Visit BVIS Hanoi official website: http://www.bvishanoi.com/
Like us on FACEBOOK: https://www.facebook.com/BVISHanoi.Official
Follow us on TWITTER: https://twitter.com/BVISHanoi
And on Google+: https://plus.google.com/+Bvishanoi-official
Visit BVIS Hanoi official website: http://www.bvishanoi.com/
Like us on FACEBOOK: https://www.facebook.com/BVISHanoi.Official
Follow us on TWITTER: https://twitter.com/BVISHanoi
And on Google+: https://plus.google.com/+Bvishanoi-official
Khoá Luận Vận Dụng Lý Thuyết Đa Thông Minh Trong Dạy Học Lịch Sử Lớp 10 Trường Trung Học Phổ Thông đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Trung Học. Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Trung Học. Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Khoá Luận Biện Pháp Quản Lý Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Thông Qua Hoạt Động Ngoài Giờ Lên Lớp Của Hiệu Trưởng Trường Trung Học Cơ Sở Trường Long Hòa – Duyện Hải – Trà Vinh đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn miễn phí. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung cho trẻ 4-5 tuổi . Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Điều kiện về cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi tự tạo, điều kiện về con người.
4545443
Tôi đã tham khảo một số tài liệu và cũng tìm hiểu về phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm. Tôi phải làm thế nào để học sinh của tôi cảm thấy thoải mái trong các hoạt động mà vẫn đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí giáo dục với đề tài: Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, cho các bạn tham khảo
Download luận văn đồ án tốt nghiệp với đề tài: Động lực học tập của sinh viên ở một số trường đại học - cao đẳng Hà Nội hiện nay, cho các bạn tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí giáo dục với đề tài: Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Hiện nay, những công trình nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh về giáo dục trẻ em có rất nhiều, nhưng chủ yếu là giáo dục trong gia đình, nhà trường chính quy, còn những công trình nghiên cứu về giáo dục trẻ em đường phố chưa nhiều. Trên phương diện khoa học quản lý giáo dục, những nghiên cứu về tổ chức phối hợp hoạt động của các chủ thể giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới đề cập những khía cạnh cụ thể của sự hợp tác giữa một vài lực lượng nhất định trên địa bàn hẹp.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” để nghiên cứu.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành khoa học giáo dục với đề tài: Tổ chức dạy học nhóm chương “Chất rắn và Chất lỏng. Sự chuyển thể” vật lí 10 Trung học phổ thông với sự hỗ trợ của thí nghiệm tự tạo và phiếu học tập
50000163
Download luận văn thạc sĩ ngành khoa học giáo dục với đề tài: Tổ chức dạy học nhóm chương “Chất rắn và Chất lỏng. Sự chuyển thể” Vâṭ lí 10 Trung học phổ thông với sự hỗ trợ của thí nghiệm tự tạo và phiếu học tập
50000163
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Đề tài chất lượng đọc diễn cảm tác phẩm thơ cho trẻ em, Chia sẻ cho các bạn sinh viên tài liệu tốt nghiệp ngành khoa học xã hội các bạn làm chuyên đề tốt nghiệp khoa học xã hội vào tải nhé.
3.3 đánh giá quá trình formative assessment-tạo động lực học tậpLuong Phan
Đánh giá được coi là một trong những yếu tố trung tâm và quan trọng trong giáo dục , vì vậy cần có sự nhìn nhận nghiêm túc về vai trò của đánh giá trong công cuộc đổi mới dạy và học. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi giới thiệu về phương pháp đánh giá quá trình(Formative Assessment) và các biện pháp để áp dụng hiệu quả. Đây là một phương thức đánh giá đang được các nhà giáo dục quan tâm về tầm quan trọng và sự chiếm lĩnh “thị phần” của nó trong công cuộc nâng cao chất lượng của quá trình dạy và học. Đánh giá quá trình được xem là một phương thức tạo động lực học tập cho người học hiệu quả và có tác động ngay tức thì đến quá trình học.
Khoá Luận Vận Dụng Lý Thuyết Đa Thông Minh Trong Dạy Học Lịch Sử Lớp 10 Trường Trung Học Phổ Thông đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Trung Học. Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Trung Học. Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Khoá Luận Biện Pháp Quản Lý Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Thông Qua Hoạt Động Ngoài Giờ Lên Lớp Của Hiệu Trưởng Trường Trung Học Cơ Sở Trường Long Hòa – Duyện Hải – Trà Vinh đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn miễn phí. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung cho trẻ 4-5 tuổi . Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Điều kiện về cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi tự tạo, điều kiện về con người.
4545443
Tôi đã tham khảo một số tài liệu và cũng tìm hiểu về phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm. Tôi phải làm thế nào để học sinh của tôi cảm thấy thoải mái trong các hoạt động mà vẫn đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí giáo dục với đề tài: Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, cho các bạn tham khảo
Download luận văn đồ án tốt nghiệp với đề tài: Động lực học tập của sinh viên ở một số trường đại học - cao đẳng Hà Nội hiện nay, cho các bạn tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí giáo dục với đề tài: Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Hiện nay, những công trình nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh về giáo dục trẻ em có rất nhiều, nhưng chủ yếu là giáo dục trong gia đình, nhà trường chính quy, còn những công trình nghiên cứu về giáo dục trẻ em đường phố chưa nhiều. Trên phương diện khoa học quản lý giáo dục, những nghiên cứu về tổ chức phối hợp hoạt động của các chủ thể giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới đề cập những khía cạnh cụ thể của sự hợp tác giữa một vài lực lượng nhất định trên địa bàn hẹp.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” để nghiên cứu.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành khoa học giáo dục với đề tài: Tổ chức dạy học nhóm chương “Chất rắn và Chất lỏng. Sự chuyển thể” vật lí 10 Trung học phổ thông với sự hỗ trợ của thí nghiệm tự tạo và phiếu học tập
50000163
Download luận văn thạc sĩ ngành khoa học giáo dục với đề tài: Tổ chức dạy học nhóm chương “Chất rắn và Chất lỏng. Sự chuyển thể” Vâṭ lí 10 Trung học phổ thông với sự hỗ trợ của thí nghiệm tự tạo và phiếu học tập
50000163
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Đề tài chất lượng đọc diễn cảm tác phẩm thơ cho trẻ em, Chia sẻ cho các bạn sinh viên tài liệu tốt nghiệp ngành khoa học xã hội các bạn làm chuyên đề tốt nghiệp khoa học xã hội vào tải nhé.
3.3 đánh giá quá trình formative assessment-tạo động lực học tậpLuong Phan
Đánh giá được coi là một trong những yếu tố trung tâm và quan trọng trong giáo dục , vì vậy cần có sự nhìn nhận nghiêm túc về vai trò của đánh giá trong công cuộc đổi mới dạy và học. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi giới thiệu về phương pháp đánh giá quá trình(Formative Assessment) và các biện pháp để áp dụng hiệu quả. Đây là một phương thức đánh giá đang được các nhà giáo dục quan tâm về tầm quan trọng và sự chiếm lĩnh “thị phần” của nó trong công cuộc nâng cao chất lượng của quá trình dạy và học. Đánh giá quá trình được xem là một phương thức tạo động lực học tập cho người học hiệu quả và có tác động ngay tức thì đến quá trình học.
Để trở thành một giáo viên kiến tạo
1) Khuyến khích và chấp nhận quyền tự chủ và chủ động của sinh viên.
2) Sử dụng dữ liệu thô và các nguồn tài liệu chính thức, cùng với thao tác, tương tác, và vật liệu vật lý.
3) Khi thiết kế nhiệm vụ sử dụng thuật ngữ nhận thức như "Phân loại", "phân tích", "dự đoán", và "tạo ra”.
Xu hướng“Thực học, thực nghiệp” tại một số cơ sở giáo dục đang cho thấy một sự chuyển dịch quan trọng sang hướng “tiếp cận kỹ năng” hay “tiếp cận năng lực” thay vì “tiếp cận nội dung” của chương trình đào tạo.
Thế giới đã đi những bước dài trong sự phát triển các hình thái học tập, trong đó Học tập qua trải nghiệm là một trong những phương thức có ảnh hưởng sâu rộng bậc nhất. Thuyết Học tập trải nghiệm , một trong số ít các lí thuyết được UNESCO khuyến khích các nhà giáo của thế kỉ XXI “phải biết” để dạy tốt, sử dụng ý tưởng “học mà làm – làm thì học”, liên kết chặt chẽ giữa học tập, lao động, các hoạt động khác trong cuộc sống và những sáng tạo kiến thức của bản thân, giúp người học phát triển toàn diện về chiều sâu. Thực tế ở Việt Nam, phương pháp này cũng không quá xa lạ, song có vẻ như nó chỉ được biết đến ở mức độ “khái niệm” hay được dùng như cái “mác” làm sang. Trong khi đó, trên thế giới Học tập trải nghiệm đã thành một phương pháp nền tảng cho hàng loạt các chương trình dạy và học, từ các lớp học nhập môn máy tính ở trường phổ thông, các lớp học nhân văn và kinh tế hay lập trình ở các trường đại học, các chương trình vừa học vừa làm (OJT) hay các chương trình MBA và sau đại học ở những cơ sở giáo dục tiên tiến nhất.
Với mong muốn đưa người đọc tiếp cận sâu hơn về phương pháp giáo dục để hướng đến các ứng dụng có chất lượng, Tạp chí Công nghệ Giáo dục số 02 sẽ đi vào tìm hiểu phương pháp Học tập trải nghiệm từ chính David Kolb – cha đẻ của phương pháp Experiential Learning mà chúng ta dùng ngày nay, bên cạnh đó là những nhận định trái chiều trong quá trình mô hình được vận dụng vào các chương trình khác nhau. Một số gợi ý về cách thức áp dụng phương thức này trên thế giới và Việt Nam cũng sẽ được đưa ra để giúp chúng ta có được cái nhìn hành dụng vào lí thuyết học tập đầy thú vị này.
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartBiz
Cách Hệ thống MES giúp tối ưu Quản lý Sản xuất trong ngành May mặc như thế nào?
Ngành may mặc, với đặc thù luôn thay đổi theo xu hướng thị trường và đòi hỏi cao về chất lượng, đang ngày càng cần những giải pháp công nghệ tiên tiến để duy trì sự cạnh tranh. Bạn đã bao giờ tự hỏi làm thế nào mà những thương hiệu hàng đầu có thể sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối và thời gian giao hàng nhanh chóng? Bí mật nằm ở hệ thống Quản lý Sản xuất (MES - Manufacturing Execution System).
Hãy cùng khám phá cách hệ thống MES đang cách mạng hóa ngành may mặc và mang lại những lợi ích vượt trội như thế nào.
1. TẠP CHÍ
CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
Số 3, tháng 7/2014
CÔNG NGHỆ và GIÁO DỤC
Lưu hành nội bộ
2.
3. MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................4
TIN TỨC SỰ KIỆN ..............................................................................5
Hồ Ngọc Đại: “Lớp trẻ mới chính là tương lai của đất nước” .................6
Tư duy hành dụng là gì? .........................................................................10
Hội nghị đào tạo Blended Learning toàn quốc ....................................11
Toàn cảnh hội thảo Smart.Edu 2014 ...................................................12
TỪ THỰC ĐỊA ..................................................................................18
Chương trình tiếng anh T2K .................................................................19
Từ góc nhìn sư phạm ...............................................................................19
Sơ lược về phương pháp dạy học phân hóa .........................................28
Thăng trầm công nghệ giáo dục Hồ Ngọc Đại ....................................32
TỦ SÁCH GIÁO DỤC ........................................................................36
Sách tâm lý học dạy học .........................................................................37
TƯ LIỆU .............................................................................................39
Giải pháp phát triển giáo dục: Từ góc nhìn nghiệp vụ sư phạm .........40
Thiết kế môi trường giáo dục của Time to Know ...............................45
4. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
4
LỜI NÓI ĐẦU
Công nghệ giáo dục, một thuật ngữ vừa lạ tai vừa hấp dẫn và cũng không
khiến ít người hiểu nhầm. Sự hiểu nhầm tai hại ấy nằm ở chỗ lâu nay người
ta hay đặt giáo dục ra ngoài “cuộc chơi” trong các lĩnh vực công nghệ. Chúng
ta có thể thấy thuận tai hơn khi nghe về công nghệ thông tin, công nghệ chế
biến thực phẩm, hay thậm chí là công nghệ nông nghiệp; chứ nhất quyết
thấy chướng tai khi nghe phải “công nghệ giáo dục”. Vậy ra, công nghệ giáo
dục là gì?
Theo cha đẻ của một Công nghệ Giáo dục (CGD) “chỉ có ở Việt Nam” thì
“công nghệ giáo dục là quá trình tổ chức và kiểm soát chặt chẽ việc dạy và
học”. Đi kèm cách hiểu một thứ công nghệ như bao công nghệ khác như vậy,
GS mạnh dạn đề xuất một Giải pháp Giáo dục tiểu học hoàn toàn mới cho
đất nước với đảm bảo “học gì được nấy, học đâu chắc đấy” ngay từ những
năm cuối của thế kỉ trước. Tạm gác lại những lên bổng xuống trầm của CGD,
chúng ta có thể thấy một sự tìm tòi và tư duy đột phá vào những góc kĩ thuật
nhà nghề khó nhất của công cuộc giáo dục quốc dân. Tới nay, ý tưởng đó
đã chừng bốn thập kỉ, đã hết thời kì “thí điểm” để người dân có quyền lựa
chọn cách thức con em mình được giáo dục, nhưng nó chưa từng hết nóng
hổi và cũng chưa thôi gợi nguồn cảm hứng cho những người làm giáo dục
đương đại.
Đến từ quốc-gia-khởi-nghiệp ở Trung Đông, trong thời đại Internet và số
hóa khác xa thời chiến tranh lạnh nặng tính phe phái và cục bộ của những
năm 70 của thế kỉ trước, TimeToKnow cũng đã đưa ra một Giải pháp Chỉnh
thể cho nền giáo dục trong thế kỉ 21 với những công nghệ tân tiến, với tư
duy hệ thống và những tìm tòi sư phạm đáng nể để cung cấp một cơ hội cho
các nhà giáo dục thực hiện được giấc mơ “tổ chức và kiểm soát” chặt chẽ và
chắc chắn tiến trình học tập của người học mà vẫn đảm bảo sự cá nhân hóa
cao độ.
Khi đặt Công nghệ giáo dục đến từ đất nước của người Do Thái bên cạnh
một CGD của Việt Nam, ta nhận ra nhiều sự tương đồng đáng ngạc nhiên:
đều lấy việc tự học của học sinh làm học thuyết căn bản, quy trình hóa chặt
chẽ đến từng bài học, lấy nguyên lí kiến tạo làm kim chỉ nam cho hoạt động
giảng dạy-học tập, đề cao hoạt hoạt động và hướng tới các kĩ năng sống quan
trọng phù hợp thời đại … Điều thú vị là đã từng có sự việc tiếp xúc giữa CGD
với công nghệ giáo dục Israel cuối những năm 90. Tuy vậy ở thời điểm đó,
Công nghệ Giáo dục ở Israel được đánh giá là vẫn còn nghiêng nhiều về yếu
tố kĩ thuật, quy trình. Giờ thì có vẻ như các nhà sư phạm của TimeToKnow
đã để ý nhiều hơn đến khía cạnh tâm lí học, đến “công nghệ làm ra một sản
phẩm giáo dục” như GS Hồ Ngọc Đại quan niệm. Tạp chí Công nghệ Giáo
dục lần này cố ý đặt hai Công nghệ đó cạnh nhau dưới nhiều góc nhìn để
bạn đọc có thêm cơ hội đặt ra nhiều câu hỏi thú vị bên cạnh câu “Công nghệ
giáo dục là gì?” mà việc trả lời nó chưa chắc đã hay bằng những câu hỏi giáo
dục cứ miên man bất tận kia.
Ban biên tập
Lời Nói Đầu
6. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
6
Tin tức - Sự kiện
HỒ NGỌC ĐẠI:
“LỚP TRẺ MỚI CHÍNH LÀ TƯƠNG LAI CỦA ĐẤT NƯỚC”
Nguyễn Thị Vân
“Lớp trẻ mới chính là tương lai của đất nước” - Đó là chia sẻ của Giáo sư,
Tiến sĩ Khoa học (GS.TSKH) Hồ Ngọc Đại trong chương trình tọa đàm về
Công nghệ giáo dục (CGD) do Dự án CNGD tổ chức ngày 12/7 tại tòa nhà
FPT Hà Nội.
Trò chuyện với GS.TSKH. Hồ Ngọc Đại trong buổi tọa đàm là TS. Lê
Trường Tùng, Hiệu trưởng trường ĐH FPT. Tham dự buổi tọa đàm có
đại diện Ban Giám hiệu 3 miền Bắc, Trung, Nam, đông đảo giảng viên,
sinh viên trường ĐH FPT cùng các khách mời.
Một cái tên
GS.TSKH. Hồ Ngọc Đại được biết đến như một nhà giáo dục cấp tiến với
chương trình cải cách giáo dục mang tên Công nghệ Giáo dục, điển hình
là hệ thống trường thực nghiệm do ông chủ trương trong nhiều năm qua.
Ông sinh ngày 3/4/1936 tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
GS. Hồ Ngọc Đại kể lại câu chuyện khởi nguồn cho CGD trong buổi tọa
đàm: Một lần tình cờ tham dự một hội thảo về giải toán lý thuyết nhóm,
GS. đã khơi nguồn một ý tưởng về dạy Toán cho trẻ em lớp Một. Sau đó,
với 5 năm làm việc, GS. đã bảo vệ thành công luận văn Tiến sĩ khoa học
7. LƯU HÀNH NỘI BỘ
7
và về Việt Nam mở trường Thực nghiệm. Những khẩu hiệu “Đi học là
hạnh phúc” hay “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” bắt đầu xuất hiện
ở Việt Nam kể từ ngày đó.
Trong câu chuyện đưa CGD về Việt Nam, GS nhấn mạnh: “Tôi tâm niệm,
làm khoa học, một đời người cũng chỉ có một tư tưởng mà thôi. Từ tư tưởng
ấy có thể làm ra nhiều sản phẩm. Cả cuộc đời tôi gần 40 năm cũng chỉ nói
và làm một vấn đề, với một tâm huyết”. Ông cũng chia sẻ hiện nay đã có
khoảng 400.000 học sinh trên 42 tỉnh đang theo học chương trình CGD.
Nhiều giáo viên sau khi tham gia vào việc giảng dạy bằng CGD đã có sự
tiến bộ rõ rệt, học sinh cũng phát triển rất nhanh. Khi nhìn lại sự nghiệp
của mình, ông cho rằng, cuốn Tiếng Việt lớp 1 là giá trị nhất. Ông khẳng
định: “Tôi biết chắc chắn rằng việc tôi đang làm là đúng nhưng còn ở mức
thô sơ và chỉ đang ở những bước đầu”.
Có lần trả lời phỏng vấn với báo chí, vị GS khẳng định: “Hồ Ngọc Đại
chỉ là một cái tên ước lệ để tiện nhận mặt những sản phẩm làm ra bằng
công sức và tấm lòng của cán bộ, giáo viên, nhân viên, cộng tác viên, của
học sinh, của cha mẹ học sinh. Một cá nhân sao có thể xây lên tòa tháp đồ
sộ đến thế, thế mà tháp ấy người ta vẫn gọi ước lệ là tháp Eiffel đấy thôi”.1
“Trẻ em là thực thể tự nhiên, đừng nhổ lên để ép chúng lớn!”
Trong phần giao lưu với những người tham gia, một vị khách mời đến
từ một trường đại học tại Hà Nội đã chia sẻ với GS về Chương trình giáo
dục sớm, phát triển toàn diện trí thông minh của trẻ và ngỏ lời mời GS
đồng hành cùng chương trình. Hồ Ngọc Đại chỉ trả lời vị khách này hai
câu, trong đó là lời khẳng định “Trẻ em là thực thể tự nhiên, đừng nhổ lên
để ép chúng lớn!”.
Ông cũng chia sẻ: Trẻ em hiện đại sinh ra với hơn 99% số gen giống
nhau. CGD sinh ra là để đảm bảo trẻ phát triển như nhau. Để trẻ em có
thể phát triển một cách tự nhiên, người lớn phải yêu thương, tôn trọng
trẻ. Thêm nữa, trẻ em là con đẻ của thời đại, người lớn phải “theo” để dạy
trẻ thay vì dùng phương pháp áp đặt. Trong xã hội hiện đại, mỗi người
là một cá nhân cụ thể, không thể so sánh và bắt ép cá nhân này phải như
cá nhân khác.
Để làm được điều này, những người trẻ làm giáo dục cần có kiến thức
thực chất về triết học, tâm lý học và khoa học chuyên ngành. Trong đó,
tâm lý học có vai trò quan trọng để hiểu rõ tâm lý của trẻ. Ông lý giải,
trong cuộc sống, tâm lý đóng vai trò chủ yếu trong việc chi phối cách ứng
xử của mỗi người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau.
1 - Diễn từ tại lễ nhận Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh
8. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
8
Tin tức - Sự kiện
GS đề cập đến bản chất của CGD là quản lý quá trình tự học. Trẻ tự làm
ra sản phẩm của trẻ và từ đó phát triển sự tự tin. Ở trường tiểu học Thực
nghiệm, học sinh được giáo dục sự tự tin và sự tự trọng.Trẻ em phải tự
làm mọi thứ và người lớn không bao giờ được đưa những thứ có sẵn cho
trẻ. Người lớn có trách nhiệm cho trẻ những công cụ và hướng dẫn trẻ
để thực hiện điều đó.
Trong giáo dục cần khuyến khích để trẻ học cũng hứng thú như khi
chơi. Đồng thời việc khen chê đều cần đúng mực, có nghĩa lời khen là
sự khẳng định việc làm đúng của trẻ, chứ không phải là lời tán dương.
Trước câu hỏi của các giáo viên về việc phải khen trẻ thế nào, GS Hồ
Ngọc Đại ví von hài hước: “Dạy trẻ con cũng giống như dạy chồng. Đối
với trẻ con chỉ nên khen là các con đã làm đúng hoặc chưa đúng. Các con
làm đẹp hoặc chưa đẹp. Tuyệt đối không phê bình các con làm sai hoặc làm
xấu… Cũng như vậy, chồng đi chơi về muộn thì cũng nên nói anh còn về
sớm hơn chồng người khác…” Những chia sẻ rất dí dỏm của GS Hồ Ngọc
Đại đã khiến cho không khí khán phòng trở nên vui vẻ và thật thân thiện.
FPT và Công nghệ giáo dục
Nhận thấy tầm quan trọng của Công nghệ Giáo dục trong việc đổi mới
và nâng cao chất lượng dạy và học, trường ĐH FPT đã thành lập đội
ngũ nghiên cứu về Công nghệ giáo dục để tìm ra cơ chế tối ưu hóa hiệu
quả dạy – học và tự học ở các cấp học, bậc học (ĐH, CĐ, THPT). Nhóm
nghiên cứu này có tên gọi: Dự án Công nghệ Giáo dục (Learning and
Teaching Innovation Taskforce – LTIT2
). Ngoài ra, công nghệ dạy tiếng
Anh của trung tâm FPT GEM English cũng là một sản phẩm của Công
2 - Được thành lập theo Quyết định số 212/QĐ-ĐHFPT ngày 16/4/2014 của Hiệu trưởng
Trường ĐH FPT về việc thành lập Dự án Công nghệ Giáo dục và bổ nhiệm Trưởng dự án.
9. LƯU HÀNH NỘI BỘ
9
nghệ giáo dục được trường ĐH FPT mang về từ Isarel.
Trong buổi tọa đàm, GS Hồ Ngọc Đại nhận được một số câu hỏi về giáo
dục bậc đại học từ các giảng viên của trường ĐH FPT. Trả lời câu hỏi,
“Với giáo dục đại học, cơ sở Tâm lý học cho lứa tuổi này như thế nào?”, GS
cho rằng: Tự học ở đại học theo đúng nghĩa đen, tự học qua sách. Phải
để sinh viên được tin, không ép buộc họ phải tin, nhờ đó sức mạnh tinh
thần được phát triển. GS cũng đề cập đến việc cần được thực hiện ngay
từ bậc tiểu học và từ trong gia đình. Có như vậy, lên bậc đại học - tự học
mới được thực hiện thực chất, hiệu quả.
Vẫn là quan tâm từ phía vị khách mời đến từ một trường đại học ở Hà
Nội, hiệu trưởng trường ĐH FPT đã được “chất vấn” bằng một câu
hỏi: “FPT và GS. Đại có thể đi tiên phong để thay đổi giáo dục Việt Nam
không?”. TS Lê Trường Tùng đã trả lời câu hỏi với một thái độ khiêm tốn
khi cho rằng: “Đại học FPT là trường tư, chúng tôi luôn làm tốt nhất trong
khả năng của của mình. Chúng tôi tin tưởng rằng đất nước sẽ phát triển
nếu có nền giáo dục tốt.”
GS. Hồ Ngọc Đại cũng trao đổi với phóng viên các báo sau khi buổi tọa
đàm kết thúc, ông nhấn mạnh: “Đại học là khai phá, phải khác so với phổ
thông – là cái nền văn minh nhân loại đã có sẵn. Chúng ta nên khuyến
khích sinh viên nghe những điều thầy giảng để mà suy ra những điều có thể
nghi ngờ. Phải để sinh viên có quyền không chấp nhận thầy”.
GS cũng chia sẻ: “Tôi rất tin tưởng lớp trẻ ngày nay, chúng năng động lắm,
xông xáo lắm, xã hội cũng phải tin, giao quyền cho chúng vì lớp trẻ mới
chính là tương lai của đất nước”.
10. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
10
Tin tức - Sự kiện
TƯ DUY HÀNH DỤNG LÀ GÌ?
Bùi Thị Hạnh
Sáng thứ Bảy, ngày 26/7/2014, dự án Công nghệ giáo dục (DA-CNGD)
đã tổ chức buổi seminar nội bộ với chủ đề “Tư duy hành dụng của Dewey
và bài học cho người làm giáo dục Việt Nam hiện nay”.
Giám đốc DA-CNGD-TấnDT đã dẫn dắt người nghe từ bối cảnh xã hội
Mỹ và giáo dục Mỹ thời kỳ trước John Dewey đến nguồn gốc ra đời của
thuyết hành dụng (Pragmatism). Phần trình bày cũng đề cập đến một số
thông tin tóm tắt về John Dewey, nhà triết học hành dụng, nhà tâm lý
học, nhà giáo dục học và nhà cải cách giáo dục nổi tiếng người Mỹ.
Những câu hỏi triết học mà John Dewey đặt ra cách đây gần một trăm
năm cũng được nhắc lại nhằm khơi gợi cho người nghe về những vấn đề
“Thế nào là tư duy hành dụng” hay “Cách đặt câu hỏi theo tư duy hành
dụng” như: Giáo dục là gì? Mục đích tối hậu của giáo dục là gì? Giáo dục
nên dạy những cái gì và dạy như thế nào? Ai là người quyết định nội dung
và phương pháp giảng dạy? Học sinh nên học theo tiến trình như thế nào?
Buổi hội thảo nội bộ chỉ diễn ra trong vòng hơn 1 giờ đồng hồ, song
người nghe đã được tiếp cận với rất nhiều khái niệm mới mẻ: Thực ng-
hiệm luận (Experimentalism); Công cụ luận (Instrumentalism); Dân chủ
trong giáo dục (Democractic); Chủ nghĩa tự nhiên hành dụng (Pragmat-
ic Naturalism)… đi kèm việc phân tích một số trường hợp cụ thể như
Pragmatic Bookshelf trên thế giới và trường Thực nghiệm, Cánh Buồm,
Giap School ở Việt Nam về việc ảnh hưởng của thuyết Hành dụng trong
giáo dục.
Để kết thúc, dựa trên những luận điểm của Dewey về tư duy hành dụng
trong giáo dục, diễn giả đặt ra một loạt các câu hỏi mà giáo dục Việt
Nam, cũng như người làm giáo dục của Việt Nam hiện nay cần phải suy
ngẫm và đi tìm lời giải đáp, đó là: giáo dục hiện nay đang giải quyết vấn
đề gì? Ai là người quyết định đích đến của giáo dục? Ai là người quyết định
tiến trình học tập của sinh viên? Vai trò can dự của người học là như thế
nào? Giáo dục có phải thuần túy là chuẩn bị cho cuộc sống?
Theo kế hoạch, lịch sinh hoạt chuyên môn tháng 8 của DA – CNGD
như sau:
Hội thảo chủ đề: Best Practices in Teaching Programing - Tuần 2
Hội thảo chủ đề: Tâm lý học giáo dục và việc học– Tuần 4
11. LƯU HÀNH NỘI BỘ
11
HỘI NGHỊ ĐÀO TẠO BLENDED LEARNING TOÀN QUỐC
Hoàng Giang Quỳnh Anh
Ngày 31 tháng 7, tại khu công nghệ cao Hòa Lạc, hội nghị Blended learn-
ing đã diễn ra, đánh dấu mốc triển khai 2 năm tại FPoly. Hội nghị diễn
ra từ 9h sáng đến 16h30 chiều cùng ngày với sự tham gia của ông Lê
Trường Tùng – Hiệu trưởng trường ĐH FPT, bà Nguyễn Kim Ánh –
Phó hiệu trưởng trường ĐH FPT, phòng phát triển chương trình, phòng
hành chính, phòng IT cùng đại diện cán bộ, giảng viên trực tiếp triển
khai Blended learning tại các cơ sở ở Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh.
Triển khai đầu tiên với môn học tiếng Anh vào năm 2012, dần dần đến
1 số môn học chuyên môn, Blended learning cũng là bước thay đổi tư
duy về phương pháp học tập tại FPoly. Xuất phát điểm của việc triển khai
Blended learning là giải quyết các vấn đề liên quan đến giờ giảng: Mỗi
giáo viên dạy được nhiều sinh viên hơn, mỗi sinh viên học được nhiều
hơn, hạn chế tình trạng sinh viên ngủ gật trên lớp, nhiều bạn đi học
nhưng cả kì không đụng đến sách giáo khoa, trình độ trong lớp học khác
biệt, phong cách học phong phú, smartphone nhiều, nhưng vẫn đảm đảo
được chất lượng của sinh viên theo đúng chương trình của FU. Nhờ triển
khai Blended learning, so với cách học truyền thống, tỉ lệ sinh viên đỗ
môn học cao hơn ở một số môn.
Tuy nhiên, FPoly ở cả Hà Nội, Hồ Chí Minh, và Đà Nẵng cũng còn tồn
tại khó khăn khi triển khai Blended learning. Các báo cáo đưa ra thực
trạng triển khai tại các cơ sở của FPoly: Học sinh chưa chủ động học bài
online, học một cách đối phó, số lượng môn học triển khai tăng nhanh
dẫn đến số lượng sinh viên tăng làm hệ thống hiện tại bị quá tải, nội
dung bài giảng online vẫn còn có lỗi, câu hỏi cuối bài học tương đối dễ,
bài giảng những môn khó như kinh tế chính trị vẫn còn sơ sài, giáo viên
mất nhiều thời gian khi làm việc ở nhà, giáo viên gặp khó khăn khi kiểm
tra sinh viên có học bài trước hay không, chưa có slide bài học online…
Đồng thời, các cơ sở cũng đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện những
vấn đề khó khăn ấy: Phải có đào tạo sư phạm cho toàn bộ các cơ sở trên
toàn quốc, tăng giờ giảng, cần có hệ thống tutor cho môn tiếng Anh,
chỉnh sửa lại hệ thống bài online, cần có kịch bản đứng lớp cho giáo viên,
thống nhất điều kiện đánh giá môn học, đưa tiếng Anh thành chuẩn đầu
ra tốt nghiệp.
Kết thúc buổi hội nghị, ông Lê Trường Tùng tổng kết cần phải mô hình
hóa những việc đã triển khai thành một quy trình bài bản hơn, có nguyên
lí, có nền tảng để triển khai để giáo viên thấy rõ mình cần làm gì. Mục
tiêu vươn tới là nâng cao chất lượng, nâng cao năng suất học của học
sinh, năng suất dạy của thầy.
12. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
12
Tin tức - Sự kiện
TOÀN CẢNH HỘI THẢO SMART.EDU 2014
Nguyễn Thị Vân
Ngày 01/8 vừa qua, tại Cung Trí thức thành phố Hà Nội đã diễn ra Hội
thảo Smart.Edu 2014 với chủ đề “Công nghệ thông tin và tương lai
giáo dục và đào tạo”. Hội thảo được Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ
Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) tổ chức dưới sự bảo trợ của
Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) và Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT). Hội thảo diễn ra trọn vẹn một ngày với sự tham gia của đại
diện lãnh đạo Bộ TT&TT, Bộ GD&ĐT, chủ tịch hiệp hội VINASA, nhiều
chuyên gia công nghệ thông tin, chuyên gia giáo dục, các công ty sản xuất
phần mềm quản lý trường học, đại diện các tổ chức giáo dục, các trường
học trên địa bàn Hà Nội. Buổi Hội thảo Smart.Edu 2014 tiếp theo sẽ được
tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh vào ngày 12/8 tới đây.
Về phía FPT tham gia hội thảo Smart.Edu 2014 có Chủ tịch Trương
Gia Bình (đồng thời là Chủ tịch VINASA), bà Nguyễn Kim Ánh – Phó
hiệu trưởng trường ĐH FPT, các thành viên Dự án Công nghệ giáo dục
(CNGD) và Trung tâm tiếng Anh FPT GEM. Tại Hội thảo, bà Phan Thị
Thanh Lương – Trưởng nhóm nghiên cứu, Dự án CNGD và Giám đốc
Trung tâm GEM - Nguyễn Trọng Khôi đã có phần trình bày về “Nền tảng
giảng dạy kỹ thuật số - DTP”.
Sau đây là những thông tin vắn tắt về buổi hội thảo:
“Smart.Edu là một cơ hội rất lớn”
Phát biểu khai mạc Hội thảo, ông Trương Gia Bình – chủ tịch VINASA
khẳng định: SMAC (Social, Mobile, Analytic & Cloud) từng được coi là
một cuộc cách mạng về công nghệ thông tin (CNTT) thì nay, Smart.Edu
có thể được coi là cơ hội rất lớn cho những người làm CNTT và Giáo dục.
13. LƯU HÀNH NỘI BỘ
13
“Bộ rất ủng hộ”
TS Nguyễn Trọng Đường - Vụ trưởng Vụ CNTT, Bộ TT&TT nhận định:
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, CNTT là công cụ để thực hiện thành
công ba đột phá chiến lược, trong đó có giáo dục. Lực lượng CNTT của
chúng ta ngày càng phát triển. Bộ rất ủng hộ và mong muốn thúc đẩy
đưa CNTT vào giáo dục. Chúng tôi mong muốn được đồng hành với
ngành Giáo dục.
“Tránh đầu tư mang tính giải ngân, trang sức”
PGS. TS. Nguyễn Hữu Chí, Nghiên cứu viên cao cấp, Bộ phận thường
trực đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, Bộ GD&ĐT,
Nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục, đào tạo và dạy nghề, Ban Tuyên giáo
Trung ương cũng đã phát biểu tại Hội thảo.
Ông kể lại hành trình đi đến Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, và dẫn lời của Giáo sư Hoàng
Tụy đánh giá “đây là văn bản tốt nhất trong vòng 20 năm qua”. Đây là kết
quả của rà soát, cải tiến từ đề án đổi mới sau hai hội nghị Trung ương 6
và 8, đưa rõ quan niệm và nhiệm vụ giái pháp, định nghĩa thế nào là đổi
mới căn bản, làm sao đổi mới tận gốc rễ và đổi mới như thế nào, thực
hiện như thế nào.
Trong bài phát biểu của mình, ông Chí chia sẻ về tư tưởng của Nghị
quyết này gồm năm điểm quan trọng:
1. Đổi mới nền giáo dục theo hướng Thực học – Thực nghiệp.
2. Chuyển đổi mạnh mẽ từ Truyền thụ tri thức sang Phát triển năng lực.
3. Phát triển giáo dục trên cơ sở phát huy tính tích cực và hạn chế điểm
tiêu cực của cơ chế thị trường.
14. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
14
Tin tức - Sự kiện
4. Phát triển hài hòa giáo dục công lập và ngoài công lập.
Trong ý này, ông khẳng định, trong tương lai, xã hội phát triển, công
nghiệp phát triển, vị trí và vai trò của giáo dục ngoài công lập sẽ cao,
tất yếu phải có cơ chế cho nó phát triển. Giáo dục công – tư phải như
hai cánh của một con chim.
5. CNTT phải được ứng dụng hiệu quả
Về điểm này, ông cho rằng, cần tránh việc ứng dụng CNTT vào trường
học như một khoản đầu tư đồ sộ nhưng chỉ với ý nghĩa giải ngân, trang
sức, không thực sự giúp ích cho dân, lãng phí ngân sách nhà nước. Ông
cũng đưa ra quan điểm CNTT là phương tiện, công cụ của giáo dục.
“Chúng ta sẽ có chất lượng bài giảng không thua kém Harvard”
TS. Nguyễn Ái Việt, Viện trưởng Viện CNTT – Đại học Quốc gia Hà Nội
đã có phần trình bày về “CNTT và tương lai của GD&ĐT”.
Sau khi “trấn an” người nghe về ý nghĩa của hai chữ “CNTT” và “tương
lai”, rằng đó không phải là cái gì quá to tát hay quá xa xôi, ông khẳng
định: CNTT là cơ hội cho giáo dục; Nếu chúng ta đưa CNTT vào sử
dụng hiệu quả thì chúng ta sẽ có chất lượng bài giảng không thua kém
Harvard.
Để minh chứng cho điều này, ông đưa ra những tính năng ưu việt của
CNTT cho giáo dục như: Đưa toàn bộ toàn bộ chuỗi tri thức vào lớp
học, theo một chu trình đi từ “Lí thuyết -> Kinh nghiệm -> Thí nghiệm
-> Thực hành -> Sáng tạo” (Giáo dục cổ điển chỉ làm được lí thuyết);
Thay đổi phương thức và phương pháp giảng dạy: “Văn bản -> Trực quan
-> Tương tác”; Các công nghệ lớp học thông minh (bàn thông minh,
bảng thông minh…); Công nghệ thực tại ảo; Ứng dụng quản lí trường
học (thi cử tuyển sinh, học tập mọi nơi, thư viện điện tử, chống đạo văn,
bằng cấp bảng điểm); Mạng xã hội kết nối giáo viên, chuyên gia giáo dục
…
Ông Việt cũng đưa ra những đề xuất hết sức quan trọng cho ngành giáo
dục, trong đó có một số giải pháp mang tính đột phá như:
1. Xã hội hóa việc làm sách giáo khoa (SGK), Bộ GD&ĐT chỉ hợp chuẩn.
2. Đưa SGK điện tử lên cloud.
3. Xây dựng thư viện sách điện tử.
4. Đầu tư thiết bị truy cập. Ông cũng hài hước khi so sánh việc đầu tư
cho thiết bị, thuê chuyên gia, tính cả “hoa hồng” vẫn chưa bằng con
số 34.000 tỷ1
(!).
1 - Dự thảo kinh phí cho Đề án đổi mới chương trình SGK do Thứ trưởng Bộ GD&ĐT
Nguyễn Vinh Hiển đưa ra tại phiên họp thứ 27 - Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
15. LƯU HÀNH NỘI BỘ
15
5. Quy hoạch kiến trúc ứng dụng CNTT trong giáo dục: Đó là hệ sinh
thái gồm ứng dụng trong lớp học, ứng dụng về SGK và học liệu trên
“đám mây”.
Một hướng tiếp cận trường học mới của CNTT
Đại diện của trường Tiểu học thị trấn Yên Viên, Gia Lâm và trường
THCS Lương Thế Vinh, Đan Phượng đem đến Hội thảo những bài báo
cáo tham luận về tình hình ứng dụng CNTT trong giảng dạy, học tập và
quản lý nhà trường. Theo các báo cáo này, mặc dù các trường học cũng
đã thấy rõ lợi ích của CNTT, song việc triển khai còn gặp nhiều khó
khăn, dẫn đến hiệu quả đạt được còn hạn chế. Vấn đề chủ yếu mà các
trường đưa ra hiện nay là công tác đào tạo cho giáo viên và nguồn kinh
phí. Một số đại diện của các trường học khác bày tỏ sự e ngại với việc áp
dụng CNTT vào trường học, vì “chưa rõ áp dụng như thế nào, hiệu quả
ra sao”.
Theo ông Lê Hồng Quang, Giám đốc Văn phòng đại diện Công ty Cổ
phần MISA Hà Nội, thái độ “dè chừng” CNTT đã dẫn tới hàng loạt bất
cập trong hoạt động của ngành giáo dục hiện nay, từ việc nhiều trường
thậm chí chưa dùng phần mềm mà vẫn dùng hệ thống sổ, sách báo cáo
chép tay, hoặc có ứng dụng phầm mềm excel để quản lý cho đến không
có sự kết nối công nghệ, liên thông giữa nhà trường với phòng giáo dục
(PGD) và sở giáo dục (SGD), dẫn đến việc số liệu không chính xác và kịp
16. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
16
Tin tức - Sự kiện
thời là khó tránh khỏi. Và việc phụ huynh, học sinh có thể tự theo dõi kết
quả học tập của mình qua website, hay cập nhật thông báo của trường
qua hệ thống giống như các trường nước ngoài thì càng hiếm. Nếu đầu
tư số tiền lớn cho một hệ thống rồi lại “đắp chiếu” vì không dùng được
thì ai chịu trách nhiệm?
Trên thực tế, bài toán tưởng là khó với nhà trường, PGD và SGD này
thực ra lại rất dễ giải, nếu như họ cập nhật chủ trương mới nhất của
Chính phủ về việc khuyến khích thuê dịch vụ CNTT. Hướng đến thực
hiện chủ trương này, các doanh nghiệp tham gia tư vấn, giới thiệu sản
phẩm ứng dụng CNTT vào giáo dục (bao gồm giảng dạy, học tập và quản
lý giáo dục) trong Hội thảo này có: công ty cổ phần MISA, công ty Điện
tử Samsung Vina, Công ty TNHH Hãy Trực Tuyến (BeOnline), công ty
Cổ phần Phần mềm Quản lý Hiện đại.
QLTH.VN của MISA hiện đang được cung cấp dưới dạng dịch vụ, hoàn
toàn trực tuyến, sử dụng công nghệ điện toán đám mây, không cần phải
cài đặt trên máy tính và có giao diện 100% tiếng Việt. Hệ thống này cho
phép kết nối nhà trường với học sinh, phụ huynh và nhà trường với
PGD, SGD một cách chặt chẽ. Ban giám hiệu sẽ quản lý được tổng thể
trường học; Giáo viên quản lý học sinh, nội dung học tập, chấm điểm;
Học sinh xem điểm, khai thác tài liệu học tập, tra cứu mượn sách thư
viện hoặc vào các diễn đàn trao đổi thông tin; Phụ huynh đăng nhập để
xem thông tin học tập của con em, xem thông báo của nhà trường, liên
lạc với giáo viên. Trong khi đó, các PGD, SGD có thể xem ngay các báo
cáo tổng hợp toàn ngành bất cứ lúc nào mà không cần phải chờ từng
trường báo cáo một như trước đây. Quan trọng nhất, chi phí thuê một hệ
thống như vậy chỉ chưa đến 10 triệu/năm.
Giải pháp trường học thông minh của Samsung đang được triển khai thử
nghiệm tại trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám (Hà Nội) gần hai năm.
Lớp học thử nghiệm đã được trang bị bảng thông minh cảm ứng, có thể
tương tác thời gian thực với tất cả các máy tính bảng trang bị cho giáo
viên và học sinh trong lớp. Bảng thông minh này và các máy tính bảng
đều được kết nối Wi-Fi, cho phép truy cập, tham khảo kiến thức từ In-
ternet tức thì, mang đến sự giảng dạy trực quan nhất.
Giải pháp học tiếng Anh online của TiengAnh123 đem đến một giải pháp
học trực tuyến vô cùng tiện lợi với chi phí thấp cũng là một sự lựa chọn
cho các trường học khi việc thuê giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh cho
học sinh gặp khó khăn về ngân sách.
Giải pháp thư viện tổng thể KIPOS của công ty Quản lý Hiện đại giới
thiệu về dịch vụ quản lý thư viện cho các trường học. Tương lai của hệ
17. LƯU HÀNH NỘI BỘ
17
thống này có thể là một mạng lưới liên kết thư viện các trường trong cả
nước, mở ra một hướng tiếp cận tri thức phổ thông, rộng khắp.
Nền tảng giảng dạy kỹ thuật số DTP của trường Đại học FPT, triển khai
tại Trung tâm FPT GEM English đem đến một sự khác biệt trong triết lý
giáo dục: Cá nhân hóa việc học tập của học sinh, giải quyết được 3 vấn đề
lớn còn tồn tại trong giảng dạy truyền thống, đó là: (1) Sự khác biệt của
các học sinh; (2) Sự thích hợp giữa môi trường sống và học tập của học
sinh; (3) Tính liên tục trong đánh giá và phản hồi với học sinh.
Ngoài ra, trong phần tọa đàm, dự án ViOlympic của FPT cũng đã được
chủ tọa là ông Nguyễn Nhật Quang, Phó chủ tịch VINASA đánh giá cao.
Ông cũng nhấn mạnh, với hướng đi đúng đắn này, FPT nên đầu tư hơn
nữa cho hạ tầng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các trường học.
Hội thảo Smart.Edu 2014 có thể được coi là một “phát súng” mở đầu
trong chuỗi chương trình đưa CNTT vào trường học như một chiến lược
đột phá. Thiết nghĩ trong tương lai, với chủ trương mới của Chính phủ về
hướng thuê dịch vụ, thì một SMAC thứ hai như lời ông Trương Gia Bình
nói hẳn sẽ không còn xa.
PV.
18. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
18
Từ Thực Địa
Từ
Thực Địa
19. LƯU HÀNH NỘI BỘ
19
CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG ANH T2K
TỪ GÓC NHÌN SƯ PHẠM
Hoàng Giang Quỳnh Anh
& Phan Thị Thanh Lương
Cuối thế kỷ 20 sang thế kỷ 21, con người bước vào thời đại kỹ thuật số
của những công nghệ hiện đại. Những công dân sinh ra trong thời kỳ này
được gọi là công dân kĩ thuật số (digital-native). Các cô bé, cậu bé của
thời đại này được sống, ăn, ngủ, hít thở, chơi và học trong bầu không khí
kĩ thuật số. Điều ấy khiến mục tiêu của nền giáo dục hiện đại hướng đến
đích xa hơn, mà theo đó, học sinh không chỉ được học kiến thức, mà còn
tiếp thu và rèn luyện những kĩ năng tư duy. Nhiệm vụ của các nhà giáo
dục hiện đại là hướng dẫn trẻ, giúp trẻ xây dựng khả năng tư duy độc lập,
khả năng lập luận, khả năng sáng tạo và kĩ năng giải quyết các vấn đề để
vận dụng vào cuộc sống, như nhà cải cách giáo dục John Dewey đã nói:
“Giáo dục chính là cuộc sống” (Education is life itself). Tuy nhiên, trong
quá trình cải tiến lớp học để đạt được mục tiêu giáo dục, các nhà giáo dục
hiện đại của thế kỉ 21 đang tiếp tục phải giải quyết những vấn đề còn tồn
tại hàng ngày trong từng lớp học mà những giáo viên đứng lớp vẫn chưa
thể giải quyết được. Dovi Weiss1
, Giám đốc sư phạm của Time To Know
đưa ra quan điểm trong bài viết Bản giao hưởng sư phạm cho Công nghệ
trong lớp học rằng, hiện nay, giáo viên trong các lớp học thông thường
phải đối diện với ba vấn đề lớn không thể giải quyết được, ảnh hưởng
đến hiệu quả học tập của học sinh. Thứ nhất là, sự khác biệt, tất cả các
lớp học đều “đa dạng”2
. Giáo viên không thể dạy từng học sinh riêng lẻ
bằng phương pháp phù hợp trong khi học liệu giảng dạy lại chỉ có một
theo kiểu đồng nhất. Thứ hai là, mối liên hệ giữa cuộc sống hàng ngày và
trong lớp học, trẻ em ngày nay sinh ra và lớn lên trong một môi trường
số, ảo và tương tác. Điều đó khiến cho trẻ bị thu hút, tham gia vào nhiều
trò chơi và những luồng thông tin hấp dẫn. Hoàn toàn trái ngược với lớp
học truyền thống, phương pháp giảng dạy đơn điệu và nội dung môn học
không phù hợp. Thứ ba là, sự liên tục và tức thì, liên tục trong đánh giá
và liên tục trong việc phản hồi quá trình học tập của học sinh. Trong lớp
học thông thường, việc theo dõi quá trình học tập của từng học sinh là
rất khó khăn. Ví dụ: lớp học 35 học sinh thì việc cung cấp cho từng học
sinh những phản hồi có ích và có các giải pháp tiếp theo phù hợp cho
từng vấn đề dường như là nhiệm vụ bất khả thi. Việc xử lý thông tin đánh
giá ngay tức thì và có phản hồi lại để nâng cao chất lượng của quá trình
học tập là cần thiết và không hề dễ dàng để thực hiện nếu không có sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin.
1 - Dovi Weiss, 2012, A Pedagogical Symphony for Technology in the Classroom
2 - Đa dạng trong lớp học nghĩa là có nhiều cấp độ, phong cách học tập, kiến thức nền …
khác nhau
20. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
20
Từ Thực Địa
Trong phạm vi bài viết này, từ góc nhìn sư phạm, chúng tôi mong muốn
cung cấp cho người đọc một sự hiểu biết về nền tảng những nghiên cứu
chuyên sâu: ngôn ngữ học, trí khôn nhiều thành phần, phương pháp sư
phạm và công nghệ sử dụng trong chương trình tiếng Anh của Time To
Know (T2K) khi xây dựng kho dữ liệu bài học, các bộ câu hỏi và những
gợi ý hoạt động giúp người học có thể phát triển một cách toàn diện
nhằm giải quyết ba vấn đề ở trên.
1. Giảng dạy ngôn ngữ 3
Trong những thập kỉ gần đây, các phương pháp tiếp cận kiến tạo đã nổi
lên như một mô hình chủ đạo trong giáo dục. Ban đầu, cách tiếp cận kiến
tạo được áp dụng trong các lĩnh vực toán học và khoa học, nhưng gần
đây, dựa trên những quy tắc của hoạt động nhận thức và học tập, cách
tiếp cận kiến tạo đã ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của chương
trình giảng dạy ngôn ngữ. Cách thức tiếp cận này dựa trên những học
thuyết của Piaget (1959, 1967, 1974) và Vygotsky (1974), tạo điều kiện
cho người học trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực hành học tập
để đạt được kiến thức và sự hiểu biết mới. Đồng thời, cho phép quá trình
học ngoại ngữ phát triển dần dần từ những công việc nhỏ nhất là học
ngữ âm qua những chữ cái đơn giản cho đến các văn bản phức tạp hơn
như đọc một câu truyện. Thuyết Kiến tạo khẳng định học tập hiệu quả là
sản phẩm của chủ động sáng tạo cá nhân. Theo John Richards và Joseph
Walters4
, Kiến tạo xã hội định nghĩa học tập: Ý nghĩa (meaning) được
kiến tạo từ cá nhân; không có gì trên thế giới tồn tại mà không liên kết
với cá nhân; người học xây dựng tri thức và hiểu biết mới dựa trên những
gì họ đã biết và tin tưởng, việc học của học sinh được hình thành thông
qua các cấp độ phát triển (development level) và kinh nghiệm có được
qua trải nghiệm; kiến thức nền tảng về văn hóa xã hội được đưa vào các
bài tập thực tế và xác thực; người học xây dựng kiến thức cá nhân thực tế,
sáng tạo ra những điều mới lạ và hiểu biết về những tình huống cụ thể.
T2K lấy thuyết Kiến tạo của Piaget và Kiến tạo xã hội của Vygotsky làm
kim chỉ nam, đưa ra một cách thức tiếp cận mới trong giáo dục, quan
niệm con người có thể hiểu và tiếp nhận, xây dựng thông tin tốt hơn
theo cách của mình. Từ đó, xây dựng nguyên tắc sư phạm của việc học
ngôn ngữ: Việc học tập diễn ra khi học sinh tham gia vào các hoạt động
phù hợp với kinh nghiệm và nhu cầu của bản thân; học sinh tiếp nhận
ngôn ngữ thứ hai hiệu quả nhất thông qua bối cảnh giao tiếp; sự phát
triển hình xoắn ốc về từ vựng và kỹ năng cho phép việc học tăng trưởng
theo cấp độ từ đơn giản đến phức tạp; hiệu quả học tập phụ thuộc vào
3 - Elite Olshtain and Dorit Kaufman, 2011, English as Foreign Language (EFL)
4 - John Richards and Joseph Walters, 2012, Digital Teaching Platform in Spectrum of Edu-
cational Technologies
21. LƯU HÀNH NỘI BỘ
21
kinh nghiệm tích cực và hướng thành công mà học sinh có được trong
quá trình học.
Bản chất của Kiến tạo xã hội không thừa nhận tính khác biệt của người
học nhưng khuyến khích tận dụng những ưu điểm của nó, biến thành
một phần của quá trình học tập (Wertsch, 1997). T2K tận dụng những
ưu điểm của thuyết Kiến tạo để xây dựng một nguyên tắc dựa trên tính
tương tác, nhấn mạnh tầm quan trọng của tương tác xã hội, giúp học
sinh phát triển thông qua tương tác với học sinh khác, với người lớn và
thế giới vật chất phù hợp với bản thân. Nguyên tắc sư phạm trên đây,
đồng thời cũng nhấn mạnh giáo viên trong vai trò hỗ trợ hoạt động học
tập.
2. Thiết kế giảng dạy
Howard Gardner là một nhà tâm lý học nổi tiếng của Đại học Harvard.
Ông quan niệm trí thông minh là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo
ra các sản phẩm mà giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay
nhiều môi trường văn hóa, và trí thông minh cũng không thể chỉ được
đo lường duy nhất qua chỉ số IQ (Frames of Mind, 1983). Thuyết trí khôn
nhiều thành phần (Multiple Intelligences) của Gardner ra đời, mang đến
một cách nhìn khác, nhằm khuyến khích nhà trường và các nhà giáo dục
đón nhận tính đa dạng về trí tuệ của mỗi người học để hỗ trợ, khơi gợi
tiềm năng và tạo điều kiện học tập cho học sinh sao cho đạt hiệu quả
cao nhất. Trong thuyết này, Howard Gardner (2013)5
đưa ra 9 loại trí
khôn cơ bản (trích theo Building Teacher): Trí khôn không gian (spatial
intelligence), trí khôn cơ thể - vận động (bodily-kinesthetic intelligence),
trí khôn âm nhạc (musical intelligence), trí khôn ngôn ngữ (linguistic
intelligence), trí khôn lôgic-toán (logical-mathematical intelligence) trí
khôn cá nhân hướng ngoại (interpersonal intelligence), trí khôn cá nhân
hướng nội (intrapersonal intelligence), trí khôn thiên nhiên (naturualistic
intelligence), trí khôn hiện sinh (existential intelligence). T2K đã đưa 5/9
loại hình trí khôn của Gardner vào việc xây dựng chương trình gồm có
những hoạt động phân hóa thúc đẩy việc học và tiếp nhận kỹ năng cho
từng học sinh. Điều này giúp cho giáo viên cá nhân hóa việc hỗ trợ học
sinh để phát triển những kỹ năng khác biệt. Đồng thời nó cũng giúp giáo
viên gợi ý cho từng học sinh khi các em có nhu cầu. Liên kết đánh giá cá
nhân hóa tạo cho học sinh động lực để đạt đến kết quả cao hơn và thành
công hơn.
5 - Building Teacher: A Constructivist Introducation to Education, 2014, Cengate
22. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
22
Từ Thực Địa
Bảng 1: Thiết kế giảng dạy chương trình tiếng Anh của T2K
Learning Preference Time To Know
Trí khôn nhiều thành
phần
Visual-spatial animations, puzzles, charts, manipu-
lation of images
Trí khôn không gian
Verbal-linguistic listening, speaking, storytelling Trí khôn ngôn ngữ
Logical-mathematical puzzles, problem-solving games,
categorizing activities
Trí khôn logic – toán
Bodily-kinesthetic hands-on activities, computer
keyboard skills, clicking and dragging
of information, organizing word and
picture cards
Trí khôn cơ thể vận
động
Musical-rhythmic songs, chants, listening and speaking
activities
Trí khôn âm nhạc
Thuyết trí khôn nhiều thành phần ban đầu không được giới nghiên cứu
tâm lý học chấp nhận dễ dàng, nhưng lại nhận được nhiều phản ứng tích
cực từ các nhà giáo dục. Lý thuyết này cho phép các nhà giáo dục phát
triển các phương pháp tiếp cận để đáp ứng nhu cầu của các học sinh
trong lớp. Bảng 1 cho thấy có 5 loại trí khôn ẩn chứa trong các hoạt động
và nội dung của T2K. Mỗi một hoạt động, một nội dung giảng dạy đều
được nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt ý nghĩa và đều có mục đích hướng đến
sự phát triển con người toàn diện ba nguyên lý trong phương pháp học
tập của T2K: Xây dựng sự tự do ý chí cho người học, đưa học sinh qua
chu trình học tập đa dạng cung cấp cho người học những kinh nghiệm
học tập tích cực.
Ngoài ra, các phương pháp học tập khác cũng được nghiên cứu để triển
khai các dụng ý sư phạm một cách có hệ thống. Phương pháp học tập
qua tình huống (situated learning), phương pháp học tập qua khai phá
(inquiry-based learning), phương pháp học tập lấy học sinh làm trung
tâm (student-centered learning), được triển khai trong môi trường học
tập hỗn hợp (blended learning environment). Để có được môi trường
học tập phát triển toàn diện tất cả các cấu thành của ngôn ngữ: nghe,
đọc, viết và hội thoại, lớp học được lưu ý đến các mức độ triển khai hoạt
động từ cá nhân, cặp, nhóm và cả lớp.
Xã hội hiện đại, nhà trường không còn là nơi duy nhất cung cấp tri thức
cho người học. Câu hỏi đặt ra cho các nhà giáo dục hiện đại là: Người
học cần trang bị những kĩ năng cần thiết nào để học tập đạt hiệu quả?
Assessment & Teaching of 21st-Century Skills (ATC21S) là tổ chức do 4
quốc gia Úc, Phần Lan, Singapore, Hoa Kì sáng lập, với sự tài trợ từ Cisco,
Intel và Microsoft, bắt đầu với một nhóm hơn 250 nhà nghiên cứu đến
từ hơn 60 tổ chức trên toàn thế giới đã phân loại các kĩ năng thế kỷ 21
23. LƯU HÀNH NỘI BỘ
23
(21st-Century Skills). T2K áp dụng nghiên cứu này và xây dựng chương
trình khung cung cấp các kĩ năng cho người học trong một lớp học gồm:
tư duy phê phán và giải quyết vấn đề (Critical thinking and problem
solving); giao tiếp và hợp tác (Communication and collaboration); sáng
tạo và đổi mới (Creation and innovation); kỹ năng thông tin đa phương
tiện và công nghệ (Multimedia and technology), kỹ năng sống và làm
việc (Life and career skills). Và những yếu tố cần phải chú ý khi triển
khai bài học trên lớp và lưu ý cho việc chuẩn bị kế hoạch giảng dạy của
giáo viên: sự chú ý của học sinh: Học sinh chỉ học được khi chú tâm vào
việc học; động lực thúc đẩy: Giáo viên cần điều phối các luồng hoạt động
trong lớp một cách nhịp nhàng giữa các trò chơi với nhau – sự gián đoạn
sẽ làm sao lãng và ảnh hưởng đến sự tập trung của học sinh; không gian
và thời gian: Giáo viên cần tổ chức các không gian vật lý để quản lý tiến
trình và động lực. Giáo viên cần xây dựng chuỗi hoạt động phù hợp với
cá nhân, nhóm và cả lớp; tiến trình – thói quen: Quản lý lớp học sẽ đạt
hiệu quả nếu xây dựng một quy trình thành thói quen và sử dụng chúng
hiệu quả. Học sinh cần nắm rõ tiến trình này và cách tham gia vào tiến
trình đó; quy định: Giáo viên luôn luôn hỗ trợ học sinh. Các quy định
cần rõ ràng và cụ thể. Kỳ vọng tích cực cần được nhắc đi nhắc lại. Học
sinh cần phải hiểu sự ảnh hưởng của môi trường học tập.
Theo đó, với cách thức triển khai lớp học như vậy, không chỉ hỗ trợ học
sinh trong quá trình học tập mà còn giúp học sinh phát triển trong môi
trường học tập hiện đại. Robert Sternberg mô tả sự cần thiết của các kĩ
năng thế kỉ 21: “Chúng tôi không chỉ dạy những kiến thức thực, mà còn
dạy học sinh những điều sâu sắc hơn thế, chúng tôi chỉ cho học sinh cách
thức để chinh phục kiến thức.” (2008). Và nhiệm vụ của những người thầy
trong lớp học của T2K không chỉ là chuẩn bị cho học sinh kiến thức để
đáp ứng những yêu cầu của tương lai mà để tất cả họ tham gia quá trình
học tập, với những sự lựa chọn theo cách thức của chính mình.
4. Công nghệ
Trong các kĩ năng thế kỉ 21, kĩ năng thông tin đa phương tiện và công
nghệ thông tin đặc biệt được T2K phát triển. Thay vì cố gắng để mô tả
những tác động của công nghệ đến quá trình học tập của học sinh, các
nhà nghiên cứu cần phải suy nghĩ đến việc những loại công nghệ đang
được sử dụng trong lớp học là gì, và với mục đích gì. Người học có thể
học hỏi được điều gì “từ” thiết bị máy tính – công cụ giáo viên sử dụng
chủ yếu để tăng kĩ năng cơ bản và kiến thức cho học sinh và “với” – công
cụ áp dụng cho các mục tiêu học tập, được sử dụng như một nguồn tài
nguyên phát triển tư duy bậc cao (Reeves, 1998; Ringstaff & Kelly, 2002).
Chính vì vậy, phần mềm Content Generation Studio (CGS) được T2K sử
24. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
24
Từ Thực Địa
dụng để sáng tạo ra bài giảng trên DTP. T2K ứng dụng các ưu điểm tối
đa của DTP - Digital Teaching Platform (Nền tảng giảng dạy số hóa(gắn
với hoạt động trên lớp)) nhằm: Hướng dẫn trình tự học tập trên lớp; cá
nhân tham gia tích cực vào tiến trình học tập; học tập thích thú và vui vẻ;
thúc đẩy tự đánh giá; phát triển kỹ năng học tập nhận thức, tư duy mức
độ cao và kỹ năng thế kỷ 21; phân hóa nội dung, giảng dạy và phản hồi
để hỗ trợ phong cách học và mức độ học khác nhau.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình học tập, nhằm
cải thiện ba vấn đề khó khăn mà Dovi đã đưa ra như chúng tôi đã dẫn từ
đầu bài viết. Từ những nghiên cứu giáo dục sâu sắc, DTP là sự kết hợp
giữa thuyết kiến tạo, kiến tạo xã hội, thuyết tiến bộ và thuyết hành dụng,
giúp người học phát triển một cách toàn vẹn khả năng tư duy của mình,
đồng thời đây cũng là công cụ trợ giảng tích cực giúp các giáo viên triển
khai hoạt động trên lớp một cách hiệu quả, học sinh tham gia bài giảng
và quá trình học tập của bản thân một cách chủ động nhất, theo sở thích,
phong cách riêng, với mức độ nhận thức, kiến thức nền khác nhau. DTP
chính là một công cụ tích cực cho lớp học thế kỉ 21.
5. Hệ thống đánh giá
Đánh giá là một khía cạnh quan trọng trong dạy học, nhằm cải thiện
hiệu quả và chất lượng giảng dạy, nhu cầu học tập của người học. Các
kết quả đánh giá thường được sử dụng để nâng cao chất lượng giảng dạy
và thành tích của học sinh. Các nhà giáo dục, giáo viên, phụ huynh đều
muốn biết việc học của học sinh có đạt được hiệu quả hay không. Xây
dựng một chương trình, T2K không thể bỏ qua hệ thống đánh giá. Hệ
thống của T2K tự động theo dõi được toàn bộ công việc của học sinh và
tiến trình học tập, hệ thống cung cấp nhiều cơ hội đánh giá quá trình và
đánh giá kết quả trong mỗi bài học về thành quả và mức độ kiểm soát
ngôn ngữ của học sinh. T2K cung cấp cả các bài đánh giá cuối bài học:
Đánh giá quá trình (Formative assessment): Là quá trình thu thập và phân
tích thông tin của học sinh về khả năng nhận thức và kiến thức của học
sinh trước và trong suốt quá trình học, để giảng dạy và hỗ trợ học sinh
cải tiến quá trình học tập; là yếu tố chủ chốt để thúc đẩy thành tựu của
học sinh mục tiêu là bộc lộ khả năng tư duy của học sinh thông qua
tương tác trên lớp (trao đổi giữa học sinh với học sinh; học sinh với giáo
viên). Next-step tool assessment-formative assessment vẫn chưa hoàn
thiện nếu không có các quyết định và các hành động dựa trên phân tích
dữ liệu đánh giá phản hồi trực tiếp - phản hồi theo kiểu khuyến khích để
thúc đẩy học sinh phản hồi, tư duy phê phán và phản tỉnh.
Đánh giá để phán đoán (Diagnostic assessment): Đánh giá nhu cầu và
25. LƯU HÀNH NỘI BỘ
25
Yếu tố công nghệ:
1. Cơ sở hạ tầng
• Có máy tính cho mỗi giáo viên và học sinh.
• Hạ tầng truyền thông toàn trường.
năng lực của học sinh, cũng như sự sẵn sàng của học sinh đối với việc
tiếp nhận kiến thức mới.
Đánh giá kết quả (Summative assessment): đánh giá cuối mỗi bài hoặc
mỗi cấp độ.
Quá trình đánh giá đảm bảo tính liên tục và tức thì. Với hệ thống đánh
giá như vậy, giáo viên có thể biết được khả năng nhận thức của học sinh
còn đang thiếu ở đâu để có thể cải thiện nội dung, bổ sung các tài liệu để
trợ giúp học sinh đạt được mục tiêu học tập cao nhất. Từ đó, đưa ra một
giải pháp chỉnh thể (có thể gọi là Công nghệ giáo dục của T2K) bao gồm
bốn yếu tố công nghệ và ba nguyên lý sư phạm, các yếu tố tham gia vào
quá trình học tập của con người hòa vào nhau như một bản giao hưởng
tuyệt vời mang lại ảnh hưởng thực sự đến việc tối ưu hóa hiệu quả học
tập của học sinh (Dovi Weiss, 2012)(xem Hình 1).
26. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
26
Từ Thực Địa
2. Chương trình khung tương tác
• Thúc đẩy học tập hiệu quả.
• Phát triển hiểu biết và tư duy.
• Thích nghi với khả năng và nhu cầu của người học.
• Cung cấp kế hoạch học tập liên tục.
• Dễ dàng bổ sung, cập nhật và thích nghi bởi giáo viên.
3. Đào tạo chuyên nghiệp cho giáo viên
• 30 giờ đào tạo cho mỗi giáo viên.
• Hướng dẫn giáo viên hàng tuần trong năm đầu tiên về kinh nghiệm
trong cùng lĩnh vực.
4. Hỗ trợ kỹ thuật
• Luôn sẵn sàng trong suốt thời gian hoạt động trong ngày của nhà
trường.
Ba nguyên lý sư phạm:
1. Học tập chủ động (Active learning): Tri thức được kiến tạo và vận
dụng cùng sự hướng dẫn của giáo viên. T2K giúp làm tăng cường
sự tò mò và thắc mắc của học sinh, khuyến khích học sinh thể hiện
khái niệm trừu tượng, và hướng dẫn học sinh các hoạt động giúp
làm giàu hiểu biết và tăng tính thực hành.
2. Học tập hợp tác (Collaborative learning): T2K thúc đẩy học tập và tư
duy phi tập trung hóa (decentralised) đối với giáo viên và học sinh.
Chuyển giao kiến thức đối với các mục tiêu thuyết trình và biến
kiến thức thành công cụ để học sinh tham gia vào việc học tập và
khai phá.
3. Học tập phân hóa (Differentiated learning): T2K chấp nhận phong
cách học tập của học sinh, hỗ trợ học sinh bằng cách đưa ra các phản
hồi đối với lựa chọn của học sinh, và cho phép học sinh được theo
đuổi sở thích của chúng theo kiểu mà chúng thích.
Giải pháp mang tính hệ thống và chỉnh thể của T2K là bản giao hưởng
Công nghệ kết hợp với Sư phạm. Máy tính không thay thế giáo viên mà là
công cụ trang bị cho giáo viên sức mạnh mới và nâng cao chất lượng học
tập. Một cách tự nhiên, công nghệ của T2K giúp giáo viên phát triển thói
quen suy nghĩ của trẻ, sắp xếp thói quen một cách gián tiếp chứ không
phải trực tiếp. Hệ thống chương trình xây dựng dần dần phát triển năng
lực suy nghĩ của học sinh trong một khoảng thời gian nhất định, thông
qua việc tổ chức các hoạt động học tập nhằm thực hiện các mục tiêu.
Những nội dung kiến thức mà trẻ được học, không chỉ đơn thuần là gom
27. LƯU HÀNH NỘI BỘ
27
lại, mà được phân loại, đáp ứng các khía cạnh học ngoại ngữ. Công thức:
một người + một máy tính = chất lượng cao hơn đã được áp dụng các môi
trường khác thành công, giờ là lúc được áp dụng trong trường học.
Với những trình bày trên đây, chúng tôi mong muốn phần nào cung cấp
một cái nhìn tổng thể về chương trình của T2K dưới góc nhìn sư phạm.
T2K cung cấp đầy đủ những công cụ cho giáo viên thực hiện quá trình
giảng dạy một cách tối ưu nhất. Theo đó, giáo viên, muốn đạt được hiệu
quả giảng dạy cần tạo lập cho trẻ một thói quen tư duy, như Dewey đã
viết: “Công việc của giáo dục không phải là đi chứng minh cho mọi mệnh
đề đã đưa ra, cũng như không phải giảng dạy bất cứ một nội dung thông
tin nào, mà nhiệm vụ của nó là ươm trồng những thói quen hiệu quả sâu rễ
bền gốc trong việc phân biệt những niềm tin đã được thử thách với những
khẳng định, những võ đoán và những ý tưởng; để phát triển một sự ham
thích làm việc, chân thành và cởi mở đối với những kết luận có chứng lý xác
đáng và ghi khắc vào trong những thói quen sống động của mỗi cá nhân…”
(John Dewey, 2010)6
.
6 - John Dewey (1909), Vũ Đức Anh dịch 2013, Cách ta nghĩ, NXB Tri thức)
28. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
28
Từ Thực Địa
SƠ LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA
Hoàng Giang Quỳnh Anh – Nguyễn Thị Vân
Một trong những vấn đề còn tồn tại của cách dạy học truyền thống hiện nay
là chưa giải quyết được tính đa dạng trong lớp học. Chương trình và cách dạy
vẫn chủ trương áp dụng cho số đông. Điều này đặt ra một câu hỏi: Làm thế
nào để phát huy được tối đa khả năng cá nhân của từng người học? Và một
trong những giải pháp sư phạm được đưa ra là tổ chức dạy học phân hóa.
Tạp chí Công nghệ Giáo dục số 3 sẽ giới thiệu một số thông tin vắn tắt về giải
pháp này và thực tế áp dụng tại Trung tâm FPT GEM English.
Dạy học phân hóa là gì?
Dạy học phân hóa là chiến lược giảng dạy dựa trên nhận thức của giáo
viên về nhu cầu của từng cá nhân người học.
Thực tế cho thấy học sinh trong lớp có nhiều điểm khác biệt, về quan
điểm và khả năng. Do đó, phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phân
hóa theo đối tượng người học. Dưới sự dẫn dắt của Carol Ann Tomlin-
son, khái niệm dạy học phân hóa (differentiated instruction) đã được
nhiều người biết đến. Chiến lược dạy học phân hóa đòi hỏi giáo viên phải
“làm rõ mục đích học tập bắt nguồn từ các tiêu chuẩn về nội dung, nhưng
được thực hiện một cách khéo léo để đảm bảo mọi học sinh đều tham gia và
hiểu bài” (Tomlinson, 2008, trang 26). Bản chất quá trình dạy học phân
hóa là điều chỉnh nội dung kiến thức để đáp ứng nhu cầu, khả năng, kinh
nghiệm của người học. Ứng dụng một cách khéo léo dạy học phân hóa,
người dạy sẽ có nhiều cách thức khác nhau để giúp người học đạt được
mục tiêu
Làm thế nào để dạy học phân hóa?
Trong cuốn sách Building Teachers: A Constructivist Approach to Intro-
ducing Education1
, tác giả David và Kimberly (2007) đã chỉ ra rằng, việc
đưa các phong cách học tập và các loại trí khôn khác nhau2
vào trong bài
học là một cách hiệu quả để phân hóa phương pháp giảng dạy. Đối với
mỗi đặc điểm sẽ có một số chiến lược giảng dạy giúp công nhận đặc điểm
đó và có một số mẫu thức chung giúp kết nối toàn bộ hoặc hầu hết các
đặc điểm khác biệt.
Với hình thức dạy học phân hóa, giáo viên lên kế hoạch và bài giảng sao
cho tích hợp nhiều chiến lược giảng dạy nhất có thể, nhằm công nhận
các điểm khác biệt của học sinh trong lớp. Dạy học phân hóa bao gồm
các công việc: Điều chỉnh nội dung để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm,
1 - Tên tiếng Việt: “Xây dựng đội ngũ giáo viên: Một cách tiếp cận kiến tạo để nhập môn
Giáo dục học” – giáo trình do Trường ĐH FPT mua bản quyền và dịch, ra mắt 8/2014
2 - Xem trang 21
29. LƯU HÀNH NỘI BỘ
29
và mối quan tâm của học sinh; Đưa ra nhiều cách thức khác nhau để đạt
được mục tiêu bài học; Cho phép học sinh được chứng minh hiểu biết
của mình theo nhiều cách có ý nghĩa; Cho phép tồn tại sự đa dạng trong
môi trường học tập dựa vào nhu cầu của từng học sinh; Không đòi hỏi
giáo viên phải xây dựng kế hoạch giảng dạy riêng cho từng học sinh.
Thay vào đó, phương pháp này đòi hỏi giáo viên tìm kiếm các kiểu nhu
cầu và sau đó phân nhóm học sinh có nhu cầu hoặc sở thích tương tự để
giáo viên có thể đáp ứng nhu cầu của từng nhóm.
Các yếu tố chính trong lớp học phân hóa
Các tác giả David và Kimberly (2007) đã tổng kết bốn yếu tố chính để
nhận biết một lớp học được tổ chức theo cách phân hóa, đó là:
Bảng 1: Các yếu tố chính trong lớp học phân hóa và hàm ý của những
yếu tố này
MỤC TIÊU HOẶC YẾU TỐ HÀM Ý ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN HÀM Ý ĐỐI VỚI HỌC SINH
Học sinh cần… Giáo viên… Học sinh…
Làm bài tập theo nhóm nhỏ
với bạn cùng lớp.
• Đảm bảo tất cả các nhóm
có bài tập để tất cả học
sinh đều phải học những gì
cần học.
• Đảm bảo mỗi nhóm đều có
những định hướng rõ ràng.
• Đảm bảo học sinh biết
phương thức làm việc cùng
nhau một cách hiệu quả.
• Hướng dẫn học sinh di
chuyển bàn ghế để tạo
nhiều nhóm khác nhau.
• Tập trung vào những gì
nhóm cần làm, thay vì để ý
những gì người khác đang
làm.
• Đảm bảo học sinh hiểu
và tuân theo chỉ dẫn của
giáo viên.
• Đóng góp vào hiệu quả của
nhóm và đề nghị được giúp
đỡ khi xảy ra vấn đề mà
nhóm không thể giải quyết.
• Kiểm soát các cuộc thảo
luận để tiếng ồn không ảnh
hưởng đến việc học.
• Di chuyển bàn ghế một
cách nhịp nhàng để nhóm
có đủ không gian làm việc.
Làm việc cùng với giáo viên
theo từng cá nhân hoặc
nhóm nhỏ.
• Biết rõ mỗi học sinh cần
học gì vào thời điểm nhất
định để các nhóm có thể hỗ
trợ việc học tập.
• Đảm bảo học sinh được chỉ
dẫn một cách rõ ràng và có
thể tìm kiếm sự giúp đỡ khi
giáo viên bận rộn với nhóm
nhỏ hoặc học sinh khác.
• Luôn theo dõi nhu cầu, bài
tập và sự tiến bộ của học
sinh, đồng thời giúp học
sinh tự theo dõi quá trình
học tập của bản thân.
• Có thể bắt đầu hoặc kết
thúc công việc của cá nhân
hoặc của nhóm nhỏ một
cách hiệu quả để trao đổi
với giáo viên khi cần thiết.
• Không ngắt lời giáo viên
khi giáo viên đang làm việc
với học sinh hoặc nhóm
khác.
• Biết cách tìm kiếm sự giúp
đỡ khi giáo viên bận rộn với
nhóm hoặc học sinh khác.
• Tự theo dõi mục đích và
thành tích học tập của bản
thân.
30. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
30
Từ Thực Địa
MỤC TIÊU HOẶC YẾU TỐ HÀM Ý ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN HÀM Ý ĐỐI VỚI HỌC SINH
Học sinh cần… Giáo viên… Học sinh…
Dành lượng thời gian khác
nhau trong một nhiệm vụ
để giúp học tốt.
• Xác định một vị trí nhất
định để học sinh nộp lại bài
tập đã hoàn thành và kiểm
tra bài làm của học sinh
nếu cần thiết.
• Đưa ra nhiều bài tập quan
trọng để học sinh lựa chọn
sau khi hoàn thành một
nhiệm vụ nào đó.
• Tuân theo chỉ dẫn của
giáo viên về việc nộp lại bài
làm hoặc kiểm tra sau khi
hoàn thành.
• Tham gia các hoạt động
ngoài lề (anchor activities)
một cách nhịp nhàng và
hiệu quả sau khi hoàn
thành một bài tập nào đó.
Làm việc với các tài liệu
khác nhau để giúp học tốt.
• Cung cấp nhiều loại tài
liệu khác nhau phù hợp với
điểm đầu vào khác nhau
của học sinh, bao gồm nhu
cầu, sở thích và hình thức
đọc.
• Xây dựng cách thức để
đảm bảo học sinh biết sử
dụng tài liệu nào vào thời
điểm cụ thể và nơi lưu trữ
tài liệu.
• Đảm bảo tài liệu được giữ
gìn cẩn thận và trả lại đúng
nơi quy định sau khi hoạt
động kết thúc.
• Gợi ý cho giáo viên tài liệu
nào (hay loại tài liệu nào)
tốt nhất đối với từng cá
nhân học sinh.
(Nguồn: David và Kimberly (2007), Building Teachers: A Constructivist
Approach to Introducing Education, Tên tiếng Việt: “Xây dựng đội ngũ
giáo viên: Một cách tiếp cận kiến tạo để nhập môn Giáo dục học” – giáo
trình do trường ĐH FPT mua bản quyền và dịch, sẽ ra mắt 8/2014)
Dạy học phân hóa ở FPT GEM English
Khẩu hiệu của trung tâm tiếng Anh FPT GEM là “Cá nhân hóa học tập –
thành công theo cách của riêng con”. Đây có thể coi là một sự khác biệt rất
lớn của GEM so với các trung tâm tiếng Anh ở Hà Nội hiện nay.
Ở GEM, việc dạy học phân hóa được thể hiện ở những vấn đề sau:
1. Trình độ: FPT phân hóa học sinh theo ba nhóm trình độ thấp, trung
bình và cao. Theo đó, cùng một nội dung bài học, cùng một lớp học,
học sinh ở các trình độ khác nhau sẽ nhận được các phiếu bài tập
khác nhau, sự hỗ trợ từ giáo viên và nền tảng giảng dạy số hóa (Dig-
ital Teaching Platform – DTP) là khác nhau.
2. Sở thích: Tùy theo sở thích của bản thân, học sinh được làm bài tập
theo các cách khác nhau, sau đó gửi lên thư mục tài liệu học tập
chung của cả lớp (gallery) để giáo viên và các bạn khác trong lớp
cùng đóng góp ý kiến.
3. Kiến thức nền: Mỗi một bài học chủ đề ở GEM được chia thành 9
– 11 lesson. Trước khi học bài học chủ đề, học sinh sẽ làm một bài
pre-test. Hệ thống sẽ tự động phân tích kiến thức nền của học sinh,
31. LƯU HÀNH NỘI BỘ
31
đánh giá vốn từ vựng của học sinh theo ba tiêu chí: nghĩa, phát âm,
chính tả. Những học sinh có kiến thức nền tốt, đạt đủ ba tiêu chí
từ vựng ở trên, sẽ không phải học lại những nội dung đó trong các
lesson. Sau mỗi bài học chủ đề, sẽ có phần re-teaching để ôn tập kiến
thức của toàn bộ chủ đề, giúp giáo viên và học sinh có một cái nhìn
tổng quát về nội dung vừa học.
Giáo viên phải làm những công việc gì trước khi bắt đầu giờ học phân
hóa tại GEM?
Trước mỗi buổi học, giáo viên cần xem lại các báo cáo từ buổi trước trên
hệ thống để xác định: có cần chuyển học sinh nào từ nhóm trình độ thấp
lên trình độ cao hơn không, nội dung nào các học sinh trong lớp mất
nhiều thời gian học tập, những phần nào học sinh làm sai nhiều?… Tiếp
theo đó, giáo viên kiểm tra nội dung bài mới trên DTP xem có cần giảm
nội dung nào, thêm hoạt động nào hay không? Cuối cùng, giáo viên đọc
bài học trong sách giáo khoa và lên kế hoạch các hoạt động bổ trợ trong
tiết học (trò chơi, hoạt động vận động,…)
Nội dung trên đây chỉ mới đưa ra một cách khái quát về khái niệm, cách
triển khai của dạy học phân hóa và một ví dụ áp dụng thực tiễn. Để triển
khai hiệu quả phương pháp này có lẽ sẽ còn cần thêm nhiều sự tìm tòi
và nghiên cứu.
32. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
32
Từ Thực Địa
THĂNG TRẦM CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC HỒ NGỌC ĐẠI
Nguyễn Thị Vân (Thực hiện)
Ba chữ “Hồ-Ngọc-Đại” không chỉ là một cái tên ước lệ cho những người
tâm huyết với sự nghiệp đổi mới giáo dục, mà còn nói lên cả một hành
trình không mệt mỏi, một nỗ lực “muốn đập tan ngôi đền giáo dục cổ
truyền”1
của GS.TSKH Hồ Ngọc Đại. Tạp chí Công nghệ Giáo dục số 3 giới
thiệu nội dung cuộc trò chuyện của Dự án công nghệ GD với ông về những
thăng trầm của công nghệ giáo dục (CGD) từ khi được đưa về Việt Nam
tới nay.
Thưa GS. có thể hiểu CGD nói chung và CNGD ở Việt Nam là gì?
Hiện nay chỉ có Việt Nam mới có CGD. Bản chất của công nghệ là một
quá trình được tổ chức và kiểm soát. Bất cứ cái gì đều có quá trình để
hình thành, chẳng hạn như thai nhi được hình thành, hay như hình
thành cây, quả, hoa, lá. Về mặt tự nhiên, các quá trình này là tối ưu, 9
tháng 10 ngày để sinh ra một con người là quá trình tối ưu, không ai can
thiệp vào được, nếu can thiệp vào thì không còn giữ được bản chất tự
nhiên. Trẻ em vốn là một thực thể tự nhiên, nhưng rất khác cây, cỏ, hoa,
lá vì chúng bị “ép” nhiều thứ quá, tức là làm chệch cái tự nhiên của chúng
đi, thì bây giờ phải trả lại tự nhiên cho nó. Bởi vì nhân tạo không bao giờ
là tối ưu, trừ khi nó phù hợp với tự nhiên, căn cứ vào quá trình tự nhiên.
Cách làm của CGD là căn cứ vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ.
Nền tảng lý luận của CGD là gì, thưa GS.?
CGD có ba nền tảng: Nền tảng thứ nhất là Triết học; Nền tảng thứ hai là
Tâm lý học; Nền tảng thứ ba là Các khoa học chuyên ngành.
Lấy ví dụ như thế này, muốn dạy trẻ em nói tiếng Việt thì phải dạy những
thành tựu cuối cùng của khoa học về tiếng Việt, hay dạy Toán thì dạy
những thành tựu cuối cùng của Toán học. Nhưng mà thành tựu cuối cùng
đã trở thành hàn lâm, chứ không phải những thành tựu cuối cùng nhưng
còn trôi nổi. Bởi vậy, tính hàn lâm của giáo dục là rất quan trọng. Giáo dục
ở Việt Nam hiện nay lạc hậu là vì đang dạy những cái hàn lâm cũ.
Về mặt Triết học, có thể hiểu đơn giản, những gì mà trẻ em có được là
chuyển từ bên ngoài vào. Ví dụ, muốn lớn thì phải ăn, muốn trưởng
thành thì phải học, không có gì có sẵn cả. Về mặt Tâm lý học, tức là trên
thực tiễn triển khai nó như thế nào.
1 - Hồ Ngọc Đại, 2010, Bài học là gì, trang 13
33. LƯU HÀNH NỘI BỘ
33
Khi nhắc đến CGD, người ta hay nhắc đến “trách nhiệm xã hội”, có
thể hiểu điều này như thế nào?
Bởi vì giải pháp giáo dục có tác động trực tiếp (các ngành khác tác động
gián tiếp) tới toàn bộ xã hội nên mặc dù CGD hiện mới chỉ dạy trẻ em,
nhưng sẽ tác động tới toàn xã hội, vì trẻ em có vai trò trong cả hiện tại
và tương lai.
Xin GS. cho biết, ở Việt Nam, CGD được áp dụng ở những cấp học
nào và với những môn học nào?
Định hướng CGD là cho toàn bộ 3 cấp của phổ thông, nhưng ở Tiểu học
thì tương đối hoàn thiện, thành một sản phẩm. Các cấp còn lại đang soạn
thảo, có khung, có định hướng. Ở Tiểu học thì dùng lý thuyết để dạy kỹ
năng, nhưng lên đến Trung học thì dùng kỹ năng để học lý thuyết. CGD
áp dụng cho các môn Khoa học nói chung (gồm Khoa học Tự nhiên và
Khoa học Xã hội) vì có thể kiểm soát được. Riêng với các bộ môn Nghệ
thuật và Đạo đức thì chưa áp dụng.
CGD thiết kế bài giảng như thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu?
Quá trình tối ưu được thể hiện ở sản phẩm tối ưu. Có 2 loại: tất yếu và
mong muốn. Tất yếu có nghĩa là thiết kế như thế nào thì ra được sản
phẩm đúng như thế. Còn mong muốn là đặt ra một mục tiêu có thể
không đạt được. Thiết kế của CGD cũng vậy, có nội dung yêu cầu tất yếu,
có nội dung chỉ đưa ra mong muốn.
Với thiết kế như vậy, yêu cầu đối với giáo viên của CGD và vai trò
của họ được đặt ra như thế nào?
Người dạy hiện đại rất khác với người dạy ngày xưa. Người dạy của CGD
được chia làm 03 loại: một người dạy thiết kế công nghệ, một người
chuyển giao công nghệ, và một người dạy là thực thi công nghệ. Người
thầy trước đây chỉ cần cầm sách giáo khoa (SGK) lên là dạy được. Thậm
chí như Khổng Tử không cần đến SGK, nghĩ đến đâu giảng đến đấy.
Giống như nền sản xuất ngày xưa, mày mò là chủ yếu.
Bản thân người thiết kế chương trình, cũng giống như thiết kế trong
công nghiệp, phải am hiểu tường tận sản phẩm, quá trình làm ra sản
phẩm, như vậy buộc phải có trình độ. Người chuyển giao phải giải thích
cho người khác, vì sao thiết kế như thế, giống như trường sư phạm,
trường nghề.
Vai trò của 3 người thầy này quan trọng như nhau, và không được thiếu
bất kỳ người nào, có như vậy CGD mới triển khai tốt được. Chỉ cần hỏng
một khâu là không ra được sản phẩm.
34. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
34
Từ Thực Địa
Theo hình dung của đa số, CGD yêu cầu học sinh phải thực hành
nhiều. Với những cơ sở giáo dục còn thiếu thốn điều kiện cơ sở
vật chất, điều này có gây cản trở đến việc triển khai CGD không?
Bằng bất cứ giá nào cũng phải thực hành. Thiết kế là chung cho cả các
trường thành phố hay nông thôn, miền núi. Vấn đề đặt ra ở đây là thiết
kế như thế nào cho phù hợp với đại trà. Giống như việc thiết kế ra điện
thoại di động, dùng ở đâu cũng được nếu có phủ sóng.
Việc triển khai CGD ở Việt Nam đã có những thuận lợi và khó khăn
gì?
Thuận lợi là đạt được hiệu quả, nhân dân nhìn thấy, trẻ em và phụ huynh
chấp nhận. Căn cứ theo bộ tiêu chí với chương trình cũ thì CGD cho ra
sản phẩm hơn hẳn.
Xin GS. cho biết, vai trò của các trường Thực nghiệm trong việc
triển khai CGD là gì?
Chương trình được triển khai ở Trung ương, rồi về dạy ở Thực nghiệm,
để thêm một lần nữa kiểm nghiệm trước khi đưa vào đại trà, để dân nghe
thấy, trông thấy và tin tưởng. Hơn nữa, đưa về trường Thực nghiệm thì
kiểm tra được chặt chẽ hơn, sản phẩm an toàn hơn, sức thuyết phục tốt
hơn.
Giáo viên được tập huấn trước khi triển khai. So với trước đây thì trình
độ tiếp nhận của giáo viên khá hơn trước nhiều.
Trình độ giáo viên cao hơn so với cách đây 30 năm, vậy việc triển
khai CNGD có khác nhiều không?
Về lý thuyết CGD đã hoàn thiện, trở thành kinh điển, công nghệ cũng
xong. Việc triển khai dễ dàng hơn nhiều. Trẻ em hiện đại tiếp thu rất
nhanh.
GS. có thể đưa ra một số bài học triển khai CGD là gì?
Trước hết thiết kế phải tốt, sau đến tập huấn giáo viên cũng phải tốt.
CNGD đóng vai trò gì trong sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam?
Vai trò đổi mới là chắc chắn, và ngày càng lớn hơn, không thể chống lại
được. Hiện nay CGD được triển khai toàn quốc, có hơn 400,000 học sinh
Tiểu học, với môn Tiếng Việt.
Xin cảm ơn GS. về cuộc trò chuyện này.
35. LƯU HÀNH NỘI BỘ
35
THĂNG TRẦM CGD HỒ NGỌC ĐẠI
• Năm 1978, sau khi hoàn thành luận án Tiến sĩ, Hồ Ngọc Đại
mở trường Thực nghiệm đầu tiên ở Việt Nam.
• Đến năm 1985, đã có 43 tỉnh, thành trên cả nước áp dụng mô
hình trường Thực nghiệm, mỗi tỉnh có ít nhất một trường hoạt
động theo mô hình này, đặc biệt có tỉnh triển khai đến từng
huyện như Thái Bình.
• Năm 2000, trước chủ trương “Một chương trình một bộ sách
giáo khoa” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mô hình trường Thực
nghiệm dạy theo sách giáo khoa của Hồ Ngọc Đại bị xóa bỏ,
chỉ còn rất ít trường nhất quyết xin duy trì và còn giữ lại đến
ngày nay như: Trường Phổ thông Thực nghiệm Liễu Giai (Hà
Nội); Phổ thông Thực nghiệm Tây Ninh (tỉnh Tây Ninh); Tiểu
học Thực nghiệm Huế (Thừa Thiên-Huế); Tiểu học thực ng-
hiệm Đà Lạt (Lâm Đồng); Thực nghiệm Bình Minh (Hải Dương)
và một ngôi trường mới mở cùng mô hình là Tiểu học công
nghệ giáo dục Hà Nội (Hà Nội).
• Đến năm 2012, sau gần 40 năm, chương trình sách giáo khoa
Công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại được hồi sinh bằng
quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ
Luận, khi bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 của ông được đưa
vào áp dụng đại trà. Hiện nay, CGD được triển khai toàn quốc,
giảng dạy cho hơn 400.000 học sinh.
Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí, GS. Hồ Ngọc Đại đã chia
sẻ: “Ban đầu, chúng tôi chỉ nghĩ khoảng 15-20 năm, Công nghệ
giáo dục của tôi được chấp nhận, nhưng không ngờ lại kéo dài
đến tận ngày hôm nay. Nhưng dù muộn còn hơn không, và thực ra,
khoa học thì cũng không bao giờ là muộn cả. Ít nhất, chúng ta đã
bắt đầu”. Và hàng ngày, vị GS. già này vẫn làm việc từ 7 giờ sáng
đến 17 giờ chiều, vẫn tập thể dục đều đặn “như một nghĩa vụ” để
duy trì sức khỏe mang CGD về đến các miền quê.
Những gì GS. Hồ Ngọc Đại đã và đang làm là vô cùng đáng trân
trọng. Mặc dù CGD của ông mới chỉ được áp dụng ở một trong một
cấp học, chưa “phủ sóng” toàn quốc, song thiết nghĩ, đây chính là
một “cú hích” mà ngành Giáo dục Việt Nam đang cần phải có trong
công cuộc “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”2
.
2 - Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương tại
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
36. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
36
Tủ sách Giáo dục
Tủ sách
Giáo dục
37. LƯU HÀNH NỘI BỘ
37
SÁCH TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC
Hoàng Giang Quỳnh Anh
Tâm lý học dạy học của Hồ Ngọc Đại xuất bản năm 2010, là kết quả của
những công trình nghiên cứu của tác giả trong mười lăm năm. Với nền
tảng lí luận triết học Marx – Lênin, logic biện chứng chặt chẽ, cuốn sách
trình bày một quan điểm giáo dục của ông mà gần nửa thế kỉ nay vẫn
vững chắc.
Giáo sư chia quá trình phát triển của con người thành hai giai đoạn:
• Giai đoạn đầu: lấy hoạt động lĩnh hội làm phương thức phát triển,
gọi là tuổi thơ.
• Giai đoạn sau: dùng những thành tựu đã có của tuổi thơ như phương
tiện, điều kiện để sáng tạo những cái mới cho loài người. Giai đoạn này
bắt đầu kể từ khi cá thể hoạt động như một người lao động sản xuất.
Hoạt động tâm lý của con người được xây dựng dưới hình thức giao
lưu bằng ngôn ngữ, dùng hệ thống tín hiệu và dấu hiệu làm vật trung
gian. Thông qua hoạt động, các chức năng hình thành và phát triển trong
quá trình sống. Nội dung tâm lý của hoạt động không phải chỉ ở trong
tâm lý của cá thể, bên trong cá nhân đó, mà ở ngay trên đối tượng – nội
dung của hoạt động tâm lý. Đồng thời, đối tượng ấy cũng quy định cả “kĩ
thuật” chiếm lĩnh nó.
Phương thức giáo dục thực chất là cách tổ chức quá trình hoạt động liên
tục của trẻ em. Trình độ tổ chức các hoạt động ấy là thước đo trình độ
điều khiển quá trình phát triển tâm lý của trẻ em. Giáo dục không có
nghĩa vụ sáng tạo ra cái gì mới với tư cách là cái đầu tiên có trong lịch sử.
Giáo dục chỉ là quá trình sáng tạo lại cái đã được lịch sử sáng tạo. Giáo
viên không phải tự mình làm lại sản phẩm, mà là tổ chức, tạo điều kiện
cho học sinh tự làm lại sản phẩm ấy.
Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục phổ thông là tạo cho học sinh năng lực
thực tiễn bằng cách thực hiện quy trình công nghệ theo kiểu nhà trường.
Giáo dục phổ thông buộc mỗi trẻ em phải có năng lực thực tiễn ít nhất,
đủ để sống một cách bình thường trong xã hội. Nền sư phạm mới là
không bao giờ đưa đến cho trẻ em sản phẩm làm sẵn.
Cả cuốn sách tập trung trình bày một “quy trình công nghệ” cơ bản, theo
quan điểm của Hồ Ngọc Đại được diễn đạt bằng công thức: A→ a, trong
đó, “A” là hệ thống các khoa học - những thành tựu vật chất và tinh thần
của nền văn minh loài người đã được tinh chế và vật thể hóa; “a” là năng
lực, đạo đức, nhân cách của học sinh, do học sinh tự tạo ra trong quá
trình thực hiện quy trình công nghệ. Nhà trường trở thành một phương
thức tổ chức cuộc sống thực, là phương thức phát triển của trẻ em theo
kiểu nhà trường.
38. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
38
Tủ sách Giáo dục
Chuyên mục Tủ sách Giáo dục hôm nay, xin trân trọng giới thiệu cuốn
sách “Tâm lý học dạy học” của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đến
những người làm giáo dục. Hi vọng, khi đọc xong, chúng ta sẽ hiểu được
một quan điểm giáo dục, một phương pháp sư phạm của một nhà khoa
học giáo dục, một nhà tổ chức hoạt động giáo dục thực tiễn, mà bằng
cách đó, trẻ em hiện đại được xem như một chủ thể hoạt động để tự sinh
ra mình, tự tạo ra sản phẩm giáo dục để trở thành một thành viên hoạt
động có hiệu quả của xã hội hiện đại.
40. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
40
Tư liệu
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC:
Từ góc nhìn nghiệp vụ sư phạm
Hồ Ngọc Đại
Toàn bộ sự nghiệp giáo dục chỉ vì một nhân vật – Học sinh. Học sinh đến
trường để học. Từ đó, nền giáo dục hiện đại thâu tóm vào 8 chữ:
Ai cũng được học, học gì được nấy.
Ai cũng được học, tất cả 100% trẻ em hiện đại, dù sinh sống ở bất cứ vùng
miền nào của Tổ quốc Việt Nam, đều được học, đó là nhiệm vụ xã hội –
chính trị bất khả kháng của Nhà nước hiện đại.
Học gì được nấy là yêu cầu không khoan nhượng đặt ra cho nghiệp vụ sư
phạm hiện đại.
Cơ sở triết học của nghiệp vụ sư phạm hiện đại là phạm trù cá nhân. Mỗi
cá nhân phát triển thành chính mình.
Cơ sở tâm lý học của nghiệp vụ sư phạm hiện đại là lý thuyết hoạt động,
phân hoá thành các hoạt động chủ đạo cho các lứa tuổi: 0-2; 3-5; 6-12;
13-17;…
Mỗi hoạt động chủ đạo tạo ra một cái mới đặc trưng cho lứa tuổi. Ng-
hiệp vụ sư phạm phải xác định được cái mới của lứa tuổi và phải tổ chức
được “bước nhảy” từ lứa tuổi này sang lứa tuổi tiếp theo (để không xảy
ra khủng hoảng tự phát).
Quan trọng bậc nhất trong đời người hiện đại và có tính quyết định có
một không hai là “bước nhảy sinh mệnh” từ nhà đến trường, lần đầu tiên
em đi học.
Trẻ em hiện đại đi học (VIỆC HỌC của Trẻ em hiện đại) là một sự kiện
chưa hề có trong lịch sử, vì Trẻ em hiện đại là nhân vật lần đầu tiên xuất
hiện trong lịch sử. Sự kiện này phải coi là điều kiện tiên quyết để tổ chức
VIỆC HỌC, cụ thể là Nghiệp vụ sư phạm hiện đại phải trả lời rành mạch,
dứt khoát hai câu hỏi cơ bản nhất:
Một. Cái mới của mỗi lứa tuổi là CÁI gì?
Hai. Bằng CÁCH nào để có?
Cả CÁI lẫn CÁCH này nhằm tạo ra sự phát triển tinh thần. Muôn đời
nay, Trẻ em phát triển theo Phạm trù người. Trẻ em hiện đại phát triển
theo Phạm trù cá nhân.
***
Hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi tiểu học hiện đại cấp năng lượng cho sự
41. LƯU HÀNH NỘI BỘ
41
phát triển nhận thức lý tính – tư duy khoa học bằng Cái mới là khái niệm
khoa học hiện đại. Khái niệm có các giá trị và vai trò khác nhau trong
mỗi lĩnh vực tinh thần.
Trong Khoa học, khái niệm là sản phẩm chính cống, chính thức, dứt
khoát, xong là xong, với giá trị đúng.
Trong Nghệ thuật, khái niệm chỉ là một bán thành phẩm với hy vọng sẽ
có sản phẩm chính cống. Sản phẩm này ở mỗi người một khác, nên chỉ
có giá trị gần đúng.
Trong Đạo đức, khái niệm cũng cần, cũng có ích… nhưng chớ cả tin, y dễ
là một kẻ lừa đảo, nói một đằng làm một nẻo (đạo đức giả).
Không nhận ra giá trị và vai trò của khái niệm trong các lĩnh vực tinh
thần, nên giáo dục nhà trường (kể từ khi Thầy Khổng Tử mở trường)
mắc sai lầm lớn nhất, lâu đời nhất là khái niệm hoá tất tật mọi chuyện,
đề cao quá đáng lý trí, cứ như y là sang trọng nhất, thậm chí là độc tôn
trong giáo dục nhà trường. Sai lầm “khái niệm hoá” này, mỉa mai thay,
tự nó nay lại mắc sai lầm lớn hơn là không có khái niệm đúng về Nhà
trường hiện đại.
Nhà trường hiện đại dành cho 100% dân cư đã trở nên bình thường như
một nhân tố hữu cơ của Cuộc sống thực. Ở trường, ở nhà, ở đâu em cũng
sống cuộc sống thực, với những đau khổ thực, với những hạnh phúc
thực, những hạnh phúc và đau khổ ngay tại chỗ, ngay bây giờ. Sống xứng
đáng cuộc sống thực ngày hôm nay là cách “chuẩn bị” tốt nhất cho ngày
mai. Quả sẽ có bắt đầu từ một cái xa vời vợi, một cái mầm vừa nảy, một
cái mầm lành mạnh, rồi một cái chồi khỏe khoắn, rồi những cái lá xanh
tươi, rồi nụ, rồi hoa… mỗi cái là một trình độ phát triển tự nhiên, có thực
và đầy trách nhiệm. Quá trình phát triển sẽ là tối ưu, nếu nó diễn ra tự
nhiên, theo lôgích nội tại của nó, không có bất cứ sự cưỡng bức nào từ
bên ngoài, “không nhổ nhớm cây cho nó chóng lớn” (Mạnh Tử).
Nói rằng Trẻ em hiện đại lần đầu tiên đến trường bắt đầu từ Hoạt động
chủ đạo trong lĩnh vực Khoa học/Lý trí là cốt để nhắc cho Nhà giáo hai
điều cơ bản nhất về mặt nghiệp vụ sư phạm.
Một. Những thành tựu – Cái đã có trong hai lĩnh vực tinh thần còn lại
(Tình cảm, Đạo đức…) đã có sẵn từ nhà, vốn được hình thành một cách
tự nhiên tự phát, coi như một may mắn, như thai nhi đậu lại. Phần còn có
thể có thì trông vào sự gần gũi nhiều nhất với ông bà cha mẹ, trông vào
giáo dục gia đình. Thời thơ ấu, 5/6 năm đầu đời, được ở nhà với Người
lớn (đặc biệt ở các gia đình có văn hoá) là phương án tốt nhất đối với Bé.
42. TẠP CHÍ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
42
Tư liệu
Vườn trẻ, Mẫu giáo, những “sáng tạo” của thời đại, vốn xuất phát từ lợi
ích của Người lớn hơn là vì lợi ích của Bé. May sao, giáo dục tiểu học còn
có cơ hội (cơ hội cuối cùng) để bảo tồn, củng cố vững chắc hơn, phát
huy lung linh hơn phẩm chất đã có về tình cảm, đạo đức, những nét đặc
trưng của gia đình, của quê hương, của dân tộc… thông qua các hoạt
động nghệ thuật, các hoạt động xã hội, thông qua tham quan, du lịch…
Trong thời đại đầy biến động, giáo dục tiểu học là cơ may cuối cùng để
giữ lấy cái gốc, bảo tồn bản sắc dân tộc, những tinh chất của Cuộc sống
ngàn năm mà lịch sử đã sáng tạo và truyền lại.
Hai. Cái mới đặc trưng cho tiểu học thuộc lĩnh vực Khoa học/Lý trí hình
thành từ quá trình nhận thức – tư duy. Một nền sản xuất vật chất (một
phương thức sản xuất hiểu theo nghĩa mác-xit) dùng công cụ và tư liệu
nào đặc trưng cho mình: công cụ thủ công hay máy móc thì cũng vậy,
đặc trưng cho một kiểu tư duy là khái niệm: khái niệm kinh nghiệm chủ
nghĩa hay khái niệm khoa học.
Bước vào lứa tuổi tiểu học, về mặt triết học, em phải xử lý cái đã có – khái
niệm kinh nghiệm chủ nghĩa bằng phép phủ định (biện chứng); còn về
mặt lịch sử, trong thực tiễn cuộc sống, em phải tự khẳng định mình bằng
cái mới, lần đầu tiên em tự làm ra cho chính mình. Căn cứ vào cả hai mặt
ấy (triết học và lịch sử), nền giáo dục hiện đại phải có một giải pháp tổng
thể về cái mới (CÁI) và nghiệp vụ làm ra nó (CÁCH).
Cả CÁI lẫn CÁCH ở bậc tiểu học là cơ hội đầu tiên cho em tiếp cận nền
văn minh hiện đại. Nói rõ ra, ở bậc tiểu học hiện đại CÁI và CÁCH phải
khác về nguyên lý so với bậc tiểu học cổ truyền, phải tương đồng với
những thành tựu hiện đại về triết học, khoa học, đặc biệt về tâm lý học sư
phạm và lứa tuổi. Xin lưu ý rằng CÁI này đã có sẵn trong nền văn minh
đương thời với tư cách là Đối tượng lĩnh hội dành cho em. Các Đối tượng
lĩnh hội (quen gọi là nội dung chương trình) vốn có sẵn, Thầy giáo hiện
đại chỉ làm việc chọn lựa và sắp xếp theo những nguyên tắc của nghiệp
vụ sư phạm hiện đại. Có ba nguyên tắc:
Một. Nguyên tắc phát triển. Môn học thiết kế theo lôgích nội tại của
Hệ thống khái niệm khoa học, tôn trọng sự phát triển tự nhiên của Đối
tượng, không có sự cưỡng bức từ ngoài. Sự phát triển này sẽ là tối ưu, nếu
quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ chung đến riêng, từ đơn giản
đến phức tạp…
Hai. Nguyên tắc chuẩn mực. Nói đến Hệ thống khái niệm tức là nói đến
một dòng lý thuyết. Có thể có nhiều lý thuyết về một Đối tượng, hãy
chọn lấy một làm chuẩn mực, để liên kết và liên thông với các dòng khác,
nhằm định hướng an toàn cho tiến trình phát triển trong mọi hoàn cảnh
43. LƯU HÀNH NỘI BỘ
43
sống thực của cá nhân.
Ba. Nguyên tắc tối thiểu. Chọn những CÁI không thể không có mà còn
có khả năng bỏ ngỏ đối với cả 100% học sinh, sao cho trên cơ sở cái tối
thiểu có khả năng bỏ ngỏ này, tạo cơ hội cho từng em một, ai có sức đến
đâu đi đến đấy, không ai cản trở ai, cũng không bị ai cản trở, mà hy vọng
sẽ có được cái tối đa cho mỗi cá nhân học sinh.
CÁCH là cách tổ chức quá trình biến Đối tượng thành Sản phẩm. Sản
phẩm này lấy giá trị của mình làm tăng thêm giá trị của cá nhân em (chứ
không làm tăng thêm giá trị cho xã hội), tức là tạo ra sự phát triển cá
nhân. Năng lượng cấp cho sự phát triển cá nhân là giá trị của sản phẩm
do em tự làm ra, do đó, quá trình phát triển hy vọng là tối ưu, nếu sản
phẩm là tất yếu: Làm gì được nấy, làm đâu được đấy.
Bước phát triển độc đáo có tính đột phá của Tư duy giáo dục thể hiện ở
chỗ Nghiệp vụ sư phạm hiện đại coi sản phẩm giáo dục như bất cứ sản
phẩm trần gian nào khác, đều do mỗi học sinh tự làm ra cho chính mình,
vì sự phát triển của chính mình.
Quá trình biến Đối tượng thành sản phẩm trong sản xuất vật chất gọi là
quá trình sản xuất, còn trong giáo dục gọi là VIỆC HỌC. Quá trình này
(VIỆC HỌC) thâu tóm vào mình các nhân tố của quá trình làm ra sản
phẩm.
Nếu gọi ước lệ:
* Đối tượng có sẵn trong Cuộc sống là A (CÁI)
* Quá trình làm biến hoá Đối tượng A (CÁCH) để làm ra
* Sản phẩm là a (CÁI)
thì Nghiệp vụ sư phạm hiện đại thâu tóm vào một công thức giản đơn:
A---- a
Mối quan hệ Thầy / Trò cũng thâu tóm vào công thức này. Ngay từ khi
mở trường dạy học, Thầy Khổng Tử đã dùng công thức trên:
A – CÁI ở trong đầu Thầy.
a – CÁI ở trong đầu Trò.
---- CÁCH - Quá trình Thầy giảng giải.
Diễn đạt bằng lời, Nghiệp vụ sư phạm của Thầy Khổng Tử là
Thầy giảng giải – Trò ghi nhớ
Hàng ngàn năm ngự trị độc tôn một công thức ấy, chỉ gần đây, từ nửa sau