SlideShare a Scribd company logo
Tài liêu tham khảo:
      Tai lieu.vn

      yume.vn

      thuvienmoitruong.vn/tag/o-nhiem-khong-khi

      www.moitruong.com.vn

      GS. PTS. LÂM MINH TRIẾT, THS. NGUYỄN ĐINH TUẤN

      VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ
      CHÍ MINH


PHẦN I : Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT

   I. Nguyên nhân:
     Các nhà khoa học môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm
nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động
hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm đất
không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng nông sản, mà
còn thông qua lương thực, rau quả... ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ con người
và động vật.
 Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ nông dược và phân hoá học, chúng
tích luỹ dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là các loại chất thải trong hoạt động
của con người (rắn, lỏng, khí). Thứ ba, đất cũng là một yếu tố của môi trường
cùng với không khí, nước và vành đai sinh vật, nên nó tiếp nhận những chất ô
nhiễm từ các yếu tố khác mọi nơi, mọi lúc. Ngoài ra, các vùng khai thác khoáng
sản kim loại thường tạo thành một khu vực khuếch tán, khiến cho hàm lượng
nguyên tố này trong vùng đất xung quanh cao hơn nhiều so với đất thông thường,
đây cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất.
        Ô nhiễm đất vì nước thải :
Nguyên nhân là không biết cách lợi dụng một cách khoa học các loại nước thải để
tưới cho cây trồng. Sử dụng hợp lý nguồn nước thải tưới đồng ruộng sẽ tận dụng
được lượng Nitơ, Photpho, Kaki... trong nước, có lợi cho cây trồng. Nhưng nếu
như nước ô nhiễm chưa qua xử lý cần thiết, tưới bừa bãi, thì có thể đưa các chất có
hại trong nguồn nước vào đất gây ô nhiễm.
        Việc lợi dụng nước thải để tưới ruộng gây ô nhiễm đất, ảnh hưởng tới
người và gia súc có ở mọi quốc gia. Sự kiện “Cadimi” xảy ra ở Nhật Bản năm
1955 là một ví dụ. Nông dân ở vùng núi Phú Sĩ một thời gian dài đã sử dụng nước
thải của một nhà máy luyện kẽm gần đó để tưới ruộng, Cadimi chứa trong nước
thải tích luỹ dần trong lúa gạo ở khu vực này. Hậu quả là những người nông dân bị
chứng đau nhức các khớp xương, 34 người chết, 280 người tàn phế. Theo một điều
tra nông thôn Nhật Bản, năm 1970, diện tích đất ô nhiễm do nước ở Nhật là
190.000 ha, làm thiệt hại 22 tỷ Yên.
        Trong những năm 70, nông dân Ấn Độ cũng sử dụng tràn lan các nước thải
thành thị chưa qua xử lý để tưới ruộng, khiến cho khả năng sản xuất của đất giảm,
gây hại tới sức khoẻ nông dân. Theo một báo cáo, tỷ lệ nhiễm các bệnh về đường
ruột ở người do nông phẩm ở những khu vực này cao hơn gấp 3 lần những nơi
khác.


        Nguồn chất thải rắn có rất nhiều, chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn
của ngành khai thác mỏ, rác ở đô thị, chất thải nông nghiệp và chất thải rắn phóng
xạ. Chủng loại của chúng rất nhiều, hàm lượng các nguyên tố độc trong chúng
cũng không giống nhau; tỷ lệ nguyên tố độc hại trong chất thải rắn công nghiệp
thường cao hơn; rác thành thị chứa các loại vi khuẩn gây bệnh và ký sinh trùng;
chất thải rắn nông nghiệp chứa các chất hữu cơ thối rữa và thuốc nông nghiệp còn
lưu lại...; chất thải phóng xạ có chứa các nguyên tố phóng xạ như Uranium,
Strontium, Caesium... những chất thải rắn này được vứt bừa bãi, ngấm nước mưa,
và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất, sông ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước
ô nhiễm này lại được dùng để tưới đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu
đất, ảnh hưởng tới hoạt động của vi sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của
bộ rễ thực vật và ảnh hưởng tới sản lượng cây trồng.
       Ô nhiễm đất do khí thải
       Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất
nitơ... kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Một số loại
khói bụi có hại ngưng tụ cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ví dụ, các vùng
đất gần các nhà máy sản xuất hoá chất Photpho, Flo, luyện kim dễ bị ô nhiễm vì
khói bụi, hàm lượng flo chứa trong khoáng chất photpho sử dụng ở các nhà máy
phân hoá học thường là 2 – 4%, nếu khí thải không được xử lý thích đáng, có thể
làm cho một vùng hàng ngàn km2 đất xung quanh bị ô nhiễm flo nặng. Ở gần các
xưởng luyện kim, vì trong khí thải có chứa lượng lớn các chất chì, cadimi, crom,
đồng... nên vùng đất xung quanh sẽ bị ô nhiễm bởi những chất này. Đất ở 2 bên
đường, thường có hàm lượng chì tương đối cao là sản phẩm của khí thải động cơ.
Ô nhiễm đất do nông dược và phân hoá học
       Đây là 2 loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp
sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng
không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều
phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ
phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở
thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng
lên về số lượng sử dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này
ngày càng nghiêm trọng. Vì số lượng lớn nông dược tích luỹ trong đất, đặc biệt là
các thuốc có chứa các nguyên tố như chì, asen, thuỷ ngân... có độc tính lớn, thời
gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu trong đất tới 10 đến 30
năm, những loại nông dược này có thể được cây trồng hấp thu, tích trong quả và lá
và đi vào cơ thể người và động vật qua thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Thuốc trừ sâu đồng thời với việc diệt các côn trùng gây hại, cũng gây độc
đối với các vi sinh vật và côn trùng có ích, các loại chim, cá... và ngược lại một số
loại sâu bệnh thì lại sinh ra tính kháng thuốc. Theo điều tra của tổ chức nông
lương thế giới: năm 1965, có 182 loài côn trùn gây hại có khả năng kháng thuốc,
năm 1968, tăng lên 228 loài và đến 1979 lên tới 364 loài. Trong số 25 loài sâu hại
nông nghiệp chủ yếu ở các nông trường California Mỹ thì có 17 loài đã có khả
năng kháng đối với một hoặc vài loại thuốc, mỗi năm, số sâu hại kháng thuốc này
làm thiệt hại mấy chục triệu đôla cho nông nghiệp vùng này.


  II. Hiện trạng:


1. Đất bị mặn hóa, chua phèn hóa và feralit hoá kết đá ong

Hiện trạng đất bị mặn hoá, chua phèn và feralit hoá kết đá ong ở Quảng Trị như
dưới đây.

i) Đất mặn nhiều (Mn): Loại đất này có diện tích 213 ha, chiếm 0,26% diện tích
đất bằng và chiếm 0,04% diện tích tự nhiên; phân bố tập trung gần khu vực Cửa
Tùng và hiện được sử dụngtrồng lúa 1 vụ, trồng rừng ngập mặn và nuôi trồng
thuỷ sản.

ii) Đất mặn trung bình (M):Đất này có diện tích 83 ha, chiếm 0,10% diện tích đất
bằng và chiếm 0,02% diện tích tự nhiên; phân bố tập trung chủ yếu ở xã Gio Mai,
huyện Gio Linh; được sử dụng trồng 1 - 2 vụ lúa cho năng suất cao, tuy nhiên để
sản xuất lâu bền trên loại đất này cần bón nhiều phân hữu cơ.

iii) Đất mặn ít: Loại đất này có diện tích 1.134 ha, chiếm 1,41% diện tích đất bằng
và chiếm 0,24% diện tích tự nhiên; phân bố ở huyện Triệu Phong, Gio Linh và
Vĩnh Linh; được sử dụng trồng lúa 2 vụ.
iv) Đất phèn - Sj (Sali Orthi Thionic Fluvisols - FLt-o-s): Loại đất phèn
hoạt động mặn trung bình và ít, phân bố ở 2 cửa sông Thạch Hãn - Cửa Việt và
Bến Hải - Cửa Tùng với diện tích 418 ha (trong đó huyện Gio Linh có 338 ha,
huyện Triệu Phong có 80 ha), chiếm 0,52% diện tích đất bằng và chiếm 0,09%
diện tích tự nhiên. Phần lớn diện tích này được sử dụng để trồng lúa, nhưng năng
suất thấp.

2. Ô nhiễm đất do sử dụng phân hóa học, phân tươi

       Các loại phân hóa học thuộc nhóm chua sinh lý (urea, (NH4)2SO4, K2SO4,
     KCl, super photphat) còn tồn dư acid đã làm chua đất, nghèo kiệt các ion bazơ
     và xuất hiện nhiều độc tố đối với cây trồng như : Al3+, Mn2+, Fe3+; làm giảm
     hoạt tính sinh học của đất. Bón nhiều phân đạm vào thời ký muôn cho rau quả,
     đã làm tăng đáng kể hàm lượng NO3- trong sản phẩm.
       Tập quán sử dụng phân Bắc, phân chuồng tươi trong canh tác nông nghiệp
     còn phổ biến. Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội, hàng năm lượng phân Bắc




3.   Ô nhiễm đất do HCBVTV

        Hiện nay, ở Quảng Trị còn một lượng đáng kể HCBVTV tồn lưu (chủ yếu
là các HCBVTV quá hạn, cấm sử dụng như DDT, 666, 2,4-D...) trong giai đoạn
trước (thời kỳ bao cấp) tại một số địa điểm trước đây là kho chứa thuốc của các
hợp tác xã, nông trường như: Nông trường Quyết Thắng tồn lưu khoảng 1 - 1,5
tấn; Nông trường Tân Lâm (huyện Cam Lộ) khoảng 1,5 - 2 tấn; Nông trường Bến
Hải khoảng 2 tấn…. Trong giai đoạn 2002 – 2009, địa phương đã có giải pháp thu
gom và vận chuyển đem đi xử lý hoặc chôn lấp tại chỗ, nhưng nói chung, do quy
trình thu gom và xử lý chưa tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định, nên một phần
đáng kể HCBVTV nhóm clo vẫn tồn dư trong môi trường đất và có thể bị rửa trôi
vào các lưu vực lân cận và do vậy, gây lo lắng về môi trường và sức khoẻ [6, 29,
9]. Hiện nay, Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn đang nghiên cứu để tiếp tục giải
   quyết các điểm tồn trữ HCBVTV quá hạn, cấm sử dụng trên địa bàn tỉnh.




   Bảng 6. 2. Khối lượng và chủng loại HCBVTV sử dụng trên địa bàn Quảng
   Trị[6]



               Tổng số                              Chủng loại

  Năm                                                                       Trừ chuột
                 (kg)        Trừ sâu (kg)   Trừ bệnh (kg)    Trừ cỏ (kg)
                                                                               (kg)

2000            18.428          3.957           2.077            12.196        198

2001            20.250          2.540           3.400            14.054        256

2002            12.457          1.337           2.986            7.891         248

2003            16.770          1.879           3.563            19.226        103

6-2004          7.481            405            1.107            5.959          10

   4. Ô nhiễm đất do nuôi trồng thuỷ sản

            Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm ở tỉnh Quảng Trị đã
   phát triển khá mạnh trong nhiều năm qua. Việc mở rộng diện tích vùng ven bờ để
   phát triển nuôi tôm nước lợ/mặn đã làm gia tăng sự nhiễm mặn đất nông nghiệp
   lân cận. Sự nhiễm mặn tăng sẽ dẫn đến hậu quả làm tăng dần độ chua của đất (do
   làm tăng hàm lượng sắt và nhôm di động trong đất) hay nói cách khác, sẽ làm
   giảm chất lượng đất. Ngoài ra, hoạt động khai thác nước ngầm phục vụ nuôi tôm
   trên cát với quy mô lớn cũng sẽ làm tăng sự xâm nhập mặn vào các nguồn nước
ngầm vùng ven bờ, dẫn đến làm giảm chất lượng nước ngầm. Các chất thải rắn
phát sinh do quá trình nạo vét các ao nuôi trồng thuỷ sản nói chung và nuôi tôm
nước lợ/mặn nói riêng cũng gây ô nhiễm đất vùng lân cận (nếu không được thu
gom và xử lý theo quy định).




Bảng 6.5.Kết quả phân tích một số mẫu đất nông nghiệp ở Quảng Trị(4/2006)(*)
[6]



    Chỉ    Đơn                                Mẫu (**)
    tiêu    vị   Đ01 Đ02 Đ03 Đ04 Đ05           Đ06       Đ07    Đ08     Đ09    Đ10

Tổng
            %    0,08 0,12 0,14 0,15 0,22      0,25      0,08   0,34    0,14   0,32
N

Tổng
            %    0,15 0,19 0,21 0,22 0,12      0,18      0,12   0,17    0,11   0,25
P

Tổng
            %    1,49 0,93 2,05 1,87 1,31      1,05      1,24   1,98    1,32   0,23
K

Mùn         %    1,28 1,24 2,66 1,91 2,95      3,26      1,38   3,52    1,50   2,65

Fe          %    3,131 3,811 3,947 4,492 1,633 2,34      3,92   1,65    3,42   1,78

Cu          %    0,325 0,235 0,215 0,32 0,295 0,314      0,28   0,205   0,11   0,25

Mn          %    0,11 0,048 0,094 0,057 0,058 0,14       0,26   0,086   0,43   0,14

Pb         mg/kg 12     10   <10 <10 <10        11       <10    < 10    <10    <10

Cd         mg/kg 0,53 <0,5 <0,5     5    7     <0,5      <0,5   <0,5    <0,5   <0,5

As         mg/kg <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5           <0,5   <0,5    <0,5   <0,5

Zn         mg/kg 225 150     87   284    95     12       42      17     60     12
Ni     mg/kg 26        18   38    202   15    23       24   8      35      25

     Nguồn: Báo cáo “Quy hoạch BVMT tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006-2010,
                                 tầmnhìn 2020”, 2006




Ghi chú:

(*) Các kết quả trong bảng được tính theo khối lượng khô; QCVN
03:2008/BTNMT quy định mức tối đa cho phép của các kim loại nặng trong đất
nông nghiệp (tính theo khối lượng khô) như sau: As 12 mg/kg; Cd 2 mg/kg; Cu
50 mg/kg; Pb 70 mg/kg; Zn 200 mg/kg.

(**) Đ01: mẫu đất ruộng lúa ở xã Hải Sơn; Đ02: mẫu đất đồi trồng sắn ở xã Hải
Lâm; Đ03: mẫu đất ruộng lúa cạnh đầm nuôi tôm phía bắc cầu Hải Lăng (huyện
Hải Lăng);huyện Hải Lăng; Đ04: mẫu đất đồi ở xã Tân Liên (huyện Hương
Hoá);Đ05: mẫu đất ruộng lúa ở Thị trấn Ái Tử; Đ06: mẫu đất ruộng lúa ở xã Triệu
An (huyện Triệu Phong); Đ07: mẫu đất đồi trồng sắn ở cạnh nhà máy sản xuất
giấy; Đ08: mẫu đất ruộng lúa ở xã Vĩnh Thành (huyện Vĩnh Linh).

5. Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học:

       Sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nông nghiệp nên
hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80%
lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại
phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lý như K2SO4, KCl, super photphat còn tồn dư
axit, đã làm chua đất, nghèo kệt các cation kiềm và xuất hiện nhiều độc tố trong
môi trường đất như ion Al3+, Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính sinh học của đất và
năng suất cây trồng.
6 . Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật:

        Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối với mọi sinh vật; tồn dư lâu
dài trong môi trường đất- nước; tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây
chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất. Theo các kết quả
nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở
Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg ai/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát
hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.

7. Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt đọng công nghiệp:

     kết quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần
các khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công
nghiệp Phước Long hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5
đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần.

    III. Biện pháp khắc phục:

Các biện pháp hạn chế ô nhiễm đất Phát triển nền nông nghiệp bền vững cũng là
một chiến lược bảo vệ môi trường đất, đặc biệt ở miền núi. Đặc trưng cơ bản của
hệ thống nông nghiệp bền vững là hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:

       Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông
     nghiệp tương xứng, đáp ứng được nhu cầu sống của lượng dân số mà hệ thống
     đó hướng tới
       Tăng năng suất nông nghiệp thông qua việc tăng cường sử dụng các kiểu
     gen có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và thích ứng các điều kiện khó
     khăn, duy trì độ phì của đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng luân canh cây
     trồng, sử dụng hệ thống cây hàng năm, cây lâu năm, nghề cá, chăn nuôi tổng
     hợp
      Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người và các sinh vật khác
    như chống ô nhiễm nguồn nước, giảm và loại bỏ sử dụng chất độc để trừ sâu
    bệnh, giảm sử dụng phân khoáng
      Tăng cường các hoạt động phi nông nghiệp khác, tạo thêm công ăn việc
    làm, phát triển cơ sở hạ tầng … nhằm nâng cao dần đời sống người dân
      Đối với Việt Nam phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vững cần chú ý:

- Áp dụng các biện pháp canh tác chống xói mòn.

- Đa dạng hóa cây trồng dưới hình thức: trồng xencanh, gối vụ, luân canh.

- Áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp, lâm ngư kết hợp với các mô hình đa dạng,
phong phú.

- Kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, tăng cường phát triển và mở rộng các mô hình
kinh tế vườn rừng trại rừng.

- Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp”sạch” đảm bảo đa dạng hóa cây
trồng, tạo năng suất bền vững, ổn định, giảm sử dụng phân khoáng.
PHẦN II : Ô NHIỄM NƯỚC


     I.       Nguyên nhân:


              •   Ô nhiễm nhân tạo:


          1. Ô nhiễm nước sinh học do các nguồn thải đô thị hay kỹ nghệ có các
           chất thải sinh hoạt, phân, nước rữa của các nhà máy đường, giấy...

     Sự ô nhiễm sinh học thể hiện bằng sự nhiễm bẩn do vi khuẩn rất nặng, đặt
thành vấn đề lớn cho vệ sinh công cộng chủ yếu các nước đang phát triển. Các
bệnh cầu trùng, viêm gan do siêu vi khuẩn tăng lên liên tục ở nhiều quốc gia chưa
kể đến các trận dịch tả. Các sự nhiễm bệnh được tăng cường do ô nhiễm sinh học
nguồn nước. Thí dụ thương hàn, viêm ruột siêu khuẩn. Các nước thải từ lò sát sinh
chứa một lượng lớn mầm bệnh. Thí dụ lò sát sinh La Villette, Paris thải ra 350
triệu mầm hiếu khí và 20 triệu mầm yếm khí trong 1cm 3 nước thải, trong đó có
nhiều loài gây bệnh( Plancho in Furon,1962).

     Các nhà máy giấy thải ra nước có chứa nhiều glucid dễ dậy men. Một nhà
máy trung bình làm nhiễm bẩn nước tương đươngvới một thành phố 500.000 dân.

     Các nhà máy chế biến thực phẩm, sản xuất đồ hộp, thuộc da, lò mổ, đều có
nước thải chứa protein. Khi được thải ra dòng chảy, protein nhanh chóng bị phân
hủy cho ra acid amin, acid béo, acid thơm, H2S, nhiều chất chứa S và P, có tính
độc và mùi khó chịu

                         2. Ô nhiễm hoá học do chất vô cơ
Do thải vào nước các chất nitrat, phosphat dùng trong nông nghiệp và các
chất thải do luyện kim và các công nghệ khác như Zn, Cr, Ni, Cd, Mn, Cu, Hg là
những chất độc cho thủy sinh vật.

       Sự ô nhiễm do các chất khoáng là do sự thải vào nước các chất như nitrat,
phosphat và các chất khác dùng trong nông nghiệp và các chất thải từ các ngành
công nghiệp.

       Nhiễm độc chì (Saturnisne) : Ðó là chì được sử dụng làm chất phụ gia trong
xăng và các chất kim loại khác như đồng, kẽm, chrom, nickel, cadnium rất độc đối
với sinh vật thủy sinh.

       Thủy ngân dưới dạng hợp chất rất độc đối với sinh vật và người. Tai nạn ở
vịnh Minamata ở Nhật Bản là một thí dụ đáng buồn, đã gây tử vong cho hàng trăm
người và gây nhiễm độc nặng hàng ngàn người khác. Nguyên nhân ở đây là người
dân ăn cá và các động vật biển khác đã bị nhiễm thuỷ ngân do nhà máy ở đó thải
ra.

       Sự ô nhiễm nước do nitrat và phosphat từ phân bón hóa học cũng đáng lo
ngại. Khi phân bón được sử dụng một cách hợp lý thì làm tăng năng suất cây trồng
và chất lượng của sản phẩm cũng được cải thiện rõ rệt. Nhưng các cây trồng chỉ sử
dụng được khoảng 30 - 40% lượng phân bón, lượng dư thừa sẽ vào các dòng nước
mặt hoặc nước ngầm, sẽ gây hiện tượng phì nhiêu hoá sông hồ, gây yếm khí ở các
lớp nước ở dưới.

  3. Sự ô nhiễm bởi các hydrocarbon là do các hiện tượng khai thác mỏ dầu,
             vận chuyển ở biển và các chất thải bị nhiễm xăng dầu.

       Ước tính khoảng 1 tỷ tấn dầu được chở bằng đường biển mỗi năm. Một
phần của khối lượng này, khoảng 0,1 - 0,3% được ném ra biển một cách tương đối
hợp pháp: đó là sự rửa các tàu dầu bằng nước biển. Các tai nạn đắm tàu chở dầu là
tương đối thường xuyên. Ðã có 129 tai nạn tàu dầu từ 1973 - 1975, làm ô nhiễm
biển bởi 340.000 tấn dầu (Ramade, 1989).

       Ước tính có khoảng 3.6 triệu tấn dầu thô thải ra biển hàng năm
(Baker,1983). Một tấn dầu loang rộng 12 km2 trên mặt biển, do đó biển luôn luôn
có một lớp mỏng dầu trên mặt (Furon,1962).

       Các vực nước ở đất liền cũng bị nhiễm bẩn bởi hydrocarbon. Sự thải của
các nhà máy lọc dầu, hay sự thải dầu nhớt xe tàu, hoặc là do vô ý làm rơi vãi xăng
dầu. Tốc độ thấm của xăng dầu lớn gấp 7 lần của nước, sẽ làm các lớp nước ngầm
bị nhiễm. Khoảng 1,6 triệu tấn hydrocarbon do các con sông của các quốc gia kỹ
nghệ hóa thải ra vùng bờ biển.




                     a. Chất tẩy rữa: bột giặt tổng hợp và xà bông

       Bột giặt tổng hợp phổ biến từ năm 1950. Chúng là các chất hữu cơ có cực
(polar) và không có cực (non-polar). Có 3 loại bột giặt: anionic, cationic và non-
ionic. Bột giặt anionic được sử dụng nhiều nhất, nó có chứa TBS (tetrazopylène
benzen sulfonate), không bị phân hủy sinh học.

       Xà bông là tên gọi chung của muối kim loại với acid béo. Ngoài các xà
bông Natri và Kali tan được trong nước, thường dùng trong sinh hoạt, còn các xà
bông không tan thì chứa calci, sắt, nhôm...sử dụng trong kỹ thuật (các chất bôi
trơn, sơn, verni).

                              b. Nông dược (Pesticides)

       Các nông dược hiện đại đa số là các chất hữu cơ tổng hợp. Thuật ngữ
pesticides là do từ tiếng Anh pest là loài gây hại, nên pesticides còn gọi là chất diệt
dịch hay chất diệt hoạ.
Người ta phân biệt:

- Thuốc sát trùng (insecticides).

- Thuốc diệt nấm (fongicides).

- Thuốc diệt cỏ (herbicides).

- Thuốc diệt chuột (diệt gậm nhấm = rodenticides).

- Thuốc diệt tuyến trùng (nematocides).

       Chúng tạo thành một nguồn ô nhiễm quan trọng cho các vực nước. Nguyên
nhân gây ô nhiễm là do các nhà máy thải các chất cặn bã ra sông hoặc sử dụng các
nông dược trong nông nghiệp, làm ô nhiễm nước mặt, nước ngầm và các vùng cửa
sông, bồ biển.

       Nước dùng của dân thành phố Arles (miền nam nước Pháp) có mùi khó
chịu không sử dụng được, vào năm 1948. Nguyên nhân là do một nhà máy sản
xuất thuốc diệt cỏ 2,4-D cách đó hàng trăm km thải chất cặn bã kỹ nghệ ra sông
làm ô nhiễm nguồn nước.

       Ô nhiễm của vùng bờ biển Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, ở vịnh
Californie, bởi hãng Montrose Chemicals do sự sản xuất nông dược. Hãng này sản
xuất từ đầu năm 1970, 2/3 số lượng DDT toàn cầu làm ô nhiễm một diện tích
10.000 km2 (Mc Gregor, 1976), làm cho một số cá không thể ăn được tuy đã
nhiều năm trôi qua.

       Sử dụng nông dược mang lại nhiều hiệu quả trong nông nghiệp, nhưng hậu
quả cho môi trường và sinh vật cũng rất đáng kể.
4. Ô nhiễm vật lý

      Các chất rắn không tan khi được thải vào nước làm tăng lượng chất lơ lững,
tức làm tăng độ đục của nước. Các chất này có thể là gốc vô cơ hay hữu cơ, có thể
được vi khuẩn ăn. Sự phát triển của vi khuẩn và các vi sinh vật khác lại càng làm
tăng độ đục của nước và làm giảm độ xuyên thấu của ánh sáng.

Nhiều chất thải công nghiệp có chứa các chất có màu, hầu hết là màu hữu cơ, làm
giảm giá trị sử dụng của nước về mặt y tế cũng như thẩm mỹ.

Ngoài ra các chất thải công nghiệp còn chứa nhiều hợp chất hoá học như muối sắt,
mangan, clor tự do, hydro sulfur, phènol... làm cho nước có vị không bình thường.
Các chất amoniac, sulfur, cyanur, dầu làm nước có mùi lạ. Thanh tảo làm nước có
mùi bùn, một số sinh vật đơn bào làm nước có mùi tanh của cá.

   • Ô nhiễm tự nhiên:

   Là do mưa,tuyết tan, lũ lụt,gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt động sống
của sinh vật, kể cả xác chết của chúng.
      Cây cối, sinh vật chết đi , chúng bị vi sinh vật phân hủy thành chất hữu cơ.
Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gây ô nhiễm. hoặc
theo dòng nước ngầm hòa vào dòng lớn.
      Lụt lội có thể làm nước mất sự trong sạch, khuấy động những chất dơ trong
hệ thống cống rãnh, mang theo nhiều chất thải độc hại từ nơi đổ rác, và cuốn theo
các loại hoá chất trước đây đã được cất giữ.
      Nước lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghiệp, kỹ nghệ
hoặc do các tác nhân độc hại ở các khu phế thải. Công nhân thu dọn lân cận các
công trường kỹ nghệ bị lụt có thể bị tác hại bởi nước ô nhiễm hoá chất.
Ô nhiễm nước do các yếu tố tự nhiên (núi lửa, xói mòn, bão, lụt,...) có thể
rất nghiêm trọng, nhưng không thường xuyên, và không phải là nguyên nhân
chính gây suy thoái chất lượng nước toàn cầu.
     II.     Hiện trạng:

     Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô
nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại.
     Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp
lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường
nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước
thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công
nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý
chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công
nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH
trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học
(COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao
gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
     Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84
lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã
gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập
trung là rất lớn.
     Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước bị
nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000
m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên,
nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện
kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái
Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH
từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có
màu nâu, mùi khó chịu…
     Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở
Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô
nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực.
     Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ
thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương).
     Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các
bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải
rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây
ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành
phố lớn là rất nặng. Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên
tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý
nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý
nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang
xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà
tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy
định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000
tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở
sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.
     Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không
được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu
chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan
(DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.
     Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp,
hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ
tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử
lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về
mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-
3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-
12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
     Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các
nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường
nước và sức khoẻ nhân dân.
     Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi
trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ
ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động
tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách
các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao,
hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển
một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu
xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
     Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm
môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề
môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo
vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và
cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy
đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực
tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát
triển bền vững của đất nước.
     Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn
như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và
bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành
và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo
lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng
góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt
tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.
     Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước
ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam
mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung
và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước
còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có
khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước
ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)...




     III.   Biện pháp khắc phục:


            • Các biện pháp trong nuôi trồng thuỷ sản nhằm giảm ô nhiễm
               nguồn nước:

- Quy hoạch hệ thống cấp nước và tiêu nước cho các vùng nuôi tôm nên được tách
riêng ra khỏi những khu canh tác lúa, đặc biệt là hệ thống lấy nước cấp cho các
khu nuôi.

- Cần tiến hành xử lý nguồn nước thải từ các ao nuôi trước khi thải ra môi trường.

- Có thể ứng dụng các kỹ thuật xử lý nước thải sau nuôi tôm bằng biện pháp xử lý
sinh học như dùng các loài nhiễm thể hai mảnh vỏ lọ bỏ các chất hữu cơ trong
nước thải tại các ao chứa nước thải và có thể tái sử dụng nguồn nước này cấp lại
cho các ao nuôi (đã áp dụng thành công tại Cà Mau, đề tài khoa học cấp Tỉnh do
Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam thực hiện).
- Lượng bùn sên vét đáy cào ao nuôi cần được xử lý làm phân bón vi sinh học
được chôn lấp, không được để tràn tự nhiên ra môi trường.

   • Các biện pháp thuỷ lợi nhằm giảm ô nhiễm nguồn nước.

Thiết kế hệ thống cấp nước, tiêu nước cho các khu nuôi thuỷ sản đáp ứng đủ yêu
cầu cấp nước và kênh tiêu phải tách rời khỏi kênh lấy nước.

Thiết kế, xây dựng hệ thống cống lấy nước và lọc phù sa đáp ứng tiêu chuẩn nuôi
trồng để tôm có thể phát triển tốt trong môi trường nước được cấp.

Hệ thống kênh dẫn, kênh tiêu đào đắp đi qua vùng đất phèn cần lựa chọn các giải
pháp hợp lý để hạn chế quá trình oxy hoá các vật liệu sinh phèn gây chua cho các
vùng xung quanh và nguồn nước phía hạ lưu.

Xây dựng chế độ tưới, tiêu hợp lý cho các vùng quy hoạch sản xuất lúa, vùng nuôi
thuỷ sản, xây dựng quy trình đóng mở cống ngăn mặn hợp lý đáp ứng yêu cầu:
Lấy nước mặn, ngăn mặn, xả phèn và trữ ngọt.

Quản lý nước trong hệ thống kênh mương nội đồng cần phải được tính toán theo
chế độ rửa, chế độ tưới cho các loại cây trồng, cho từng loại đất và hướng dẫn
người dân cách thức vận hành quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao về hệ số sử
dụng nước và giảm mức độ gây ô nhiễm môi trường hoặc gây lãng phí nguồn
nước.

Xây dựng các tổ dùng nước nhằm sử dụng hợp ý, có hiệu quả nguồn nước tưới tạo
điều kiện tốt cho việc quản lý tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm và các hộ
gia đình học hỏi lẫn nhau về kỹ thuật canh tác, nuôi trồng cũng như kỹ thuật sử
dụng nguồn nước cho thuỷ sản.
Lập các chương trình dự báo về diễn biến môi trường nước trong các vùng bố trí
quy hoạch nuôi thuỷ sản, trồng lúa theo các phương án thiết kế hệ thống công trình
thuỷ lợi.

   • Các biện pháp trong nông nghiệp:

- Quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho từng tiểu vùng cần phải xét đến tính phù
hợp về điều kiện thổ nhưỡng, tập quán canh tác, nguồn nước cấp, mức tăng trưởng
dân số trong những năm tới.

- Các vùng đất trũng, phèn nặng cần xây dựng các hồ sinh thái phát triển tổng hợp:
Phát triển thuỷ sản, lấy nước tưới vào thời kỳ hạn và sử dụng nước sinh hoạt.

- Thiết kế, quy hoạch của các ngành như nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, thuỷ
sản, xây dựng nên được xét đồng bộ nhằm xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh, lâu
dài, không chồng chéo để không xảy ra hiện tượng lãng phí và ảnh hưởng tới môi
trường.

- Canh tác trên vùng đất phèn phải thực hiện theo các hướng dẫn kỹ thuật nhằm
hạn chế sự xì phèn, tiêu thoát các độc tố từ trong đất ra nguồn nước mặt do quá
trình thau rửa phèn.

- Khuyến cáo nông dân sử dụng phân bón vi sinh, sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc
diệt cỏ có thời gian phân giải ngắn.

   • Biện pháp quản lý và giáo dục cộng đồng:

- Cần có sự hợp tác toàn diện giữa Ban quản lý các dự án với các ban ngành có
liên quan của địa phương bàn về vấn đề tổ chức thực hiện, về tiến độ thi công, về
biện pháp thi công và về giám sát thi công công trình.
- Giám sát việc thực thi các hạng mục công trình theo nội dung thiết kế, khi có các
vấn đề ô nhiễm môi trường xảy ra cần đề xuất ngay các giải pháp cụ thể mang tính
khả thi để khắc phục mà không phải chờ đợi kéo dài thời gian tăng thêm mức độ
nghiêm trọng.

- Thông báo cho người dân trong vùng dự án về những kế hoạch, tiến độ xây dựng
các công trình và lợi ích của các công trình này đối với đời sống dân sinh kinh tế.

- Tuyên truyền vận động quần chúng hưởng ứng các chương trình chống ô nhiễm
môi trường nước: Không thải các chất thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi và chất
thải rắn xuống các kênh rạch.

- Di rời các nhà ở phía lòng kênh vào phía trong để tránh hiện tượng xả thải xuống
lòng kênh và tai nạn giao thông thuỷ.

- Xây dựng các khu tái định cư cần phải bố trí hệ thống thu gom xử lý nước thải,
rác thải, xây dựng hệ thống nước cấp sinh hoạt.

- Cần xây dựng kế hoạch thu thập, phân tích định kỳ về chất lượng nước trong
vùng. Phân tích diễn biến về thành phần các loài sinh vật nước.

e. Giải pháp xây dựng hồ sinh thái cấp nước ngọt mùa khô phục vụ sản xuất nông
nghiệp.

- Hồ sinh thái (HST) nước ngọt là một khái niệm không mới ở các nước tiên tiến,
nhưng rất mới ở nước ta, tiêu chí cơ bản của HST là hồ chứa nước sạch, không bị
ô nhiễm, bền vững trong môi trường tự nhiên, có cây xanh, thảm cỏ ven bờ hồ, có
nguồn cấp, có công trình xử lý nước vào và cấp nước.

- Hồ sinh thái là dạng hồ phục vụ đa mục tiêu: Từ cấp nước ăn, nước tưới đến
nước cho công nghiệp, du lịch, tầng nước ngầm, cải tạo khí hậu, bảo vệ môi
trường và tô điểm cho cảnh quan của vùng. HST cũng là nơi bảo tồn các hệ động
thực vật hoang dã. HST không có quy mô nhất định, có thể cho một gia đình,
nhóm gia đình (từ 500 đến vài ba ngàn m 2), có thể cho một thôn (vài ha) và có thể
lên đến hàng trăm, hàng ngàn ha tuỳ điều kiện đất đai và nhu cầu phát triển. Tuy
nhiên, Bạc Liêu là tỉnh có diện tích đất đai đã được khai phá hết cho phát triển
nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản thì việc xây dựng các hồ sinh thái lớn từ vài
chục ha trở lên là khó khăn. Do vậy, việc tập trung phát triển loại HST liên hộ gia
đình với quy mô từ 500 đến 5000 m 2, cải tạo, xây dựng các công trình xử lý nước
vào, ra, trồng cây quanh hồ, chống thấm, chống nhiễm phèn, mặn bằng vải địa kỹ
thuật, bằn lớp lọc nhân tạo, chống bốc hơi kết hợp nuôi trồng thuỷ sản là loại hình
có thể được ứng dụng tốt ở địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Đối với một số kênh rạch không
có nhiệm vụ giao thông thuỷ có thể được cải tạo sử dụng để trữ nước ngọt vào
cuối mùa mưa, và được giữ sạch phục vụ cung cấp nước ngọt cho mùa khô, trồng
cây xanh và cỏ ở hai bên bờ kênh. Cần có giải pháp chống thấm vì đây là công
việc phức tạp khi bờ kênh dài hàng ngàn mét và nước trong kênh được tích đầy
vào cuối mùa mưa. Hiện nay giải pháp đơn giản nhất vẫn là sử dụng vải chống
thấm để chống thấm qua lớp bờ hai bên kênh, có thể lựa chọn một số kênh cấp 2
để nâng cấp (đào sâu, mở rộng) cải tạo nâng cao bờ kênh, làm cống hai đầu kênh
để trữ nước, cấp nước ngọt vào mùa khô phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất.
PHẦN III: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
                             KHÔNG KHÍ

    I. Nguyên nhân:


Ô nhiễm không khí do bụi.




Bụi mù mịt ở đường Láng - Hòa Lạc, nơi các xe chở vật liệu xây dựng qua lại rất
nhiều.(Ảnh Thu Huyền)
        Hà Nội đang là đại công trường lớn, các hoạt động xây dựng, cải tạo, đô thị
hóa diễn ra mạnh mẽ. Kéo theo đó là lượng phương tiện chuyển chở vật liệu xây
dựng, đất đá, cát, xi măng ngày càng gia tăng. Thời gian thi công mỗi dự án, công
trình thường kéo dài, hơn nữa ý thức của nhà đầu tư trong việc giữ gìn bảo vệ môi
trường chưa cao...
        Trên các tuyến phố như Phạm Hùng, Láng-Hòa Lạc, Nguyễn Trãi... các
phương tiện vận chuyển chất thải, phế thải, vật liệu xây dựng không hề được che
chắn đúng quy định, các xe chở cát, sỏi phế liệu không được rửa sạch nước khi rời
khỏi bãi tập kết làm rơi rớt ra đường. Đây chính là nguồn bụi chủ yếu gây tình
trạng ô nhiễm không khí như hiện nay.
      Theo kết quả quan trắc 6 tháng đầu năm 2009 hàm lượng bụi lơ lửng trong
không khí tại một số điểm trên địa bàn Hà Nội đáng giật mình. Có nơi hàm lượng
bụi lơ lửng trong không khí vượt quá 11 lần tiêu chuẩn cho phép(TCVN 5937 –
2005) như đường Nguyễn Trãi, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh. Và phần lớn các
địa điểm khác vượt quá 5 lần tiêu chuẩn cho phép.
      Bụi trở thành nỗi lo thường trực của người dân Hà Nội mỗi khi ra đường.
Lượng bụi ngày càng gia tăng trong không khí là nguyên nhân của các bệnh đường
hô hấp và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.


Ô nhiễm không khí do khí thải




Khói xe là một trong những nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường không
khí


      Những năm gần đây, số lượng phương tiện giao thông cơ giới ở Hà Nội
tăng lên chóng mặt. Trung bình lượng tăng ô tô hàng năm là 10%, xe máy xấp xỉ
15%. Sự gia tăng về số lượng các phương tiện tham gia giao thông là nguyên nhân
làm gia tăng lượng khí thải vào không khí, gây ra tình trạng ô nhiễm khí thải giao
thông càng trở nên trầm trọng.
        Theo kết quả quan trắc năm 2008 lượng khí CO2, SO2, C6H6, CO và các
khí thải độc hại khác vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép và ngày càng gia tăng, có
tác động tiêu cực tới con người và môi trường.
        Hiện nay với gần 90% lượng xe ở thành phố là xe máy, lại chủ yếu là xe
phân khối nhỏ có kết cấu động cơ đơn giản, sử dụng nhiên liệu xăng. Hầu hết là
loại xe đã lưu hành trên 5 năm và thiếu các hệ thống kiểm soát khí thải. Vừa qua
việc kiểm soát tiêu chuẩn khí thải được thực hiện đối với xe máy vì là loại động
cơ thải ra rất nhiều bụi, khí CO và Hydrocacbon.


Ô nhiễm không khí do tiếng ồn
        Tại các giờ cao điểm hoặc công trường xây dựng người dân bị quá tải bởi
lượng tiếng ồn khó chịu, liên tục trong thời gian dài gây ra. Ô nhiễm tiếng ồn cũng
đang dần trở thành nguyên nhân đẩy tình trạng ô nhiễm môi trường không khí trở
nên trầm trọng.
   II. Hiện trạng:



Biểu đồ 1). Đây là áp lực rất lớn đối với môi trường không khí đô thị.
Biểu đồ 1. Số lượng ô tô và xe máy hoạt động hàng năm của Việt Nam


                        Nguồn: Cục Đăng kiểm Việt Nam và Vụ KHCN&MT, Bộ GTVT, 2009




Biểu đồ 6. Tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm do các phương tiện giao thông cơ giới đường
                                  bộ của Việt Nam

1.Biện pháp quản lý: cần có một cơ quan đủ mạnh để đảm trách công tác khống
chế ô nhiễm do hoạt động giao thông vận tải.Với cơ cấu hiện tại trách nhiệm này
được chia sẻ cho nhiều đơn vị nên kết quả không cao.
2. Biện pháp quy hoạch, đầu tư xây dựng: Nhất là đối với mạng lưới đường sá.
3. Hiện nay công tác này chưa tốt dẫn đến hệ quả là mức độ tăng trưởngcủa mạng
lưới đường sá chậm hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng đô thị hoá, tăng trưởng
dân số và tăng trưởng phương tiện vận tải.
4. Hạn chế sự gia tăng phương tiện vận chuyển một cách tự phát: tăng cường và
cải thiện các phương tiện vận tải công cộng như xe buýt, tiến tới xây dựng các
phương tiện vận tải công cộng hiện đại hơn như tàu điện ngầm, tàu điện trên
cao...
5. Sử dụng nhiên liệu sạch: Trước tiên là đưa vào việc sử dụng xăng không chì và
có lộ trình để loại bỏ dần việc dùng xăng có chì. Tiếp cận với việc sử dụng các
loại nhiên liệu sạch khác như điện, ga, Hydro, năng lượng mặt trời...
6. Cải thiện kỹ thuật xe máy nhằm giảm bớt sự phát thải khí ô nhiễm từ xe cộ và
sử dụng các biện pháp đơn giản để giảm sự bay hơi nhiên liệu.
7. Tăng cường kiểm soát sự phát thải như kiểm tra sự thải khói, kiểm định kỹ
thuật máy móc. Biện pháp này đã có nhưng còn yếu và vận hành chưa tốt.
8. Biện pháp giáo dục cộng đồng.

9. Trồng nhiều cây xanh.

More Related Content

What's hot

O nhiem dat12
O nhiem dat12O nhiem dat12
O nhiem dat12hien3sphh
 
Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01hoanganhovo
 
Tài nguyên đất Việt Nam
Tài nguyên đất Việt NamTài nguyên đất Việt Nam
Tài nguyên đất Việt Nam
Hieu Nguyen
 
Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01hoanganhovo
 
Kim loai nang_dinh_tram_4244
Kim loai nang_dinh_tram_4244Kim loai nang_dinh_tram_4244
Kim loai nang_dinh_tram_4244hainguyen204_pt4
 
N-khùng (1) (1)
 N-khùng (1) (1) N-khùng (1) (1)
N-khùng (1) (1)
Mua Axit
 
Chuong 3 Dat
Chuong 3 DatChuong 3 Dat
Chuong 3 Dat
guest5bb315
 
Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01hoanganhovo
 
ô Nhiễm-môi-trường-đất
ô Nhiễm-môi-trường-đấtô Nhiễm-môi-trường-đất
ô Nhiễm-môi-trường-đất
Duong Tran
 
Tài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-pp
Tài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-ppTài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-pp
Tài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-pp
Bluebell Bing Bing
 
Ô nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt Nam
Ô nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt NamÔ nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt Nam
Ô nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt Nam
Dũng Việt
 
Thực trạng ô nhiễm môi trường
Thực trạng ô nhiễm môi trườngThực trạng ô nhiễm môi trường
Thực trạng ô nhiễm môi trường
Chém Gió Thành Bão
 
Dat do o viet nam
Dat do o viet namDat do o viet nam
Dat do o viet nam
Nhân Trần
 
Vai trò của đất đai
Vai trò của đất đaiVai trò của đất đai
Vai trò của đất đai
tiểu minh
 
ô Nhiễm môi trường nước
ô Nhiễm môi trường nướcô Nhiễm môi trường nước
ô Nhiễm môi trường nướcLeonidas Hero
 
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trườngÔ nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trườngSâu Đỗ
 

What's hot (18)

O nhiem dat12
O nhiem dat12O nhiem dat12
O nhiem dat12
 
Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01
 
Tài nguyên đất Việt Nam
Tài nguyên đất Việt NamTài nguyên đất Việt Nam
Tài nguyên đất Việt Nam
 
Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01
 
Dat cat
Dat catDat cat
Dat cat
 
Kim loai nang_dinh_tram_4244
Kim loai nang_dinh_tram_4244Kim loai nang_dinh_tram_4244
Kim loai nang_dinh_tram_4244
 
N-khùng (1) (1)
 N-khùng (1) (1) N-khùng (1) (1)
N-khùng (1) (1)
 
Chuong 3 Dat
Chuong 3 DatChuong 3 Dat
Chuong 3 Dat
 
Hoanganh
HoanganhHoanganh
Hoanganh
 
Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01Hoanganh 121226214354-phpapp01
Hoanganh 121226214354-phpapp01
 
ô Nhiễm-môi-trường-đất
ô Nhiễm-môi-trường-đấtô Nhiễm-môi-trường-đất
ô Nhiễm-môi-trường-đất
 
Tài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-pp
Tài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-ppTài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-pp
Tài nguyên đất nhóm 9-đh2 qm2-pp
 
Ô nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt Nam
Ô nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt NamÔ nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt Nam
Ô nhiễm môi trường đất do chất thải công nghiệp và đô thị tại Việt Nam
 
Thực trạng ô nhiễm môi trường
Thực trạng ô nhiễm môi trườngThực trạng ô nhiễm môi trường
Thực trạng ô nhiễm môi trường
 
Dat do o viet nam
Dat do o viet namDat do o viet nam
Dat do o viet nam
 
Vai trò của đất đai
Vai trò của đất đaiVai trò của đất đai
Vai trò của đất đai
 
ô Nhiễm môi trường nước
ô Nhiễm môi trường nướcô Nhiễm môi trường nước
ô Nhiễm môi trường nước
 
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trườngÔ nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường
 

Similar to Tac dong cua co ng

hoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdf
hoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdfhoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdf
hoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdf
SonThanh56
 
Powerpoint Tài nguyên đất
Powerpoint Tài nguyên đấtPowerpoint Tài nguyên đất
Powerpoint Tài nguyên đất
Nhung Lê
 
Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02
Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02
Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02KuTop Smile
 
Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01
Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01
Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01Hưng Nguyễn
 
ô Nhiễm môi trường duong anh phi
ô Nhiễm môi trường duong anh phiô Nhiễm môi trường duong anh phi
ô Nhiễm môi trường duong anh phi
Phi Duong
 
Dh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễm
Dh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễmDh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễm
Dh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễm
boygril
 
Powerpoint Đẹp nhất
Powerpoint Đẹp nhấtPowerpoint Đẹp nhất
Powerpoint Đẹp nhất
Nhung Lê
 
MoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.ppt
MoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.pptMoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.ppt
MoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.ppt
ChienDang11
 
15. đặng văn minh
15. đặng văn minh15. đặng văn minh
15. đặng văn minh
Thu Thu
 
BaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptx
BaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptxBaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptx
BaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptx
TrnhHiTin
 
BAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdf
BAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdfBAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdf
BAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdf
TrungTranMinh7
 
CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...
CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...
CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...
NuioKila
 
Journal051006030753
Journal051006030753Journal051006030753
Journal051006030753nhungmeo
 
đề Tài 10: Quan Ly Moi Truong
đề Tài 10: Quan Ly Moi Truongđề Tài 10: Quan Ly Moi Truong
đề Tài 10: Quan Ly Moi Truongphamlenhiem2000
 
Thực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện Nay
Thực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện NayThực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện Nay
Thực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện Nay
Thông Tắc Cống Hà Nội LH:0945.861.366
 
Ô nhiễm môi trường của Sâu Đỗ
Ô nhiễm môi trường của Sâu ĐỗÔ nhiễm môi trường của Sâu Đỗ
Ô nhiễm môi trường của Sâu ĐỗSâu Đỗ
 
Đề tài nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAY
Đề tài  nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAYĐề tài  nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAY
Đề tài nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Benh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_sanBenh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_san
Long Nguyen
 
Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...
Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...
Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...Trinh Lê
 

Similar to Tac dong cua co ng (20)

hoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdf
hoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdfhoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdf
hoanganh-121226214354-phpapp01-121226223402-phpapp02.pdf
 
Powerpoint Tài nguyên đất
Powerpoint Tài nguyên đấtPowerpoint Tài nguyên đất
Powerpoint Tài nguyên đất
 
Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02
Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02
Dltnvnnhom1pp2003 130506232421-phpapp02
 
Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01
Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01
Bithuyttrnh 121219012513-phpapp01
 
ô Nhiễm môi trường duong anh phi
ô Nhiễm môi trường duong anh phiô Nhiễm môi trường duong anh phi
ô Nhiễm môi trường duong anh phi
 
Dh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễm
Dh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễmDh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễm
Dh5 m4 nhóm10_xử-lý-đất-ô-nhiễm
 
Powerpoint Đẹp nhất
Powerpoint Đẹp nhấtPowerpoint Đẹp nhất
Powerpoint Đẹp nhất
 
MoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.ppt
MoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.pptMoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.ppt
MoiTruong-DatDai-Nuoc_TamNong. Dang Hung Vo.ppt
 
15. đặng văn minh
15. đặng văn minh15. đặng văn minh
15. đặng văn minh
 
BaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptx
BaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptxBaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptx
BaI_THUYeT_TRiNH_TaI_NGUYeN_daT_-_NHoM_1.pptx
 
BAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdf
BAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdfBAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdf
BAI 4. O NHIEM MOI TRUONG DAT. KIEM SOAT VECTO.pdf
 
CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...
CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...
CHUYÊN ĐỀ VI SINH VẬT MÔI TRƯỜNG ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT PHÂN BÓN...
 
Journal051006030753
Journal051006030753Journal051006030753
Journal051006030753
 
đề Tài 10: Quan Ly Moi Truong
đề Tài 10: Quan Ly Moi Truongđề Tài 10: Quan Ly Moi Truong
đề Tài 10: Quan Ly Moi Truong
 
Thực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện Nay
Thực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện NayThực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện Nay
Thực Trạng Ô Nhiễm Các Con Sông Ở Việt Nam Hiện Nay
 
Ô nhiễm môi trường của Sâu Đỗ
Ô nhiễm môi trường của Sâu ĐỗÔ nhiễm môi trường của Sâu Đỗ
Ô nhiễm môi trường của Sâu Đỗ
 
Đề tài nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAY
Đề tài  nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAYĐề tài  nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAY
Đề tài nghiên cứu tận dụng phế phẩm nông nghiệp, HAY
 
Benh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_sanBenh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_san
 
Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...
Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...
Luận văn Khả năng xử lý COD và TSS trong nước thải sinh hoạt của hệ thống Đất...
 
lecture on environment :3
lecture on environment :3lecture on environment :3
lecture on environment :3
 

More from Thanhnhan Mai

Bài soạn lattest
Bài soạn   lattestBài soạn   lattest
Bài soạn lattest
Thanhnhan Mai
 
Xam hai tinh duc caritas1
Xam hai tinh duc caritas1Xam hai tinh duc caritas1
Xam hai tinh duc caritas1
Thanhnhan Mai
 
Giáo dục giới tính
Giáo dục giới tínhGiáo dục giới tính
Giáo dục giới tínhThanhnhan Mai
 
Tình dục và nhân cách
Tình dục và nhân cáchTình dục và nhân cách
Tình dục và nhân cáchThanhnhan Mai
 
32 tn những món quà vô giá
32 tn   những món quà vô giá32 tn   những món quà vô giá
32 tn những món quà vô giáThanhnhan Mai
 
Sự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợp
Sự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợpSự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợp
Sự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợpThanhnhan Mai
 

More from Thanhnhan Mai (7)

Bài soạn lattest
Bài soạn   lattestBài soạn   lattest
Bài soạn lattest
 
Xam hai tinh duc caritas1
Xam hai tinh duc caritas1Xam hai tinh duc caritas1
Xam hai tinh duc caritas1
 
Tình dục học
Tình dục họcTình dục học
Tình dục học
 
Giáo dục giới tính
Giáo dục giới tínhGiáo dục giới tính
Giáo dục giới tính
 
Tình dục và nhân cách
Tình dục và nhân cáchTình dục và nhân cách
Tình dục và nhân cách
 
32 tn những món quà vô giá
32 tn   những món quà vô giá32 tn   những món quà vô giá
32 tn những món quà vô giá
 
Sự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợp
Sự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợpSự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợp
Sự biến đổi co2 thành carbohydrate trong quang hợp
 

Tac dong cua co ng

  • 1. Tài liêu tham khảo: Tai lieu.vn yume.vn thuvienmoitruong.vn/tag/o-nhiem-khong-khi www.moitruong.com.vn GS. PTS. LÂM MINH TRIẾT, THS. NGUYỄN ĐINH TUẤN VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH PHẦN I : Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT I. Nguyên nhân: Các nhà khoa học môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm đất không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng nông sản, mà còn thông qua lương thực, rau quả... ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ con người và động vật. Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ nông dược và phân hoá học, chúng tích luỹ dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là các loại chất thải trong hoạt động của con người (rắn, lỏng, khí). Thứ ba, đất cũng là một yếu tố của môi trường cùng với không khí, nước và vành đai sinh vật, nên nó tiếp nhận những chất ô nhiễm từ các yếu tố khác mọi nơi, mọi lúc. Ngoài ra, các vùng khai thác khoáng sản kim loại thường tạo thành một khu vực khuếch tán, khiến cho hàm lượng
  • 2. nguyên tố này trong vùng đất xung quanh cao hơn nhiều so với đất thông thường, đây cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ô nhiễm đất vì nước thải : Nguyên nhân là không biết cách lợi dụng một cách khoa học các loại nước thải để tưới cho cây trồng. Sử dụng hợp lý nguồn nước thải tưới đồng ruộng sẽ tận dụng được lượng Nitơ, Photpho, Kaki... trong nước, có lợi cho cây trồng. Nhưng nếu như nước ô nhiễm chưa qua xử lý cần thiết, tưới bừa bãi, thì có thể đưa các chất có hại trong nguồn nước vào đất gây ô nhiễm. Việc lợi dụng nước thải để tưới ruộng gây ô nhiễm đất, ảnh hưởng tới người và gia súc có ở mọi quốc gia. Sự kiện “Cadimi” xảy ra ở Nhật Bản năm 1955 là một ví dụ. Nông dân ở vùng núi Phú Sĩ một thời gian dài đã sử dụng nước thải của một nhà máy luyện kẽm gần đó để tưới ruộng, Cadimi chứa trong nước thải tích luỹ dần trong lúa gạo ở khu vực này. Hậu quả là những người nông dân bị chứng đau nhức các khớp xương, 34 người chết, 280 người tàn phế. Theo một điều tra nông thôn Nhật Bản, năm 1970, diện tích đất ô nhiễm do nước ở Nhật là 190.000 ha, làm thiệt hại 22 tỷ Yên. Trong những năm 70, nông dân Ấn Độ cũng sử dụng tràn lan các nước thải thành thị chưa qua xử lý để tưới ruộng, khiến cho khả năng sản xuất của đất giảm, gây hại tới sức khoẻ nông dân. Theo một báo cáo, tỷ lệ nhiễm các bệnh về đường ruột ở người do nông phẩm ở những khu vực này cao hơn gấp 3 lần những nơi khác. Nguồn chất thải rắn có rất nhiều, chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn của ngành khai thác mỏ, rác ở đô thị, chất thải nông nghiệp và chất thải rắn phóng xạ. Chủng loại của chúng rất nhiều, hàm lượng các nguyên tố độc trong chúng cũng không giống nhau; tỷ lệ nguyên tố độc hại trong chất thải rắn công nghiệp thường cao hơn; rác thành thị chứa các loại vi khuẩn gây bệnh và ký sinh trùng; chất thải rắn nông nghiệp chứa các chất hữu cơ thối rữa và thuốc nông nghiệp còn lưu lại...; chất thải phóng xạ có chứa các nguyên tố phóng xạ như Uranium,
  • 3. Strontium, Caesium... những chất thải rắn này được vứt bừa bãi, ngấm nước mưa, và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất, sông ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước ô nhiễm này lại được dùng để tưới đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu đất, ảnh hưởng tới hoạt động của vi sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của bộ rễ thực vật và ảnh hưởng tới sản lượng cây trồng. Ô nhiễm đất do khí thải Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất nitơ... kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Một số loại khói bụi có hại ngưng tụ cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ví dụ, các vùng đất gần các nhà máy sản xuất hoá chất Photpho, Flo, luyện kim dễ bị ô nhiễm vì khói bụi, hàm lượng flo chứa trong khoáng chất photpho sử dụng ở các nhà máy phân hoá học thường là 2 – 4%, nếu khí thải không được xử lý thích đáng, có thể làm cho một vùng hàng ngàn km2 đất xung quanh bị ô nhiễm flo nặng. Ở gần các xưởng luyện kim, vì trong khí thải có chứa lượng lớn các chất chì, cadimi, crom, đồng... nên vùng đất xung quanh sẽ bị ô nhiễm bởi những chất này. Đất ở 2 bên đường, thường có hàm lượng chì tương đối cao là sản phẩm của khí thải động cơ. Ô nhiễm đất do nông dược và phân hoá học Đây là 2 loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này ngày càng nghiêm trọng. Vì số lượng lớn nông dược tích luỹ trong đất, đặc biệt là các thuốc có chứa các nguyên tố như chì, asen, thuỷ ngân... có độc tính lớn, thời gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu trong đất tới 10 đến 30 năm, những loại nông dược này có thể được cây trồng hấp thu, tích trong quả và lá và đi vào cơ thể người và động vật qua thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ.
  • 4. Thuốc trừ sâu đồng thời với việc diệt các côn trùng gây hại, cũng gây độc đối với các vi sinh vật và côn trùng có ích, các loại chim, cá... và ngược lại một số loại sâu bệnh thì lại sinh ra tính kháng thuốc. Theo điều tra của tổ chức nông lương thế giới: năm 1965, có 182 loài côn trùn gây hại có khả năng kháng thuốc, năm 1968, tăng lên 228 loài và đến 1979 lên tới 364 loài. Trong số 25 loài sâu hại nông nghiệp chủ yếu ở các nông trường California Mỹ thì có 17 loài đã có khả năng kháng đối với một hoặc vài loại thuốc, mỗi năm, số sâu hại kháng thuốc này làm thiệt hại mấy chục triệu đôla cho nông nghiệp vùng này. II. Hiện trạng: 1. Đất bị mặn hóa, chua phèn hóa và feralit hoá kết đá ong Hiện trạng đất bị mặn hoá, chua phèn và feralit hoá kết đá ong ở Quảng Trị như dưới đây. i) Đất mặn nhiều (Mn): Loại đất này có diện tích 213 ha, chiếm 0,26% diện tích đất bằng và chiếm 0,04% diện tích tự nhiên; phân bố tập trung gần khu vực Cửa Tùng và hiện được sử dụngtrồng lúa 1 vụ, trồng rừng ngập mặn và nuôi trồng thuỷ sản. ii) Đất mặn trung bình (M):Đất này có diện tích 83 ha, chiếm 0,10% diện tích đất bằng và chiếm 0,02% diện tích tự nhiên; phân bố tập trung chủ yếu ở xã Gio Mai, huyện Gio Linh; được sử dụng trồng 1 - 2 vụ lúa cho năng suất cao, tuy nhiên để sản xuất lâu bền trên loại đất này cần bón nhiều phân hữu cơ. iii) Đất mặn ít: Loại đất này có diện tích 1.134 ha, chiếm 1,41% diện tích đất bằng và chiếm 0,24% diện tích tự nhiên; phân bố ở huyện Triệu Phong, Gio Linh và Vĩnh Linh; được sử dụng trồng lúa 2 vụ.
  • 5. iv) Đất phèn - Sj (Sali Orthi Thionic Fluvisols - FLt-o-s): Loại đất phèn hoạt động mặn trung bình và ít, phân bố ở 2 cửa sông Thạch Hãn - Cửa Việt và Bến Hải - Cửa Tùng với diện tích 418 ha (trong đó huyện Gio Linh có 338 ha, huyện Triệu Phong có 80 ha), chiếm 0,52% diện tích đất bằng và chiếm 0,09% diện tích tự nhiên. Phần lớn diện tích này được sử dụng để trồng lúa, nhưng năng suất thấp. 2. Ô nhiễm đất do sử dụng phân hóa học, phân tươi  Các loại phân hóa học thuộc nhóm chua sinh lý (urea, (NH4)2SO4, K2SO4, KCl, super photphat) còn tồn dư acid đã làm chua đất, nghèo kiệt các ion bazơ và xuất hiện nhiều độc tố đối với cây trồng như : Al3+, Mn2+, Fe3+; làm giảm hoạt tính sinh học của đất. Bón nhiều phân đạm vào thời ký muôn cho rau quả, đã làm tăng đáng kể hàm lượng NO3- trong sản phẩm.  Tập quán sử dụng phân Bắc, phân chuồng tươi trong canh tác nông nghiệp còn phổ biến. Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội, hàng năm lượng phân Bắc 3. Ô nhiễm đất do HCBVTV Hiện nay, ở Quảng Trị còn một lượng đáng kể HCBVTV tồn lưu (chủ yếu là các HCBVTV quá hạn, cấm sử dụng như DDT, 666, 2,4-D...) trong giai đoạn trước (thời kỳ bao cấp) tại một số địa điểm trước đây là kho chứa thuốc của các hợp tác xã, nông trường như: Nông trường Quyết Thắng tồn lưu khoảng 1 - 1,5 tấn; Nông trường Tân Lâm (huyện Cam Lộ) khoảng 1,5 - 2 tấn; Nông trường Bến Hải khoảng 2 tấn…. Trong giai đoạn 2002 – 2009, địa phương đã có giải pháp thu gom và vận chuyển đem đi xử lý hoặc chôn lấp tại chỗ, nhưng nói chung, do quy trình thu gom và xử lý chưa tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định, nên một phần đáng kể HCBVTV nhóm clo vẫn tồn dư trong môi trường đất và có thể bị rửa trôi vào các lưu vực lân cận và do vậy, gây lo lắng về môi trường và sức khoẻ [6, 29,
  • 6. 9]. Hiện nay, Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn đang nghiên cứu để tiếp tục giải quyết các điểm tồn trữ HCBVTV quá hạn, cấm sử dụng trên địa bàn tỉnh. Bảng 6. 2. Khối lượng và chủng loại HCBVTV sử dụng trên địa bàn Quảng Trị[6] Tổng số Chủng loại Năm Trừ chuột (kg) Trừ sâu (kg) Trừ bệnh (kg) Trừ cỏ (kg) (kg) 2000 18.428 3.957 2.077 12.196 198 2001 20.250 2.540 3.400 14.054 256 2002 12.457 1.337 2.986 7.891 248 2003 16.770 1.879 3.563 19.226 103 6-2004 7.481 405 1.107 5.959 10 4. Ô nhiễm đất do nuôi trồng thuỷ sản Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm ở tỉnh Quảng Trị đã phát triển khá mạnh trong nhiều năm qua. Việc mở rộng diện tích vùng ven bờ để phát triển nuôi tôm nước lợ/mặn đã làm gia tăng sự nhiễm mặn đất nông nghiệp lân cận. Sự nhiễm mặn tăng sẽ dẫn đến hậu quả làm tăng dần độ chua của đất (do làm tăng hàm lượng sắt và nhôm di động trong đất) hay nói cách khác, sẽ làm giảm chất lượng đất. Ngoài ra, hoạt động khai thác nước ngầm phục vụ nuôi tôm trên cát với quy mô lớn cũng sẽ làm tăng sự xâm nhập mặn vào các nguồn nước
  • 7. ngầm vùng ven bờ, dẫn đến làm giảm chất lượng nước ngầm. Các chất thải rắn phát sinh do quá trình nạo vét các ao nuôi trồng thuỷ sản nói chung và nuôi tôm nước lợ/mặn nói riêng cũng gây ô nhiễm đất vùng lân cận (nếu không được thu gom và xử lý theo quy định). Bảng 6.5.Kết quả phân tích một số mẫu đất nông nghiệp ở Quảng Trị(4/2006)(*) [6] Chỉ Đơn Mẫu (**) tiêu vị Đ01 Đ02 Đ03 Đ04 Đ05 Đ06 Đ07 Đ08 Đ09 Đ10 Tổng % 0,08 0,12 0,14 0,15 0,22 0,25 0,08 0,34 0,14 0,32 N Tổng % 0,15 0,19 0,21 0,22 0,12 0,18 0,12 0,17 0,11 0,25 P Tổng % 1,49 0,93 2,05 1,87 1,31 1,05 1,24 1,98 1,32 0,23 K Mùn % 1,28 1,24 2,66 1,91 2,95 3,26 1,38 3,52 1,50 2,65 Fe % 3,131 3,811 3,947 4,492 1,633 2,34 3,92 1,65 3,42 1,78 Cu % 0,325 0,235 0,215 0,32 0,295 0,314 0,28 0,205 0,11 0,25 Mn % 0,11 0,048 0,094 0,057 0,058 0,14 0,26 0,086 0,43 0,14 Pb mg/kg 12 10 <10 <10 <10 11 <10 < 10 <10 <10 Cd mg/kg 0,53 <0,5 <0,5 5 7 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 As mg/kg <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 <0,5 Zn mg/kg 225 150 87 284 95 12 42 17 60 12
  • 8. Ni mg/kg 26 18 38 202 15 23 24 8 35 25 Nguồn: Báo cáo “Quy hoạch BVMT tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006-2010, tầmnhìn 2020”, 2006 Ghi chú: (*) Các kết quả trong bảng được tính theo khối lượng khô; QCVN 03:2008/BTNMT quy định mức tối đa cho phép của các kim loại nặng trong đất nông nghiệp (tính theo khối lượng khô) như sau: As 12 mg/kg; Cd 2 mg/kg; Cu 50 mg/kg; Pb 70 mg/kg; Zn 200 mg/kg. (**) Đ01: mẫu đất ruộng lúa ở xã Hải Sơn; Đ02: mẫu đất đồi trồng sắn ở xã Hải Lâm; Đ03: mẫu đất ruộng lúa cạnh đầm nuôi tôm phía bắc cầu Hải Lăng (huyện Hải Lăng);huyện Hải Lăng; Đ04: mẫu đất đồi ở xã Tân Liên (huyện Hương Hoá);Đ05: mẫu đất ruộng lúa ở Thị trấn Ái Tử; Đ06: mẫu đất ruộng lúa ở xã Triệu An (huyện Triệu Phong); Đ07: mẫu đất đồi trồng sắn ở cạnh nhà máy sản xuất giấy; Đ08: mẫu đất ruộng lúa ở xã Vĩnh Thành (huyện Vĩnh Linh). 5. Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học: Sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lý như K2SO4, KCl, super photphat còn tồn dư axit, đã làm chua đất, nghèo kệt các cation kiềm và xuất hiện nhiều độc tố trong môi trường đất như ion Al3+, Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính sinh học của đất và năng suất cây trồng.
  • 9. 6 . Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối với mọi sinh vật; tồn dư lâu dài trong môi trường đất- nước; tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất. Theo các kết quả nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg ai/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất. 7. Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt đọng công nghiệp: kết quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp Phước Long hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần. III. Biện pháp khắc phục: Các biện pháp hạn chế ô nhiễm đất Phát triển nền nông nghiệp bền vững cũng là một chiến lược bảo vệ môi trường đất, đặc biệt ở miền núi. Đặc trưng cơ bản của hệ thống nông nghiệp bền vững là hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:  Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông nghiệp tương xứng, đáp ứng được nhu cầu sống của lượng dân số mà hệ thống đó hướng tới  Tăng năng suất nông nghiệp thông qua việc tăng cường sử dụng các kiểu gen có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và thích ứng các điều kiện khó khăn, duy trì độ phì của đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng luân canh cây trồng, sử dụng hệ thống cây hàng năm, cây lâu năm, nghề cá, chăn nuôi tổng hợp
  • 10. Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người và các sinh vật khác như chống ô nhiễm nguồn nước, giảm và loại bỏ sử dụng chất độc để trừ sâu bệnh, giảm sử dụng phân khoáng  Tăng cường các hoạt động phi nông nghiệp khác, tạo thêm công ăn việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng … nhằm nâng cao dần đời sống người dân  Đối với Việt Nam phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vững cần chú ý: - Áp dụng các biện pháp canh tác chống xói mòn. - Đa dạng hóa cây trồng dưới hình thức: trồng xencanh, gối vụ, luân canh. - Áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp, lâm ngư kết hợp với các mô hình đa dạng, phong phú. - Kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, tăng cường phát triển và mở rộng các mô hình kinh tế vườn rừng trại rừng. - Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp”sạch” đảm bảo đa dạng hóa cây trồng, tạo năng suất bền vững, ổn định, giảm sử dụng phân khoáng.
  • 11. PHẦN II : Ô NHIỄM NƯỚC I. Nguyên nhân: • Ô nhiễm nhân tạo: 1. Ô nhiễm nước sinh học do các nguồn thải đô thị hay kỹ nghệ có các chất thải sinh hoạt, phân, nước rữa của các nhà máy đường, giấy... Sự ô nhiễm sinh học thể hiện bằng sự nhiễm bẩn do vi khuẩn rất nặng, đặt thành vấn đề lớn cho vệ sinh công cộng chủ yếu các nước đang phát triển. Các bệnh cầu trùng, viêm gan do siêu vi khuẩn tăng lên liên tục ở nhiều quốc gia chưa kể đến các trận dịch tả. Các sự nhiễm bệnh được tăng cường do ô nhiễm sinh học nguồn nước. Thí dụ thương hàn, viêm ruột siêu khuẩn. Các nước thải từ lò sát sinh chứa một lượng lớn mầm bệnh. Thí dụ lò sát sinh La Villette, Paris thải ra 350 triệu mầm hiếu khí và 20 triệu mầm yếm khí trong 1cm 3 nước thải, trong đó có nhiều loài gây bệnh( Plancho in Furon,1962). Các nhà máy giấy thải ra nước có chứa nhiều glucid dễ dậy men. Một nhà máy trung bình làm nhiễm bẩn nước tương đươngvới một thành phố 500.000 dân. Các nhà máy chế biến thực phẩm, sản xuất đồ hộp, thuộc da, lò mổ, đều có nước thải chứa protein. Khi được thải ra dòng chảy, protein nhanh chóng bị phân hủy cho ra acid amin, acid béo, acid thơm, H2S, nhiều chất chứa S và P, có tính độc và mùi khó chịu 2. Ô nhiễm hoá học do chất vô cơ
  • 12. Do thải vào nước các chất nitrat, phosphat dùng trong nông nghiệp và các chất thải do luyện kim và các công nghệ khác như Zn, Cr, Ni, Cd, Mn, Cu, Hg là những chất độc cho thủy sinh vật. Sự ô nhiễm do các chất khoáng là do sự thải vào nước các chất như nitrat, phosphat và các chất khác dùng trong nông nghiệp và các chất thải từ các ngành công nghiệp. Nhiễm độc chì (Saturnisne) : Ðó là chì được sử dụng làm chất phụ gia trong xăng và các chất kim loại khác như đồng, kẽm, chrom, nickel, cadnium rất độc đối với sinh vật thủy sinh. Thủy ngân dưới dạng hợp chất rất độc đối với sinh vật và người. Tai nạn ở vịnh Minamata ở Nhật Bản là một thí dụ đáng buồn, đã gây tử vong cho hàng trăm người và gây nhiễm độc nặng hàng ngàn người khác. Nguyên nhân ở đây là người dân ăn cá và các động vật biển khác đã bị nhiễm thuỷ ngân do nhà máy ở đó thải ra. Sự ô nhiễm nước do nitrat và phosphat từ phân bón hóa học cũng đáng lo ngại. Khi phân bón được sử dụng một cách hợp lý thì làm tăng năng suất cây trồng và chất lượng của sản phẩm cũng được cải thiện rõ rệt. Nhưng các cây trồng chỉ sử dụng được khoảng 30 - 40% lượng phân bón, lượng dư thừa sẽ vào các dòng nước mặt hoặc nước ngầm, sẽ gây hiện tượng phì nhiêu hoá sông hồ, gây yếm khí ở các lớp nước ở dưới. 3. Sự ô nhiễm bởi các hydrocarbon là do các hiện tượng khai thác mỏ dầu, vận chuyển ở biển và các chất thải bị nhiễm xăng dầu. Ước tính khoảng 1 tỷ tấn dầu được chở bằng đường biển mỗi năm. Một phần của khối lượng này, khoảng 0,1 - 0,3% được ném ra biển một cách tương đối hợp pháp: đó là sự rửa các tàu dầu bằng nước biển. Các tai nạn đắm tàu chở dầu là
  • 13. tương đối thường xuyên. Ðã có 129 tai nạn tàu dầu từ 1973 - 1975, làm ô nhiễm biển bởi 340.000 tấn dầu (Ramade, 1989). Ước tính có khoảng 3.6 triệu tấn dầu thô thải ra biển hàng năm (Baker,1983). Một tấn dầu loang rộng 12 km2 trên mặt biển, do đó biển luôn luôn có một lớp mỏng dầu trên mặt (Furon,1962). Các vực nước ở đất liền cũng bị nhiễm bẩn bởi hydrocarbon. Sự thải của các nhà máy lọc dầu, hay sự thải dầu nhớt xe tàu, hoặc là do vô ý làm rơi vãi xăng dầu. Tốc độ thấm của xăng dầu lớn gấp 7 lần của nước, sẽ làm các lớp nước ngầm bị nhiễm. Khoảng 1,6 triệu tấn hydrocarbon do các con sông của các quốc gia kỹ nghệ hóa thải ra vùng bờ biển. a. Chất tẩy rữa: bột giặt tổng hợp và xà bông Bột giặt tổng hợp phổ biến từ năm 1950. Chúng là các chất hữu cơ có cực (polar) và không có cực (non-polar). Có 3 loại bột giặt: anionic, cationic và non- ionic. Bột giặt anionic được sử dụng nhiều nhất, nó có chứa TBS (tetrazopylène benzen sulfonate), không bị phân hủy sinh học. Xà bông là tên gọi chung của muối kim loại với acid béo. Ngoài các xà bông Natri và Kali tan được trong nước, thường dùng trong sinh hoạt, còn các xà bông không tan thì chứa calci, sắt, nhôm...sử dụng trong kỹ thuật (các chất bôi trơn, sơn, verni). b. Nông dược (Pesticides) Các nông dược hiện đại đa số là các chất hữu cơ tổng hợp. Thuật ngữ pesticides là do từ tiếng Anh pest là loài gây hại, nên pesticides còn gọi là chất diệt dịch hay chất diệt hoạ.
  • 14. Người ta phân biệt: - Thuốc sát trùng (insecticides). - Thuốc diệt nấm (fongicides). - Thuốc diệt cỏ (herbicides). - Thuốc diệt chuột (diệt gậm nhấm = rodenticides). - Thuốc diệt tuyến trùng (nematocides). Chúng tạo thành một nguồn ô nhiễm quan trọng cho các vực nước. Nguyên nhân gây ô nhiễm là do các nhà máy thải các chất cặn bã ra sông hoặc sử dụng các nông dược trong nông nghiệp, làm ô nhiễm nước mặt, nước ngầm và các vùng cửa sông, bồ biển. Nước dùng của dân thành phố Arles (miền nam nước Pháp) có mùi khó chịu không sử dụng được, vào năm 1948. Nguyên nhân là do một nhà máy sản xuất thuốc diệt cỏ 2,4-D cách đó hàng trăm km thải chất cặn bã kỹ nghệ ra sông làm ô nhiễm nguồn nước. Ô nhiễm của vùng bờ biển Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, ở vịnh Californie, bởi hãng Montrose Chemicals do sự sản xuất nông dược. Hãng này sản xuất từ đầu năm 1970, 2/3 số lượng DDT toàn cầu làm ô nhiễm một diện tích 10.000 km2 (Mc Gregor, 1976), làm cho một số cá không thể ăn được tuy đã nhiều năm trôi qua. Sử dụng nông dược mang lại nhiều hiệu quả trong nông nghiệp, nhưng hậu quả cho môi trường và sinh vật cũng rất đáng kể.
  • 15. 4. Ô nhiễm vật lý Các chất rắn không tan khi được thải vào nước làm tăng lượng chất lơ lững, tức làm tăng độ đục của nước. Các chất này có thể là gốc vô cơ hay hữu cơ, có thể được vi khuẩn ăn. Sự phát triển của vi khuẩn và các vi sinh vật khác lại càng làm tăng độ đục của nước và làm giảm độ xuyên thấu của ánh sáng. Nhiều chất thải công nghiệp có chứa các chất có màu, hầu hết là màu hữu cơ, làm giảm giá trị sử dụng của nước về mặt y tế cũng như thẩm mỹ. Ngoài ra các chất thải công nghiệp còn chứa nhiều hợp chất hoá học như muối sắt, mangan, clor tự do, hydro sulfur, phènol... làm cho nước có vị không bình thường. Các chất amoniac, sulfur, cyanur, dầu làm nước có mùi lạ. Thanh tảo làm nước có mùi bùn, một số sinh vật đơn bào làm nước có mùi tanh của cá. • Ô nhiễm tự nhiên: Là do mưa,tuyết tan, lũ lụt,gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt động sống của sinh vật, kể cả xác chết của chúng. Cây cối, sinh vật chết đi , chúng bị vi sinh vật phân hủy thành chất hữu cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gây ô nhiễm. hoặc theo dòng nước ngầm hòa vào dòng lớn. Lụt lội có thể làm nước mất sự trong sạch, khuấy động những chất dơ trong hệ thống cống rãnh, mang theo nhiều chất thải độc hại từ nơi đổ rác, và cuốn theo các loại hoá chất trước đây đã được cất giữ. Nước lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghiệp, kỹ nghệ hoặc do các tác nhân độc hại ở các khu phế thải. Công nhân thu dọn lân cận các công trường kỹ nghệ bị lụt có thể bị tác hại bởi nước ô nhiễm hoá chất.
  • 16. Ô nhiễm nước do các yếu tố tự nhiên (núi lửa, xói mòn, bão, lụt,...) có thể rất nghiêm trọng, nhưng không thường xuyên, và không phải là nguyên nhân chính gây suy thoái chất lượng nước toàn cầu. II. Hiện trạng: Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH
  • 17. từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu… Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời. Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP. Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử
  • 18. lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500- 3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800- 12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
  • 19. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)... III. Biện pháp khắc phục: • Các biện pháp trong nuôi trồng thuỷ sản nhằm giảm ô nhiễm nguồn nước: - Quy hoạch hệ thống cấp nước và tiêu nước cho các vùng nuôi tôm nên được tách riêng ra khỏi những khu canh tác lúa, đặc biệt là hệ thống lấy nước cấp cho các khu nuôi. - Cần tiến hành xử lý nguồn nước thải từ các ao nuôi trước khi thải ra môi trường. - Có thể ứng dụng các kỹ thuật xử lý nước thải sau nuôi tôm bằng biện pháp xử lý sinh học như dùng các loài nhiễm thể hai mảnh vỏ lọ bỏ các chất hữu cơ trong nước thải tại các ao chứa nước thải và có thể tái sử dụng nguồn nước này cấp lại cho các ao nuôi (đã áp dụng thành công tại Cà Mau, đề tài khoa học cấp Tỉnh do Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam thực hiện).
  • 20. - Lượng bùn sên vét đáy cào ao nuôi cần được xử lý làm phân bón vi sinh học được chôn lấp, không được để tràn tự nhiên ra môi trường. • Các biện pháp thuỷ lợi nhằm giảm ô nhiễm nguồn nước. Thiết kế hệ thống cấp nước, tiêu nước cho các khu nuôi thuỷ sản đáp ứng đủ yêu cầu cấp nước và kênh tiêu phải tách rời khỏi kênh lấy nước. Thiết kế, xây dựng hệ thống cống lấy nước và lọc phù sa đáp ứng tiêu chuẩn nuôi trồng để tôm có thể phát triển tốt trong môi trường nước được cấp. Hệ thống kênh dẫn, kênh tiêu đào đắp đi qua vùng đất phèn cần lựa chọn các giải pháp hợp lý để hạn chế quá trình oxy hoá các vật liệu sinh phèn gây chua cho các vùng xung quanh và nguồn nước phía hạ lưu. Xây dựng chế độ tưới, tiêu hợp lý cho các vùng quy hoạch sản xuất lúa, vùng nuôi thuỷ sản, xây dựng quy trình đóng mở cống ngăn mặn hợp lý đáp ứng yêu cầu: Lấy nước mặn, ngăn mặn, xả phèn và trữ ngọt. Quản lý nước trong hệ thống kênh mương nội đồng cần phải được tính toán theo chế độ rửa, chế độ tưới cho các loại cây trồng, cho từng loại đất và hướng dẫn người dân cách thức vận hành quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao về hệ số sử dụng nước và giảm mức độ gây ô nhiễm môi trường hoặc gây lãng phí nguồn nước. Xây dựng các tổ dùng nước nhằm sử dụng hợp ý, có hiệu quả nguồn nước tưới tạo điều kiện tốt cho việc quản lý tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm và các hộ gia đình học hỏi lẫn nhau về kỹ thuật canh tác, nuôi trồng cũng như kỹ thuật sử dụng nguồn nước cho thuỷ sản.
  • 21. Lập các chương trình dự báo về diễn biến môi trường nước trong các vùng bố trí quy hoạch nuôi thuỷ sản, trồng lúa theo các phương án thiết kế hệ thống công trình thuỷ lợi. • Các biện pháp trong nông nghiệp: - Quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho từng tiểu vùng cần phải xét đến tính phù hợp về điều kiện thổ nhưỡng, tập quán canh tác, nguồn nước cấp, mức tăng trưởng dân số trong những năm tới. - Các vùng đất trũng, phèn nặng cần xây dựng các hồ sinh thái phát triển tổng hợp: Phát triển thuỷ sản, lấy nước tưới vào thời kỳ hạn và sử dụng nước sinh hoạt. - Thiết kế, quy hoạch của các ngành như nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, thuỷ sản, xây dựng nên được xét đồng bộ nhằm xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh, lâu dài, không chồng chéo để không xảy ra hiện tượng lãng phí và ảnh hưởng tới môi trường. - Canh tác trên vùng đất phèn phải thực hiện theo các hướng dẫn kỹ thuật nhằm hạn chế sự xì phèn, tiêu thoát các độc tố từ trong đất ra nguồn nước mặt do quá trình thau rửa phèn. - Khuyến cáo nông dân sử dụng phân bón vi sinh, sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ có thời gian phân giải ngắn. • Biện pháp quản lý và giáo dục cộng đồng: - Cần có sự hợp tác toàn diện giữa Ban quản lý các dự án với các ban ngành có liên quan của địa phương bàn về vấn đề tổ chức thực hiện, về tiến độ thi công, về biện pháp thi công và về giám sát thi công công trình.
  • 22. - Giám sát việc thực thi các hạng mục công trình theo nội dung thiết kế, khi có các vấn đề ô nhiễm môi trường xảy ra cần đề xuất ngay các giải pháp cụ thể mang tính khả thi để khắc phục mà không phải chờ đợi kéo dài thời gian tăng thêm mức độ nghiêm trọng. - Thông báo cho người dân trong vùng dự án về những kế hoạch, tiến độ xây dựng các công trình và lợi ích của các công trình này đối với đời sống dân sinh kinh tế. - Tuyên truyền vận động quần chúng hưởng ứng các chương trình chống ô nhiễm môi trường nước: Không thải các chất thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi và chất thải rắn xuống các kênh rạch. - Di rời các nhà ở phía lòng kênh vào phía trong để tránh hiện tượng xả thải xuống lòng kênh và tai nạn giao thông thuỷ. - Xây dựng các khu tái định cư cần phải bố trí hệ thống thu gom xử lý nước thải, rác thải, xây dựng hệ thống nước cấp sinh hoạt. - Cần xây dựng kế hoạch thu thập, phân tích định kỳ về chất lượng nước trong vùng. Phân tích diễn biến về thành phần các loài sinh vật nước. e. Giải pháp xây dựng hồ sinh thái cấp nước ngọt mùa khô phục vụ sản xuất nông nghiệp. - Hồ sinh thái (HST) nước ngọt là một khái niệm không mới ở các nước tiên tiến, nhưng rất mới ở nước ta, tiêu chí cơ bản của HST là hồ chứa nước sạch, không bị ô nhiễm, bền vững trong môi trường tự nhiên, có cây xanh, thảm cỏ ven bờ hồ, có nguồn cấp, có công trình xử lý nước vào và cấp nước. - Hồ sinh thái là dạng hồ phục vụ đa mục tiêu: Từ cấp nước ăn, nước tưới đến nước cho công nghiệp, du lịch, tầng nước ngầm, cải tạo khí hậu, bảo vệ môi trường và tô điểm cho cảnh quan của vùng. HST cũng là nơi bảo tồn các hệ động
  • 23. thực vật hoang dã. HST không có quy mô nhất định, có thể cho một gia đình, nhóm gia đình (từ 500 đến vài ba ngàn m 2), có thể cho một thôn (vài ha) và có thể lên đến hàng trăm, hàng ngàn ha tuỳ điều kiện đất đai và nhu cầu phát triển. Tuy nhiên, Bạc Liêu là tỉnh có diện tích đất đai đã được khai phá hết cho phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản thì việc xây dựng các hồ sinh thái lớn từ vài chục ha trở lên là khó khăn. Do vậy, việc tập trung phát triển loại HST liên hộ gia đình với quy mô từ 500 đến 5000 m 2, cải tạo, xây dựng các công trình xử lý nước vào, ra, trồng cây quanh hồ, chống thấm, chống nhiễm phèn, mặn bằng vải địa kỹ thuật, bằn lớp lọc nhân tạo, chống bốc hơi kết hợp nuôi trồng thuỷ sản là loại hình có thể được ứng dụng tốt ở địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Đối với một số kênh rạch không có nhiệm vụ giao thông thuỷ có thể được cải tạo sử dụng để trữ nước ngọt vào cuối mùa mưa, và được giữ sạch phục vụ cung cấp nước ngọt cho mùa khô, trồng cây xanh và cỏ ở hai bên bờ kênh. Cần có giải pháp chống thấm vì đây là công việc phức tạp khi bờ kênh dài hàng ngàn mét và nước trong kênh được tích đầy vào cuối mùa mưa. Hiện nay giải pháp đơn giản nhất vẫn là sử dụng vải chống thấm để chống thấm qua lớp bờ hai bên kênh, có thể lựa chọn một số kênh cấp 2 để nâng cấp (đào sâu, mở rộng) cải tạo nâng cao bờ kênh, làm cống hai đầu kênh để trữ nước, cấp nước ngọt vào mùa khô phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất.
  • 24. PHẦN III: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ I. Nguyên nhân: Ô nhiễm không khí do bụi. Bụi mù mịt ở đường Láng - Hòa Lạc, nơi các xe chở vật liệu xây dựng qua lại rất nhiều.(Ảnh Thu Huyền) Hà Nội đang là đại công trường lớn, các hoạt động xây dựng, cải tạo, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Kéo theo đó là lượng phương tiện chuyển chở vật liệu xây dựng, đất đá, cát, xi măng ngày càng gia tăng. Thời gian thi công mỗi dự án, công trình thường kéo dài, hơn nữa ý thức của nhà đầu tư trong việc giữ gìn bảo vệ môi trường chưa cao... Trên các tuyến phố như Phạm Hùng, Láng-Hòa Lạc, Nguyễn Trãi... các phương tiện vận chuyển chất thải, phế thải, vật liệu xây dựng không hề được che
  • 25. chắn đúng quy định, các xe chở cát, sỏi phế liệu không được rửa sạch nước khi rời khỏi bãi tập kết làm rơi rớt ra đường. Đây chính là nguồn bụi chủ yếu gây tình trạng ô nhiễm không khí như hiện nay. Theo kết quả quan trắc 6 tháng đầu năm 2009 hàm lượng bụi lơ lửng trong không khí tại một số điểm trên địa bàn Hà Nội đáng giật mình. Có nơi hàm lượng bụi lơ lửng trong không khí vượt quá 11 lần tiêu chuẩn cho phép(TCVN 5937 – 2005) như đường Nguyễn Trãi, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh. Và phần lớn các địa điểm khác vượt quá 5 lần tiêu chuẩn cho phép. Bụi trở thành nỗi lo thường trực của người dân Hà Nội mỗi khi ra đường. Lượng bụi ngày càng gia tăng trong không khí là nguyên nhân của các bệnh đường hô hấp và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ô nhiễm không khí do khí thải Khói xe là một trong những nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường không khí Những năm gần đây, số lượng phương tiện giao thông cơ giới ở Hà Nội tăng lên chóng mặt. Trung bình lượng tăng ô tô hàng năm là 10%, xe máy xấp xỉ
  • 26. 15%. Sự gia tăng về số lượng các phương tiện tham gia giao thông là nguyên nhân làm gia tăng lượng khí thải vào không khí, gây ra tình trạng ô nhiễm khí thải giao thông càng trở nên trầm trọng. Theo kết quả quan trắc năm 2008 lượng khí CO2, SO2, C6H6, CO và các khí thải độc hại khác vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép và ngày càng gia tăng, có tác động tiêu cực tới con người và môi trường. Hiện nay với gần 90% lượng xe ở thành phố là xe máy, lại chủ yếu là xe phân khối nhỏ có kết cấu động cơ đơn giản, sử dụng nhiên liệu xăng. Hầu hết là loại xe đã lưu hành trên 5 năm và thiếu các hệ thống kiểm soát khí thải. Vừa qua việc kiểm soát tiêu chuẩn khí thải được thực hiện đối với xe máy vì là loại động cơ thải ra rất nhiều bụi, khí CO và Hydrocacbon. Ô nhiễm không khí do tiếng ồn Tại các giờ cao điểm hoặc công trường xây dựng người dân bị quá tải bởi lượng tiếng ồn khó chịu, liên tục trong thời gian dài gây ra. Ô nhiễm tiếng ồn cũng đang dần trở thành nguyên nhân đẩy tình trạng ô nhiễm môi trường không khí trở nên trầm trọng. II. Hiện trạng: Biểu đồ 1). Đây là áp lực rất lớn đối với môi trường không khí đô thị.
  • 27. Biểu đồ 1. Số lượng ô tô và xe máy hoạt động hàng năm của Việt Nam Nguồn: Cục Đăng kiểm Việt Nam và Vụ KHCN&MT, Bộ GTVT, 2009 Biểu đồ 6. Tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm do các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Việt Nam 1.Biện pháp quản lý: cần có một cơ quan đủ mạnh để đảm trách công tác khống chế ô nhiễm do hoạt động giao thông vận tải.Với cơ cấu hiện tại trách nhiệm này được chia sẻ cho nhiều đơn vị nên kết quả không cao. 2. Biện pháp quy hoạch, đầu tư xây dựng: Nhất là đối với mạng lưới đường sá. 3. Hiện nay công tác này chưa tốt dẫn đến hệ quả là mức độ tăng trưởngcủa mạng
  • 28. lưới đường sá chậm hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng đô thị hoá, tăng trưởng dân số và tăng trưởng phương tiện vận tải. 4. Hạn chế sự gia tăng phương tiện vận chuyển một cách tự phát: tăng cường và cải thiện các phương tiện vận tải công cộng như xe buýt, tiến tới xây dựng các phương tiện vận tải công cộng hiện đại hơn như tàu điện ngầm, tàu điện trên cao... 5. Sử dụng nhiên liệu sạch: Trước tiên là đưa vào việc sử dụng xăng không chì và có lộ trình để loại bỏ dần việc dùng xăng có chì. Tiếp cận với việc sử dụng các loại nhiên liệu sạch khác như điện, ga, Hydro, năng lượng mặt trời... 6. Cải thiện kỹ thuật xe máy nhằm giảm bớt sự phát thải khí ô nhiễm từ xe cộ và sử dụng các biện pháp đơn giản để giảm sự bay hơi nhiên liệu. 7. Tăng cường kiểm soát sự phát thải như kiểm tra sự thải khói, kiểm định kỹ thuật máy móc. Biện pháp này đã có nhưng còn yếu và vận hành chưa tốt. 8. Biện pháp giáo dục cộng đồng. 9. Trồng nhiều cây xanh.