua sẽ được mua tà i sản với giá của chính mình: Với nguyên tắc cơ bản là công khai trong hoạt động bán đấu giá, người mua tài sản được thông báo kỹ về chất lượng chủng loại, toàn bộ các thông tin liên quan đến tài sản. Người tham gia đấu giá được trực tiếp xem, giám định tài sản và tự mình quyết định đưa ra mứ c trả giá mua tài sản phù hợp với giá trị sử dụng mong muốn. Người mua tự định giá tài sản cho riêng mình trước khi quyết định mua. Cùng một mức giá, với người này là rất cao, nhưng với người mong muốn mua được tài sản lại là phù hợp ở mức giá đó. Đối với cá c tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p: Thông qua vai trò làm trung gian, tổ chức bán đấu giá chuyên nghiê ̣p được bên có tài sản trả các chi phí phù hợp trực tiếp phát sinh từ hoạt động bán đấu giá và khoản phí phần trăm (%) trên tổng giá trị tài sản bán đấu giá thành. Bên mua khi tham gia đấu giá phải nộp một khoản tiền đặt trước để bảo đảm cho việc tham gia phiên đấu giá, bảo đảm cho việc đấu giá thành sẽ mua tài sản. Vì bất kỳ lý do gì bên mua không tham gia đấu giá hoặc từ chối mua tài sản trúng đấu giá thì số tiền đặt trước thuộc về tổ chức bán đấu giá. Bán đấu giá là hình thức bán hàng thường được thực hiện thông qua trung gian, do các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá thực hiện. Khi hoạt động mua
  • 24. 24 bán thông qua đấu giá phát triển, tạo điều kiện thu hút nhiều nhân lực cho ngành này, giải quyết nhiều việc làm hơn cho xã hội. Hoạt động bán đấu giá phát triển sẽ đem lại nguồn thu tài chính nhiều hơn cho chính các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá, làm giàu cho cho các tổ chứ c này. Thông qua đó, việc thu ngân sách từ các loại thuế mà tổ chức bán đấu giá phải nộp cũng tăng lên, tăng thu cho ngân sách, tăng nguồn bảo đảm cho các khoản chi an sinh xã hội của Nhà nước. 1.1.2. Lịch sử ra đời, phát triển và một số hình thức đấu giá tiêu biểu trên thế giới 1.1.2.1. Lịch sử ra đời Mua bán là hoạt động chỉ có do con người thực hiện, nhưng hoạt động mua bán không ra đời cùng sự xuất hiện của loài người. Thời kỳ Công xã nguyên thủy, cuộc sống loài người còn mông muội, các nhu cầu tồn tại sự sống dựa vào săn bắn, hái lượm là chính. Công cụ sản xuất do con người tạo ra kết hợp với các yếu tố tự nhiên làm cho của cải trong xã hội ngày càng dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng. Từ đó xuất hiện hoạt động trao đổi, mua bán, các bên đều tự do thỏa thuận xác lập giao dịch nhằm đạt mục đích của mình. Sau thời gian hoạt động mua bán xuất hiện, đấu giá với vai trò là một hình thức của hoạt động mua bán cũng ra đời. Từ những năm 500 trước Công nguyên, hình thức đấu giá đã được hình thành. Giai đoạn đầu mới hình thành, các bên tham gia tự nguyện tuân theo nguyên tắc bất thành văn là hàng hóa có giá khởi điểm, ai trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người trúng đấu giá. Đối tượng được đưa ra bán đấu giá thời kỳ này cũng rất đặc biệt, là những phụ nữ trẻ đẹp, người tham gia đấu giá chỉ là đàn ông. Người phụ nữ bị coi như một thứ hàng hóa đem ra đấu giá công khai, người đàn ông trả giá cao nhất sẽ là người được sở hữu người vợ do đấu giá thành. Sau đó, trong các cuộc chiến tranh xâm lược, các chiến binh chiếm giữ được tài sản hay vũ khí mà không có nhu cầu sử dụng thì cũng được đem ra đấu giá, những chiến binh La Mã dùng đấu giá để bán những tài sản mà họ có được sau những cuộc chinh phục. Đến thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ, nô lệ bị xã hội coi là một thứ tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ nô, nô lệ là mặt hàng rất thông dụng được các chủ nô mua và bán thông qua hình thức đấu giá.
  • 25. 25 Đến thế kỷ XV hoạt động bán đấu giá và nghề đấu giá tại Pháp đã rất phát triển, nhiều tổ chức đấu giá chuyên nghiệp được thành lập. Cùng với đó, đấu giá đã trở nên rất phổ biến tại Anh, nơi những quán rượu tổ chức đấu giá cho những tác phẩm nghệ thuật hay các đồ dùng nội thất. Đến thế kỷ XVIII, cũng tại Anh, hai nhà đấu giá được ra đời là Sotherby năm 1744 và Christie năm 1766, đến nay hai hãng đấu giá này vẫn là những hãng tổ chức đấu giá nổi tiếng… Từ khi hình thành cho đến nay có rất nhiều hình thức đấu giá đã được sử dụng, điều đó cho thấy sự phát triển của loại hình kinh doanh này như một phần không thể thiếu của sự phát triển kinh tế thế giới. 1.1.2.2. Một số hình thức đấu giá tiêu biểu trên thế giới Với vai trò là một hình thức của hoạt động mua bán, trên thế giới đã và đang tồn tại nhiều loại hình đấu giá. Tuy nhiên, khi xem xét tiếp cận dưới các góc độ, tiêu chí và cách nhìn khác nhau, mỗi loại hình đấu giá đều có những ưu điểm và nhược điểm của mình. Trong giới hạn phạm vi của đề tài này thì tác giả đã tổng hợp một số hình thức đấu giá điển hình trên thế giới nhằm mục đích tham khảo đó là: - Căn cứ vào phương thức trả giá, có thể chia đấu giá ra thành: + Đấu giá theo kiểu Anh: Đây là hình thức được nhiều người biết đến nhất, tiêu biểu cho phương thức trả giá lên. Mọi người tham gia trả giá công khai với nhau, giá đưa ra sau bao giờ cũng cao hơn giá đưa ra trước đó. Cuộc đấu giá kết thúc khi người ra giá cao nhất so với giá khởi điểm sẽ được mua được tài sản với giá mà mình đã trả. + Đấu giá theo kiểu Hà Lan: Đây là hình thức đấu giá tiêu biểu cho phương thức đặt giá xuống, trong một sàn đấu giá kiểu Hà Lan truyền thống, giá khởi điểm để mọi người tham gia trả được coi là giá cao nhất. Nếu người tham gia phiên đấu giá không chấp nhận mua ngay mức giá khởi điểm, thì mức giá được hạ thấp dần cho tới khi có người mua chấp nhận mức giá đó hoặc chạm đến mức giá sàn dự định bán ra mà vẫn không có người mua thì thôi không bán nữa. - Căn cứ vào cách thức biểu đạt lời nói được dùng trong phiên đấu giá, có thể chia làm các hình thức:
  • 26. 26 + Đấu giá kín theo giá thứ nhất: Tất cả mọi người cùng đặt giá đồng thời, không ai biết giá của ai, người ra giá cao nhất là người được mua tài sản. + Đấu giá kín theo giá thứ hai (đấu giá Vickrey): Tương tự như đấu giá kín theo giá thứ nhất, tuy nhiên người thắng (là người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm) chỉ phải mua tài sản với mức giá cao thứ hai chứ không phải giá cao nhất mình đặt ra. - Căn cứ vào nội dung lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ, có các hình thức đấu giá sau: + Đấu giá nhượng quyền: Đây là hình thức đấu giá quyền sử dụng đối với những sản phẩm có thể được tái bản (bản thu âm, phần mềm, công thức làm thuốc...), người đấu giá đặt công khai giá lớn nhất của họ, người bán có thể xem xét kết thúc cuộc đấu giá bất cứ lúc nào khi chọn được mức giá kỳ vọng. Người thắng cuộc là người đặt giá bằng hoặc cao hơn giá được chọn, và sẽ nhận được phiên bản của sản phẩm. + Đấu giá theo kiểu đấu thầu (Đấu thầu): Hình thức này hoán đổi vai trò người bán và người mua. Người mua đưa ra bản yêu cầu báo giá cho một loại hàng hóa dịch vụ nào đó và các nhà cung cấp sẽ đưa ra giá thấp dần với mong muốn giành lấy gói thầu đó. Vào cuối buổi đấu thầu, người ra giá thấp nhất sẽ thắng cuộc. Người đi mua sản phẩm, dịch vụ sẽ chọn nhà thầu nào ra giá thấp nhất, hiệu quả nhất là người trúng thầu. Việc phân loại các hình thức đấu giá trên thế giới không chỉ dừng lại ở các tiêu chí trên, tùy theo phương pháp và mục đích tiếp cận mà có rất nhiều tiêu chí phân loại khác nhau. 1.2. Pháp luật về bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tại Việt Nam 1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bán đấu giá và quản lý bán đấu giá tại Việt Nam Hoạt động bán đấu giá có lịch sử hình thành từ lâu đời ở các nước có nền kinh tế phát triển. Ở nước ta, sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng thì nước ta mới khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
  • 27. 27 Xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế từ thời điểm này có chuyển biến căn bản, hài hòa với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Để phù hợp với những thay đổi trong các quan hệ kinh tế, các quy định pháp luật cũng được sửa đổi, bổ sung đồng bộ, đáp ứng được các yêu cầu trong tình hình mới. Cùng với xu thế chung đó, quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng được quy định tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 28 tháng 8 năm 1989 (Có hiệu lực từ ngày 01/01/1990). Với quy định về bán đấu giá tài sản trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, tuy các quy định chưa được toàn diện, chưa cụ thể chi tiết, nhưng đây là lần đầu tiên hoạt động bán đấu giá từ ngày nước Việt Nam độc lập, thống nhất được chính thức quy định trong một văn bản dướ i da ̣ng văn bản pháp luâ ̣t là Pháp lệnh. Chính từ mốc lịch sử quan trọng này, tác giả xin chia sự hình thành và phát triển của hình thức bán đấu giá tại Việt Nam thành các giai đoạn sau đây: - Giai đoạn 1: Trước năm 1990 Ở Việt Nam vào thời kỳ phong kiến chưa có quy định nào về bán đấu giá, từ khi thực dân Pháp sang đô hộ, hình thức bán đấu giá mới xuất hiện, tuy nhiên hoạt động này còn nhỏ lẻ chưa có một văn bản độc lập nào quy định. Nhìn chung hoạt động bán đấu giá ở Việt Nam ra đời khá muộn, được hình thành cùng với bộ máy cai trị của thực dân Pháp, thời kỳ đầu được tổ chức một cách sơ khởi và chỉ được xem là một bộ phận của Tư pháp do Tòa án thực hiê ̣n. Pháp luật thời kỳ này có quy định về bán đấu giá nhằm bảo đảm thi hành các phán quyết của Tòa án, bảo đảm kết quả công tác xét xử về dân sự đạt kết quả từ thực tiễn. Hoạt động bán đấu giá thời kỳ này chưa được pháp luật ghi nhận là một hoạt động kinh tế hay là một hoa ̣t động di ̣ch vụ. Chế độ thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị trên cả ba miền Bắc - Trung - Nam nhằm bảo đảm cho sự đô hộ lâu dài của chủ nghĩa thực dân. Do đó, hầu hết các văn bản pháp luật của thời kỳ này đều là khuôn mẫu của pháp luật “Mẫu quốc”. Các văn bản pháp luật thời kỳ này có: Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Hồng Việt Trung Kỳ và Hộ luật Nam Kỳ; về tố tụng có Bộ dân sự tố tụng Bắc Kỳ (1917) áp dụng tại Bắc Kỳ, Bộ dân sự tố tụng Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định ngày 16/3/1910 áp
  • 28. 28 dụng tại Nam Kỳ; Bộ Hộ sự, Thương sự tố tụng Trung Việt (1942) áp dụng tại Trung Kỳ. Như vậy, mỗi miền lại có các văn bản riêng song các văn bản đều xác định chung: Thừa phát lại có nhiệm vụ thi hành các bản án và thực hiện các hành vi tố tụng khác. Đối với trường hợp xử lý tài sản di nhượng được áp dụng theo quy định tại Dụ số 31 ngày 23/7/1934, về cách thức thi hành án thì Tòa án nào đã cho phép xử di nhượng thì cử ra một người thanh toán để quản trị tài sản của người mắc nợ để lấy hoa lợi và phân phát tiền phát mại tài sản. Khi phát mại nếu không có ai trả giá đã đặt thì người thanh toán tùy theo tình hình xin Tòa án cho hạ giá. Năm 1920 Tòa án Nam kỳ đã ra một phán quyết: “Nếu đến kỳ hạn người đi vay không đi chuộc lại thì người cho vay không thể đương nhiên trở thành chủ sở hữu của ruộng đất ấy mà phải kiện đến Tòa án xin đem bất động sản đã thế chấp đó ra phạt lãi bán đấu giá lấy món nợ thiếu”[36, tr.5]. Thực chất đây là một phán quyết của Tòa án, trong khi chưa có văn bản nào quy định cụ thể về trình tự thủ tục bán đấu giá tài sản, nhưng qua đó cũng có thể thấy rằng hình thức bán đấu giá đã tồn tại và đang được áp dụng thời bấy giờ tại Việt Nam. Vào năm 1936 Triều đình nhà Nguyễn đã ban hành Luật dân sự, Thương sự tố tụng được áp dụng cho các Tòa án xứ Bắc kỳ, trong đó có quy định về tài sản cưỡng chế và phát mãi tài sản. Sau đó ban hành Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật áp dụng cho xứ Trung kỳ, trong đó cũng quy định về phát mãi tài sản giống như Hộ Luật Bắc Kỳ. Sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, trên cơ sở các quy định trước đây và quyền tự quyết của quốc gia, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950. Tại Điều 19 Sắc lệnh đã quy định nội dung: Thẩm phán Tòa án huyện có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ mà chính Tòa án huyện hoặc Tòa án cấp trên đã tuyên. Việc cưỡng chế thi hành án được quy định khá cụ thể về thẩm quyền và đối tượng, theo đó Thẩm phán huyện có quyền được tổ chức cưỡng chế khi cần thiết. Đối tượng cưỡng chế là bất động
  • 29. 29 sản thì Điều 19 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 cũng quy đi ̣nh: “Việc phát mại đối tượng bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ.” Như vậy, thời kỳ trước năm 1954 việc phát mại tài sản (bản chất là bán đấu giá tài sản) do Thừa phát lại và Thẩm phán Tòa án huyện tổ chức theo lệnh của Tòa án. Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn là thuộc địa của Mỹ, nền kinh tế miền Bắc nước ta quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp, đời sống nhân dân rất khó khăn, tài sản chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt tối thiểu và các tư liệu sản xuất nhỏ. Việc phát mại tài sản phải tuân thủ nguyên tắc vừa bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ, vừa phải chú ý đến quyền lợi của người bị phát mại tài sản. Đối với tài sản là đối tượng để kê biên phát mại chỉ là những động sản. Theo Thông tư số 04-NCPL ngày 14/4/1966 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn nội dung sau: Tòa án chỉ cần kê biên những tài sản đủ để thi hành án, trong đó chú ý kê biên những tài sản có giá trị dễ bán để thi hành án (xe đạp, đồng hồ, radio, quạt máy, tre, xoan, gỗ, . . .). Nếu những tài sản đó không đủ bảo đảm để thi hành án thì mới kê biên đến nhà cửa. Đối với tư liệu sản xuất thì không được kê biên phát mại. Việc bán các tài sản kê biên có thể giao cho cơ quan Thương nghiệp, nơi nào chưa có cơ quan Thương nghiệp thì Tòa án tự đứng ra bán. Ở miền Nam, năm 1972 chế độ Miền Nam Cộng Hòa ban hành Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng, trong đó cũng có nhiều quy định về phát mãi tài sản để đảm bảo thi hành án, việc phát mãi tài sản này do các “Thừa phát lại” hoặc “Hỗ giá viên” có quyền thực hiện. Bản chất của việc phát mại tài sản được quy định tại Bộ luật này là đấu giá. Điều thứ 389 Bộ luật dân sự và Thương sự tố tụng năm 1972 quy định về thẩm quyền bán đấu giá tài sản “Đến ngày đã định, việc phát mại sẽ thực hiện do thừa phát lại hoặc do hỗ giá viên, trong phạm vi chức nhiệm của công lại này”. Mục đích cuối cùng của việc bán đấu giá tài sản nhằm để thanh toán các
  • 30. 30 nghĩa vụ tài sản của “con nợ” đối với “chủ nợ”, cụ thể như quy định “Trong trường hợp tài sản bị sai áp là giá khoán hay động sản, án văn sẽ hoán cải sự sai áp chi phó ra sai áp chấp hành; số tiền thâu được do sự phát mại sẽ dùng trả cho chủ nợ”[23]. Về đối tượng được đưa ra phát mại, Bộ luật đã quy định rất đa dạng, gồm động sản, bất động sản và cả hàng hóa. Đối tượng là hàng hóa được nhắc đến trong quá trình cưỡng chế, phát mại chỉ dừng lại ở mức độ nêu tên gọi thuộc động sản, hàng hóa là một phần của động sản, Luật không nêu cụ thể khái niệm hàng hóa là gì. Điều 385 Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng năm 1972 quy định các loại động sản bị cưỡng chế và có thể bị bán đấu giá để thi hành án “Nếu trong các động sản bị sai áp có hàng hóa, hàng hóa này sẽ được cân, đo lường tùy theo bản chất của mỗi thứ. Nếu có đồ bằng vàng, bạc, mỗi món đều phải được ghi rõ trọng lượng cùng tuổi vàng hoặc tuổi bạc”[23]. Việc bán đấu giá tài sản bị cưỡng chế cũng được niêm yết công khai, sau mười lăm ngày kể từ ngày niêm yết mới được tổ chức bán đấu giá “Sự phát mại đồ bị sai áp chỉ được thực hiện ít nhất mười lăm ngày sau khi đã được công bố bằng yết thị”[23]. Nhìn chung, những quy đi ̣nh về bán đấu giá trong chế độ Miền Nam cộng hòa đã được đề câ ̣p, điều chỉnh một số vấn đề cơ bản liên quan đến hoạt động bán đấu giá. Tuy nhiên, hoạt động bán đấu giá ở chế độ này nhằm mục đích để thi hành các phán quyết của Tòa án, phục vụ công tác Tư pháp là chính, mà chưa là hoạt động thương mại hay hoạt động đấu giá tài sản trong giao dịch dân sự. - Giai đoạn 2: Từ năm 1990 đến năm 2005 Trước thách thức và yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, trong đó có công tác bảo đảm thi hành các phán quyết dân sự của Tòa án thông qua bán đấu giá tài sản. Có thể nói hình thức bán đấu giá tại Việt Nam được hình thành và phát triển từ việc bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự. Bởi lẽ, các quy định về bán đấu giá tài sản được xuất hiện đầu tiên trong pháp luật về thi hành án dân sự từ những thập niên 20 của thế kỷ XX .
  • 31. 31 Pháp luật về bán đấu giá tài sản tại Việt Nam từ sau đổi mới 1986 thực sự được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 28 tháng 8 năm 1989 (Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989), quy định về bán đấu giá tài sản để thi hành án. Khoản 1, Điều 28 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên. Đối với các loại tài sản này, thời gian bán đấu giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự, chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá. “…Tài sản đã kê biên được bán cho người trả giá cao nhất. Nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định thì tài sản được bán cho người mua theo giá mà Hội đồng định giá đã định. Tài sản không bán được thì định giá lại để tiếp tục bán đấu giá”[37,tr.8]. Để thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên ngành số 06-89/TTLN ngày 07 tháng 12 năm 1989 (Thông tư liên ngành 06-89/TTLN) hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989. Mục VI của Thông tư hướng dẫn về bán đấu giá tài sản đã kê biên theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 thì khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó khăn, Chấp hành viên mời Hội đồng định giá để định giá tài sản đã kê biên. Theo các Điều 28, 30 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 thì việc bán đấu giá do Chấp hành viên tổ chức. Tại mục VI Thông tư liên ngành 06-89/TTLN hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 quy định: “…Chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá, Chấp hành viên phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án, Uỷ ban nhân dân nơi có tài sản và thông báo rộng rãi danh mục tài sản, giá khởi điểm, thời gian và địa điểm bán đấu giá. Đồng thời phải báo cho các bên đương sự biết. Trong thông báo có thể nêu rõ những yêu cầu đối với người tham gia đấu giá. Trước khi bán đấu giá, người phải thi hành án có thể nộp tiền thi hành án để lấy lại tài sản bị kê biên và người được thi hành án có thể nhận tài sản đã kê biên để thi hành án theo giá đã định”[35, tr.4].
  • 32. 32 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 bổ sung thêm một số quy định về bán đấu giá tài sản thi hành án. Quy định cụ thể hơn về thành phần Hội đồng định giá gồm đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan và do chấp hành viên chủ trì để đánh giá sơ bộ tài sản đã kê biên, người được thi hành án, người phải thi hành án được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định giá thuộc Hội đồng định giá. Tài sản không bán được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá. Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên ở nước ta được được thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ giao kết dân sự trong đó có quan hệ về bán đấu giá tài sản. Bộ luật Dân sự năm 1995 đã quy định giao cho Chính phủ ban hành quy chế bán đấu giá. Trên cơ sở đó, ngày 19 tháng 12 năm 1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/CP về việc ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên điều chỉnh về lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Nghị định quy định các đối tượng là tài sản được bán đấu giá, người bán đấu giá, trình tự, thủ tục bán đấu giá, giải quyết khiếu nại, tranh chấp về bán đấu giá. Có thể nói hoạt động bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp ở nước ta được hình thành từ năm 1997 trên cơ sở của Bộ luật Dân sự 1995, Luật Thương mại năm 1997 và Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ về viê ̣c ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản. Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 86/CP thì Người bán đấu giá là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản được thành lập theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do Sở Tư pháp trực tiếp quản lý. Người bán đấu giá cũng có thể là doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần được thành lập theo Luật Công ty năm 1990 hoạt động bán đấu giá chuyên nghiệp và không kinh doanh ngành nghề khác do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ. Cũng theo quy định tại Nghị định này thì việc bán đấu giá tài sản được tiến hành sau khi người có tài sản ký hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản với người bán đấu giá,
  • 33. 33 xác định giá khởi điểm để bán đấu giá. Người bán đấu giá tài sản phải niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá, tài sản bán đấu giá, giá khởi điểm... Người muốn tham gia đấu giá bất động sản hoặc động sản có giá khởi điểm từ mười triệu đồng trở lên phải đăng ký mua chậm nhất là hai ngày trước ngày mở cuộc bán đấu giá và phải nộp một khoản tiền đặt trước bằng 1% giá khởi điểm. Ngày 07 tháng 04 năm 1997 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 399/PLDSKT hướng dẫn một số quy định về bán đấu giá tài sản. Ở đa số các địa phương, quán triệt tinh thần Nghị định số 86/CP và Thông tư số 399/PLDSKT ngày 07/4/1997 của Bộ Tư pháp, các Trung tâm đã tổ chức bán đấu giá công khai, rộng rãi, đúng trình tự, thủ tục. Khách hàng tham gia đấu giá ngày càng nhiều, giá tài sản bán được phần lớn tăng hơn nhiều so với giá khởi điểm. Thông qua hoạt động đấu giá làm lợi cho người có tài sản bán đấu giá, khoản lệ phí nộp ngân sách đạt được chỉ tiêu mà các Trung tâm đề ra, đảm bảo cho hoạt động bán đấu giá đạt hiệu quả. Đồng thời với Nghị định số 86/CP, Bộ luật Dân sự năm 1995, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 cùng các văn bản hướng dẫn đang có hiệu lực thi hành thì Luật Thương mại năm 1997 đã có quy định về đấu giá hàng hóa. Nếu như trước đây, các văn bản pháp luật chỉ quy định về đấu giá tài sản, với mục đích chính là đấu giá tài sản để thi hành án và để đảm bảo tính minh bạch, công khai trong việc bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Nay, Luật Thương mại lần đầu tiên quy định về hoạt động bán đấu giá với tư cách là một hoạt động thương mại. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 1997 chỉ dành 02 điều (Điều 139 và điều 140) quy định về đấu giá hàng hóa, việc đấu giá hàng hóa này lại theo quy định của luật dân sự: “Việc thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hoá được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự và Quy chế bán đấu giá hàng hoá do Chính phủ quy định”[26,tr.28]. Thực chất đấu giá hàng hóa thời kỳ này không tách biệt với đấu giá tài sản, hoạt động đấu giá hàng hóa chịu sự điều chỉnh của các quy định về bán đấu giá tài sản. Nghị định số 86/CP, Bộ luật Dân sự 1995 và Luật Thương mại năm 1997 là những văn bản pháp luật quan trọng đặt nền móng cho hoạt động đấu giá ở nước ta
  • 34. 34 trong thời kỳ đầu đổi mới. Tuy nhiên, nội dung của các văn bản pháp luật trên được ban hành khi nước ta mới chuyển hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Các quy định còn chứa đựng một số bất cập, hạn chế nhất định, không còn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung cho khả thi hơn với thực tiễn. - Giai đoạn 3: Từ năm 2005 đến nay Ngày 18/01/2005, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản được ban hành thay thế Nghị định số 86/CP. Ngay sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm cơ sở cho các sự ra đời các văn bản pháp luật tiếp theo về bán đấu giá. 1.2.2. Pháp luật về bán đấu giá tài sản Pháp luật về bán đấu giá là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chính các quan hệ xã hội trong hoạt động bán đấu giá. Văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự phát triển của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản là văn bản pháp luật chuyên ngành, là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì còn có nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản như Bộ Luật Dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Luật Quản lý và sử dụng tài sản nhà nước năm 2008; Luật kinh doanh bất động sản năm 2005; Pháp lê ̣nh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về bán đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, Nghị định số 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 181/2004/NĐ-
  • 35. 35 CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành luật đất đai; Nghị định số 84/2007/NĐ- CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và Tổ chức phát triển quỹ đất. Sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản được ban hành, hoạt động bán đấu giá tài sản đã đạt được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc củng cố và phát triển các tổ chức bán đấu giá tài sản ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, góp phần thống nhất pháp luật về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản và đáp ứng phần lớn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật về hoạt động bán đấu giá tài sản trong thời kỳ này còn nhiều vấn đề bất cập. Thứ nhất, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản. Bên cạnh một số luật, pháp lệnh còn có nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư liên tịch của các Bộ, ngành... Nhiều điều khoản của các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản không thống nhất với quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản, nội dung một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn về trình tự, thủ tục bán đấu giá, về tổ chức bán đấu giá, gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành và áp dụng pháp luật. Thứ hai, do sự không đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật nên trong giai đoa ̣n này có nhiều loại tổ chức thực hiện việc bán đấu giá tài sản và bán đấu giá theo các trình tự, thủ tục rất khác nhau, không chặt chẽ dẫn đến việc khó quản lý, kiểm soát hoạt động này và gây thất thoát tài sản, nhất là tài sản công. Trong số các tổ chức thực hiện việc bán đấu giá tài sản thì hoạt động của các Hội đồng bán đấu giá tài sản đang có nhiều bất cập. Các Hội đồng này được thành lập để bán đấu giá theo vụ việc, không mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp. Khi
  • 36. 36 kết thúc cuộc bán đấu giá, Hội đồng tự giải thể. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, các bên không có cơ sở pháp lý để khiếu nại Hội đồng. Ngoài ra, do cơ chế hoạt động (bao gồm cả cơ chế tài chính) và trách nhiệm pháp lý của Hội đồng bán đấu giá tài sản không rõ ràng, nên khó kiểm soát, dẫn đến thất thoát, thiệt hại về vật chất trong việc bán đấu giá các loại tài sản của Nhà nước. Thứ ba, phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản chưa xác định rõ phạm vi áp dụng của Nghị định đối với việc bán đấu giá những loại tài sản nào. Chính vì vậy, trên thực tế, các cơ quan, tổ chức còn lúng túng khi áp dụng Nghị định số 05/2005/NĐ-CP dẫn đến việc bán đấu giá tài sản, nhất là tài sản công chưa được thực hiện theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Đây cũng là bất cập lớn cần phải sớm khắc phục. Thứ tư, một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về trình tự, thủ tục bán đấu giá còn chưa đầy đủ và chặt chẽ, thậm chí có kẽ hở, dễ dẫn đến hiện tượng tiêu cực như thông đồng, dìm giá, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thứ năm, quy định về điều kiện cấp thẻ đấu giá viên, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá còn đơn giản, dễ dãi; việc đăng ký hành nghề đối với đấu giá viên chưa được quy định chặt chẽ. Vai trò của đấu giá viên với tư cách là chức danh chuyên nghiệp trong hoạt động bán đấu giá chưa được phát huy, nhiều cuộc bán đấu giá không do đấu giá viên điều hành. Nhìn chung, tính chuyên nghiệp của hoạt động bán đấu giá tài sản còn thấp. Thứ sáu, quy định về quản lý nhà nước trong Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản còn thiếu, nội dung chưa rõ ràng dẫn đến việc quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản còn lỏng lẻo, vai trò của cơ quan chủ trì giúp Chính phủ và Ủ y ban nhân dân các địa phương thống nhất quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản chưa được phát huy đầy đủ. Một số Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa nhận thức rõ chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện
  • 37. 37 quản lý nhà nước trong lĩnh vực đấu giá tài sản tại địa phương. Công tác quản lý hoạt động đấu giá tài sản ở cấp huyện còn buông lỏng. Thứ bảy, nhận thức và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương về quản lý hoạt động bán đấu giá tài sản còn chưa thống nhất, chặt chẽ và đồng bộ. Một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong một số trường hợp còn từ chối hoặc chậm trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đã bán đấu giá đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Việc giao tài sản thi hành án đã được bán đấu giá nhiều khi bị chậm trễ, kéo dài làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản, cũng như uy tín của các tổ chức bán đấu giá tài sản. Cùng với Bộ luật Dân sự năm 2005 (từ Điều 456 đến Điều 469 có liên quan đến bán đấu giá tài sản), Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài sản là một bước phát triển mới trong công tác bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, sau 4 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập, vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vâ ̣y, để lĩnh vực bán đấu giá tài sản ngày càng phát triển, ổn định, phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì rất cần phải sớm khắc phục những hạn chế của Nghi ̣đi ̣nh 05/2005/NĐ-CP, do đó ngày 04/3/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP và Nghi ̣ đi ̣nh này được áp dụng từ ngày 01/7/2010 cho đến nay. Dưới đây là những văn bản quy phạm pháp luật cơ bản điều chỉnh các hoạt động bán đấu giá tài sản: - Bộ luật Dân sự năm 2005: Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc về các tài sản được bán đấu giá thuộc loại tài sản được phép giao dịch là đối tượng của hợp đồng mua bán nói chung (Điều 429) và quy định riêng về bán đấu giá tài sản (từ Điều 456 đến Điều 459), trong đó, chủ thể bán đấu giá, một số nguyên tắc về trình tự thủ tục bán đấu giá (Điều 456, Điều 457), bán đấu giá bất động sản (Điều 459) giao Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và thủ tục bán đấu giá tài sản cụ thể (Điều 458).
  • 38. 38 - Luật Thương mại năm 2005: Điều 3 quy định bán đấu giá tài sản là hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. - Luật Thi hành án dân sự năm 2008: Điều 101 quy định tài sản bán đấu giá là tài sản đã kê biên. - Luật Quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước năm 2008: Điều 1 quy định bán đấu giá tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) bao gồm trụ sở làm việc và tài sản khác gắn liền với đất; quyền sử dụng đất đối với đất dùng để xây dựng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác do pháp luật quy định. - Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009: Điều 18 quy định bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng tần số vô tuyến điện. - Luật Khoáng sản năm 2010: Quy định bán đấu giá tài sản là quyền khai thác khoáng sản - Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012: Điều 82 quy định tài sản bán đấu giá là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. - Luật Dự trữ quốc gia năm 2012: Ta ̣i Điều 4 quy định tài sản bán đấu giá là hàng dự trữ quốc gia bao gồm vật tư, thiết bị, hàng hóa trong Danh mục hàng dự trữ quốc gia do Nhà nước quản lý, nắm giữ để sử dụng vào mục tiêu dự trữ quốc gia. - Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2013: Điều 118 quy định bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trong các trường hợp: Đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê hoặc cho thuê mua; Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê;