SlideShare a Scribd company logo
1 of 77
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện pháp luật về bán đấu
giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta bán đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm
và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế. Với những quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng
01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và một số văn bản luật có liên quan
như: Luật Đất đai 2003, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch
bảo đảm, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, năm
2008), Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 được ban hành và có hiệu lực thi hành
trong những năm gần đây đã chứa đựng nhiều tư duy pháp lý mới đáp ứng yêu cầu Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”(gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), Nghị
quyết số 48 NQ/TW ngày 24 tháng5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là
Nghị quyết số 48 NQ/TW) và Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49 NQ/TW).
Trong cơ chế thị trường, mọi loại tài sản được mua bán ở thị trường đều được coi là
hàng hóa nhưng không phải tất cả loại tài sản đều có thể được đem bán đấu giá. Dựa trên
khả năng tham gia giao dịch của tài sản, có thể chia tài sản thành 3 loại: tài sản không
được phép đấu giá, tài sản bán đấu giá hạn chế đối với người tham gia đấu giá và tài sản
bán đấu giá không hạn chế.
Tài sản không được phép bán đấu giá là loại tài sản mà Nhà nước cấm giao dịch
mua bán tự do. Ví dụ: Các loại thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm ban hành kèm theo
Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002, các loại ma túy theo quy định
Luật Phòng chống ma túy năm 2000, Nghị định số 67/2001/NĐ-CP và Nghị định số
133/2003/NĐ-CP, các loại pháo theo quy định của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP.
Tài sản bán đấu giá có hạn chế đối với người tham gia đấu giá là những loại tài sản
mà chỉ những người đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật
mới được phép tham gia đấu giá. Ví dụ: Tài sản là nguyên liệu thuốc lá, sản phẩm thuốc lá
theo quy định của Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001, tài sản là
vàng theo quy định của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 1999 và Nghị
định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003.
Tài sản bán đấu giá không hạn chế là tất cả các loại tài sản mà pháp luật không quy
định về điều kiện đối với người mua và người bán loại tài sản đó, bao gồm tất cả các loại
tài sản còn lại ngoài hai loại tài sản trên.
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham
gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được pháp luật quy định. Tài sản đấu giá là động
sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật.
Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy
quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định
của pháp luật. Người tham gia bán đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia
đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định về bán đấu giá tài sản.
Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm
và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản.
Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh
lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài
sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Song trong thực tiễn từ đổi mới đến nay pháp
luật bán đấu giá tài sản vẫn còn một số bất cập trước áp lực của xu thế hội nhập của các tổ
chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng như còn chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp
luật trong nước luôn được sửa đổi để hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Theo đánh giá
tại Chỉ thị số 18/2006/CT-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 về
bán đấu giá tài sản thì tại nhiều địa phương một số quy định của Nghị định số
05/2005/NĐ-CP vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm, chưa thống nhất
dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương
chưa cao ảnh hưởng đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của cá nhân, tổ chức
tham gia bán đấu giá tài sản.
Do đó, để khắc phục những hạn chế thiếu sót của hệ thống pháp luật về bán đấu giá
tài sản cần phải tiến hành nghiên cứu rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản
mới có giá trị pháp lý cao nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất
toàn diện bảo đảm cho hoạt động bán đấu giá tài sản thông thoáng đem lại những giá trị lợi
ích cao nhất, văn minh nhất cho cá nhân, tổ chức có tài sản bán đấu giá và lợi ích cho Nhà
nước, cho xã hội, đặc biệt là trong điều kiện thực hiện chủ trương cải cách hành chính và
xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, với những lý do trên thì việc nghiên
cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” là rất cần
thiết, không chỉ góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này mà còn góp phần giải
quyết một vấn đề thực tiễn đang đặt ra rất cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải cách hành
chính, cải cách tư pháp cũng có tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp luật về bán đấu giá tài sản
ở Việt Nam nhưng ở những gốc độ khác nhau. Bộ Tư pháp với nhiệm vụ được Chính phủ
giao cho việc thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực bán đấu giá tài sản cũng đã tổ chức
nhiều cuộc hội thảo tại hai miền (phía Bắc ở tỉnh Nghệ An và phía Nam ở tỉnh An
Giang), đồng thời biên soạn các tài liệu tập huấn hướng dẫn công tác này. Bên cạnh đó
cũng đã có một số bài viết nghiên cứu về pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam được
đăng trên tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp như:
- Hoạt động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng của tác giả Đỗ Khắc Trung
(số chuyên đề tháng 10/2006).
- Một số bất cập của pháp luật về bán đấu giá tài sản của tác giả Nguyễn Văn
Mạnh (số chuyên đề tháng 10/2006).
- Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá tài sản của tác giả
Phạm Văn Chung (số chuyên đề tháng 10/2006).
- Những vướng mắc trong việc áp dụng hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu của tác giả
Minh Đức (số chuyên đề tháng 11/2007).
- Có hay không sự khác nhau giữa bán đấu giá quyền sử dụng đất và đấu giá quyền
sử dụng đất của tác giả Nguyễn Vĩnh Diện ( số 6/2007).
Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện về
hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù những công trình
khoa học đã được công bố là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết luận văn
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam
luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam
đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật bán đấu giá tài
sản ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đến nay.
- Xác lập quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài
sản ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
đề tài hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, nội
dung pháp luật bán đấu giá tài sản, vai trò, các yêu cầu và tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán
đấu giá tài sản, qúa trình hình thành và thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản, những
quan điểm và giải pháp hoàn thiện hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản ở
nước ta chủ yếu trong thời kỳ đổi mới cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, những cơ sở lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới
Nhà nước và pháp luật về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử Mát xít như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp
phân tích tổng hợp, so sánh thống kê. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng như nghiên cứu và rà soát tài liệu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và toàn diện về hoàn
thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam, do đó luận văn có những đóng góp nhất
định sau:
- Xác lập và đưa ra khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản, chỉ ra những đặc
điểm của pháp luật này cùng những tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản.
- Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những ưu điểm, hạn
chế đó của pháp luật bán đấu giá tài sản ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá ở Việt Nam hiện
nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực cụ thể là bán đấu giá tài sản.
- Luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các cơ quan Nhà nước, các nhà làm luật
trong việc hoạch định chính sách sửa đổi, bổ sung, ban hành mới pháp luật về bán đấu giá
tài sản và của những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết luận của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU
GIÁ TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản và pháp luật bán đấu giá tài sản
- Khái niệm về bán đấu giá tài sản:
Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006,
trang 31 có nêu: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài
sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng
không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản. Theo quy định của pháp luật,
người bán đấu giá là: doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài
sản; hội đồng bán đấu giá tài sản.
Người bán đấu giá có nghĩa vụ: tổ chức việc bán đấu giá tài sản theo nguyên tắc và
thủ tục quy định của pháp luật; niêm yết , thông báo công khai, đầy đủ, chính xác các
thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản bán đấu giá; bảo quản tài sản bán đấu giá khi
được người có tài sản giao bảo quản hoặc quản lý; trưng bày, cho xem và cho tham khảo
hồ sơ tài sản bán đấu giá; giao tài sản bán đấu giá được giao bảo quản hoặc quản lý cho
người mua được tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho
người mua được tài sản bán đấu giá trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang
trực tiếp quản lý tài sản đó; cung cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá
cho người mua được tài sản bán đấu giá; thanh toán cho người có tài sản bán đấu giá số
tiền bán tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật; thực hiện
chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật; bồi thường thiệt hại trong trường
hợp có lỗi do vi phạm nghĩa vụ; định kỳ hàng năm, trung tâm và doanh nghiệp bán đấu giá
tài sản báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trung tâm,
doanh nghiệp đặt trụ sở chính và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động của mình.
Người bán đấu giá tài sản có quyền: yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp
đầy đủ, chính xác thông tin, giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá; yêu cầu người mua
được tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán tiền mua tài sản bán đấu giá; yêu cầu
người có tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán chi phí bán đấu giá tài sản theo quy
định của pháp luật.
Mua tài sản bằng hình thức bán đấu giá tài sản là một căn cứ xác lập quyền sở hữu
tài sản đối với người đã mua được tài sản.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì: Bán đấu giá tài
sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo
nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này.
Tài sản bán đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao
dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc
người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài
sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia đấu giá tài sản là cá nhân,
tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị
định này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Người tham gia đấu giá tài sản có
thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mặt mình tham gia đấu giá tài sản. Người
mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất ít nhất bằng giá khởi điểm và được
coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản
Nói về nguyên tắc bán đấu giá tài sản, tại điều 3 Nghị định quy định: Việc bán đấu
giá tài sản được thực hiện theo nguyên tắc công khai, liên tục, trung thực, bình đẳng, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Về các loại tài sản bán đấu giá, tại điều 5 của Nghị định có quy định cụ thể đó là:
tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo
đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản; hàng hóa
lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt
nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà
nước.
So với quy định tại Nghị định số 86/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 của Chính phủ
ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản thì tại điều 2 Quy chế kèm Nghị định trên quy định:
Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai mà có nhiều người muốn mua tham gia trả
giá theo thủ tục được quy định tại Quy chế này; Người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá
khởi điểm là người được mua tài sản bán đấu giá đó; Người bán đấu giá là Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá do Sở Tư pháp trực tiếp quản lý hoặc các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán
đấu giá chuyên nghiệp do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ; Người bán tài sản là chủ sở
hữu về tài sản hoặc là người được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc là người có quyền bán tài
sản của người khác theo quy định của pháp luật; Người tham gia đấu giá là cá nhân, tổ
chức; Người điều hành bán đấu giá là người do người bán đấu giá cử ra để điều hành cuộc
bán đấu giá; Tài sản bán đấu giá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép giao dịch.
Tại điều 3 của Nghị định quy định nguyên tắc bán đấu giá đó là, việc bán đấu giá tài sản
thực hiện theo nguyên tắc trực tiếp công khai, trung thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia.
Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 tại mục 1, phần III Chương XVIII có nêu một số
quy định riêng về mua bán tài sản, mục về Hợp đồng mua bán tài sản ở chương Hợp đồng
dân sự thông dụng ( Điều 456 đến Điều 459).
Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Luật Thương mại năm 2005 coi đấu giá hàng hóa là một
trong số hoạt động thương mại cụ thể được Luật quy định hoàn chỉnh gồm 29 điều (từ điều
185 đến điều 213).
Theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức bán đấu giá thực hiện
việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất (khoản 1 Điều 185).
Những quy định liên quan đến đấu giá hành hóa trong Luật Thương mại năm 2005 nhằm
phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hóa, nâng cao hiệu quả và hiệu lực
pháp lý của hoạt động thương mại này. Song trên thực tế, hoạt động bán đấu giá đang được
thực hiện đối với các hàng hóa là tài sản bị tịch thu do vi phạm hành chính hoặc để thi
hành án là chủ yếu còn mua bán hàng hóa thương mại chủ yếu là người bán hàng tự mình
thực hiện việc bán hàng hóa qua thỏa thuận.
Việc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá đựơc thực hiện trên cơ sở của
Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày
6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách
nhà nước, Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6 tháng 3.năm 1998 của Chính phủ về quản
lý tài sản nhà nước, Thông tư số 34/2005/TT-BTC ngày 12 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tài
chính hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm và chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu
giá, Thông tư số 13/2007/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 34/2005/TT-BTC quy
định việc bán đấu giá chỉ liên quan đến việc xử lý tài sản nhà nước khi tài sản nhà nước có
quyết định bán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về nguyên tắc chuyển giao tài sản
nhà nước để bán đấu giá phải phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về quản lý
tài sản nhà nước đã nêu ở trên và Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, cụ thể là cơ quan có thẩm
quyền xử lý tài sản phải ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán
đấu giá tài sản.
Tóm lại, khái niệm về bán đấu giá tài sản ở nước ta từ khi đổi mới đến nay ngày
càng được quy định rõ ràng cụ thể, dễ hiểu.Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/ NĐ
- CP có quy định: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người
trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Song
mặt hạn chế của khái niệm về bán đấu giá là chưa bao quát hết các nội dung của hoạt động
này. Chẳng hạn như thế nào là tài sản để bán đấu giá, theo quy định tại điều 163 Bộ luật
Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Mặt
khác điều 174, chương XI Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các loại tài sản là bất động
sản và động sản có nêu bất động sản là các loại tài sản bao gồm: đất đai; nhà , công trình
xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó;
các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định. Động sản là
những tài sản không phải là bất động sản; điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy
định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.
Trong khi đó theo quy định tại điều 5 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì các loại
tài sản bán đấu giá chỉ bao gồm: Tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi
hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước
theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tài sản bảo đảm theo quy định
của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu
bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không,
đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp
luật về quản lý tài sản nhà nước.
Việc kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án được Chính phủ
quy định tại một Nghị định riêng (Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm
2004), theo đó thẩm quyền và trách nhiệm đấu giá quyền sử dụng đất đã kê biên được quy
định tại khoản 2 điều 7 như sau: đối với địa phương chưa có tổ chức có chức năng bán đấu
giá tài sản hoặc tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản từ chối ký hợp đồng ủy quyền
đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án thì Chấp hành viên thực hiện việc đấu gía quyền
sử dụng đất theo quy định của Nghị định này và pháp luật về bán đấu giá tài sản. Bên cạnh
đó Nghị định tiếp tục quy dịnh tại tại khoản 3 điều 23 như sau: đối với những địa phương
chưa thành lập tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản, thì trong thời hạn quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều này, Chấp hành viên phải thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất
để bảo đảm thi hành án. [39, tr 56].
Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì việc bán đấu giá tài sản bảo đảm theo quy định của
pháp luật về giao dịch bảo đảm chỉ được thực hiện khi xử lý tài sản bảo đảm là động sản
trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý. Riêng đối với tài sản bảo
đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được
bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá (điều 65). Nghị định cũng
quy định về thời hạn xử lý tài sản bảo đảm, trước hết tài sản bảo đảm được xử lý trong thời
hạn do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết
định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước bảy ngày đối với động sản hoặc mười lăm
ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm. Riêng đối
với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có
giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay (khoản 2 điều 61,
điều 62).
Theo Nghị định số 46/2006/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về xử
lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam, thì hàng hóa bị lưu giữ
là hàng hóa do người vận chuyển bằng đường biển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam để bảo
đảm việc thanh toán tiền cước vận chuyển, tiền bồi thường do lưu tàu và các khoản chi phí
khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Người lưu giữ là người
vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hóa khi có căn cứ làm phát sinh quyền lưu giữ hàng hóa
và người lưu giữ có quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ sau sáu mươi ngày, kể từ ngày
tàu biển đến cảng trả hàng nếu những ngườicó lợi ích liên quan không thanh toán đủ các
khoản nợ hoặc không có bảo đảm cần thiết khác và sau khi người lưu giữ đã thực hiện
thông báo lưu giữ hàng hóa. Trong trường hợp hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại mau hỏng,
có khả năng gây ô nhiễm môi trường, có ảnh hưởng tới quốc phòng an ninh hoặc việc ký
gửi hàng hóa bị lưu giữ quá tốn kém so với giá trị thực tế của hàng hóa thì người vận
chuyền có quyền căn cứ theo tính chất đặc điểm tự nhiên của hàng hóa và khả năng tài
chính của mình để xử lý hàng hóa bị lưu giữ sớm hơn thời gian quy định nhưng vẫn phải
thực hiện các công việc thông báo lưu giữ hàng hóa. Hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại cấm
nhập khẩu hoặc cấm lưu thông trên lãnh thổ Việt Nam được xử lý theo quy định của pháp
luật.
Người lưu giữ có quyền ký hợp đồng ủy quyền việc bán đấu giá hàng hóa bị
lưu giữ cho ngừơi bán đấu giá là doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản hoặc hội đồng bán đấu giá tài sản theo quy định tại các điều
34, 35, 36 và 37 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Thủ tục bán đấu giá hàng hóa bị
lưu giữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản (khoản 3
điều 5, điều 6 Nghị định số 46/2006/NĐ-CP). Nghị định còn quy định trước khi ký
hợp đồng ủy quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ, người lưu giữ phải thuê giám
định về số lượng, chất lượng và tổn thất (nếu có) của hàng hóa bị lưu giữ. Chi phí
giám định hàng hóa bị lưu giữ được tính vào chi phí liên quan đến bán đấu giá hàng
hóa. Toàn bộ tiền thu được do bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ được gửi vào “Tài
khoản tiền quản lý, giữ hộ” của người lưu giữ tại Ngân hàng được phép hoạt động ở
Việt Nam. Việc chi trả số tiền này được thực hiện theo thứ tự ưu tiên trước hết cho
các khoản thuế, lệ phí, các chi phí liên quan đến việc ký gửi và bán đấu giá hàng hóa
(điều 8, điểm a khoản 1 điều 9 Nghị định số 46/2006/NĐ-CP).
Tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước, ngày 12.6.2008 Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 04/2008/L-CTN công bố
Luật. Đây là lần đầu tiên các quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được quy định
thống nhất trong một văn bản Luật, tạo tiền đề pháp lý cao trong việc quản lý, sử dụng có
hiệu quả tài sản nhà nước. Theo quy định tại điều 1 của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước thì luật này chỉ điều chỉnh đối với những tài sản nhà nước phục vụ hoạt động của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị như: trụ sở làm việc, tài sản khác gắn liền với đất, quyền sử dụng
đất đối với đất dùng để xây dựng trụ sở làm việc,cơ sở hoạt động sự nghiệp; máy móc,
phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc…
Đối với tài sản nhà nước là tiền, hàng hóa, vật tư, tài sản dự trử quốc gia tại cơ
quan, đơn vị, tổ chức; tài sản là đất đai tài nguyên thiên nhiên, vốn và tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp, tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia,
tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước…, việc quản lý sử dụng được thực
hiện theo quy định của pháp luật có liên quan như Luật Đất đai, Pháp lệnh dự trữ quốc
gia, Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Việc bán tài sản nhà nước được thực hiện trong các trường hợp không có nhu cầu
sử dụng hoặc việc sử dụng không có hiệu quả.Việc bán tài sản nhà nước được thực hiện
công khai, theo cơ chế thị trường. Việc bán tài sản nhà nước là trụ sở làm việc hoặc tài sản
khác gắn liền với đất được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
- Khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản trong tiến trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật là một lĩnh vực mới mẻ rất phức tạp.
Theo lý luận chung hệ thống pháp luật được hiểu là tập hợp tất cả các quy phạm
pháp luật, văn bản pháp luật tạo thành một cấu trúc tổng thể, được phân chia thành các bộ
phận có sự thống nhất nội tại theo những tiêu chí nhất định như bản chất, nội dung, mục
đích. Theo đó hệ thống pháp luật bao gồm hệ thống cấu trúc bên trong và hệ thống cấu trúc
bên ngoài.
Hệ thống cấu trúc bên trong là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội
tại thống nhất với nhau, được phân chia thành các ngành luật, mỗi ngành luật lại được tạo
nên bởi một bộ phận các quy phạm pháp luật có sự thống nhất nội tại, có chung đối tượng
và phương pháp điều chỉnh. Trong mỗi bộ phận quy phạm pháp luật lại được phân bổ
thành những bộ phận nhỏ hơn hợp thành các chế định pháp luật và mỗi chế định pháp luật
lại được hình thành từ các quy phạm pháp luật.
Hệ thống cấu trúc bên ngoài là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội cơ bản quan trọng. Hệ thống cấu trúc bên ngoài được phân định thành các văn
bản luật và văn bản dưới luật [10, tr.173].
Theo quan niệm này, pháp luật về bán đấu giá tài sản chưa phải là một ngành luật
độc lập có phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng biệt. Mặc dù pháp luật về bán
đấu giá tài sản cũng bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã
hội về bán đấu giá tài sản được thể hiện trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành và có mối quan hệ thống nhất trong hệ thống pháp luật. Tuy
nhiên, do đặc điểm của loại tài sản được đưa ra bán đấu giá theo cách phân định của pháp
luật, mà pháp luật về bán đấu giá tài sản không thuộc một ngành luật chuyên biệt nào. Các
quy định của pháp luật về bán đấu giá nằm rải rác trong các quy định của luật, pháp lệnh,
nghị định như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch đảm bảo, Luật Kinh
doanh bất động sản, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính, Pháp lệnh thi hành án, Nghị định về kê biên đấu giá quyền sử dụng đất trong thi
hành án, Quyết định về việc ban hành quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có
thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, Nghị định về xử lý hàng hoá do người vận chuyển
lưu giữ tại cảng biển Việt Nam... Vì vậy, cần thấy rằng pháp luật về bán đấu giá tài sản
vừa đang là những quan hệ bổ trợ tư pháp giúp cho hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước, các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình trong xử lý các tài sản để thi
hành án, tịch thu sung công quỹ nhà nước, trong các khoản bồi hoàn, tiền phạt hoặc bán tài
sản nhà nước vừa là các quan hệ pháp luật về giao dịch dân sự khi cá nhân, tổ chức có yêu
cầu bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của họ.. Tại Điều 1, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP
quy định phạm vi điều chỉnh đó là: quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản,
người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Về
đối tượng điều chỉnh Điều 34 của Nghị định này cũng quy định rõ đó là Doanh nghiệp bán
đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và Hội đồng bán đấu giá tài sản (đối
với tài sản dưới mười triệu đồng mà không phải là Hội đồng đấu giá tài sản theo Quyết
định 216/2005/QĐ-TTg). Do đó, pháp luật về bán đấu giá hiện nay so với các quy định
pháp luật nói chung còn chưa hợp lý nhất là về nội dung pháp luật, hình thức pháp luật và
tổ chức thực hiện của hệ thống pháp luật này.
Tuy nhiên, xem xét pháp luật về bán đấu giá trong mối quan hệ với các ngành luật
trong hệ thống pháp luật có thể đưa ra khái niệm pháp luật về bán đấu giá tài sản như sau:
Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực
bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản,
người bán đấu giá và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Điều cần thấy rằng, khung pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta đang trong quá
trình hình thành chưa thể tạo thành một trật tự pháp luật đầy đủ và ổn định. Chưa có một
văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Luật để điều chỉnh và tổ chức hoạt động bán
đấu giá tài sản nhằm đưa tổ chức và hoạt động này ngày càng có hiệu quả hơn trong tiến
trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng như hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần
tăng cường tính công khai, minh bạch và phát huy được các lợi ích kinh tế do bán đấu giá
tài sản đem lại. Với ý nghĩa đó chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài
sản và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan.
1.1.2 Đặc điểm của pháp luật bán đấu giá tài sản
Nói đến đặc điểm của pháp luật bán đấu giá chính là muốn nói đến những dấu hiệu
đặc trưng để phân biệt pháp luật bán đấu giá với những quy phạm pháp luật và văn bản
quy phạm pháp luật chuyên ngành khác. Ở góc độ này chúng ta thấy pháp luật về bán đấu
giá có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trước đổi mới và những năm đầu sau khi đổi mới và cho đến nay số lượng
văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản còn ít, chủ yếu là trong lĩnh vực Dân sự, thi hành
án dân sự và trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. Đó là các quy định của Bộ luật dân
sự năm 1995, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1989…
Thứ hai, những văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản chỉ có hình thức pháp lý là
văn bản dưới luật hoặc được quy định dưới các hình thức là các chế định pháp luật trong
các văn bản luật chuyên ngành. Chẳng hạn như Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18
tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Chế định pháp luật về đấu giá
hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại năm 2005; Chế định pháp luật về bán đấu
giá tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005; Các quy định về bán đấu giá trong
Pháp lệnh Thi hành án Dân sự năm 2004…
Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá còn rất tản mạn, phức tạp chưa có tính hệ thống.
Đặc biệt là trong thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế nhiều văn bản
pháp luật trên nhiều lĩnh vực ban hành có liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản như
Luật đất đai năm 2003 (sửa đổi), Luật đăng ký giao dịch bảo đảm năm 2005, Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2006, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008… Nếu
chúng ta xem pháp luật về bán đấu giá tài sản là những quy định chung thì trong mối quan
hệ với những văn bản luật trên có ý nghĩa như là những quy định của pháp luật chuyên
ngành. Ở đặc điểm này của pháp luật về bán đấu giá cho thấy cũng giống như đặc điểm
của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung nó tồn tại không phải bởi “ tổng số cộng” đơn
giản các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mà phải là một chỉnh thể thống nhất với sự
phối hợp cùng tác động điều chỉnh các quan hệ pháp luật về bán đấu giá tài sản hết sức
linh hoạt và phong phú, trãi rộng trên nhiều lĩnh vực.
Thứ tư, pháp luật bán đấu giá có đặc điểm quy định về người bán đấu giá tài sản rất
rộng gồm nhiều loại chủ thể tham gia. Đó là Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm
dịch vụ bán đấu giá tài sản và Hội đồng bán đấu giá tài sản.
Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản được tiến hành kinh doanh dịch vụ bán đấu giá
tài sản khi có đủ các điều kiện sau đây: Có đăng ký kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản;
Có ít nhất một đấu giá viên; Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện bán đấu giá tài
sản.
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quyết định thành lập và giao cho Sở chuyên môn có chức năng
quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá tài sản ở địa phương trực tiếp quản lý. Trung tâm
là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân. Giám đốc Trung tâm phải là đấu giá
viên. Trung tâm có nhiệm vụ bán đấu giá tài sản để thi hành án, tài sản là tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật. Ngoài
nhiệm vụ bán đấu giá các tài sản nói trên, Trung tâm có thể ký hợp đồng với tổ chức, cá
nhân có yêu cầu để bán đấu giá các loại tài sản khác.
Hội đồng bán đấu giá tài sản do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập để tổ chức bán đấu giá tài sản của nhà nước có giá trị dưới
mười triệu đồng.
So sánh với pháp luật bán đấu giá một số nước đã nghiên cứu ở trên cho thấy chủ
thể bán đấu giá tài sản ở các nước này chủ yếu hoặc chỉ có Doanh nghiệp bán đấu giá hoặc
Công ty bán đấu giá.
1.1.3 Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản
Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản bao gồm nguyên tắc, trình tự, thủ tục bán
đấu giá, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài
sản. Những nội dung trên đựơc pháp luật quy định hoặc do thỏa thuận của các bên về
quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý được thể hiện bằng những hình thức cụ thể đó là
Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản và Văn bản bán đấu giá tài sản.
Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản là sự thoả thuận giữa bên có tài sản bán đấu
giá và trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản. Nội
dung của hợp đồng uỷ quyền về cơ bản quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của bên
có tài sản bán đấu giá, một số điều khoản có liên quan đến người thứ ba trong hợp đồng uỷ
quyền như: người giữ tài sản, người tham gia đấu giá tài sản.
Chủ thể tham gia hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản: Một bên là tổ chức, cá
nhân có yêu cầu bán đấu giá tài sản, bên kia là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc
doanh nghiệp bán đấu giá tài sản [6, tr.55].
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 Nghị định số 05/2005/NĐ/CP thì hợp đồng uỷ
quyền bán đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản và có các nội dung chủ yếu sau đây:
Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; tên, địa chỉ của người bán đấu giá tài sản;
Thời hạn, địa điểm bán đấu giá tài sản; Liệt kê, mô tả tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm
của tài sản bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản để bán đấu giá; Việc
thanh toán tiền bán tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành; Các chi phí thực tế, hợp
lý cho việc bán đấu giá tài sản; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng; Các thoả thuận khác.
Văn bản bán đấu giá tài sản hay hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá là sự thoả
thuận giữa người bán đấu giá tài sản là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh
nghiệp bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá. Nội dung của hợp đồng
này chủ yếu quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đấu giá và người mua
được tài sản bán đấu giá. Văn bản bán đấu giá tài sản có giá trị xác nhận việc mua bán tài
sản, là cơ sở pháp lý để chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản bán đấu giá. Văn
bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên chịu trách nhiệm về việc bán đấu
giá tài sản và của người mua được tài sản bán đấu giá. Đối với văn bản bán đấu giá bất
động sản thì phải có chứng nhận của công chứng viên nơi có bất động sản. Quy định này
phù hợp với pháp luật về đất đai và Luật nhà ở.
Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá tài sản gồm một bên là
trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, bên kia là
người mua được tài sản bán đấu giá.
Nội dung của hợp đồng này có các nội dung chủ yếu sau đây: Tên, địa chỉ của
người bán đấu giá tài sản; Họ, tên của người điều hành cuộc bán đấu giá tài sản; Họ, tên,
địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; Họ, tên, địa chỉ của người mua được tài sản bán
đấu giá; Thời gian, địa điểm bán đấu giá tài sản; Tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm của tài
sản bán đấu giá; Giá bán tài sản; Thời hạn, phương thức, địa điểm thanh toán tiền mua tài
sản đã bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm giao tài sản đã bán đấu giá cho người mua được tài
sản bán đấu giá; Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ của các bên [9, tr.9].
Sự khác nhau giữa hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá và hợp đồng bán đấu giá tài sản
ở các chủ thể tham gia của hai hợp đồng này là khác nhau, hai hợp đồng này là hai hợp
đồng tách biệt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản là hợp
đồng gốc, khi các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng này thì sẽ dẫn đến
hợp đồng thứ hai là hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá. Hợp đồng mua bán tài sản bán
đấu giá cần phải chuyển cho người có tài sản để họ biết và làm các thủ tục chuyển giao tài
sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp tài sản bán đấu giá là bất
động sản thì văn bản bán đấu giá tài sản còn được gửi cho cơ quan thuế.
Tuy nhiên, tùy theo các loại tài sản được đưa ra bán đấu giá mà có thể có hợp đồng
uỷ quyền bán đấu giá hoặc hợp đồng bán đấu giá tài sản. Đối với trường hợp đấu giá
quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì người bán đấu
giá tài sản lập phương án bán đấu giá được cấp có thẩm quyền phê duyệt và khi tổ chức
đấu giá thì lập biên bản đấu giá của mỗi vòng đấu giá được quy định tại Quyết định số
216/2005/QĐ-TTg. Trong chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch
thu để bán đấu giá được tiến hành trên cơ sở của pháp luật và người có thẩm quyền tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm không được quyền lựa chọn người bán đấu giá để tiến hành
bán đấu giá các loại tài sản này.
Bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án theo quy định tại Điều 23 của Nghị
định 164/2004/NĐ-CP có quy định: Trường hợp người được thi hành án không đồng ý
nhận quyền sử dụng đất hoặc người phải thi hành án không đồng ý cho người được thi
hành án nhận quyền sử dụng đất để thi hành án kể cả quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền
với đất thì trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày định giá chấp hành
viên phải làm thủ tục ký Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán đấu
giá tài sản để đấu giá quyền sử dụng đất. Nếu người phải thi hành án có chung quyền sử
dụng đất đối với người khác thì người có chung quyền sử dụng đất đối với người phải thi
hành án có văn bản đề nghị nhận quyền sử dụng đất đã kê biên. Nếu trong thời hạn thực
hiện quyền ưu tiên không quá mười ngày làm việc, nếu người có chung quyền sử dụng đất
với người phải thi hành án có văn bản đề nghị không nhận quyền sử dụng đất đó [39,
tr.56].
Nội dung quản lý Nhà nước về bán đấu giá tài sản quy định tại Nghị định số
05/2005/NĐ/CP có nêu nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ
thực hiện quản lý Nhà nước thống nhất về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong
phạm vi cả nước, có nhiệm vụ, quyền hạn soạn thảo, trình cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt
động bán đấu giá; hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đó. Ban hành, quản
lý và hướng dẫn theo thẩm quyền việc sử dụng các mẫu văn bản, giấy tờ trong lĩnh vực
bàn đấu giá tài sản, Sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt
động bán đấu giá tài sản theo thẩm quyền. Tổng hợp và hàng năm báo cáo Thủ tướng
Chính phủ về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bán
đấu giá tài sản. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác được Chính phủ giao.
Bộ Tài chính có nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn về chế độ tài chính trong hoạt
động bán đấu giá tài sản. Hướng dẫn, kiểm tra việc chuyển giáo tài sản Nhà nước để bán
đấu giá. Hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá là tài sản nhà
nước. Hướng dẫn chung về mức thu, việc quản lý, sử dụng phí đấu giá thuộc nguồn thu
của ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý hoạt động bán đấu
giá tài sản tại địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định thành lập Trung tâm; bổ
nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc Trung tâm. Bảo đảm biên chế, cơ sở vật chất và phương tiện
làm việc cho Trung tâm. Quy định cụ thể về mức phí đấu gía tại địa phương căn cứ vào
quyết định của Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kiểm tra, thanh
tra về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi địa phương theo thẩm quyền.
Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá
tài sản tại địa phương theo quy định của Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004
của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Phối hợp với
Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Đề án
thành lập Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Phối hợp với Sở Nội vụ đề nghị Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó giám đốc Trung tâm
dịch vụ bán đấu giá tài sản; Trực tiếp quản lý Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản theo
thẩm quyền; Kiểm tra về tổ chức và hoạt động của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản;
Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp
bán đấu giá tài sản; Định kỳ hàng năm báo cáo Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trrung ương và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương;
Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương hoặc theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Mục 9 Thông
tư số 03/2005/TT- BTP).
1.2. CÁC YÊU CẦU VÀ TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU
GIÁ TÀI SẢN
1.2.1. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản
Trước hết chúng ta cần thấy rằng hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như pháp
luật về bán đấu giá nói riêng là một nhiệm vụ có tính chất thường xuyên của mọi Nhà
nước. Với tính chất là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được quy định bởi cơ sở hạ
tầng là những quan hệ xã hội, đặc biệt là những quan hệ trên lĩnh vực kinh tế phát triển rất
nhanh chóng từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập với kinh tế quốc tế.
Điều đó đã tác động trở lại không nhỏ đối với kiến trúc thượng tầng, trong đó có lĩnh vực
pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Vì vậy hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản không chỉ là yêu cầu chủ quan
của Nhà nước mà còn xuất phát từ những yêu cầu tất yếu khách quan, đó là:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản bắt nguồn từ yêu cầu thể chế
hóa chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành
chính và cải cách tư pháp.
Có thể nói rằng trong những năm gần đây nhiều quan điểm của Đảng về hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp đã có cái nhìn đột phá làm
chuyển biến các hoạt động trên rất mạnh mẽ. Kết quả là trong hơn hai mươi năm đổi mới
một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được đổi mới về cơ bản với nhiều bộ luật,
luật quan trọng, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng đảm bảo cho Nhà
nước không chỉ có đủ pháp luật để quản lý xã hội mà còn tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế trên nhiều lĩnh vực và ngày càng sâu rộng. Nghị quyết 48-NQ/TW đã xác định rõ: Hoàn
thiện pháp luật nói chung không chỉ tạo lập và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công cuộc cải
cách hành chính, cải cách tư pháp; đảm bảo xây dựng một nền hành chính dân chủ, sát
dân, sát cơ sở, xóa bỏ mọi thủ tục phiền hà, dành thuận lợi cho dân, đáp ứng mọi yêu cầu,
quyền lợi, chính đáng, hợp pháp của dân, của doanh nghiệp. Một nền hành chính trong
sạch vững mạnh, năng động, hoạt động thông suốt theo đúng chức năng và quyền hành
pháp, chịu sự giám sát của dân, đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các quan điểm chỉ đạo đó, đối với hoạt
động cải cách tư pháp Nghị quyết 49-NQ/TW của Đảng cũng đề ra một số biện pháp, chỉ
đạo những công việc chính trong đó có xây dựng các chế định bổ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp
ứng với tình hình,…từng bước xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp. Mặt dù trong Nghị
quyết của Đảng không đề cập cụ thể đến hoạt động bán đấu giá tài sản như các hoạt động
bổ trợ khác (luật sư, giám định tư pháp, công chứng, thi hành án, chế định thừa hành viên-
thừa phát lại), nhưng hiện nay một trong những hoạt động bổ trợ rất thường xuyên trong
công tác thi hành án và xử lý vi phạm hành chính đó chính là hoạt động bán đấu giá tài
sản. Về phương diện Nhà nước có thể nói hoạt động bán đấu giá tài sản đã góp phần quan
trọng làm cho các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện
các nhiệm vụ quản lý nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp (thi hành án) giải quyết các
vụ việc được nhanh chóng, khách quan, công khai, minh bạch. Bên cạnh đó xét trên
phương diện quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức, doanh nghiệp cũng
được bảo vệ một cách hữu hiệu, đem lại những giá trị lợi ích cao nhất.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản tạo cơ sở pháp lý cho việc
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động này.
Như chúng ta đã biết Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa
vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện mục tiêu này, pháp luật phải trở thành
một công cụ không thể thiếu của Nhà nước. [20, tr.132].
Những quy định của pháp luật có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của
công tác quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này có nghĩa là các
quy định của pháp luật càng đầy đủ, càng rõ ràng thì hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản
lý nhà nước càng cao và ngày càng chặt chẽ. Vì vậy muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động Nhà nước càng không thể không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung, trong đó có pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Trong những năm qua, nhất là sau đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với công
tác bán đấu giá tài sản có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt là đã có nhiều văn bản luật, văn
bản dưới luật của Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn thực hiện công tác
này. Song mặt khác cũng cần thấy rằng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá còn có
nhiều bất cập thậm chí mâu thuẩn, chồng chéo hoặc còn có những quy định chung chung
thiếu cụ thể. Các ngành, các cấp chưa thật sự quan tâm đến cơ sở vật chất, trang thiết bị
hoạt động, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ đấu giá viên. Có thể nói một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình hình trên, chính là các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá
tài sản còn chưa đầy đủ và chưa được rà soát, bổ sung, sửa chữa kịp thời. Do đó hoàn thiện
pháp luật về bán đấu giá để khắc phục những bất cập trên, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác này là hết sức cần thiết.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá là yêu cầu khách quan bắt nguồn từ
thực trạng chưa hoàn chỉnh của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Trong những năm qua các văn bản pháp luật về bán đấu giá đã góp phần làm cho
các hoạt động bán đấu giá diễn ra liên tục, công khai, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia nhất là trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản để thi hành
án, tài sản tịch thu sung quỹ nhà nước trong các bản án hoặc các quyết định xử lý vi phạm
hành chính, các tài sản do cầm cố, thế chấp của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tài
sản của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá…Nhưng trên thực tế bán đấu giá các tài
sản trên cũng đã xuất hiện những quy định chưa thống nhất, chưa đồng bộ làm cho hoạt
động bán đấu giá không phát huy hết được những lợi ích giá trị tuyệt đối của nó mà ngược
lại đôi khi còn làm phát sinh sự tiêu cực lãng phí tài sản của nhà nước, các nguồn lực của
xã hội làm người mua nghi ngờ, do dự khi quyết định tham gia mua tài sản thông qua hoạt
động bán đấu giá và đôi khi chưa nhận được sự đồng tình cao của xã hội. Do đó có thể nói
hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay.
1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản
Trên cơ sở các yêu cầu hoàn thiện của pháp luật về bán đấu giá tài sản và các đặc
điểm của pháp luật về bán đấu giá tài sản đặt ra các tiêu chí hoàn thiện pháp luật này. Điều
kiện đầu tiên để đi tới khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài
sản là sự thừa nhận tính khách quan của hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về bán đấu giá nói riêng. Rõ ràng, đây là một khoảng cách còn chưa
hợp lý do pháp luật về bán đấu giá, số lượng tuy không nhiều nhưng rời rạc, ít nhiều mang
tính tự phát do hình thành từ nhu cầu khách quan, chủ quan của rất nhiều cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền khác nhau nhưng nhất là của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ban hành vào những thời điểm khác nhau,
không có sự chỉ đạo, phối hợp lẫn nhau. Vì vậy, để các văn bản pháp luật về bán đấu giá
tài sản được liên kết thành hệ thống thì cần phải đảm bảo các tiêu chí sau:
Tiêu chí về tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài
sản.
Đây là tiêu chí tiên quyết cho sự hợp thành hệ thống các văn bản pháp luật bán đấu
giá tài sản. Tiêu chí này đòi hỏi các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản không được
mâu thuẫn, chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác
động điều chỉnh theo một chiều, hướng nhất định. Như quy định pháp luật về bán đấu giá
tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án thì phải ký hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản khi người có
tài sản bán đấu giá yêu cầu (điểm a, khoản 2, điều 8 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP) nhưng
Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg thì Hội đồng đấu giá tổ chức thực hiện đấu giá theo
phương án được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt rồi tự tổ chức bán mà
không có ký kết hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản
và không giới hạn giá trị đất. Chính việc quy định chưa thống nhất trên mà trong thời gian
vừa qua nhiều tổ chức đấu giá được thành lập tại các địa phương làm cho việc quản lý nhà
nước về công tác này gặp rất nhiều khó khăn.
Tiêu chí về tính thống nhất còn là sự thống nhất giữa nội dung văn bản với đối
tượng phản ánh, tức là những quan hệ kinh tế - xã hội hiện thực, nhằm đảm bảo giá trị thực
tế của hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản. Thật vậy, một hệ thống tuy có sự thống
nhất nội tại giữa các văn bản nhưng những quy định của nó lại xa lạ với các điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội thì cũng làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý của hệ thống pháp
luật đó kém đi. Chúng ta có thể thấy rất rõ tác động của tiêu chí này đối với pháp luật bán
đấu giá tài sản thể hiện trong việc quy định về khoản tiền đặt trước, thường là do người
bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá thoả thuận quy định nhưng tối đa không
quá 5% của giá khởi điểm (khoản 2, điều 14 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP). Nhưng theo
kinh nghiệm của một số nước và thực tế bán đấu giá tài sản trong thời gian qua, thì mức
này cần phải được nâng lên để hạn chế việc thông đồng dìm giá.
Một yêu cầu nữa trong tiêu chí này là đòi hỏi sự thống nhất về mục đích điều chỉnh
giữa hệ thống văn bản pháp luật bán đấu giá với các hệ thống có cùng chức năng điều
chỉnh khác để tránh sự vênh nhau giữa chúng. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để quản
lý xã hội thực hiện sự hội nhập quốc tế toàn diện thì yêu cầu sự thống nhất về mục đích là
hết sức cần thiết bởi nó tạo ra sự ăn khớp, hài hoà, hỗ trợ lẫn nhau. Tuy rằng ở những
chừng mực nhất định, đó là việc xem xét tính mục đích của nó vừa là một hoạt động bổ trợ
tư pháp vừa là một loại giao dịch dân sự tiện ích và văn minh ngày càng cần được xã hội
hoá mạnh mẽ.
Tiêu chí về tính thống nhất này đòi hỏi phải có sự tuân thủ nguyên tắc pháp chế
trong việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không được chủ
quan, duy ý chí, cục bộ địa phương mình, ngành mình, ban hành pháp luật về bán đấu giá
tài sản trái với văn bản pháp luật của cấp trên. Thường xuyên làm tốt công tác tự kiểm tra,
kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng như thực hiện tốt công
tác so sánh pháp luật, học tập kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về bán đấu giá tài sản của
các nước.
Một tiêu chí để hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nữa là, phải đảm bảo tính
toàn diện. Tiêu chí này thể hiện mức độ thích ứng của hệ thống văn bản với tổng thể các
nhu cầu điều chỉnh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Điều đó có
nghĩa là tính toàn diện bảo đảm không có bất kỳ một khoảng trắng nào mà ở đó các quan
hệ xã hội về bán đấu giá tài sản không hoặc chưa được điều chỉnh bằng pháp luật. Đây là
tiêu chí đòi hỏi rất cao của việc hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản trong khi các quan
hệ xã hội được điều chỉnh bởi pháp luật này luôn phát triển không ngừng, đặc biệt là trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhiệm vụ quản lý nhà nước trong
tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Tính toàn diện còn được thể hiện ở trình độ hoàn thiện hợp lý của văn bản cả về
phạm vi, mức độ điều chỉnh, về phương pháp điều chỉnh, cách trình bày, diễn đạt, ngôn
ngữ của văn bản. Trong khi đó, hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta xét ở
các bình diện trên còn đang dừng lại ở mức độ thấp, hạn chế về số lượng và chưa đồng bộ,
một số quy định còn chậm được cụ thể hoá như việc quy định các loại tài sản nhà nước
được đưa ra bán đấu giá; Người bán tài sản là Hội đồng bán đấu giá tài sản; Việc huỷ kết
quả bán đấu giá tài sản, hình thức đấu giá qua mạng ...
Một tiêu chí khác để hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản cần đảm bảo đó là tính
phân chia và tính thứ bậc về hiệu lực giữa các văn bản pháp luật bán đấu giá tài sản. Tiêu
chí này thể hiện sự phân loại, sắp xếp hợp lý, khoa học, trật tự các văn bản pháp luật về
bán đấu giá tài sản trên cơ sở đối tượng điều chỉnh và sự phân cấp hợp lý về thẩm quyền
trong việc ban hành văn bản của cơ quan nhà nước. Chẳng hạn như Chính phủđã ban hành
Nghị định số 05/2005/NĐ- CP quy định về bán đấu giá tài sản thì Thủ tướng Chính phủ lại
có Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg ban hành quy chế về đấu giá quyền sử dụng đất để
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất. Tương tự việc mua, bán nợ của các tổ
chức tín dụng được thực hiện theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 12
năm 2006 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ
chức tín dụng.
Một tiêu chí khác để hoàn thiện pháp luật bán đấu giá đó là tính ổn định. Với tư
cách là một hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng pháp luật nói chung và pháp luật
bán đấu giá nói riêng bao giờ cũng có tính ổn định tương đối và đòi hỏi những điều kiện
cho sự ổn định. Đó là sự dự báo chính xác trạng thái, xu hướng vận động, phát triển của
các quan hệ xã hội về bán đấu giá tài sản từ đó xác định mục đích điều chỉnh, mức độ khái
quát của các quy định, giới hạn phạm vi tác động của văn bản cho thích hợp như quy định
về các loại tài sản bán đấu giá, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản bán đấu giá…
Tiêu chí về tính cụ thể, chặt chẽ và minh bạch trong hoàn thiện pháp luật về bán đấu
giá tài sản đòi hỏi các quy định trong văn bản pháp luật bán đấu giá phải rõ ràng, chặt chẽ,
dễ hiểu, thực hiện trực tiếp, được phổ biến công khai và áp dụng như nhau cho các đối
tượng phải thi hành văn bản. Chẳng hạn quy định: Tài sản để thi hành án thì Hợp đồng ủy
quyền bán đấu giá tài sản được ký kết giữa cơ quan thi hành án với ngừơi bán đấu giá tài
sản ( điểm e khoản 2 Điều 8 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP). Trong trường hợp này cơ
quan thi hành án là người có tài sản bán đấu giá đặt biệt, nếu chỉ có một người đăng ký
mua thì tại khoản 1 Điều 19 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP quy định chỉ bán nếu người có
tài sản bán đấu giá đồng ý. Bên cạnh đó khoản 3 Điều 2 Nghị định trên có quy định: Người
có tài sản bán đấu giá là chủ sở hửu tài sản hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền bán tài
sản hoặc cá nhân tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy theo các quy định trên thì phải được sự đồng ý của ai, chủ sở hữu tài sản hay cơ
quan thi hành án.
1.3. PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI - MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1.3.1. Pháp luật Trung Quốc về bán đấu giá tài sản
Hoạt động về bán đấu giá tài sản ở Trung Quốc được điều chỉnh bởi văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất là Luật về bán đấu giá tài sản, được thông qua ngày 05 tháng 7
năm 1996. Một số điểm cơ bản của luật này thể hiện ở các quy định sau:
Về tài sản bán đấu giá, Trung Quốc xem bán đấu giá tài sản như một trong những
hình thức mua bán tài sản thông thường. Tài sản được đem bán đấu giá theo quy định của
luật này phải là các tài sản và quyền tài sản được phép giao dịch.
Về người bán đấu giá tài sản, là các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản do chủ sở hữu
hoặc người có quyền xử lý tài sản hoặc quyền tài sản (gọi là người ủy quyền) ủy quyền. Để
được phép hoạt động trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn sau: Có vốn đăng ký ít nhất là 1 triệu nhân dân tệ; Có tên, cơ cấu tổ chức, trụ sở
và điều lệ riêng; Có đấu giá viên và nhân viên đủ tiêu chuẩn để tiến hành hoạt động bán
đấu giá; Có quy chế bán đấu giá phù hợp với pháp luật về bán đấu gía tài sản và các quy
định của pháp luật có liên quan; Có giấy phép hành nghề kinh doanh đặc biệt do cơ quan công
an cấp; Tuân theo những quy định của Chính phủ về phát triển hoạt động bán đấu giá; Đáp
ứng những yêu cầu khác theo quy định của pháp luật.
Riêng đối với các doanh nghiệp bán đấu giá cổ vật văn hóa thì mức vốn đăng ký ít
nhất là 10 triệu nhân dân tệ và có đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm trong việc bán đấu giá
cổ vật.
Về đấu giá viên, đấu giá viên là người trực tiếp chủ trì các cuộc bán đấu giá. Người
muốn trở thành đấu giá viên trước hết phải đáp ứng các điều kiện sau: Có bằng tốt nghiệp
đại học và kinh nghiệm chuyên môn về bán đấu giá; Đã làm việc trong doanh nghiệp bán đấu
giá từ 2 năm trở lên; Có tư cách đạo đức tốt. Để được công nhận chính thức là đấu giá
viên, người đáp ứng những điều kiện trên phải tham gia kỳ thi tuyển chọn đấu giá viên do
Hiệp hội bán đấu giá tổ chức. Hiệp hội là một tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân, được
thành lập theo quy định của pháp luật và là tổ chức tự quản trong lĩnh vực bán đấu giá.
Hiệp hội thực hiện chức năng giám sát các doanh nghiệp bán đấu giá và đấu giá viên theo
quy định của luật này và điều lệ của Hiệp hội. Những người đạt yêu cầu của kỳ thi sẽ được
Hiệp hội cấp chứng chỉ đấu giá viên. Khi được cấp chứng chỉ đấu giá viên, họ sẽ được chủ
trì các cuộc bán đấu giá tài sản.
Về hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản là hợp đồng được ký kết giữa người ủy
quyền và doanh nghiệp bán đấu giá. Hợp đồng ủy quyền không có quy định các nội dung
sau: chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản; quyền, nghĩa vụ của các bên.
Vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản theo quy
định của pháp luật bán đấu giá tài sản Trung Quốc là rất rõ ràng và cụ thể.
- Đối với doanh nghiệp bán đấu giá:
Người thành lập doanh nghiệp bán đấu giá mà không đăng ký hoạt động hoặc
không được sự phê chuẩn thì sẽ bị đình chỉ hoạt động; các khoản thu nhập bất hợp pháp
của doanh nghiệp sẽ bị tịch thu. Ngoài ra người vi phạm còn bị phạt một khoản tiền từ
100% đến 500 % khoản thu nhập bất hợp pháp đó.
Doanh nghiệp bán đấu giá hoặc nhân viên khác tham gia vào cuộc bán đấu giá hoặc
ủy quyền cho người khác tham gia vào phiên đấu giá do mình tổ chức, sẽ bị cảnh cáo và có thể
bị phạt từ 100% đến 500% khoản phí bán đấu giá, trường hợp nặng sẽ bị thu hồi giấy phép.
Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoặc quyền tài sản của chính mình tại phiên bán
đấu giá do mình tổ chức sẽ bị tịch thu toàn bộ khoản thu từ cuộc bán đấu giá đó.
Doanh nghiệp bán đấu giá cấu kết với người tham gia đấu giá khác mà gây thiệt hại
cho người khác, thì cuộc bán đấu giá sẽ không có hiệu lực và doanh nghiệp vi phạm phải
chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật, có thể xử phạt một khoản tiền từ
100% đến 500% giá trả cao nhất đối với người bán đấu giá có hành vi cấu kết.
Doanh nghiệp bán đấu giá nếu biết rõ rằng người ủy quyền không có quyền sở hữu
đối với tài sản hoặc không có quyền xử lý tài sản, quyền tài sản theo quy định của pháp
luật, mà vẫn tiến hành bán đấu giá tài sản thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với người ủy quyền:
Người ủy quyền ủy quyền bán đấu giá tài sản mà mình không có quyền sở hữu hoặc
xử lý sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Người ủy quyền tham gia trả giá hoặc ủy quyền cho người khác thay mặt mình
tham gia trả giá sẽ bị phạt tiền đến 30% giá bán tài sản bán đấu giá.
- Người tham gia đấu giá:
Người tham gia đấu giá mà cố ý cấu kết với những người tham gia đấu giá khác và
doanh nghiệp bán đấu giá sẽ bị xử phạt một khoản tiền từ 10% đến 30% của giá trả cao
nhất đối với người tham gia đấu giá.
- Vi phạm từ cơ quan, cán bộ nhà nước:
Nhân viên cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản theo quy định của
Uỷ ban nhân dân tỉnh, khu tự trị hoặc chính quyền địa phương, nơi có tài sản mà không
thực hiện đúng như quy định về bán đấu gía các loại tài sản trên sẽ bị xử lý theo quy định
về xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại cho nhà nước thì phải bồi thường.
1.3.2. Bán đấu giá tài sản ở Nhật Bản
Trình tự của thủ tục bán đấu giá trước hết được xem xét ở việc bán đấu giá bất
động sản hay động sản.
Đối với việc bán đấu giá bất động sản, Tòa án sẽ ra quyết định bán đấu giá tài sản,
cho kê biên tài sản nhằm mục đích cấm việc tẩu tán bất động sản. Chấp hành viên sẽ điều
tra xem ai đang sử dụng bất động sản và định mức giá tối thiểu. Sau đó, niêm yết công
khai thông tin bán đấu giá. Việc tiến hành bán đấu giá theo đúng thủ tục và quyết định cho
người trả giá cao nhất được mua. Khi người mua nộp tiền xong, thì quyền sở hữu bất động
sản đó được chuyển cho người mua.Tòa án sẽ thanh toán tiền bán bất động sản đó cho các
chủ nợ và kết thúc vụ án. Để người mua được giao bất động sản một cách xuôn xẽ, tòa án
có một chế độ mệnh lệnh buộc người sử dụng bất động sản phải giao trả bất động sản cho
người mua. Như đã trình bày ở trên, từ đầu đến cuối thủ tục bán đấu giá bất động sản đều
do Tòa án tổ chức thực hiện, không có một cơ quan nhà nước hay tổ chức tư nhân nào là
người chủ trì thực hiện cả.
Đối với thủ tục bán đấu giá động sản thì chấp hành viên của Tòa án là người tổ
chức thủ tục bán đấu giá động sản.Yêu cầu bán đấu giá động sản không phải gửi cho Tòa
án mà gửi cho chấp hành viên. Việc kê biên, bán đấu giá và thanh toán tiền bán đều do
chấp hành viên chủ trì thực hiện.
Trên nguyên tắc, Tòa án chủ trì thực hiện thủ tục thi hành án dân sự là các Tòa án
địa phương (Tòa cấp tỉnh) và các chi nhánh. Tùy theo quy mô của mỗi Tòa án, số thẩm
phán phụ trách thi hành án dân sự có khác nhau. Tòa án địa phương Tokyo là nơi có số vụ
án dân sự nhiều nhất trong nước, hiện nay có 15 thẩm phán chuyên trách thi hành án dân
sự. Điểm khác biệt lớn nhất là chấp hành viên không nhận lương từ nhà nước mà có nguồn
thu nhập từ lệ phí của các bên đương sự. Hiện nay Nhật Bản có khoảng 630 chấp hành
viên, riêng Tòa án địa phương Tokyo có 50 người. Tuổi trung bình của chấp hành viên là
50 tuổi.
Trong các chủ thể thực hiện thủ tục bán đấu giá ở Nhật Bản có thư ký Tòa án,
những quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án dân sự thì do thẩm phán thực hiện,
còn các quyết định đơn giản khác thì do thư ký Tòa án thực hiện.
Về hình thức bán đấu giá bất động sản, Luật Nhật Bản quy định hai loại là trả giá
bằng thư kín (bid) và đấu giá công khai (auction). Trong loại trả giá bằng thư kín lại có hai
loại, trả giá vào ngày đã định (bid hy day) và trả giá trong suốt thời hạn đã định (bid hy
period).
Đấu giá công khai là cách kéo giá mua dần lên trong ngày đấu giá. Trả giá trong
suốt thời hạn đã định là thủ tục nhận trả giá bằng thư kín trong một thời hạn đã định
khoảng hai tuần lễ, sau đó mở thư vào một ngày đã định để quyết định được người mua.
Hiện nay, hầu hết các Tòa án ở Nhật Bản đều áp dụng cách thức này vì giúp cho người dân
thường để tham gia, nhờ đó có thể kêu gọi rộng rãi những người mua. Trước khi bỏ thư trả
giá, người mua cần biết hiện trạng và giá bán tối thiểu của bất động sản. Tòa án sẽ đặt bản
báo cáo của chấp hành viên, bản báo cáo của người đánh giá và bản chi tiết về bất động
sản bán đấu giá ở một nơi nhất định trong Tòa án, cho người mua được xem trong một thời
hạn nhất định khoảng hai tuần lễ trước khi mở đầu thời hạn bỏ thư trả giá. Tòa cũng cho
đăng tãi trên báo và tạp chí thông tin về bán đấu giá bất động sản. Chi phí đăng tải lấy từ
tiền tạm ứng chi phí mà chủ nợ phải nộp khi đệ đơn yêu cầu. Người mua phải đến Tòa án
nhận mẫu thư trả giá, điền vào những khoản cấn thiết và đưa cho chấp hành viên hoặc
cũng có thể gửi thư trả giá bằng đường bưu điện, phải nộp một khoản tiền đặt trước tương
đương với 20% của mức giá khởi điểm. Về thủ tục mở thư trả giá, thư trả giá được mở
công khai tại phòng bán tài sản của Tòa án. Chấp hành viên tiến hành thủ tục này. Sau khi
xong thủ tục, chấp hành viên sẽ nhận tiền thù lao. Ở Tòa án địa phương Tokyo, trung bình
mỗi tuần mở thư trả giá một lần, mỗi lần mở thư của khoảng 100 vụ kiện. Khi mở thư cần
có người chứng kiến, thông thường thư ký Tòa án làm người chứng kiến. Người bỏ thư trả
giá không bị bắt buột phải hiện diện. Dù đã trả giá cao nhất đi nữa, nhưng nếu việc điền
vào thư trả giá không đúng thì trên nguyên tắc bị xem là vô hiệu. Việc điền thư trả giá đầy
đủ hay không sẽ được xét về mặt hình thức và nghiêm ngặt.
Người không thể mua tài sản bán đấu giá được Luật bán đấu giá tài sản Nhật Bản
quy định rất cụ thể như không cho bên mắc nợ trong vụ kiện được mua tài sản của họ,
người đã phạm một số tội đặc định, người đã có hành vi cản trở người khác trong việc
tham gia bán đấu giá. Quyết định cho phép bán tài sản (permitting to sale) là sau khi đã
định xong người mua, Tòa án sẽ xem xét người mua có đủ tư cách pháp lý để mua hay
không, thủ tục bán có đúng luật hay không, nếu thấy không có vấn đề thì Tòa án sẽ làm
một văn bản cho phép bán tài sản ấy cho người mua (order permitting to sale). Các bên
đương sự có thể khiếu nại đối với việc cho phép bán này.
Cũng có trường hợp bất động sản không có ai bỏ thư trả giá nên không bán được.
Trong trường hợp này Luật công nhận việc ưu tiên bán cho người đến mua trước. Đó là thủ
tục bán đặc biệt. Thủ tục bán đặc biệt chỉ được thực hiện đối với bất động sản đã được tổ
chức trả giá bằng thư kín hoặc bán đấu giá ít nhất một lần. Thời hạn nộp đơn mua là một
tháng. Người mua phải mua từ giá khởi điểm trở lên, nhưng vì ưu tiên cho người nộp đơn
mua trước nên thông thường, người mua sẽ mua với giá khởi điểm đã định. Vì bán theo
thủ tục đặc biệt sẽ phải chịu giá thấp nên cần có sự đồng ý của chủ nợ trước khi bán. Trong
trường hợp tổ chức bán theo thủ tục đặc biệt mà vẫn không có người mua, thì nhờ người
giám định đánh giá lại tài sản để định lại mức giá khởi điểm và Tòa án sẽ tổ chức bán theo
trả giá bằng thư kín lần nữa.
1.3.3. Đạo luật FLORIDA năm 2003, tựa đề XXXII: Quy định về nghề nghiệp,
chương 468: Những nghề nghiệp khác- Đấu giá viên
Đấu giá viên được hiểu là người được cấp phép theo quy định của Luật này và có
giấy phép hành nghề đấu giá viên của bang còn hiệu lực. Cơ quan được hiểu là cơ quan
quản lý hoạt động kinh doanh và nghề nghiệp. Uỷ ban đấu giá trực thuộc Cơ quan. Uỷ ban
gồm có năm thành viên do Thống đốc bổ nhiệm trên cơ sở quyết định của Thượng viện.
Hai trong số năm người này từng làm việc với tư cách là đấu giá viên ít nhất là năm năm
trước khi họ được chỉ định, một người trong số họ là Giám đốc của một Công ty đấu giá và
hai người trong số họ là người bên ngoài. Nhiệm kỳ của các thành viên là bốn năm. Uỷ
ban có quyền thông qua các quy tắc theo quy định và có trách nhiệm nhận đơn đề nghị của
đấu giá viên, đấu giá viên tập sự, đơn xin cấp phép của Công ty bán đấu giá và có quyền
cấp, sửa đổi, thu hồi các loại giấy đó, đồng thời thực hiện các công việc cần thiết khác để
thực hiện Luật. Người muốn có giấy phép hành nghề đấu giá viên đều phải trãi qua kỳ
thi viết do Uỷ ban phê chuẩn. Uỷ ban sẽ kiểm tra kiến thức của người đăng ký về pháp
luật của bang liên quan tới các quy định của Bộ Luật Thương mại liên bang về bán đấu
giá tài sản, pháp luật về đại lý và các quy định của Luật này. Đấu giá viên tập sự không
được thực hiện hoặc ký hợp đồng thực hiện việc bán đấu giá mà không có sự chấp
thuận rõ ràng của người giám sát là một đấu giá viên đồng ý nhận trách nhiệm giám sát
viên của đấu giá viên tập sự.
Đấu giá viên tập sự cũng phải có đơn đề nghị cấp phép và được cấp giấy phép, phải
trãi qua thời gian tập sự hành nghề ít nhất 1 năm và các cuộc bán đấu giá theo quy định
của Luật này phải được thực hiện bởi một đấu giá viên có giấy phép hợp lệ hoặc một đấu
giá viên tập sự có giấy phép hợp lệ và đã được chấp thuận bằng văn bản của người hướng
dẫn. Người hướng dẫn phải có mặt tại nơi bán đấu giá vào thời điểm đấu giá viên tập sự
thực hiện cuộc bán đấu giá và phải chịu trách nhiệm về bất cứ hành vi hoặc sự sai sót nào
của đấu giá viên tập sự dẫn đến việc vi phạm pháp luật liên quan đến việc tiến hành cuộc
bán đấu giá.
Luật còn quy định Quỹ bồi thường đấu giá là một tài khoản riêng trong quỹ ủy thác
theo quy định nghề nghiệp. Quỹ này do Uỷ ban đấu giá Florida quản lý. Quỹ bồi thường đấu
giá dùng để bồi thường trong các trường hợp sau người được cấp phép mà có hành vi vi
phạm gây ra thiệt hại phải trả tiền bồi thường cho người yêu cầu.
Thiệt hại thực tế có thể bao gồm cả lệ phí Tòa án, tuy nhiên không bao gồm phí của
Luật sư hoặc tiền phạt do gây thiệt hại. Số tiền được trả từ Quỹ bồi thường đấu giá không
được vượt quá 50.000 đôla đối với mỗi yêu cầu hoặc nhiều yêu cầu phát sinh từ cùng một
giao dịch hay cuộc bán đấu hoặc tổng số tiền không vượt quá 100.000 đôla đối với mỗi
người được cấp phép. Một yêu cầu được bồi thường từ Quỹ bồi thường đấu giá phải được
thực hiện trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm xãy ra hành vi gây thiệt hại hoặc trong
thời hạn hai năm kể từ thời điểm hành vi đó được phát hiện hoặc phải được phát hiện. Và
trong bất kỳ trường hợp nào, yêu cầu bồi thường không được đưa ra trong thời hạn bốn
năm, kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm.
Theo quy định của Luật này, người được cấp phép không đủ điều kiện để được cấp
phép lại cả với tư cách đấu giá viên hay Công ty đấu giá cho đến khi đấu giá viên hoặc
Công ty đấu giá trả lại đầy đủ số tiền mà Quỹ bồi thường đấu giá đã thanh toán với lãi suất
thích hợp hiện hành…
1.3.4. Đạo luật về bán đấu giá công khai của Canada (tỉnh Alberta)
Đạo luật này có hiệu lực kể từ ngày công bố là ngày 01 tháng 05 năm 1982. Mô
hình Nhà nước Canada là quyền lực phân tán. Vì vậy Chủ tịch tỉnh có quyền lực rất lớn
trong việc lập pháp. Đạo luật về bán đấu giá công khai của Canada quy định Giấy phép
kinh doanh bán đấu giá ban hành theo Đạo luật về bán đấu giá động sản (hàng hóa và lô
hàng hóa) đang có hiệu lực được coi là hợp lệ theo Đạo Luật này (Điều 19), không áp dụng
Giấy phép theo quy định tại Đạo luật về thương mại và kinh doanh (Điều 18). Đạo luật
quy định Chủ tịch hoặc người được Chủ tịch ủy quyền có quyền tự tiến hành điều tra hoặc
điều tra theo khiếu nại việc thi hành Đạo luật này, có quyền kiểm tra hoạt động bán đấu giá
của người kinh doanh bán đấu giá và sổ sách, hồ sơ, giấy tờ tài liệu, thư tín hoặc những tài
liệu khác liên quan đến nội dung điều tra; có quyền yêu cầu người kinh doanh bán đấu giá,
nhân viên và người điều hành bán đấu giá cung cấp cho Chủ tịch hoặc người được ủy
quyền theo thời hạn (ít nhất là mười ngày kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản); có quyền
sở hữu, kiểm tra, sửa đổi, trích dẫn hoặc sao bất kỳ tài liệu và có quyền thâm nhập, thanh
tra và kiểm tra, tại mọi thời điểm, mọi địa điểm kinh doanh của người kinh doanh bán đấu
giá (Điều 12). Cá nhân, tổ chức phải nhanh chóng trả lời và trả lời trực tiếp theo những yêu
cầu của người điều tra, thực hiện yêu cầu cung cấp hồ sơ, sổ sách, giấy tờ tài liệu, không
được ngăn cản hoặc can thiệp vào việc kiểm tra hoặc sửa đổi theo quy định, không được cản
trở hoặc can thiệp vào hoạt động điều tra của Chủ tịch hoặc người được ủy quyền (Điều 13).
Luật quy định về tài khoản ủy thác nêu rõ: Người kinh doanh bán đấu giá phải gửi
số tiền bán đấu giá vào tài khoản ủy thác taị một ngân hàng, chi nhánh kho bạc, tổ chức tín
dụng hoặc Công ty tín dụng có trụ sở tại Alberta. Tài khoản này phải độc lập với các tài
khoản khác của người kinh doanh bán đấu giá và phải giải ngân theo quy định tại Quy chế
và các quy định về ủy thác. Chủ tịch có quyền ủy quyền bằng văn bản chỉ định người
thanh tra các tài khoản theo quy định trên và không người nào được phép cãn trở hoặc can
thiệp vào hoạt động thanh tra của người có thẩm quyền (Điều 14).
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay

More Related Content

What's hot

99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOTĐề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chínhLuận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giáLuận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất theo luật, HOT
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất theo luật, HOTLuận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất theo luật, HOT
Luận văn: Đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất theo luật, HOT
 
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trườngLuận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật, HAYLuận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp luật, HAY
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đấtLuận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAY
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAYLuận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAY
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAY
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay

Phap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaPhap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaHung Nguyen
 
Luận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
Luận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia LaiLuận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
Luận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia LaiDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcĐấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdfBán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdfNuioKila
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay (20)

Phap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaPhap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau gia
 
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện Nay
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện NayHoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện Nay
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bán Đấu Giá Tài Sản Ở Việt Nam Hiện Nay
 
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia LaiLuận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
 
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAYLuận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lí bán đấu giá, HAY
 
Luận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
Luận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia LaiLuận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
Luận văn: Pháp luật ṿề quản lý bán đấu giá tài sản tại tỉnh Gia Lai
 
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcĐấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
 
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdfBán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam 6829889.pdf
 
Đề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc
Đề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh PhúcĐề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc
Đề tài: Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đ
Luận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đLuận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đ
Luận văn: Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo luật, 9đ
 
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt NamĐề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCMLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
Luận văn: Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sựLuận văn: Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
Luận văn: Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
 
Luận văn: Thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
 
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản, 9 điểm.docx
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản, 9 điểm.docxHoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản, 9 điểm.docx
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản, 9 điểm.docx
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAYLuận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
 
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của luật SHTT năm 2005.doc
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của luật SHTT năm 2005.docHành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của luật SHTT năm 2005.doc
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của luật SHTT năm 2005.doc
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Luận văn: Pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay

  • 1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
  • 2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta bán đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Với những quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và một số văn bản luật có liên quan như: Luật Đất đai 2003, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, năm 2008), Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 được ban hành và có hiệu lực thi hành trong những năm gần đây đã chứa đựng nhiều tư duy pháp lý mới đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”(gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), Nghị quyết số 48 NQ/TW ngày 24 tháng5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết số 48 NQ/TW) và Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49 NQ/TW). Trong cơ chế thị trường, mọi loại tài sản được mua bán ở thị trường đều được coi là hàng hóa nhưng không phải tất cả loại tài sản đều có thể được đem bán đấu giá. Dựa trên khả năng tham gia giao dịch của tài sản, có thể chia tài sản thành 3 loại: tài sản không được phép đấu giá, tài sản bán đấu giá hạn chế đối với người tham gia đấu giá và tài sản bán đấu giá không hạn chế. Tài sản không được phép bán đấu giá là loại tài sản mà Nhà nước cấm giao dịch mua bán tự do. Ví dụ: Các loại thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002, các loại ma túy theo quy định Luật Phòng chống ma túy năm 2000, Nghị định số 67/2001/NĐ-CP và Nghị định số 133/2003/NĐ-CP, các loại pháo theo quy định của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP.
  • 3. Tài sản bán đấu giá có hạn chế đối với người tham gia đấu giá là những loại tài sản mà chỉ những người đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mới được phép tham gia đấu giá. Ví dụ: Tài sản là nguyên liệu thuốc lá, sản phẩm thuốc lá theo quy định của Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001, tài sản là vàng theo quy định của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 1999 và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003. Tài sản bán đấu giá không hạn chế là tất cả các loại tài sản mà pháp luật không quy định về điều kiện đối với người mua và người bán loại tài sản đó, bao gồm tất cả các loại tài sản còn lại ngoài hai loại tài sản trên. Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được pháp luật quy định. Tài sản đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia bán đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định về bán đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản. Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Song trong thực tiễn từ đổi mới đến nay pháp luật bán đấu giá tài sản vẫn còn một số bất cập trước áp lực của xu thế hội nhập của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng như còn chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật trong nước luôn được sửa đổi để hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Theo đánh giá tại Chỉ thị số 18/2006/CT-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 về bán đấu giá tài sản thì tại nhiều địa phương một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm, chưa thống nhất dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
  • 4. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương chưa cao ảnh hưởng đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của cá nhân, tổ chức tham gia bán đấu giá tài sản. Do đó, để khắc phục những hạn chế thiếu sót của hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản cần phải tiến hành nghiên cứu rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản mới có giá trị pháp lý cao nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất toàn diện bảo đảm cho hoạt động bán đấu giá tài sản thông thoáng đem lại những giá trị lợi ích cao nhất, văn minh nhất cho cá nhân, tổ chức có tài sản bán đấu giá và lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội, đặc biệt là trong điều kiện thực hiện chủ trương cải cách hành chính và xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, với những lý do trên thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết, không chỉ góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này mà còn góp phần giải quyết một vấn đề thực tiễn đang đặt ra rất cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng có tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nhưng ở những gốc độ khác nhau. Bộ Tư pháp với nhiệm vụ được Chính phủ giao cho việc thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực bán đấu giá tài sản cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại hai miền (phía Bắc ở tỉnh Nghệ An và phía Nam ở tỉnh An Giang), đồng thời biên soạn các tài liệu tập huấn hướng dẫn công tác này. Bên cạnh đó cũng đã có một số bài viết nghiên cứu về pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam được đăng trên tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp như: - Hoạt động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng của tác giả Đỗ Khắc Trung (số chuyên đề tháng 10/2006). - Một số bất cập của pháp luật về bán đấu giá tài sản của tác giả Nguyễn Văn Mạnh (số chuyên đề tháng 10/2006). - Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá tài sản của tác giả Phạm Văn Chung (số chuyên đề tháng 10/2006). - Những vướng mắc trong việc áp dụng hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu của tác giả Minh Đức (số chuyên đề tháng 11/2007).
  • 5. - Có hay không sự khác nhau giữa bán đấu giá quyền sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất của tác giả Nguyễn Vĩnh Diện ( số 6/2007). Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù những công trình khoa học đã được công bố là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đến nay. - Xác lập quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật bán đấu giá tài sản, vai trò, các yêu cầu và tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản, qúa trình hình thành và thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản, những quan điểm và giải pháp hoàn thiện hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta chủ yếu trong thời kỳ đổi mới cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
  • 6. Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những cơ sở lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới Nhà nước và pháp luật về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mát xít như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh thống kê. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng như nghiên cứu và rà soát tài liệu. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và toàn diện về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam, do đó luận văn có những đóng góp nhất định sau: - Xác lập và đưa ra khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản, chỉ ra những đặc điểm của pháp luật này cùng những tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản. - Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó của pháp luật bán đấu giá tài sản ở nước ta. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực cụ thể là bán đấu giá tài sản. - Luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các cơ quan Nhà nước, các nhà làm luật trong việc hoạch định chính sách sửa đổi, bổ sung, ban hành mới pháp luật về bán đấu giá tài sản và của những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 8. Kết luận của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
  • 7. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN 1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản và pháp luật bán đấu giá tài sản - Khái niệm về bán đấu giá tài sản: Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006, trang 31 có nêu: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản. Theo quy định của pháp luật, người bán đấu giá là: doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; hội đồng bán đấu giá tài sản. Người bán đấu giá có nghĩa vụ: tổ chức việc bán đấu giá tài sản theo nguyên tắc và thủ tục quy định của pháp luật; niêm yết , thông báo công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản bán đấu giá; bảo quản tài sản bán đấu giá khi được người có tài sản giao bảo quản hoặc quản lý; trưng bày, cho xem và cho tham khảo hồ sơ tài sản bán đấu giá; giao tài sản bán đấu giá được giao bảo quản hoặc quản lý cho người mua được tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang trực tiếp quản lý tài sản đó; cung cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu giá; thanh toán cho người có tài sản bán đấu giá số tiền bán tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật; bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi do vi phạm nghĩa vụ; định kỳ hàng năm, trung tâm và doanh nghiệp bán đấu giá tài sản báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trung tâm, doanh nghiệp đặt trụ sở chính và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động của mình. Người bán đấu giá tài sản có quyền: yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá; yêu cầu người mua
  • 8. được tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán tiền mua tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán chi phí bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. Mua tài sản bằng hình thức bán đấu giá tài sản là một căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản đối với người đã mua được tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Tài sản bán đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Người tham gia đấu giá tài sản có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mặt mình tham gia đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản Nói về nguyên tắc bán đấu giá tài sản, tại điều 3 Nghị định quy định: Việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo nguyên tắc công khai, liên tục, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Về các loại tài sản bán đấu giá, tại điều 5 của Nghị định có quy định cụ thể đó là: tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước. So với quy định tại Nghị định số 86/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản thì tại điều 2 Quy chế kèm Nghị định trên quy định:
  • 9. Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai mà có nhiều người muốn mua tham gia trả giá theo thủ tục được quy định tại Quy chế này; Người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người được mua tài sản bán đấu giá đó; Người bán đấu giá là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá do Sở Tư pháp trực tiếp quản lý hoặc các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá chuyên nghiệp do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ; Người bán tài sản là chủ sở hữu về tài sản hoặc là người được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc là người có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật; Người tham gia đấu giá là cá nhân, tổ chức; Người điều hành bán đấu giá là người do người bán đấu giá cử ra để điều hành cuộc bán đấu giá; Tài sản bán đấu giá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép giao dịch. Tại điều 3 của Nghị định quy định nguyên tắc bán đấu giá đó là, việc bán đấu giá tài sản thực hiện theo nguyên tắc trực tiếp công khai, trung thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 tại mục 1, phần III Chương XVIII có nêu một số quy định riêng về mua bán tài sản, mục về Hợp đồng mua bán tài sản ở chương Hợp đồng dân sự thông dụng ( Điều 456 đến Điều 459). Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Luật Thương mại năm 2005 coi đấu giá hàng hóa là một trong số hoạt động thương mại cụ thể được Luật quy định hoàn chỉnh gồm 29 điều (từ điều 185 đến điều 213). Theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất (khoản 1 Điều 185). Những quy định liên quan đến đấu giá hành hóa trong Luật Thương mại năm 2005 nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hóa, nâng cao hiệu quả và hiệu lực pháp lý của hoạt động thương mại này. Song trên thực tế, hoạt động bán đấu giá đang được thực hiện đối với các hàng hóa là tài sản bị tịch thu do vi phạm hành chính hoặc để thi hành án là chủ yếu còn mua bán hàng hóa thương mại chủ yếu là người bán hàng tự mình thực hiện việc bán hàng hóa qua thỏa thuận. Việc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá đựơc thực hiện trên cơ sở của Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày
  • 10. 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước, Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6 tháng 3.năm 1998 của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước, Thông tư số 34/2005/TT-BTC ngày 12 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm và chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá, Thông tư số 13/2007/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 34/2005/TT-BTC quy định việc bán đấu giá chỉ liên quan đến việc xử lý tài sản nhà nước khi tài sản nhà nước có quyết định bán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về nguyên tắc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá phải phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước đã nêu ở trên và Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, cụ thể là cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản phải ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản. Tóm lại, khái niệm về bán đấu giá tài sản ở nước ta từ khi đổi mới đến nay ngày càng được quy định rõ ràng cụ thể, dễ hiểu.Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/ NĐ - CP có quy định: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Song mặt hạn chế của khái niệm về bán đấu giá là chưa bao quát hết các nội dung của hoạt động này. Chẳng hạn như thế nào là tài sản để bán đấu giá, theo quy định tại điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Mặt khác điều 174, chương XI Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các loại tài sản là bất động sản và động sản có nêu bất động sản là các loại tài sản bao gồm: đất đai; nhà , công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản; điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó theo quy định tại điều 5 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì các loại tài sản bán đấu giá chỉ bao gồm: Tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu
  • 11. bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước. Việc kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án được Chính phủ quy định tại một Nghị định riêng (Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2004), theo đó thẩm quyền và trách nhiệm đấu giá quyền sử dụng đất đã kê biên được quy định tại khoản 2 điều 7 như sau: đối với địa phương chưa có tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản từ chối ký hợp đồng ủy quyền đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án thì Chấp hành viên thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất theo quy định của Nghị định này và pháp luật về bán đấu giá tài sản. Bên cạnh đó Nghị định tiếp tục quy dịnh tại tại khoản 3 điều 23 như sau: đối với những địa phương chưa thành lập tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản, thì trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Chấp hành viên phải thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án. [39, tr 56]. Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì việc bán đấu giá tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm chỉ được thực hiện khi xử lý tài sản bảo đảm là động sản trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá (điều 65). Nghị định cũng quy định về thời hạn xử lý tài sản bảo đảm, trước hết tài sản bảo đảm được xử lý trong thời hạn do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước bảy ngày đối với động sản hoặc mười lăm ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm. Riêng đối với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay (khoản 2 điều 61, điều 62). Theo Nghị định số 46/2006/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về xử lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam, thì hàng hóa bị lưu giữ là hàng hóa do người vận chuyển bằng đường biển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam để bảo
  • 12. đảm việc thanh toán tiền cước vận chuyển, tiền bồi thường do lưu tàu và các khoản chi phí khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Người lưu giữ là người vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hóa khi có căn cứ làm phát sinh quyền lưu giữ hàng hóa và người lưu giữ có quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ sau sáu mươi ngày, kể từ ngày tàu biển đến cảng trả hàng nếu những ngườicó lợi ích liên quan không thanh toán đủ các khoản nợ hoặc không có bảo đảm cần thiết khác và sau khi người lưu giữ đã thực hiện thông báo lưu giữ hàng hóa. Trong trường hợp hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại mau hỏng, có khả năng gây ô nhiễm môi trường, có ảnh hưởng tới quốc phòng an ninh hoặc việc ký gửi hàng hóa bị lưu giữ quá tốn kém so với giá trị thực tế của hàng hóa thì người vận chuyền có quyền căn cứ theo tính chất đặc điểm tự nhiên của hàng hóa và khả năng tài chính của mình để xử lý hàng hóa bị lưu giữ sớm hơn thời gian quy định nhưng vẫn phải thực hiện các công việc thông báo lưu giữ hàng hóa. Hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại cấm nhập khẩu hoặc cấm lưu thông trên lãnh thổ Việt Nam được xử lý theo quy định của pháp luật. Người lưu giữ có quyền ký hợp đồng ủy quyền việc bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ cho ngừơi bán đấu giá là doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc hội đồng bán đấu giá tài sản theo quy định tại các điều 34, 35, 36 và 37 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Thủ tục bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản (khoản 3 điều 5, điều 6 Nghị định số 46/2006/NĐ-CP). Nghị định còn quy định trước khi ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ, người lưu giữ phải thuê giám định về số lượng, chất lượng và tổn thất (nếu có) của hàng hóa bị lưu giữ. Chi phí giám định hàng hóa bị lưu giữ được tính vào chi phí liên quan đến bán đấu giá hàng hóa. Toàn bộ tiền thu được do bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ được gửi vào “Tài khoản tiền quản lý, giữ hộ” của người lưu giữ tại Ngân hàng được phép hoạt động ở Việt Nam. Việc chi trả số tiền này được thực hiện theo thứ tự ưu tiên trước hết cho các khoản thuế, lệ phí, các chi phí liên quan đến việc ký gửi và bán đấu giá hàng hóa (điều 8, điểm a khoản 1 điều 9 Nghị định số 46/2006/NĐ-CP). Tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, ngày 12.6.2008 Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 04/2008/L-CTN công bố
  • 13. Luật. Đây là lần đầu tiên các quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được quy định thống nhất trong một văn bản Luật, tạo tiền đề pháp lý cao trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước. Theo quy định tại điều 1 của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thì luật này chỉ điều chỉnh đối với những tài sản nhà nước phục vụ hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị như: trụ sở làm việc, tài sản khác gắn liền với đất, quyền sử dụng đất đối với đất dùng để xây dựng trụ sở làm việc,cơ sở hoạt động sự nghiệp; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc… Đối với tài sản nhà nước là tiền, hàng hóa, vật tư, tài sản dự trử quốc gia tại cơ quan, đơn vị, tổ chức; tài sản là đất đai tài nguyên thiên nhiên, vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia, tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước…, việc quản lý sử dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan như Luật Đất đai, Pháp lệnh dự trữ quốc gia, Luật Doanh nghiệp nhà nước. Việc bán tài sản nhà nước được thực hiện trong các trường hợp không có nhu cầu sử dụng hoặc việc sử dụng không có hiệu quả.Việc bán tài sản nhà nước được thực hiện công khai, theo cơ chế thị trường. Việc bán tài sản nhà nước là trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật là một lĩnh vực mới mẻ rất phức tạp. Theo lý luận chung hệ thống pháp luật được hiểu là tập hợp tất cả các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật tạo thành một cấu trúc tổng thể, được phân chia thành các bộ phận có sự thống nhất nội tại theo những tiêu chí nhất định như bản chất, nội dung, mục đích. Theo đó hệ thống pháp luật bao gồm hệ thống cấu trúc bên trong và hệ thống cấu trúc bên ngoài. Hệ thống cấu trúc bên trong là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân chia thành các ngành luật, mỗi ngành luật lại được tạo nên bởi một bộ phận các quy phạm pháp luật có sự thống nhất nội tại, có chung đối tượng và phương pháp điều chỉnh. Trong mỗi bộ phận quy phạm pháp luật lại được phân bổ
  • 14. thành những bộ phận nhỏ hơn hợp thành các chế định pháp luật và mỗi chế định pháp luật lại được hình thành từ các quy phạm pháp luật. Hệ thống cấu trúc bên ngoài là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản quan trọng. Hệ thống cấu trúc bên ngoài được phân định thành các văn bản luật và văn bản dưới luật [10, tr.173]. Theo quan niệm này, pháp luật về bán đấu giá tài sản chưa phải là một ngành luật độc lập có phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng biệt. Mặc dù pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội về bán đấu giá tài sản được thể hiện trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và có mối quan hệ thống nhất trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của loại tài sản được đưa ra bán đấu giá theo cách phân định của pháp luật, mà pháp luật về bán đấu giá tài sản không thuộc một ngành luật chuyên biệt nào. Các quy định của pháp luật về bán đấu giá nằm rải rác trong các quy định của luật, pháp lệnh, nghị định như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch đảm bảo, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh thi hành án, Nghị định về kê biên đấu giá quyền sử dụng đất trong thi hành án, Quyết định về việc ban hành quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, Nghị định về xử lý hàng hoá do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam... Vì vậy, cần thấy rằng pháp luật về bán đấu giá tài sản vừa đang là những quan hệ bổ trợ tư pháp giúp cho hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình trong xử lý các tài sản để thi hành án, tịch thu sung công quỹ nhà nước, trong các khoản bồi hoàn, tiền phạt hoặc bán tài sản nhà nước vừa là các quan hệ pháp luật về giao dịch dân sự khi cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của họ.. Tại Điều 1, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP quy định phạm vi điều chỉnh đó là: quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Về đối tượng điều chỉnh Điều 34 của Nghị định này cũng quy định rõ đó là Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và Hội đồng bán đấu giá tài sản (đối với tài sản dưới mười triệu đồng mà không phải là Hội đồng đấu giá tài sản theo Quyết
  • 15. định 216/2005/QĐ-TTg). Do đó, pháp luật về bán đấu giá hiện nay so với các quy định pháp luật nói chung còn chưa hợp lý nhất là về nội dung pháp luật, hình thức pháp luật và tổ chức thực hiện của hệ thống pháp luật này. Tuy nhiên, xem xét pháp luật về bán đấu giá trong mối quan hệ với các ngành luật trong hệ thống pháp luật có thể đưa ra khái niệm pháp luật về bán đấu giá tài sản như sau: Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Điều cần thấy rằng, khung pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta đang trong quá trình hình thành chưa thể tạo thành một trật tự pháp luật đầy đủ và ổn định. Chưa có một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Luật để điều chỉnh và tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản nhằm đưa tổ chức và hoạt động này ngày càng có hiệu quả hơn trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng như hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch và phát huy được các lợi ích kinh tế do bán đấu giá tài sản đem lại. Với ý nghĩa đó chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan. 1.1.2 Đặc điểm của pháp luật bán đấu giá tài sản Nói đến đặc điểm của pháp luật bán đấu giá chính là muốn nói đến những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt pháp luật bán đấu giá với những quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác. Ở góc độ này chúng ta thấy pháp luật về bán đấu giá có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trước đổi mới và những năm đầu sau khi đổi mới và cho đến nay số lượng văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản còn ít, chủ yếu là trong lĩnh vực Dân sự, thi hành án dân sự và trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. Đó là các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989… Thứ hai, những văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản chỉ có hình thức pháp lý là văn bản dưới luật hoặc được quy định dưới các hình thức là các chế định pháp luật trong các văn bản luật chuyên ngành. Chẳng hạn như Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18
  • 16. tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Chế định pháp luật về đấu giá hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại năm 2005; Chế định pháp luật về bán đấu giá tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005; Các quy định về bán đấu giá trong Pháp lệnh Thi hành án Dân sự năm 2004… Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá còn rất tản mạn, phức tạp chưa có tính hệ thống. Đặc biệt là trong thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế nhiều văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực ban hành có liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản như Luật đất đai năm 2003 (sửa đổi), Luật đăng ký giao dịch bảo đảm năm 2005, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008… Nếu chúng ta xem pháp luật về bán đấu giá tài sản là những quy định chung thì trong mối quan hệ với những văn bản luật trên có ý nghĩa như là những quy định của pháp luật chuyên ngành. Ở đặc điểm này của pháp luật về bán đấu giá cho thấy cũng giống như đặc điểm của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung nó tồn tại không phải bởi “ tổng số cộng” đơn giản các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mà phải là một chỉnh thể thống nhất với sự phối hợp cùng tác động điều chỉnh các quan hệ pháp luật về bán đấu giá tài sản hết sức linh hoạt và phong phú, trãi rộng trên nhiều lĩnh vực. Thứ tư, pháp luật bán đấu giá có đặc điểm quy định về người bán đấu giá tài sản rất rộng gồm nhiều loại chủ thể tham gia. Đó là Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và Hội đồng bán đấu giá tài sản. Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản được tiến hành kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản khi có đủ các điều kiện sau đây: Có đăng ký kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản; Có ít nhất một đấu giá viên; Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện bán đấu giá tài sản. Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập và giao cho Sở chuyên môn có chức năng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá tài sản ở địa phương trực tiếp quản lý. Trung tâm là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân. Giám đốc Trung tâm phải là đấu giá viên. Trung tâm có nhiệm vụ bán đấu giá tài sản để thi hành án, tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật. Ngoài
  • 17. nhiệm vụ bán đấu giá các tài sản nói trên, Trung tâm có thể ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân có yêu cầu để bán đấu giá các loại tài sản khác. Hội đồng bán đấu giá tài sản do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập để tổ chức bán đấu giá tài sản của nhà nước có giá trị dưới mười triệu đồng. So sánh với pháp luật bán đấu giá một số nước đã nghiên cứu ở trên cho thấy chủ thể bán đấu giá tài sản ở các nước này chủ yếu hoặc chỉ có Doanh nghiệp bán đấu giá hoặc Công ty bán đấu giá. 1.1.3 Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản bao gồm nguyên tắc, trình tự, thủ tục bán đấu giá, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Những nội dung trên đựơc pháp luật quy định hoặc do thỏa thuận của các bên về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý được thể hiện bằng những hình thức cụ thể đó là Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản và Văn bản bán đấu giá tài sản. Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản là sự thoả thuận giữa bên có tài sản bán đấu giá và trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản. Nội dung của hợp đồng uỷ quyền về cơ bản quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của bên có tài sản bán đấu giá, một số điều khoản có liên quan đến người thứ ba trong hợp đồng uỷ quyền như: người giữ tài sản, người tham gia đấu giá tài sản. Chủ thể tham gia hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản: Một bên là tổ chức, cá nhân có yêu cầu bán đấu giá tài sản, bên kia là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản [6, tr.55]. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 Nghị định số 05/2005/NĐ/CP thì hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản và có các nội dung chủ yếu sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; tên, địa chỉ của người bán đấu giá tài sản; Thời hạn, địa điểm bán đấu giá tài sản; Liệt kê, mô tả tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản để bán đấu giá; Việc thanh toán tiền bán tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành; Các chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Các thoả thuận khác.
  • 18. Văn bản bán đấu giá tài sản hay hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá là sự thoả thuận giữa người bán đấu giá tài sản là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá. Nội dung của hợp đồng này chủ yếu quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đấu giá và người mua được tài sản bán đấu giá. Văn bản bán đấu giá tài sản có giá trị xác nhận việc mua bán tài sản, là cơ sở pháp lý để chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản bán đấu giá. Văn bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên chịu trách nhiệm về việc bán đấu giá tài sản và của người mua được tài sản bán đấu giá. Đối với văn bản bán đấu giá bất động sản thì phải có chứng nhận của công chứng viên nơi có bất động sản. Quy định này phù hợp với pháp luật về đất đai và Luật nhà ở. Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá tài sản gồm một bên là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, bên kia là người mua được tài sản bán đấu giá. Nội dung của hợp đồng này có các nội dung chủ yếu sau đây: Tên, địa chỉ của người bán đấu giá tài sản; Họ, tên của người điều hành cuộc bán đấu giá tài sản; Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; Họ, tên, địa chỉ của người mua được tài sản bán đấu giá; Thời gian, địa điểm bán đấu giá tài sản; Tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá; Giá bán tài sản; Thời hạn, phương thức, địa điểm thanh toán tiền mua tài sản đã bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm giao tài sản đã bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu giá; Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ của các bên [9, tr.9]. Sự khác nhau giữa hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá và hợp đồng bán đấu giá tài sản ở các chủ thể tham gia của hai hợp đồng này là khác nhau, hai hợp đồng này là hai hợp đồng tách biệt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản là hợp đồng gốc, khi các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng này thì sẽ dẫn đến hợp đồng thứ hai là hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá. Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá cần phải chuyển cho người có tài sản để họ biết và làm các thủ tục chuyển giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp tài sản bán đấu giá là bất động sản thì văn bản bán đấu giá tài sản còn được gửi cho cơ quan thuế. Tuy nhiên, tùy theo các loại tài sản được đưa ra bán đấu giá mà có thể có hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá hoặc hợp đồng bán đấu giá tài sản. Đối với trường hợp đấu giá
  • 19. quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì người bán đấu giá tài sản lập phương án bán đấu giá được cấp có thẩm quyền phê duyệt và khi tổ chức đấu giá thì lập biên bản đấu giá của mỗi vòng đấu giá được quy định tại Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg. Trong chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu để bán đấu giá được tiến hành trên cơ sở của pháp luật và người có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm không được quyền lựa chọn người bán đấu giá để tiến hành bán đấu giá các loại tài sản này. Bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án theo quy định tại Điều 23 của Nghị định 164/2004/NĐ-CP có quy định: Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận quyền sử dụng đất hoặc người phải thi hành án không đồng ý cho người được thi hành án nhận quyền sử dụng đất để thi hành án kể cả quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất thì trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày định giá chấp hành viên phải làm thủ tục ký Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản để đấu giá quyền sử dụng đất. Nếu người phải thi hành án có chung quyền sử dụng đất đối với người khác thì người có chung quyền sử dụng đất đối với người phải thi hành án có văn bản đề nghị nhận quyền sử dụng đất đã kê biên. Nếu trong thời hạn thực hiện quyền ưu tiên không quá mười ngày làm việc, nếu người có chung quyền sử dụng đất với người phải thi hành án có văn bản đề nghị không nhận quyền sử dụng đất đó [39, tr.56]. Nội dung quản lý Nhà nước về bán đấu giá tài sản quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ/CP có nêu nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước thống nhất về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi cả nước, có nhiệm vụ, quyền hạn soạn thảo, trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động bán đấu giá; hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đó. Ban hành, quản lý và hướng dẫn theo thẩm quyền việc sử dụng các mẫu văn bản, giấy tờ trong lĩnh vực bàn đấu giá tài sản, Sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản theo thẩm quyền. Tổng hợp và hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác được Chính phủ giao.
  • 20. Bộ Tài chính có nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn về chế độ tài chính trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Hướng dẫn, kiểm tra việc chuyển giáo tài sản Nhà nước để bán đấu giá. Hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá là tài sản nhà nước. Hướng dẫn chung về mức thu, việc quản lý, sử dụng phí đấu giá thuộc nguồn thu của ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí. Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định thành lập Trung tâm; bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc Trung tâm. Bảo đảm biên chế, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Trung tâm. Quy định cụ thể về mức phí đấu gía tại địa phương căn cứ vào quyết định của Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi địa phương theo thẩm quyền. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá tài sản tại địa phương theo quy định của Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Phối hợp với Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Đề án thành lập Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Phối hợp với Sở Nội vụ đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó giám đốc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Trực tiếp quản lý Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản theo thẩm quyền; Kiểm tra về tổ chức và hoạt động của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; Định kỳ hàng năm báo cáo Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trrung ương và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương; Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Mục 9 Thông tư số 03/2005/TT- BTP). 1.2. CÁC YÊU CẦU VÀ TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
  • 21. 1.2.1. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản Trước hết chúng ta cần thấy rằng hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như pháp luật về bán đấu giá nói riêng là một nhiệm vụ có tính chất thường xuyên của mọi Nhà nước. Với tính chất là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được quy định bởi cơ sở hạ tầng là những quan hệ xã hội, đặc biệt là những quan hệ trên lĩnh vực kinh tế phát triển rất nhanh chóng từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập với kinh tế quốc tế. Điều đó đã tác động trở lại không nhỏ đối với kiến trúc thượng tầng, trong đó có lĩnh vực pháp luật về bán đấu giá tài sản. Vì vậy hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản không chỉ là yêu cầu chủ quan của Nhà nước mà còn xuất phát từ những yêu cầu tất yếu khách quan, đó là: Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản bắt nguồn từ yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Có thể nói rằng trong những năm gần đây nhiều quan điểm của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp đã có cái nhìn đột phá làm chuyển biến các hoạt động trên rất mạnh mẽ. Kết quả là trong hơn hai mươi năm đổi mới một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được đổi mới về cơ bản với nhiều bộ luật, luật quan trọng, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng đảm bảo cho Nhà nước không chỉ có đủ pháp luật để quản lý xã hội mà còn tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trên nhiều lĩnh vực và ngày càng sâu rộng. Nghị quyết 48-NQ/TW đã xác định rõ: Hoàn thiện pháp luật nói chung không chỉ tạo lập và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp; đảm bảo xây dựng một nền hành chính dân chủ, sát dân, sát cơ sở, xóa bỏ mọi thủ tục phiền hà, dành thuận lợi cho dân, đáp ứng mọi yêu cầu, quyền lợi, chính đáng, hợp pháp của dân, của doanh nghiệp. Một nền hành chính trong sạch vững mạnh, năng động, hoạt động thông suốt theo đúng chức năng và quyền hành pháp, chịu sự giám sát của dân, đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các quan điểm chỉ đạo đó, đối với hoạt động cải cách tư pháp Nghị quyết 49-NQ/TW của Đảng cũng đề ra một số biện pháp, chỉ đạo những công việc chính trong đó có xây dựng các chế định bổ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp ứng với tình hình,…từng bước xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp. Mặt dù trong Nghị
  • 22. quyết của Đảng không đề cập cụ thể đến hoạt động bán đấu giá tài sản như các hoạt động bổ trợ khác (luật sư, giám định tư pháp, công chứng, thi hành án, chế định thừa hành viên- thừa phát lại), nhưng hiện nay một trong những hoạt động bổ trợ rất thường xuyên trong công tác thi hành án và xử lý vi phạm hành chính đó chính là hoạt động bán đấu giá tài sản. Về phương diện Nhà nước có thể nói hoạt động bán đấu giá tài sản đã góp phần quan trọng làm cho các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp (thi hành án) giải quyết các vụ việc được nhanh chóng, khách quan, công khai, minh bạch. Bên cạnh đó xét trên phương diện quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức, doanh nghiệp cũng được bảo vệ một cách hữu hiệu, đem lại những giá trị lợi ích cao nhất. Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động này. Như chúng ta đã biết Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện mục tiêu này, pháp luật phải trở thành một công cụ không thể thiếu của Nhà nước. [20, tr.132]. Những quy định của pháp luật có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này có nghĩa là các quy định của pháp luật càng đầy đủ, càng rõ ràng thì hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước càng cao và ngày càng chặt chẽ. Vì vậy muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động Nhà nước càng không thể không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật về bán đấu giá tài sản. Trong những năm qua, nhất là sau đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với công tác bán đấu giá tài sản có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt là đã có nhiều văn bản luật, văn bản dưới luật của Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn thực hiện công tác này. Song mặt khác cũng cần thấy rằng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá còn có nhiều bất cập thậm chí mâu thuẩn, chồng chéo hoặc còn có những quy định chung chung thiếu cụ thể. Các ngành, các cấp chưa thật sự quan tâm đến cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ đấu giá viên. Có thể nói một trong những nguyên
  • 23. nhân dẫn đến tình hình trên, chính là các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản còn chưa đầy đủ và chưa được rà soát, bổ sung, sửa chữa kịp thời. Do đó hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá để khắc phục những bất cập trên, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác này là hết sức cần thiết. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá là yêu cầu khách quan bắt nguồn từ thực trạng chưa hoàn chỉnh của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Trong những năm qua các văn bản pháp luật về bán đấu giá đã góp phần làm cho các hoạt động bán đấu giá diễn ra liên tục, công khai, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia nhất là trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản để thi hành án, tài sản tịch thu sung quỹ nhà nước trong các bản án hoặc các quyết định xử lý vi phạm hành chính, các tài sản do cầm cố, thế chấp của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tài sản của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá…Nhưng trên thực tế bán đấu giá các tài sản trên cũng đã xuất hiện những quy định chưa thống nhất, chưa đồng bộ làm cho hoạt động bán đấu giá không phát huy hết được những lợi ích giá trị tuyệt đối của nó mà ngược lại đôi khi còn làm phát sinh sự tiêu cực lãng phí tài sản của nhà nước, các nguồn lực của xã hội làm người mua nghi ngờ, do dự khi quyết định tham gia mua tài sản thông qua hoạt động bán đấu giá và đôi khi chưa nhận được sự đồng tình cao của xã hội. Do đó có thể nói hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay. 1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản Trên cơ sở các yêu cầu hoàn thiện của pháp luật về bán đấu giá tài sản và các đặc điểm của pháp luật về bán đấu giá tài sản đặt ra các tiêu chí hoàn thiện pháp luật này. Điều kiện đầu tiên để đi tới khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản là sự thừa nhận tính khách quan của hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá nói riêng. Rõ ràng, đây là một khoảng cách còn chưa hợp lý do pháp luật về bán đấu giá, số lượng tuy không nhiều nhưng rời rạc, ít nhiều mang tính tự phát do hình thành từ nhu cầu khách quan, chủ quan của rất nhiều cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khác nhau nhưng nhất là của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ban hành vào những thời điểm khác nhau, không có sự chỉ đạo, phối hợp lẫn nhau. Vì vậy, để các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản được liên kết thành hệ thống thì cần phải đảm bảo các tiêu chí sau:
  • 24. Tiêu chí về tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản. Đây là tiêu chí tiên quyết cho sự hợp thành hệ thống các văn bản pháp luật bán đấu giá tài sản. Tiêu chí này đòi hỏi các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản không được mâu thuẫn, chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều, hướng nhất định. Như quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án thì phải ký hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản khi người có tài sản bán đấu giá yêu cầu (điểm a, khoản 2, điều 8 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP) nhưng Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg thì Hội đồng đấu giá tổ chức thực hiện đấu giá theo phương án được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt rồi tự tổ chức bán mà không có ký kết hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và không giới hạn giá trị đất. Chính việc quy định chưa thống nhất trên mà trong thời gian vừa qua nhiều tổ chức đấu giá được thành lập tại các địa phương làm cho việc quản lý nhà nước về công tác này gặp rất nhiều khó khăn. Tiêu chí về tính thống nhất còn là sự thống nhất giữa nội dung văn bản với đối tượng phản ánh, tức là những quan hệ kinh tế - xã hội hiện thực, nhằm đảm bảo giá trị thực tế của hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản. Thật vậy, một hệ thống tuy có sự thống nhất nội tại giữa các văn bản nhưng những quy định của nó lại xa lạ với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội thì cũng làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý của hệ thống pháp luật đó kém đi. Chúng ta có thể thấy rất rõ tác động của tiêu chí này đối với pháp luật bán đấu giá tài sản thể hiện trong việc quy định về khoản tiền đặt trước, thường là do người bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá thoả thuận quy định nhưng tối đa không quá 5% của giá khởi điểm (khoản 2, điều 14 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP). Nhưng theo kinh nghiệm của một số nước và thực tế bán đấu giá tài sản trong thời gian qua, thì mức này cần phải được nâng lên để hạn chế việc thông đồng dìm giá. Một yêu cầu nữa trong tiêu chí này là đòi hỏi sự thống nhất về mục đích điều chỉnh giữa hệ thống văn bản pháp luật bán đấu giá với các hệ thống có cùng chức năng điều chỉnh khác để tránh sự vênh nhau giữa chúng. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để quản lý xã hội thực hiện sự hội nhập quốc tế toàn diện thì yêu cầu sự thống nhất về mục đích là
  • 25. hết sức cần thiết bởi nó tạo ra sự ăn khớp, hài hoà, hỗ trợ lẫn nhau. Tuy rằng ở những chừng mực nhất định, đó là việc xem xét tính mục đích của nó vừa là một hoạt động bổ trợ tư pháp vừa là một loại giao dịch dân sự tiện ích và văn minh ngày càng cần được xã hội hoá mạnh mẽ. Tiêu chí về tính thống nhất này đòi hỏi phải có sự tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không được chủ quan, duy ý chí, cục bộ địa phương mình, ngành mình, ban hành pháp luật về bán đấu giá tài sản trái với văn bản pháp luật của cấp trên. Thường xuyên làm tốt công tác tự kiểm tra, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng như thực hiện tốt công tác so sánh pháp luật, học tập kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về bán đấu giá tài sản của các nước. Một tiêu chí để hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nữa là, phải đảm bảo tính toàn diện. Tiêu chí này thể hiện mức độ thích ứng của hệ thống văn bản với tổng thể các nhu cầu điều chỉnh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Điều đó có nghĩa là tính toàn diện bảo đảm không có bất kỳ một khoảng trắng nào mà ở đó các quan hệ xã hội về bán đấu giá tài sản không hoặc chưa được điều chỉnh bằng pháp luật. Đây là tiêu chí đòi hỏi rất cao của việc hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản trong khi các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi pháp luật này luôn phát triển không ngừng, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhiệm vụ quản lý nhà nước trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Tính toàn diện còn được thể hiện ở trình độ hoàn thiện hợp lý của văn bản cả về phạm vi, mức độ điều chỉnh, về phương pháp điều chỉnh, cách trình bày, diễn đạt, ngôn ngữ của văn bản. Trong khi đó, hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta xét ở các bình diện trên còn đang dừng lại ở mức độ thấp, hạn chế về số lượng và chưa đồng bộ, một số quy định còn chậm được cụ thể hoá như việc quy định các loại tài sản nhà nước được đưa ra bán đấu giá; Người bán tài sản là Hội đồng bán đấu giá tài sản; Việc huỷ kết quả bán đấu giá tài sản, hình thức đấu giá qua mạng ... Một tiêu chí khác để hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản cần đảm bảo đó là tính phân chia và tính thứ bậc về hiệu lực giữa các văn bản pháp luật bán đấu giá tài sản. Tiêu chí này thể hiện sự phân loại, sắp xếp hợp lý, khoa học, trật tự các văn bản pháp luật về
  • 26. bán đấu giá tài sản trên cơ sở đối tượng điều chỉnh và sự phân cấp hợp lý về thẩm quyền trong việc ban hành văn bản của cơ quan nhà nước. Chẳng hạn như Chính phủđã ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ- CP quy định về bán đấu giá tài sản thì Thủ tướng Chính phủ lại có Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg ban hành quy chế về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất. Tương tự việc mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 12 năm 2006 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng. Một tiêu chí khác để hoàn thiện pháp luật bán đấu giá đó là tính ổn định. Với tư cách là một hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng pháp luật nói chung và pháp luật bán đấu giá nói riêng bao giờ cũng có tính ổn định tương đối và đòi hỏi những điều kiện cho sự ổn định. Đó là sự dự báo chính xác trạng thái, xu hướng vận động, phát triển của các quan hệ xã hội về bán đấu giá tài sản từ đó xác định mục đích điều chỉnh, mức độ khái quát của các quy định, giới hạn phạm vi tác động của văn bản cho thích hợp như quy định về các loại tài sản bán đấu giá, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bán đấu giá… Tiêu chí về tính cụ thể, chặt chẽ và minh bạch trong hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản đòi hỏi các quy định trong văn bản pháp luật bán đấu giá phải rõ ràng, chặt chẽ, dễ hiểu, thực hiện trực tiếp, được phổ biến công khai và áp dụng như nhau cho các đối tượng phải thi hành văn bản. Chẳng hạn quy định: Tài sản để thi hành án thì Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản được ký kết giữa cơ quan thi hành án với ngừơi bán đấu giá tài sản ( điểm e khoản 2 Điều 8 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP). Trong trường hợp này cơ quan thi hành án là người có tài sản bán đấu giá đặt biệt, nếu chỉ có một người đăng ký mua thì tại khoản 1 Điều 19 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP quy định chỉ bán nếu người có tài sản bán đấu giá đồng ý. Bên cạnh đó khoản 3 Điều 2 Nghị định trên có quy định: Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hửu tài sản hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Như vậy theo các quy định trên thì phải được sự đồng ý của ai, chủ sở hữu tài sản hay cơ quan thi hành án.
  • 27. 1.3. PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI - MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 1.3.1. Pháp luật Trung Quốc về bán đấu giá tài sản Hoạt động về bán đấu giá tài sản ở Trung Quốc được điều chỉnh bởi văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Luật về bán đấu giá tài sản, được thông qua ngày 05 tháng 7 năm 1996. Một số điểm cơ bản của luật này thể hiện ở các quy định sau: Về tài sản bán đấu giá, Trung Quốc xem bán đấu giá tài sản như một trong những hình thức mua bán tài sản thông thường. Tài sản được đem bán đấu giá theo quy định của luật này phải là các tài sản và quyền tài sản được phép giao dịch. Về người bán đấu giá tài sản, là các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản do chủ sở hữu hoặc người có quyền xử lý tài sản hoặc quyền tài sản (gọi là người ủy quyền) ủy quyền. Để được phép hoạt động trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn sau: Có vốn đăng ký ít nhất là 1 triệu nhân dân tệ; Có tên, cơ cấu tổ chức, trụ sở và điều lệ riêng; Có đấu giá viên và nhân viên đủ tiêu chuẩn để tiến hành hoạt động bán đấu giá; Có quy chế bán đấu giá phù hợp với pháp luật về bán đấu gía tài sản và các quy định của pháp luật có liên quan; Có giấy phép hành nghề kinh doanh đặc biệt do cơ quan công an cấp; Tuân theo những quy định của Chính phủ về phát triển hoạt động bán đấu giá; Đáp ứng những yêu cầu khác theo quy định của pháp luật. Riêng đối với các doanh nghiệp bán đấu giá cổ vật văn hóa thì mức vốn đăng ký ít nhất là 10 triệu nhân dân tệ và có đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm trong việc bán đấu giá cổ vật. Về đấu giá viên, đấu giá viên là người trực tiếp chủ trì các cuộc bán đấu giá. Người muốn trở thành đấu giá viên trước hết phải đáp ứng các điều kiện sau: Có bằng tốt nghiệp đại học và kinh nghiệm chuyên môn về bán đấu giá; Đã làm việc trong doanh nghiệp bán đấu giá từ 2 năm trở lên; Có tư cách đạo đức tốt. Để được công nhận chính thức là đấu giá viên, người đáp ứng những điều kiện trên phải tham gia kỳ thi tuyển chọn đấu giá viên do Hiệp hội bán đấu giá tổ chức. Hiệp hội là một tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân, được thành lập theo quy định của pháp luật và là tổ chức tự quản trong lĩnh vực bán đấu giá. Hiệp hội thực hiện chức năng giám sát các doanh nghiệp bán đấu giá và đấu giá viên theo quy định của luật này và điều lệ của Hiệp hội. Những người đạt yêu cầu của kỳ thi sẽ được
  • 28. Hiệp hội cấp chứng chỉ đấu giá viên. Khi được cấp chứng chỉ đấu giá viên, họ sẽ được chủ trì các cuộc bán đấu giá tài sản. Về hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản là hợp đồng được ký kết giữa người ủy quyền và doanh nghiệp bán đấu giá. Hợp đồng ủy quyền không có quy định các nội dung sau: chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản; quyền, nghĩa vụ của các bên. Vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật bán đấu giá tài sản Trung Quốc là rất rõ ràng và cụ thể. - Đối với doanh nghiệp bán đấu giá: Người thành lập doanh nghiệp bán đấu giá mà không đăng ký hoạt động hoặc không được sự phê chuẩn thì sẽ bị đình chỉ hoạt động; các khoản thu nhập bất hợp pháp của doanh nghiệp sẽ bị tịch thu. Ngoài ra người vi phạm còn bị phạt một khoản tiền từ 100% đến 500 % khoản thu nhập bất hợp pháp đó. Doanh nghiệp bán đấu giá hoặc nhân viên khác tham gia vào cuộc bán đấu giá hoặc ủy quyền cho người khác tham gia vào phiên đấu giá do mình tổ chức, sẽ bị cảnh cáo và có thể bị phạt từ 100% đến 500% khoản phí bán đấu giá, trường hợp nặng sẽ bị thu hồi giấy phép. Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoặc quyền tài sản của chính mình tại phiên bán đấu giá do mình tổ chức sẽ bị tịch thu toàn bộ khoản thu từ cuộc bán đấu giá đó. Doanh nghiệp bán đấu giá cấu kết với người tham gia đấu giá khác mà gây thiệt hại cho người khác, thì cuộc bán đấu giá sẽ không có hiệu lực và doanh nghiệp vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật, có thể xử phạt một khoản tiền từ 100% đến 500% giá trả cao nhất đối với người bán đấu giá có hành vi cấu kết. Doanh nghiệp bán đấu giá nếu biết rõ rằng người ủy quyền không có quyền sở hữu đối với tài sản hoặc không có quyền xử lý tài sản, quyền tài sản theo quy định của pháp luật, mà vẫn tiến hành bán đấu giá tài sản thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. - Đối với người ủy quyền: Người ủy quyền ủy quyền bán đấu giá tài sản mà mình không có quyền sở hữu hoặc xử lý sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Người ủy quyền tham gia trả giá hoặc ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia trả giá sẽ bị phạt tiền đến 30% giá bán tài sản bán đấu giá. - Người tham gia đấu giá:
  • 29. Người tham gia đấu giá mà cố ý cấu kết với những người tham gia đấu giá khác và doanh nghiệp bán đấu giá sẽ bị xử phạt một khoản tiền từ 10% đến 30% của giá trả cao nhất đối với người tham gia đấu giá. - Vi phạm từ cơ quan, cán bộ nhà nước: Nhân viên cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, khu tự trị hoặc chính quyền địa phương, nơi có tài sản mà không thực hiện đúng như quy định về bán đấu gía các loại tài sản trên sẽ bị xử lý theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại cho nhà nước thì phải bồi thường. 1.3.2. Bán đấu giá tài sản ở Nhật Bản Trình tự của thủ tục bán đấu giá trước hết được xem xét ở việc bán đấu giá bất động sản hay động sản. Đối với việc bán đấu giá bất động sản, Tòa án sẽ ra quyết định bán đấu giá tài sản, cho kê biên tài sản nhằm mục đích cấm việc tẩu tán bất động sản. Chấp hành viên sẽ điều tra xem ai đang sử dụng bất động sản và định mức giá tối thiểu. Sau đó, niêm yết công khai thông tin bán đấu giá. Việc tiến hành bán đấu giá theo đúng thủ tục và quyết định cho người trả giá cao nhất được mua. Khi người mua nộp tiền xong, thì quyền sở hữu bất động sản đó được chuyển cho người mua.Tòa án sẽ thanh toán tiền bán bất động sản đó cho các chủ nợ và kết thúc vụ án. Để người mua được giao bất động sản một cách xuôn xẽ, tòa án có một chế độ mệnh lệnh buộc người sử dụng bất động sản phải giao trả bất động sản cho người mua. Như đã trình bày ở trên, từ đầu đến cuối thủ tục bán đấu giá bất động sản đều do Tòa án tổ chức thực hiện, không có một cơ quan nhà nước hay tổ chức tư nhân nào là người chủ trì thực hiện cả. Đối với thủ tục bán đấu giá động sản thì chấp hành viên của Tòa án là người tổ chức thủ tục bán đấu giá động sản.Yêu cầu bán đấu giá động sản không phải gửi cho Tòa án mà gửi cho chấp hành viên. Việc kê biên, bán đấu giá và thanh toán tiền bán đều do chấp hành viên chủ trì thực hiện. Trên nguyên tắc, Tòa án chủ trì thực hiện thủ tục thi hành án dân sự là các Tòa án địa phương (Tòa cấp tỉnh) và các chi nhánh. Tùy theo quy mô của mỗi Tòa án, số thẩm phán phụ trách thi hành án dân sự có khác nhau. Tòa án địa phương Tokyo là nơi có số vụ án dân sự nhiều nhất trong nước, hiện nay có 15 thẩm phán chuyên trách thi hành án dân
  • 30. sự. Điểm khác biệt lớn nhất là chấp hành viên không nhận lương từ nhà nước mà có nguồn thu nhập từ lệ phí của các bên đương sự. Hiện nay Nhật Bản có khoảng 630 chấp hành viên, riêng Tòa án địa phương Tokyo có 50 người. Tuổi trung bình của chấp hành viên là 50 tuổi. Trong các chủ thể thực hiện thủ tục bán đấu giá ở Nhật Bản có thư ký Tòa án, những quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án dân sự thì do thẩm phán thực hiện, còn các quyết định đơn giản khác thì do thư ký Tòa án thực hiện. Về hình thức bán đấu giá bất động sản, Luật Nhật Bản quy định hai loại là trả giá bằng thư kín (bid) và đấu giá công khai (auction). Trong loại trả giá bằng thư kín lại có hai loại, trả giá vào ngày đã định (bid hy day) và trả giá trong suốt thời hạn đã định (bid hy period). Đấu giá công khai là cách kéo giá mua dần lên trong ngày đấu giá. Trả giá trong suốt thời hạn đã định là thủ tục nhận trả giá bằng thư kín trong một thời hạn đã định khoảng hai tuần lễ, sau đó mở thư vào một ngày đã định để quyết định được người mua. Hiện nay, hầu hết các Tòa án ở Nhật Bản đều áp dụng cách thức này vì giúp cho người dân thường để tham gia, nhờ đó có thể kêu gọi rộng rãi những người mua. Trước khi bỏ thư trả giá, người mua cần biết hiện trạng và giá bán tối thiểu của bất động sản. Tòa án sẽ đặt bản báo cáo của chấp hành viên, bản báo cáo của người đánh giá và bản chi tiết về bất động sản bán đấu giá ở một nơi nhất định trong Tòa án, cho người mua được xem trong một thời hạn nhất định khoảng hai tuần lễ trước khi mở đầu thời hạn bỏ thư trả giá. Tòa cũng cho đăng tãi trên báo và tạp chí thông tin về bán đấu giá bất động sản. Chi phí đăng tải lấy từ tiền tạm ứng chi phí mà chủ nợ phải nộp khi đệ đơn yêu cầu. Người mua phải đến Tòa án nhận mẫu thư trả giá, điền vào những khoản cấn thiết và đưa cho chấp hành viên hoặc cũng có thể gửi thư trả giá bằng đường bưu điện, phải nộp một khoản tiền đặt trước tương đương với 20% của mức giá khởi điểm. Về thủ tục mở thư trả giá, thư trả giá được mở công khai tại phòng bán tài sản của Tòa án. Chấp hành viên tiến hành thủ tục này. Sau khi xong thủ tục, chấp hành viên sẽ nhận tiền thù lao. Ở Tòa án địa phương Tokyo, trung bình mỗi tuần mở thư trả giá một lần, mỗi lần mở thư của khoảng 100 vụ kiện. Khi mở thư cần có người chứng kiến, thông thường thư ký Tòa án làm người chứng kiến. Người bỏ thư trả giá không bị bắt buột phải hiện diện. Dù đã trả giá cao nhất đi nữa, nhưng nếu việc điền
  • 31. vào thư trả giá không đúng thì trên nguyên tắc bị xem là vô hiệu. Việc điền thư trả giá đầy đủ hay không sẽ được xét về mặt hình thức và nghiêm ngặt. Người không thể mua tài sản bán đấu giá được Luật bán đấu giá tài sản Nhật Bản quy định rất cụ thể như không cho bên mắc nợ trong vụ kiện được mua tài sản của họ, người đã phạm một số tội đặc định, người đã có hành vi cản trở người khác trong việc tham gia bán đấu giá. Quyết định cho phép bán tài sản (permitting to sale) là sau khi đã định xong người mua, Tòa án sẽ xem xét người mua có đủ tư cách pháp lý để mua hay không, thủ tục bán có đúng luật hay không, nếu thấy không có vấn đề thì Tòa án sẽ làm một văn bản cho phép bán tài sản ấy cho người mua (order permitting to sale). Các bên đương sự có thể khiếu nại đối với việc cho phép bán này. Cũng có trường hợp bất động sản không có ai bỏ thư trả giá nên không bán được. Trong trường hợp này Luật công nhận việc ưu tiên bán cho người đến mua trước. Đó là thủ tục bán đặc biệt. Thủ tục bán đặc biệt chỉ được thực hiện đối với bất động sản đã được tổ chức trả giá bằng thư kín hoặc bán đấu giá ít nhất một lần. Thời hạn nộp đơn mua là một tháng. Người mua phải mua từ giá khởi điểm trở lên, nhưng vì ưu tiên cho người nộp đơn mua trước nên thông thường, người mua sẽ mua với giá khởi điểm đã định. Vì bán theo thủ tục đặc biệt sẽ phải chịu giá thấp nên cần có sự đồng ý của chủ nợ trước khi bán. Trong trường hợp tổ chức bán theo thủ tục đặc biệt mà vẫn không có người mua, thì nhờ người giám định đánh giá lại tài sản để định lại mức giá khởi điểm và Tòa án sẽ tổ chức bán theo trả giá bằng thư kín lần nữa. 1.3.3. Đạo luật FLORIDA năm 2003, tựa đề XXXII: Quy định về nghề nghiệp, chương 468: Những nghề nghiệp khác- Đấu giá viên Đấu giá viên được hiểu là người được cấp phép theo quy định của Luật này và có giấy phép hành nghề đấu giá viên của bang còn hiệu lực. Cơ quan được hiểu là cơ quan quản lý hoạt động kinh doanh và nghề nghiệp. Uỷ ban đấu giá trực thuộc Cơ quan. Uỷ ban gồm có năm thành viên do Thống đốc bổ nhiệm trên cơ sở quyết định của Thượng viện. Hai trong số năm người này từng làm việc với tư cách là đấu giá viên ít nhất là năm năm trước khi họ được chỉ định, một người trong số họ là Giám đốc của một Công ty đấu giá và hai người trong số họ là người bên ngoài. Nhiệm kỳ của các thành viên là bốn năm. Uỷ ban có quyền thông qua các quy tắc theo quy định và có trách nhiệm nhận đơn đề nghị của
  • 32. đấu giá viên, đấu giá viên tập sự, đơn xin cấp phép của Công ty bán đấu giá và có quyền cấp, sửa đổi, thu hồi các loại giấy đó, đồng thời thực hiện các công việc cần thiết khác để thực hiện Luật. Người muốn có giấy phép hành nghề đấu giá viên đều phải trãi qua kỳ thi viết do Uỷ ban phê chuẩn. Uỷ ban sẽ kiểm tra kiến thức của người đăng ký về pháp luật của bang liên quan tới các quy định của Bộ Luật Thương mại liên bang về bán đấu giá tài sản, pháp luật về đại lý và các quy định của Luật này. Đấu giá viên tập sự không được thực hiện hoặc ký hợp đồng thực hiện việc bán đấu giá mà không có sự chấp thuận rõ ràng của người giám sát là một đấu giá viên đồng ý nhận trách nhiệm giám sát viên của đấu giá viên tập sự. Đấu giá viên tập sự cũng phải có đơn đề nghị cấp phép và được cấp giấy phép, phải trãi qua thời gian tập sự hành nghề ít nhất 1 năm và các cuộc bán đấu giá theo quy định của Luật này phải được thực hiện bởi một đấu giá viên có giấy phép hợp lệ hoặc một đấu giá viên tập sự có giấy phép hợp lệ và đã được chấp thuận bằng văn bản của người hướng dẫn. Người hướng dẫn phải có mặt tại nơi bán đấu giá vào thời điểm đấu giá viên tập sự thực hiện cuộc bán đấu giá và phải chịu trách nhiệm về bất cứ hành vi hoặc sự sai sót nào của đấu giá viên tập sự dẫn đến việc vi phạm pháp luật liên quan đến việc tiến hành cuộc bán đấu giá. Luật còn quy định Quỹ bồi thường đấu giá là một tài khoản riêng trong quỹ ủy thác theo quy định nghề nghiệp. Quỹ này do Uỷ ban đấu giá Florida quản lý. Quỹ bồi thường đấu giá dùng để bồi thường trong các trường hợp sau người được cấp phép mà có hành vi vi phạm gây ra thiệt hại phải trả tiền bồi thường cho người yêu cầu. Thiệt hại thực tế có thể bao gồm cả lệ phí Tòa án, tuy nhiên không bao gồm phí của Luật sư hoặc tiền phạt do gây thiệt hại. Số tiền được trả từ Quỹ bồi thường đấu giá không được vượt quá 50.000 đôla đối với mỗi yêu cầu hoặc nhiều yêu cầu phát sinh từ cùng một giao dịch hay cuộc bán đấu hoặc tổng số tiền không vượt quá 100.000 đôla đối với mỗi người được cấp phép. Một yêu cầu được bồi thường từ Quỹ bồi thường đấu giá phải được thực hiện trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm xãy ra hành vi gây thiệt hại hoặc trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm hành vi đó được phát hiện hoặc phải được phát hiện. Và trong bất kỳ trường hợp nào, yêu cầu bồi thường không được đưa ra trong thời hạn bốn năm, kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm.
  • 33. Theo quy định của Luật này, người được cấp phép không đủ điều kiện để được cấp phép lại cả với tư cách đấu giá viên hay Công ty đấu giá cho đến khi đấu giá viên hoặc Công ty đấu giá trả lại đầy đủ số tiền mà Quỹ bồi thường đấu giá đã thanh toán với lãi suất thích hợp hiện hành… 1.3.4. Đạo luật về bán đấu giá công khai của Canada (tỉnh Alberta) Đạo luật này có hiệu lực kể từ ngày công bố là ngày 01 tháng 05 năm 1982. Mô hình Nhà nước Canada là quyền lực phân tán. Vì vậy Chủ tịch tỉnh có quyền lực rất lớn trong việc lập pháp. Đạo luật về bán đấu giá công khai của Canada quy định Giấy phép kinh doanh bán đấu giá ban hành theo Đạo luật về bán đấu giá động sản (hàng hóa và lô hàng hóa) đang có hiệu lực được coi là hợp lệ theo Đạo Luật này (Điều 19), không áp dụng Giấy phép theo quy định tại Đạo luật về thương mại và kinh doanh (Điều 18). Đạo luật quy định Chủ tịch hoặc người được Chủ tịch ủy quyền có quyền tự tiến hành điều tra hoặc điều tra theo khiếu nại việc thi hành Đạo luật này, có quyền kiểm tra hoạt động bán đấu giá của người kinh doanh bán đấu giá và sổ sách, hồ sơ, giấy tờ tài liệu, thư tín hoặc những tài liệu khác liên quan đến nội dung điều tra; có quyền yêu cầu người kinh doanh bán đấu giá, nhân viên và người điều hành bán đấu giá cung cấp cho Chủ tịch hoặc người được ủy quyền theo thời hạn (ít nhất là mười ngày kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản); có quyền sở hữu, kiểm tra, sửa đổi, trích dẫn hoặc sao bất kỳ tài liệu và có quyền thâm nhập, thanh tra và kiểm tra, tại mọi thời điểm, mọi địa điểm kinh doanh của người kinh doanh bán đấu giá (Điều 12). Cá nhân, tổ chức phải nhanh chóng trả lời và trả lời trực tiếp theo những yêu cầu của người điều tra, thực hiện yêu cầu cung cấp hồ sơ, sổ sách, giấy tờ tài liệu, không được ngăn cản hoặc can thiệp vào việc kiểm tra hoặc sửa đổi theo quy định, không được cản trở hoặc can thiệp vào hoạt động điều tra của Chủ tịch hoặc người được ủy quyền (Điều 13). Luật quy định về tài khoản ủy thác nêu rõ: Người kinh doanh bán đấu giá phải gửi số tiền bán đấu giá vào tài khoản ủy thác taị một ngân hàng, chi nhánh kho bạc, tổ chức tín dụng hoặc Công ty tín dụng có trụ sở tại Alberta. Tài khoản này phải độc lập với các tài khoản khác của người kinh doanh bán đấu giá và phải giải ngân theo quy định tại Quy chế và các quy định về ủy thác. Chủ tịch có quyền ủy quyền bằng văn bản chỉ định người thanh tra các tài khoản theo quy định trên và không người nào được phép cãn trở hoặc can thiệp vào hoạt động thanh tra của người có thẩm quyền (Điều 14).