SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUANG VỸ
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH - THỰC
TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 50515
Luận văn Thạc sỹ khoa học Luật
Hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Mẫn
HÀ NỘI, NĂM 2002
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn các thầy, cô giáo đang
công tác tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cùng các thầy, cô đã
giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và xây dựng luận văn.
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn Tiến sĩ luật học Nguyễn
Minh Mẫn - Vụ trưởng Vụ cải cách hành chính - Văn phòng Chính phủ
đã tận tình hướng dẫn, chỉ đạo, có nhiều ý kiến quý báu giúp em xây
dựng và nâng cao chất lượng luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Viện Nghiên cứu Hành chính - Học viện
Hành chính Quốc gia; Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương; Vụ
doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và xây
dựng luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình ủng hộ và
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và xây dựng
luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2002
Nguyễn Quang Vỹ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
SXKD Sản xuất kinh doanh
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
XHCN Xã hội chủ nghĩa
UBND Uỷ ban nhân dân
HĐQT Hội đồng quản trị
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
NXB Nhà xuất bản.
TBTN Tư bản tư nhân
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích
8
1.1 Khái niệm, đặc điểm của DNNN hoạt động công ích 8
1.2 Vị trí, vai trò của DNNN hoạt động công ích ở nước ta 30
1.3 Một số mô hình cung cấp hàng hoá, dịch vụ công ích điển
hình trên thế giới.
42
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích
49
2.1 Những quy định của pháp luật về thành lập, giải thể, phá sản
và tổ chức hoạt động của DNNN hoạt động công ích
49
2.2 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của DNNN hoạt động công ích 77
2.3 Một số nhận xét và đánh giá đối với những qui định của pháp
luật về DNNN hoạt động công ích
89
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới pháp luật
về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích
100
3.1 Phương hướng đổi mới pháp luật về DNNN hoạt động công
ích
101
3.2 Một số giải pháp đổi mới pháp luật về DNNN hoạt động công
ích
112
Kết luận 121
Tài liệu tham khảo 122
1
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1986 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của sự phát triển mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội của đất nước ta. Với Đại hội này, Đảng ta đã chủ
trương chuyển nền kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo cơ chế
kinh tế mới, các chủ thể kinh doanh, trong đó có DNNN đã chuyển mình sang
một môi trường kinh doanh mới với nhiều thuận lợi và thách thức. Một mặt,
loại hình doanh nghiệp này vừa được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận là hệ
thống doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế then chốt, giữ vai trò chủ đạo
của nền kinh tế. Mặt khác, DNNN cũng phải đương đầu với nhiều vấn đề do
bản thân nền kinh tế thị trường mang lại như: vấn đề bình đẳng cạnh tranh
giữa các loại hình doanh nghiệp, về trình độ, năng lực kinh doanh, cũng như
các vấn đề công nghệ, trang thiết bị và đặc biệt là trình độ quản lý doanh
nghiệp… Nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế xuất hiện, trong đó giải quyết có
hiệu quả những vấn đề đặt ra giữa mục tiêu kinh tế và xã hội đã trở thành một
đòi hỏi cấp bách.Trước tình hình đó, Nhà nước phải làm gì để thực hiện tốt cả
hai nhiệm vụ nói trên? Đây cũng là đề tài mà nhiều nhà quản lý, nhà kinh tế,
đặc biệt được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu.
Hiểu rõ DNNN hoạt động công ích là gì và phạm vi hoạt động của nó
đến đâu, vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với các hoạt động công ích
như thế nào đang là một chủ đề hấp dẫn cần được nghiên cứu đầy đủ và đưa
ra các giải pháp hiệu quả.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 20 tháng 4 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
thông qua Luật doanh nghiệp Nhà nước. Đạo luật này có hiệu lực từ ngày 30
tháng 4 năm 1995. Một trong những điểm mới của đạo luật này là lần đầu tiên
pháp luật nước ta có sự phân biệt rõ hơn giữa hai loại hình DNNN, đó là
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích, trong đó, thuật
ngữ DNNN hoạt động công ích được ghi nhận trong Luật đã thể hiện được sự
2
quan tâm nhiều hơn, cũng như sự nhìn nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò
của loại hình doanh nghiệp này. Hơn thế nữa, ngày 2 tháng 10 năm 1996,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/CP quy định chi tiết tổ chức và hoạt
động của các DNNN hoạt động công ích. Trên cơ sở Luật DNNN và Nghị
định 56, nhiều Bộ, ngành đã ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các
quan hệ liên quan đến DNNN hoạt động công ích. Thực tiễn hơn 6 năm thực
hiện đã chứng minh rằng: Luật doanh nghiệp nhà nước và các văn bản pháp
luật nói trên đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống các văn bản pháp luật
Việt Nam từ trước đến nay điều chỉnh loại hình DNNN. Với việc áp dụng các
văn bản pháp luật này, DNNN nói chung, DNNN hoạt động công ích nói
riêng đã chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu
của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò
chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, từng bước đi vào hoạt động ổn
định, đóng vai trò là lực lượng quan trọng trong thực hiện chính sách xã hội,
khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích
thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh, ngày càng thích ứng với cơ chế thị
trường1
…
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, quá trình thực
hiện Luật DNNN cũng như các văn bản dưới luật nói trên đã nảy sinh những
những vấn đề cần phải quan tâm: DNNN nói chung còn nhiều hạn chế, yếu
kém, có mặt rất nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp
lý, chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ
còn nhiều lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ2
… Mặt khác, các
cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình điều hành đã gặp nhiều vướng mắc,
một số DNNN còn lúng túng trong việc xác định loại hình doanh nghiệp của
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ưong 3, Khoá IX.
3
mình, đặc biệt là việc xác định loại hình DNNN hoạt động công ích. Nhiều
doanh nghiệp về mô hình tổ chức hoạt động sản xuất là DNNN hoạt động
kinh doanh, nhưng thực tế lại hoạt động vì lợi ích chung của xã hội; có những
doanh nghiệp được thành lập để thực hiện chức năng công ích cũng như một
số đơn vị hành chính sự nghiệp của Nhà nước lại có nguồn thu từ các hoạt
động của mình. Chính vì vậy, thời gian qua, Nhà nước ta đã có chủ trương sắp
xếp, đổi mới tổ chức hoạt động DNNN, trong đó có việc hoàn thiện hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của DNNN hoạt
động công ích, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình doanh nghiệp
này.
Từ đó, một loạt các vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ
như sự cần thiết phải có DNNN hoạt động công ích; phân biệt giữa DNNN
hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh; làm thế nào để nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN hoạt động công ích; về tổ chức, hoạt động của
DNNN hoạt động công ích như thế nào cho hiệu quả…
Xuất phát từ tình hình đó, chúng tôi chọn "Pháp luật về Doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích - Thực trạng và các giải pháp đổi mới" làm Luận
văn Cao học luật vì tính bức xúc cả về phương diện lý luận và thực tiễn của
vấn đề.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Luật DNNN ra đời, ở nước ta chưa có sự nhận thức rõ ràng về
loại hình DNNN hoạt động công ích nên chưa có sự quan tâm nghiên cứu
thực sự nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách và
cơ chế quản lý riêng đối với loại hình doanh nghiệp này. Mặt khác, cơ chế
kinh tế thị trường còn là vấn đề mới đang đặt ra nhiều thách thức đối với cơ
chế quản lý ở Việt Nam. Các vấn đề kinh tế - xã hội trong những năm đầu của
4
nền kinh tế thị trường đang đặt ra một cách bức xúc đã hướng sự chú ý của
các nhà hoạch định chính sách kinh tế, pháp luật cũng như các nhà nghiên
cứu trước hết vào các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh của nền kinh
tế thị trường hoặc loại hình DNNN hoạt động kinh doanh. Nhu cầu về sự phát
triển đồng bộ giữa hai loại hình DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt
động kinh doanh trong những năm đầu đổi mới còn chưa bộc lộ rõ, chưa thực
sự gây chú ý đối với các nhà nghiên cứu. Vì vậy, cho đến nay, nhiều đề tài
nghiên cứu về DNNN mới chỉ tập trung vào DNNN nói chung hoặc DNNN
hoạt động kinh doanh nói riêng. Kiến thức và kinh nghiệm nước ngoài về
DNNN hoạt động công ích được giới thiệu ở nước ta chủ yếu là kết hợp lồng
ghép vào nội dung doanh nghiệp hoặc DNNN nói chung mà chưa có nhiều
công trình nghiên cứu, đề cập một cách có hệ thống và tập trung vào các quy
định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến DNNN hoạt
động công ích cũng như cơ chế quản lý đối với loaị hình doanh nghiệp này.
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây chưa đòi hỏi
có sự phân tách giữa hai mô hình DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt
động kinh doanh, trong khi cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
thực sự đòi hỏi cần phải có sự phân định và chính sách quản lý riêng giữa loại
hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích nhằm đảm
bảo không những quyền tự chủ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh mà còn phải đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Đặc biệt, trong vài
năm gần đây, với những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang có xu hướng
gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo, các lợi ích chung của xã hội không được
quan tâm đúng mức đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh, định hướng của Nhà
nước. Pháp luật là một trong những công cụ rất quan trọng để nhà nước thực
hiện chức năng này. Việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh từng loại hình
5
doanh nghiệp là điều kiện để tạo lập nên một hành lang pháp lý cho doanh
nghiệp hoạt động, đặc biệt là những chính sách đảm bảo lợi ích chung của xã
hội được Nhà nước cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội liên quan đến DNNN hoạt động công ích.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Trong bản luận văn này, tác giả có ý định:
- Phân tích những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn đang đặt ra từ nội
dung của pháp luật về DNNN hoạt động công ích, cũng như từ thực tiễn thực
hiện các quy định pháp luật này.
- Trên cơ sở những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn triển khai thực
hiện pháp luật về DNNN hoạt động công ích, luận văn sẽ lần lượt giải quyết
các vấn đề đặt ra bằng việc đề xuất các kiến nghị cũng như các giải pháp tiếp
tục hoàn thiện và thực hiện pháp luật về DNNN hoạt động công ích.
Từ việc nghiên cứu đó, luận văn có những đóng góp chủ yếu như sau:
- Tổng hợp, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận chung như:
những quan niệm về DNNN, hoạt động công ích và DNNN hoạt động công
ích, vai trò và sự cần thiết phải có DNNN hoạt động công ích, vai trò của nhà
nước đối với hoạt động công ích nói chung, DNNN hoạt động công ích nói
riêng.
- Giúp phân biệt được giữa hai loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và
DNNN hoạt động công ích, từ đó xây dựng cơ chế quản lý thích hợp đối với
từng loại hình doanh nghiệp.
- Tìm ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp trong pháp luật về DNNN
hoạt động công ích, từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh loại hình doanh nghiệp này.
6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài là lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện
chứng duy vật và những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập đến
việc hoàn thiện và đổi mới hệ thống pháp luật về DNNN hoạt động công ích.
Đề tài cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê xã hội học và chứng minh;
phương pháp lịch sử, logíc pháp lý, phương pháp hệ thống, so sánh, quy nạp
và diễn dịch...
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
"Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng
và các giải pháp đổi mới" là một đề tài nghiên cứu tương đối mới và phức tạp,
bởi vì, nghiên cứu pháp luật về DNNN hoạt động công ích là: phải nghiên
cứu những vấn đề cơ bản của pháp luật về DNNN nói chung, đồng thời, phải
xem xét những đặc điểm pháp lý của DNNN hoạt động công ích, phân biệt nó
với loại hình DNNN hoạt động kinh doanh cũng như các loại hình doanh
nghiệp khác. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài tập trung
nghiên cứu các vấn đề pháp luật về DNNN hoạt động công ích trên cơ sở:
- Hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh loại hình DNNN nói
chung, pháp luật điều chỉnh DNNN hoạt động công ích nói riêng và các quy
phạm pháp luật khác có liên quan.
- Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về
DNNN hoạt động công ích kể từ khi Luật DNNN được ban hành và có hiệu
lực, làm căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc nghiên cứu.
7
Từ việc nghiên cứu này, đề tài tìm ra những điểm chưa phù hợp của
pháp luật với thực tiễn, những điểm pháp luật còn bỏ ngỏ nhằm đề xuất, kiến
nghị những phương hướng và giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật
về DNNN hoạt động công ích.
6. Bố cục của luận văn
Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu như
đã nêu trên, luận văn được trình bầy với những nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới pháp luật về doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích.
8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC HOẠT
ĐỘNG CÔNG ÍCH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC HOẠT
ĐỘNG CÔNG ÍCH
1.1.1. Khái niệm và những đặc trƣng cơ bản của DNNN
1.1.1.1. Khái niệm DNNN
DN - một loại chủ thể kinh doanh chủ yếu, có vai trò quan trọng và
không thể thiếu đối với sự hình thành và phát triển của bất kỳ nền kinh tế thị
trường nào. Nó cũng là một đối tượng được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu và có những cách lý giải, những quan niệm khác nhau về khái
niệm DN. Tuy nhiên, theo quan niệm chung nhất, thì DN là một tổ chức kinh
tế được thành lập để tiến hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức
năng sản xuất, chế biến, chế tạo sản phẩm hoặc mua bán hàng hoá, làm dịch
vụ cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường, xã hội. Thông qua đó,
DN có thể đạt được nhiều mục đích khác nhau, trong đó có mục đích căn bản
là thu lợi nhuận.
Trong thực tiễn đời sống kinh tế và pháp lý ở nước ta, cùng với sự hình
thành nền kinh tế thị trường, thuật ngữ DN được chính thức sử dụng lần đầu
tiên trong Luật Công ty được Quốc hội thông qua ngày 21.12.1990. Điều 3
Luật này định nghĩa “DN là một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục
đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Khi Luật doanh nghiệp
được Quốc hội thông qua ngày 12. 06 .1999 thì thuật ngữ DN một lần nữa đã
được khẳng định và giải thích rõ hơn. Điều 3 Luật Luật doanh nghiệp định
nghĩa: “DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh được hiểu là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi. Như vậy, theo cách định nghĩa của Luật doanh nghiệp, DN được
hiểu là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục đích kinh doanh thu lợi
nhuận.
9
DNNN trước hết được hiểu là một loại hình DN của Nhà nước. Tuy
nhiên, không nên nhầm lẫn khái niệm DNNN với khái niệm DN nói chung
theo Luật DN năm 1999 bởi vì thuật ngữ DNNN được sử dụng để phân biệt
với các loại hình DN khác cùng tồn tại trong nền kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Khái niệm DNNN ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế giới
đều có những tiêu chí khác so với khái niệm DN nói chung. Xét về mặt lý
luận, cho đến nay, trên thế giới vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về
DNNN. Tuỳ theo những đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của riêng mình
mà mỗi quốc gia đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác định DNNN. Chẳng
hạn, có người định nghĩa DNNN xuất phát từ mục đích thành lập, có người
định nghĩa căn cứ vào cơ cấu tổ chức, mức độ vốn của Nhà nước trong DN…
Theo khái niệm của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới cũng như của
Quỹ tiền tệ Quốc tế, DNNN là đơn vị SXKD do Nhà nước thành lập, đầu tư,
xây dựng. Nhà nước có quyền chi phối hoạt động SXKD dưới các hình thức
và mức độ khác nhau. Tức là coi các DNNN là thực thể kinh tế thuộc sở hữu
nhà nước và chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nưóc đối với quá trình hình thành
và hoạt động của DNNN. Theo đó, DNNN là "những DN do Nhà nước nắm
toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất
định quá trình ra quyết định của DN"3
.
Một số nhà kinh tế học cho rằng: DNNN được coi là một tổ chức trong
đó kết hợp những yếu tố công ích và những yếu tố DN. Nói cách khác, DNNN
tự nó vừa có chức năng phục vụ, vừa có chức năng kinh doanh với tư cách là
một đơn vị kinh tế. Cụ thể:
Những yếu tố “công ích” phản ánh chức năng phục vụ, bao gồm:
- Những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức
Nhà nước đảm nhận mà tiêu chí quan trọng trong các quyết định này không
thuần tuý chỉ là mục tiêu lợi nhuận.
- Lợi nhuận thu được là của Nhà nước chứ không thuộc về một nhóm
cá nhân nào khác.
3
Nguồn: Báo cáo về tình hình Kinh tế -xã hội thế giới năm 1985 của Liên hợp quốc.
10
- DN chịu trách nhiệm về việc bảo đảm các lợi ích xã hội trong phạm vi
hoạt động của mình.
Như vậy, yếu tố “công ích” trong DNNN là đặc điểm cơ bản thể hiện sự
khác biệt của DNNN với các loại hình DN khác trong nền kinh tế cũng như
vai trò của Nhà nước trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh tế thông
qua hệ thống DN của mình với tư cách của người điều tiết, đảm bảo các lợi
ích kinh tế - xã hội của cộng đồng.
Những yếu tố “DN”, phản ánh chức năng kinh doanh bao gồm:
- DN có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo
các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường.
- Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí. Yêu cầu này xuất phát từ
đòi hỏi giá cả phải bù đắp được toàn bộ chi phí.
Mặc dù có sự khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng cũng cần
phải khẳng định rằng, DNNN chính là một bộ phận của hệ thống DN nói
chung, được hình thành và phát triển trong nền kinh tế của từng quốc gia trên
thế giới và được xác định trên cơ sở 3 tiêu chí chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về quyền sở hữu tài sản của DN: Nhà nước là chủ sở hữu
hoặc là cổ đông chính, cổ đông có cổ phần chi phối trong DN. Theo đó, Nhà
nước có thể thực hiện quyền kiểm soát những chính sách chung mà DN theo
đuổi, có thể bổ nhiệm hoặc cách chức Ban quản lý DN.
Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ: DNNN được thành lập nhằm thực
hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước trên nguyên tắc đảm bảo
những lợi ích chung, lợi ích xã hội.
Thứ ba, về trách nhiệm của DN trong việc quản lý, thu chi tài chính:
DNNN cũng như các loại hình DN khác trong nền kinh tế, phải chịu trách
nhiệm độc lập về hạch toán, thu chi tài chính trong hoạt động SXKD của
mình.
Một DN nếu thiếu điều kiện thứ nhất sẽ là DN ngoài quốc doanh. Nếu
thiếu điều kiện thứ hai thì chỉ được coi như những DN kinh doanh đơn thuần
và nền kinh tế sẽ thiếu sự cạnh tranh lành mạnh nếu Nhà nước sử dụng vốn
của mình để tiến hành những hoạt động SXKD thuần tuý. Mặt khác, một
11
DNNN không chịu trách nhiệm độc lập về tài chính sẽ không còn được coi là
một DN nữa mà chỉ có thể được xem là tổ chức công cộng hay tổ chức sự
nghiệp của Nhà nước.
Tuy nhiên, tuỳ theo chính sách kinh tế-xã hội của mỗi nước, những tiêu
chí cụ thể để xác định DNNN có những khác biệt.Ví dụ, xét trên tiêu thức về
quyền sở hữu của Nhà nước, DNNN ở các nước như Úc, Tây Ban Nha thì Nhà
nước phải chiếm trên 50 % giá trị tài sản của DN, trong khi đó, ở Italia là
25%, ở Malaysia là 20% và ở Hàn Quốc chỉ là 10%.
ở Việt Nam, việc xác định DNNN cũng có những tiêu chí riêng biệt so
với tiêu chí của các quốc gia khác trên thế giới. Trước khi Luật DNNN ra đời,
thuật ngữ DNNN được sử dụng chính thức trong Nghị định 388/HĐBT ngày
20.11.1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Qui chế về
thành lập và giải thể DNNN. Điều 1 của Nghị định số 388 đã định nghĩa:
“DNNN là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý
với tư cách là chủ sở hữu”. Theo đó DNNN được xác định dựa trên những
tiêu chí sau:
- Về hình thức sở hữu về vốn: DNNN được Nhà nước đầu tư vốn và là
chủ sở hữu toàn bộ số vốn của DN.
- Về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức: DNNN là một tổ
chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức bộ máy quản lý DN, định hướng
hoạt động SXKD, DNNN được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ kinh
tế-xã hội do Nhà nước giao.
- Về chế độ quản lý thu chi tài chính: DNNN thực hiện chế độ hạch
toán kinh doanh như các loại hình DN khác và chịu trách nhiệm độc lập trong
phạm vi phần vốn Nhà nước giao.
Như vậy, theo Nghị định trên, mục đích hoạt động của DNNN được
đồng nhất và có chung mặt bằng pháp lý với các DN khác là cùng kinh doanh
vì lợi nhuận và vì thế, chưa thể hiện được vị trí vai trò của DNNN là một bộ
phận của hệ thống kinh tế Nhà nước, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, cũng như chưa thể hiện tính chất đặc biệt của DNNN là công cụ để
12
Nhà nước điều tiết nền kinh tế và hoạt động của DNNN không chỉ đơn thuần
vì mục đích kinh tế mà còn nhằm đảo bảo những lợi ích xã hội.
Để khắc phục những hạn chế trên, Điều 1, Luật DNNN được Quốc hội
nước ta thông qua ngày 20 tháng 04 năm 1995 định nghĩa:
“DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN
quản lý.
DNNN có tên gọi, có con dấu riêng có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt
Nam”.
Định nghĩa và quan niệm trên đã xác định vị trí đích thực của DNNN,
phù hợp với sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội trong cơ chế kinh tế
mới, tạo cơ sở pháp lý nhằm vừa phát huy vai trò chủ đạo của hệ thống
DNNN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của DNNN, tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với loại hình DN này vừa thúc đẩy hệ thống DNNN hoạt động có
hiệu quả và thực hiện đúng các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của DNNN:
Theo định nghĩa tại Điều 1, Luật DNNN, chúng ta thấy DNNN có
những đặc điểm sau:
- DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, chịu sự quản lý của
Nhà nước.
DNNN là một loại hình DN nói chung, bình đẳng trước pháp luật trong
hoạt động SXKD như đối với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, tất cả
các DNNN đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định
thành lập khi thấy việc thành lập DN là cần thiết. Đồng thời, DNNN được tổ
chức và hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của một cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo sự phân cấp quản lý của Nhà nước.
13
- DNNN do Nhà nước đầu tư vốn, tài sản trong DNNN là một bộ phận
của tài sản Nhà nước.
Khi DNNN được chính thức thành lập trong đó, vốn và tài sản của DN
do Nhà nước cấp. Nhà nước chính là chủ sở hữu trái quyền hay sở hữu về mặt
giá trị4
đối với số vốn và tài sản của DNNN. Với tư các chủ sở hữu, Nhà nước
giao vốn cho DNNN quản lý và sử dụng theo qui định của pháp luật trên
nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Song, vốn và tài sản của DNNN luôn là
một bộ phận của tài sản nhà nước.
Tuy nhiên, trong thời gian qua thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới
DNNN, nhiều DNNN đã thực hiện cổ phần hoá trong đó có sự tham gia đầu
tư của các cá nhân, tổ chức thuộc khu vực tư nhân; một phần tài sản của
DNNN do các cá nhân, tổ chức này góp vốn với tư cách cổ đông của công ty.
Do vậy cần hiểu một cách đầy đủ hơn về đặc điểm này, hay nói một cách
chính xác hơn là: DNNN do Nhà nước đầu tư toàn bộ hay một phần vốn theo
những điều kiện mà pháp luật qui định.
- DNNN được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
do Nhà nước giao.
Nhà nước luôn phải thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất
định. Để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đó, Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập hệ thống DN của mình và với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước giao
cho từng DNNN thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, cụ thể DNNN có
nghĩa vụ phải thực hiện và đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu kinh tế xã
hội mà Nhà nước giao cho bởi vì đây chính là mục đích của việc Nhà nước
thành lập nên hệ thống DNNN. Thông qua phương tiện vật chất là hệ thống
DNNN, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế cũng như đảm
bảo các chính sách xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản trong hoạt động của
DNNN so với các loại hình DN ngoài quốc doanh.
- DNNN là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và là chủ thể
trong các quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự.
Điều này được thể hiện ở các khía cạnh sau:
4
TS. Nguyễn Như Phát, Quyền tự chủ về vốn và tài sản của DNNN, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
3/1999, trang 25.
14
+ DNNN được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định
thành lập (được thành lập một cách hợp pháp).
+ DNNN được Nhà nước giao vốn (có tài sản riêng) và chịu trách
nhiệm một cách độc lập bằng tài sản đó khi tham gia vào các quan hệ kinh tế,
dân sự.
+ DNNN có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động
SXKD của DN.
+ Là một pháp nhân, DNNN nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật và là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các quan hệ tố tụng.
- DNNN chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn do DN quản lý.
Trên có sở số vốn được Nhà nước cấp, DNNN tự quyết định, tổ chức
hoạt động SXKD theo qui định của pháp luật trên nguyên tắc bảo toàn và phát
triển vốn. Trong các quan hệ kinh tế, DNNN chịu trách nhiệm trước pháp luật
trong phạm vi số vốn do DN quản lý (DNNN chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phạm vi số vốn điều lệ của DN).
1.1.1.3. Phân loại DNNN
DNNN có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy
nhiên, căn cứ vào quy định trong văn bản pháp luật hiện hành, DNNN ở nước
ta được phân loại như sau:
Căn cứ theo mục tiêu hoạt động, DNNN có thể phân thành hai loại,
gồm:
- DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền và nghĩa vụ quản
lý và sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để
thực hiện các mục tiêu kinh doanh, nhằm thu lợi nhuận hoặc thực hiện những
nhiệm vụ đặc biệt của Nhà nước.
- DNNN hoạt động công ích là các DNNN hoạt động sản xuất, cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, hoạt động chủ yêú không vì
mục tiêu lợi nhuận. DNNN hoạt động công ích có quyền và nghĩa vụ qủan lý,
15
sử dụng có hiệu quả vốn, kinh phí và các nguồn lực khác do Nhà nước giao
để cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ công ích theo kế hoạch, đơn đặt hàng
của Nhà nước theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định.
Căn cứ theo hình thức tổ chức hoạt động có thể chia DNNN thành 2
nhóm chính như sau:
- DNNN độc lập là DNNN không ở trong có cấu DNNN khác.
- Tổng công ty theo Luật DNNN là loại hình Tổng công ty được Nhà
nước thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết tự nguyện của nhiều đơn vị
thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ,
cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động
trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng
cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm
vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Tổng công ty Nhà
nước theo Luật DNNN có thể có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập;
hạch toán phụ thuộc hoặc đơn vị sự nghiệp.
Căn cứ theo cơ cấu tổ chức, DNNN gồm hai loại:
- DNNN có HĐQT: DNNN độc lập qui mô lớn và Tổng công ty thường
có HĐQT, có cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm HĐQT, Tổng giám đốc hoặc
Giám đốc và bộ máy giúp việc. HĐQT thực hiện chức năng quản lý hoạt động
của DN, chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước được
Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển DN theo mục tiêu Nhà nước giao.
- DNNN không có HĐQT: Những DNNN có qui mô nhỏ thường được
tổ chức theo mô hình gồm giám đốc và bộ máy giúp việc mà không có sự
quản lý của HĐQT.
Căn cứ theo qui mô kinh doanh, DNNN có thể phân thành 3 nhóm sau:
- DNNN qui mô lớn;
- DNNN qui mô vừa;
- DNNN có quy mô nhỏ.
Căn cứ theo mức độ đóng góp vốn của Nhà nước và mức độ chi phối
của Nhà nước, ta có:
16
- DN có 100% vốn của Nhà nước là DN do Nhà nước đầu tư toàn bộ số
vốn với tư cách chủ sở hữu duy nhất của DN.
- DNNN có cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của Nhà nước,
trường hợp này đã có sự tham gia đầu tư vốn của thành phần kinh tế khác,
nhưng cổ phần chi phối của Nhà nước chiếm từ 50% tổng số cổ phần của DN,
hoặc cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất
khác trong DN. Còn cổ phần đặc biệt của Nhà nước là cổ phần của Nhà nước
trong một số DN mà Nhà nước không có cổ phần chi phối, nhưng có quyền
quyết định một số vấn đề quan trọng của DN theo thoả thuận trong điều lệ của
DN.
Căn cứ theo các ngành kinh tế- kỹ thuật có thể phân DNNN theo nhóm
các ngành kinh tế kỹ thuật sau đây:
- DNNN thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và phục vụ sản
xuất nông, lâm nghiệp.
- DNNN thuộc các ngành công nghiệp - xây dựng và phục vụ sản xuất
công nghiệp.
- DNNN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên
lạc.
- DNNN thuộc các ngành khác,
Căn cứ tinh thần Nghị quyết Trung ương ba Khoá IX của Đảng về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
ngày 26 tháng 4 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
58/2002/QĐ-TTg ban hành tiêu chí danh mục phân loại DNNN và Tổng công
ty nhà nước. Theo tinh thần Quyết định này, về cơ bản các DNNN cũng được
phân chia theo những tiêu chí như đã trình bầy ở trên; Cụ thể là được phân
chia thành các DNNN (bao gồm các DNNN độc lập và DN thành viên của các
Tổng công ty nhà nước) và các Tổng công ty nhà nước, DNNN độc lập và DN
thành viên của các Tổng công ty nhà nước, DNNN hoạt động kinh doanh và
DNNN hoạt động công ích, hoặc phân chia theo qui mô, mức độ đầu tư vốn
(ví dụ: Tổng công ty nhà nước phải có mức vốn từ 500 tỷ đồng trở lên, đối với
17
ngành đặc thù theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ vốn nhà nước có thể
thấp hơn nhưng không dưới 100 tỷ đồng), hay theo ngành, lĩnh vực hoạt động
của DNNN.
Tóm lại, do đặc thù của từng nền kinh tế trên thế giới, tiêu chí cụ thể để
xác định DNNN của các nước trên thế giới còn có nhiều điểm khác nhau. ở
Việt Nam, theo qui định của pháp luật hiện hành, DNNN được coi là một tổ
chức kinh tế do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn, tổ chức quản lý và hoạt động
theo những mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trên thực tế, sự tồn tại và
phát triển của DNNN chủ yếu trên các lĩnh vực, những ngành kinh tế trọng
yếu như tài chính, ngân hàng, dầu khí, điện lực, hàng không, bưu chính viễn
thông và các lĩnh vực dịch vụ khác có vai trò quan trọng trong việc điều tiết
nền kinh tế, đảm bảo những lợi ích kinh tế của Nhà nước.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của DNNN hoạt động công ích:
1.1.2.1. Hàng hoá, dịch vụ công cộng và hoạt động công ích
Trong nền kinh tế thị trường, khu vực tư thường chiếm tỷ trọng lớn
trong việc cung ứng các hàng hoá, dịch vụ cho xã hội. Song, có những dịch
vụ tối cần thiết cho cuộc sống bình thường của cộng đồng mà tư nhân không
thể cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không đảm bảo được lợi ích của xã
hội. Khi đó, nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền có trách nhiệm
cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát việc cung ứng các dịch vụ này nhằm đảm
bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế. Trong kinh tế học, các
nhà khoa học đã phân biệt hai loại hàng hoá chính mà con người phải sử dụng
là hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng. Hàng hoá cá nhân là loại hàng
hoá phục vụ nhu cầu của cá nhân mà khi người này sử dụng, tiêu dùng thì
người khác không thể sử dụng được nữa và với một số lượng hàng hoá cá
nhân nhất định, nếu người này dùng nhiều thì người khác sẽ phải dùng ít đi,
tức là tiêu dùng của người này ảnh hưởng trực tiếp tới tiêu dùng của người
khác. Trái lại, hàng hoá công cộng là loại hàng hoá được sản xuất ra để phục
vụ những nhu cầu chung của xã hội. Hàng hóa công cộng có thể phân biệt
được với hàng hoá tư nhân ở chỗ, hàng hoá tư nhân có thể đo được, và đặc
biệt có khả năng rất cao về phân chia theo khẩu phần, trong khi đó, hàng hoá
18
công cộng như quốc phòng có thể cung cấp cho tất cả ngay cả khi nó được
cung cấp cho một người. Loại hàng hoá và dịch vụ này mang lại lợi ích không
chỉ cho những người mua nó mà cho cả những người không phải trả tiền cho
hàng hoá, dịch đó. Đó là nguyên nhân dẫn đến chỗ chính phủ trở thành người
sản xuất hoặc bảo đảm cung ứng các loại hàng hoá, dịch vụ công cộng5
. Hay
hiểu theo nghĩa rộng hơn, hàng hoá và dịch vụ công cộng là những hàng hoá
và dịch vụ được nhà nước cung cấp cho lợi ích của tất cả hay đa số nhân dân.6
Như vậy, để nhận dạng hàng hoá công cộng, cần dựa vào 3 đặc trưng
chủ yếu:
Thứ nhất, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng. Cụ thể hàng hoá công
cộng một khi đã được cung ứng cho người này thì có thể được cung ứng cho
người khác mà không phải chi phí thêm.
Thứ hai, tính không ngăn cản trong tiêu dùng. Trên thực tế, sẽ không
thể hoặc rất khó khăn, tốn kém nếu muốn ngăn cản một người sử dụng hàng
hoá, dịch vụ công cộng. Bởi vì, hàng hoá công cộng có loại không thể loại trừ
việc tiêu dùng như lợi ích quốc phòng, an ninh, hệ thống đê điều, hệ thống
đèn tín hiệu, biển báo giao thông... hoặc có loại có thể loại trừ tiêu dùng
nhưng việc loại trừ này rất tốn kém như việc sử dụng hệ thống giao thông
công cộng, cầu cống... Ngoài ra, có một số loại hàng hoá công cộng như cứu
hoả, tiêm chủng, phòng và chữa bệnh... thì việc hạn chế sử dụng nó sẽ dẫn
đến những hậu quả hết sức nguy hiểm cho những lợi ích chung của xã hội.
Thứ ba, tính không thể loại bỏ được. Có nghĩa là một người không thể
từ chối việc tiêu dùng một hàng hoá công cộng ngay cả khi người đó muốn
như vậy. Thí dụ như hệ thống đê điều, hệ thống an ninh quốc phòng...
` Căn cứ vào 3 đặc trưng nêu trên, hàng hoá công cộng được phân chia
thành hai nhóm: Nhóm hàng hoá và dịch vụ công cộng thuần tuý và nhóm
hàng hoá và dịch vụ công cộng không thuần tuý.
5
Học viện Hành chính Quốc gia: "Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính", NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2001, trang 166.
6
Chritoppher Pass, Bryan Lower Leslie Davies, Từ điển kinh tế, bản dịch tiếng Việt của Trung tâm đào tạo
và nghiên cứu khoa học ngân hàng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
19
- Hàng hoá và dịch vụ công cộng thuần tuý là loại hàng hoá và dịch vụ
thể hiện đầy đủ cả 3 đặc trưng của hàng hoá công ích. Cụ thể, hàng hoá, dịch
vụ công cộng thuần tuý không thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng và
người ta cũng không muốn sử dụng nó theo khẩu phần,7
cũng như không thể
qui định mức độ sử dụng các loại hàng hoá và dịch vụ này. Hay hiểu một cách
khác, việc sử dụng hàng hoá công cộng của người này không làm ảnh hưởng
đến việc sử dụng của người khác (ví dụ hệ thống đèn chiếu sáng công cộng).
Ngoài ra, khi đã cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng thuần tuý thì không
thể ngăn cản những người muốn tiêu dùng nó (ví dụ hệ thống đèn hải đăng
hoặc hệ thống đèn cảnh báo luồng lạch). Hơn nữa, việc sử dụng loại hàng
hoá, dịch vụ công ích thuần tuý không chỉ có ý nghĩa cho bản thân người sử
dụng mà còn mang lại những lợi ích lớn hơn về mặt xã hội. Đồng thời, do
không thể chia nhỏ cũng như không thể xác định một cách chính xác số lượng
người sử dụng hàng dịch vụ, công cộng thuần tuý nên người sản xuất, cung
cấp dịch vụ cũng không thể định giá cho đối tượng sử dụng loại hàng hoá,
dịch vụ này (ví dụ dịch vụ quốc phòng, an ninh hay thông tin dự báo thời
tiết...). Từ đặc điểm này, chúng ta có thể liệt kê một số loại hàng hoá, dịch vụ
công cộng thuần tuý của một quốc gia như sau:
+ Hệ thống an ninh, quốc phòng của quốc gia;
+ Hệ thống phòng cháy chữa cháy;
+ Hệ thống dịch vụ bảo vệ môi trường sinh thái;
+ Hệ thống đê điều, phòng chống bão lụt;
+ Hệ thống các biển báo, chỉ dẫn đường sông, đường biển, đường bộ,
đường hàng không;
+ Hệ thống dịch vụ thông tin dự báo thời tiết, khí hậu thuỷ văn;
+ Hệ thống dịch vụ vệ sinh môi trường đô thị, thoát nước;
+ Hệ thống thông tin các công trình phát minh, sáng chế đã được công
bố;
7
Joseph E.Stiglitz, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học kỹ thuật, 1995, trang 166.
20
+ Các loại hàng hoá và dịch vụ công cộng không phải trả tiền khác.
- Hàng hoá và dịch vụ công cộng không thuần tuý: Đây là loại hàng
hoá và dịch vụ không thể hiện đầy đủ 3 đặc trưng của hàng hoá, dịch vụ công
ích. Cụ thể, việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ công cộng không thuần tuý có thể
hạn chế được và thường người sử dụng nó phải tuân thủ những điều kiện nhất
định như phải trả lệ phí sử dụng, phải chờ đợi để được thoả dụng (ví dụ hệ
thống cầu đường, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống cung cấp điện,
nước; hệ thống bưu điện, thông tin bưu chính viễn thông...).
Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân biệt giữa hàng hoá cá nhân và hàng
hoá công cộng, hay giữa hàng hoá, dịch vụ công cộng thuần tuý và hàng hoá,
dịch vụ công cộng không thuần tuý chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì, có
những loại hàng hoá, dịch vụ vừa mang tính chất công ích, vừa mang tính
chất cá nhân (như hàng hoá, dịch vụ công cộng không thuần tuý). Hơn nữa,
việc xác định loại hàng hoá, dịch vụ công cộng không chỉ đơn thuần dựa vào
tính chất công của hàng hoá đó mà nó còn phụ thuộc vào chính sách cung cấp
của Nhà nước đối với loại hàng hoá này. Nhà nước có thể bao cấp toàn bộ
hoặc bao cấp một phần đối với những loại hình dịch vụ công cộng tuỳ theo
chính sách xã hội và những lợi ích xã hội mà dịch vụ công ích đó mang lại.
Nếu như trước đây, dịch vụ y tế, giáo dục được Nhà nước bao cấp hoàn toàn
thì chúng được coi là hàng hoá công cộng thuần tuý và mọi người không phải
trả tiền và được quyền sử dụng như nhau đối với loại dịch vụ này. Nhưng hiện
nay, theo chính sách xã hội hoá của nhà nước đối với loại hình dịch vụ y tế,
giáo dục, người tiêu dùng phải trả một phần chi phí khi sử dụng dịch vụ này
và do vậy, loại hình dịch vụ công cộng này lại trở thành dịch vụ công cộng
không thuần tuý. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu còn xếp hàng hoá và
dịch vụ công cộng không thuần tuý vào loại hàng hoá và dịch vụ cá nhân
được cung cấp công cộng.
Một cách tiếp cận khác cho rằng, dịch vụ công cộng là những hoạt
động phục vụ cho lợi ích chung tối cần thiết của cả cộng đồng, do các cơ quan
21
công quyền hay những chủ thể được chính quyền uỷ nhiệm đứng ra thực
hiện.8
Theo cách tiếp cận này, dịch vụ công cộng có những đặc điểm chính
như sau:
- Đó là những hoạt động có tính chất xã hội, phục vụ lợi ích chung tối
cần thiết của cả cộng đồng để bảo đảm cuộc sống được bình thường và an
toàn.
- Đó là những hoạt động do các cơ quan công quyền hay những chủ thể
được chính quyền uỷ nhiệm đứng ra thực hiện như một trách nhiệm chính
thức của nhà nước trước công dân.
- Việc trao đổi dịch vụ công cộng không thông qua quan hệ thị trường
đầy đủ. Thông thường, người sử dụng hàng hoá, dịch vụ này không trực tiếp
trả tiền, hay nói đúng hơn là trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách
nhà nước để nhà nước tổ chức việc cung ứng các dịch vụ này. Nhưng cũng có
những dịch vụ mà người sử dụng vẫn phải trả thêm một phần hoặc toàn bộ
kinh phí; tuy nhiên, đối với các dịch vụ này, nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo
đảm việc cung ứng không nhằm vào mục tiêu lợi nhuận.
- Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít hoặc không phải đóng
thuế) đều có quyền tiếp cận ngang nhau đến những loại dịch vụ công cộng, có
quyền thụ hưởng sự cung ứng dịch vụ này ở một mức độ tối thiểu, với tư cách
là đối tượng phục vụ của chính quyền. Lượng dịch vụ công cộng mà mỗi
người tiêu dùng không phụ thuộc vào mức thuế mà người đó đóng góp.
- Khác với những loại dịch vụ thông thường được hiểu là những hoạt
động phục vụ không tạo ra sản phẩm hình thái hiện vật, dịch vụ công cộng là
những hoạt động của nhà nước phục vụ các nhu cầu thiết yếu của xã hội, bất
kể sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện vật.
- Xét dưới góc độ kinh tế học, dịch vụ công cộng là hoạt động cung cấp
cho xã hội những hàng hoá công cộng, bao gồm cả những hàng hoá có tính cá
8
TS. Lê Chi Mai, Dịch vụ công cộng và những căn cứ để xã hội hoá dịch vụ công cộng, Tạp chí Quản lý
Nhà nước số 6/ 2000, trang 18.
22
nhân, thiết yếu được nhà nước bảo đảm cung ứng như điện, nước nước sinh
hoạt…
Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu một cách khái quát nhất
hàng hoá và dịch vụ công cộng là những hàng hoá, dịch vụ được cung cấp
cho việc sử dụng chung của mọi người và mọi người dân đều có quyền
bình đẳng với nhau khi tiếp cận đến loại hàng hóa, dịch vụ này.
Khi bàn đến khái niệm hoạt động công ích cũng có nhiều quan niệm
khác nhau tuỳ thuộc vào cách tiếp cận của mỗi nhà khoa học. Chẳng hạn, có
quan niệm cho rằng, hoạt động công ích chính là những hoạt động phục vụ
trực tiếp lợi ích công cộng, bao gồm các nhu cầu thiết yếu, cơ bản trong đời
sống con người - được gọi là các dịch vụ công cộng (như cung cấp điện nước,
thu gom rác thải, xây dựng kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục…) mà người dân
mong muốn và yêu cầu nhà nước cung cấp cho mình.9
Mặc dù quan niệm này
chưa chỉ rõ chúng có bao gồm những hoạt động của các DN đảm nhận nhiệm
vụ an ninh, quốc phòng hay không, nhưng theo chúng tôi, ở đây cũng cần
khẳng định thêm rằng, các hoạt động do các DN đảm nhận mặc dù có một số
đặc thù nhất định, nhưng xét về tính chất hoạt động và chủ thể của việc cung
cấp, các hàng hoá, dịch vụ này có thể được xem là sản phẩm của hoạt động
công ích.
Cũng cần khẳng định, hoạt động công ích có mối quan hệ chặt chẽ với
phạm trù hàng hoá, dịch vụ công cộng. Trong nhiều trường hợp, hàng hoá,
dịch vụ công cộng chính là sản phẩm của hoạt động công ích. Tuy nhiên,
cũng cần thấy rằng, mặc dù hoạt động công ích và hàng hoá và dịch vụ công
cộng là hai khái niệm có quan hệ gần gũi, nhiều khi khó phân biệt, nhưng
chúng không hoàn toàn đồng nhất. Nếu như dấu hiệu cơ bản của hàng hoá
dịch vụ công cộng là những hàng hoá dịch vụ mà một người này sử dụng
không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng của người khác; người sản xuất hàng
hoá, dịch vụ công cộng có thể bị lỗ hoặc có thể có lãi thì hoạt động công ích
theo tư tưởng của pháp luật nước ta cũng như ở một số nước trên thế giới là
9
Học viện Hành chính Quốc gia: "Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính", NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2001, trang 166-167.
23
những hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ có thể là phục vụ cho mục đích
sử dụng công cộng hoặc tiêu dùng cá nhân nhưng ít nhất phải đáp ứng hai
điều kiện (điều kiện bắt buộc):
- Là hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nếu không có nó thì sẽ ảnh hưởng đến
đời sống an toàn xã hội.
- Do chi phí quá cao và không có lãi, hoặc lãi thấp nên người sản xuất
không muốn làm, hoặc do chính sách của nhà nước phải qui định giá hoặc phí
và vì vậy, người sản xuất cũng không có khả năng thu lời đối với hàng hoá,
dịch vụ công ích nên nhà nước phải là người chịu trách nhiệm tổ chức, sản
xuất cung ứng và có cơ chế thích hợp.10
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động công
ích là việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho lợi ích và nhu
cầu thiết yếu của cộng đồng xã hội hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh, bí mật quốc gia do nhà nước hoặc những chủ thể được
nhà nước uỷ nhiệm đứng ra tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo duy trì sự ổn
định, an toàn và phát triển bình thường của xã hội mà không lấy lợi nhuận
làm mục tiêu hàng đầu.
Trong thực tiễn nghiên cứu, hoạt động công ích được phân loại dựa trên
nhiều tiêu chí khác nhau:
- Nếu căn cứ vào tính chất của từng loại hình hoạt động, người ta phân
hoạt động công ích thành nhiều loại. Thông thường thì những hoạt động đó
là:
+ Hoạt động công ích trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng;
+ Hoạt động công ích trong lĩnh vực nhà ở;
+ Hoạt động cung cấp điện, nước, khí đốt cho người dân, đặc biệt ở
các thành phố lớn;
+ Dịch vụ thu gom rác thải, các loại phế thải rắn;
10
TS. Trần Tiến Cường, Dự án VIE/97/016 "Cải thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh" Hội thảo Đổi
mới quản lý hoạt động công ích và DNNN hoạt động công ích, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, Hà Nội, 2000.
24
+ Dịch vụ thoát nước thải, nước mưa;
+ Dịch vụ vận tải công cộng trong các thành phố lớn cũng như vận tải
liên tỉnh (thành phố);
+ Dịch vụ chiếu sáng công cộng, cây xanh, công viên, cảnh quan đô
thị;
+ Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ;
+ Dịch vụ giáo dục và đào tạo;
+ Dịch vụ văn hoá, thông tin;
+ Dịch vụ vui chơi, giải trí;
+ Các loại dịch vụ công ích khác;
- Nếu căn cứ vào hình thức thanh toán khi sử dụng dịch vụ công ích,
loại hình dịch vụ này được chia thành hai nhóm:
+ Nhóm thứ nhất: Loại dịch vụ công ích không phải trả tiền và ai cũng
có quyền được hưởng loại dịch vụ này (Nhà nước sẽ bao cấp toàn bộ việc
cung cấp loại hình dịch vụ này).
+ Nhóm thứ hai: Dịch vụ công ích phải trả một phần tiền hay toàn bộ
giá trị mà dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng.
Quan điểm phân chia hai nhóm dịch vụ này càng trở nên phổ biến trong
nền kinh tế thị trường nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước cũng
như nâng cao chất lượng của từng loại hình dịch vụ công ích.
- Nếu căn cứ vào vai trò của chủ thể cung cấp dịch vụ công ích, có thể
phân chia dịch vụ công ích thành hai nhóm:
+ Nhóm dịch vụ công ích chỉ do Nhà nước đảm nhận việc cung cấp;
+ Nhóm các loại dịch vụ công ích do các thành phần kinh tế khác có
thể tham gia cung cấp và chịu sự quản lý của Nhà nước.
Xét trên phương diện quản lý nhà nước, việc phân chia các loại dịch vụ
công ích theo hai nhóm khác nhau do các chủ thể kinh tế cung cấp như trên có
ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức và đưa ra các phương thức quản lý cho
25
phù hợp. Song mỗi loại hình dịch vụ công ích đã nêu có một vai trò quan
trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, do đó cũng cần quan
tâm đến các cách phân loại khác khi đưa ra các biện pháp cần thiết để tiến
hành quản lý các loại hình cung cấp dịch vụ công ích.
1.1.2.2. Khái niệm DNNN hoạt động công ích:
Nói đến DNNN hoạt động công ích là nói đến một loại chủ thể được
thành lập chủ yếu để thực hiện các hoạt động công ích. Theo đó, DNNN hoạt
động công ích có thể được hiểu là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, thực hiện việc sản xuất cung ứng hàng hoá,
dịch vụ phục vụ cho lợi ích và nhu cầu thiết yếu của cộng đồng xã hội hoặc
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bí mật quốc gia nhằm đảm
bảo duy trì sự ổn định, an toàn và phát triển bình thường của xã hội mà không
lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu. Nói cách khác, DNNN hoạt động công
ích, được hiểu là một tổ chức của Nhà nước sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp
dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước.
ở Việt Nam, trước khi Luật DNNN năm 1995 được ban hành, khái
niệm DN hoạt động công ích cũng như khái niệm DNNN hoạt động công ích
chưa được đề cập đến trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta. Sở dĩ
như vậy là vì trên thực tế chưa có sự phân biệt giữa hoạt động sản xuất, cung
cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng với hoạt động sản xuất, cung cấp hàng hoá,
dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Các DNNN được lập ra đều nhằm mục đích thực
hiện những nhiệm vụ kinh tế- xã hội do Nhà nước giao. Khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, hiệu quả SXKD là nhân tố quyết định sự sống còn của
DNNN. Trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại hệ thống DNNN theo hướng gọn
nhẹ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đã xuất hiện những DNNN hoạt động
trong những lĩnh vực mang lại lợi ích xã hội nhiều hơn là lợi ích kinh tế.
Song, chính sách, pháp luật của Nhà nước về DNNN thường chỉ chú trọng
đến việc điều chỉnh những DNNN hoạt động kinh doanh thuần tuý. Vì vậy,
Nhà nước phải có những chính sách cụ thể đối với loại hình DNNN hoạt động
công ích bởi vì không thể đánh giá hiệu quả của những DN loại này khi chỉ
đơn thuần dựa trên hiệu quả kinh tế hay chỉ tiêu lợi nhuận. Từ thực tế này, hệ
26
thống pháp luật về DNNN cần phải ghi nhận một loại hình DN mới, đó là
DNNN hoạt động công ích.
Theo tinh thần đó, Luật DNNN năm 1995 đã ghi nhận hai mô hình:
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Điều đó đã làm
thay đổi khái niệm DNNN trước đây, đồng thời thừa nhận một loại hình
DNNN mới, có vai trò và chức năng đặc biệt trong nền kinh tế - xã hội, đó là
DNNN hoạt động công ích.
Khoản 4, Điều 3, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 định nghĩa:
“DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ
công cộng theo chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh”. Với khái niệm này rất khó xác định DNNN nào được
coi là DNNN hoạt động công ích bởi vì tiêu chí “sản xuất, cung ứng dịch vụ
công cộng theo chính sách của Nhà nước” vẫn chưa chỉ rõ những loại hàng
hoá, dịch vụ nào được coi là hàng hoá, dịch vụ công cộng. Chính vì vậy mà
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/CP ngày 02 tháng 10 năm 1996 của
Thủ tướng Chính phủ giải thích rõ hơn về DNNN hoạt động công ích. Điều 1
của Nghị định này qui định:
“DNNN hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành
viên hạch toán độc lập của Tổng công ty nhà nước, trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng
theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và
theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định, hoạt động chủ yếu không
vì mục tiêu lợi nhuận”.
Như vậy, lần đầu tiên, thuật ngữ “DNNN hoạt động công ích” và khái
niệm về DNNN hoạt động công ích đã được ghi nhận trong pháp luật ở nước
ta. Mục đích của việc ghi nhận loại hình DNNN hoạt động công ích là nhằm
đưa ra một tiêu chí xác định một loại hình DNNN đặc thù nhằm phân biệt với
loại hình DNNN hoạt động kinh doanh đơn thuần, từ đó xây dựng một qui chế
pháp lý phù hợp cho từng loại hình DNNN. Điểm khác biệt cơ bản trong việc
đánh giá hiệu quả của hai loại hình DNNN là lấy hiệu quả tổng hợp bao gồm:
27
kinh tế - chính trị - xã hội, trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong
những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của DN kinh doanh; lấy kết
quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu
quả của DN công ích11
.
1.1.2.3. Đặc điểm của DNNN hoạt động công ích:
Với tư cách là một loại hình của DNNN, nên DNNN hoạt động công
ích cũng chứa đựng những đặc điểm của DNNN nói chung. Bên cạnh đó,
DNNN hoạt động công ích còn có những đặc điểm riêng biệt so với các loại
hình DN khác. Có thể kể đến những đặc điểm này như sau:
Về nhiệm vụ: DNNN hoạt động công ích là DNNN trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng an ninh hoặc sản xuất sản phẩm cung ứng dịch vụ công
cộng theo chính sách của Nhà nước. Điều 2 của Nghị định số 56/CP qui định
rõ các nhiệm vụ cụ thể đó bao gồm:
- Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc
phòng an ninh và các DN tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh
tế với quốc phòng.
- Sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng khác có ít nhất 70%
doanh thu từ các hoạt động trong các lĩnh vực sau đây:
+ Giao thông công chính đô thị,
+ Quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ
thống đường sắt quốc gia, đường bộ, đường thuỷ, sân bay, điều hành bay, bảo
đảm hàng hải, dẫn dắt tàu ra vào cảng biển, kiểm định kỹ thuật phương tiện
giao thông đường bộ, đường thuỷ.
+ Kiểm tra, kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện.
+ Khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi.
+ Sản xuất giống gốc cây trồng vật nuôi.
+ Sản xuất và phát hành sách giáo khoa, sách báo chính trị, sản xuất và
phát hành phim thời sự, tài liệu, phim cho thiếu nhi, sản xuất và cung ứng
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa IX.
28
muối ăn, chiếu bóng phục vụ vùng cao, biên giới, hải đảo, sản xuất sản phẩm,
cung ứng dịch vụ khác theo chính sách xã hội của Nhà nước.
Về cách thức tiến hành sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ: DNNN
hoạt động công ích không được tự ý tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ công
cộng mà hoạt động sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng của DN
phải thực hiện kế hoạch do Nhà nước giao hoặc theo đơn đặt hàng của Nhà
nước. Nếu như điểm nổi bật trong Luật DNNN năm 1995 là việc Nhà nước
giao quyền tự chủ cho các DN của mình trong việc lập kế hoạch, tổ chức hoạt
động SXKD thì DNNN hoạt động công ích lại hoạt động trên cơ sở đơn đặt
hàng của Nhà nước. Nhìn ở góc độ hình thức pháp lý, qui định này chứa đựng
mâu thuẫn với chủ trương giao quyền tự chủ trong SXKD của DNNN và vẫn
mang mầu sắc của DNNN trong cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp trước
đây. Hệ quả của sự can thiệp này rất dễ dẫn đến sự độc quyền của DNNN hoạt
động công ích. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất, vai trò mang tính đặc thù
của DNNN hoạt động công ích được thể hiện qua nhiệm vụ, tầm quan trọng
của nó, nên việc quy định như vậy cũng là yêu cầu cần thiết. Bởi vì, suy cho
cùng các loại hàng hoá, dịch vụ do DNNN hoạt động công ích cung cấp cũng
chính là sự thể hiện vai trò của Nhà nước đối với sự sống còn, ổn định và phát
triển của nền kinh tế - xã hội của quốc gia, nên cần phải có sự tác động hay
quản lý chặt chẽ và phù hợp với tính chất của hoạt động này. Vấn đề còn lại là
việc tác động đó ở mức độ nào và cần được thực hiện dưới những hình thức,
phương pháp có hiệu quả nhất.
Về mức độ chủ động trong hoạt động: DNNN hoạt động công ích
không được tự ý xây dựng đơn giá cho sản phẩm hoặc dịch vụ công cộng mà
phải thực hiện theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định. Nếu như
trong cơ chế thị trường, DNNN hoạt động kinh doanh được Nhà nước cho
phép tự xây dựng giá thành sản phẩm (trừ những sản phẩm do Nhà nước định
giá) thì giá thành sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của DNNN hoạt động công ích
phải được thực hiện theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định. Việc
khống chế giá thành sản phẩm của DNNN hoạt động công ích cũng xuất phát
từ tính chất đặc biệt của loại hàng hoá, dịch vụ này, từ những ảnh hưởng xã
29
hội do việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ công cộng mang lại. Bên cạnh những
quy định chung đối với DNNN (như tổ chức bộ máy, đổi mới công nghệ,
tuyển chọn thuê mướn lao động, trả lương, hưởng chế độ ưu đãi đầu tư, sử
dụng quỹ khấu hao cơ bản…) thì Nhà nước có những chế định cụ thể can
thiệp sâu hơn vào quá trình sản xuất, thể hiện sự khống chế và ràng buộc ở
mức độ chặt chẽ hơn của Nhà nước đối với quyền chủ động SXKD ở các
DNNN hoạt động công ích.
Về mục đích hoạt động: DNNN hoạt động công ích hoạt động chủ yếu
không vì mục tiêu lợi nhuận mà trước hết là nhằm đáp ứng những lợi ích công
cộng theo chính sách của Nhà nước. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa
DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh cũng như các loại
hình DN khác. Nếu như DNNN hoạt động kinh doanh và các loại hình DN
khác hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận thì DNNN hoạt động công ích
hoạt động trước hết, vì những lợi ích xã hội chứ không lấy lợi nhuận làm mục
tiêu hàng đầu.
Nếu so sánh theo quy định của pháp luật hiện hành thì 2 loại hình
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích có những điểm
đồng nhất và khác biệt cơ bản. Cụ thể:
- Cả 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động
công ích đều có chung một nguồn tài chính, đó là Ngân sách nhà nước. Vốn
và tài sản của DN do Nhà nước đầu tư và là một bộ phận tài sản của Nhà nước
với tư cách là chủ đầu tư. DN do Nhà nước thành lập và chịu sự quản lý của
Nhà nước, có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn do
DN quản lý và là chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự;
tổ chức bộ máy quản lý của 2 loại hình DN này cũng có chung một quy chế.
Ngoài ra, cả 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động
công ích đều có chung những quyền và nghĩa vụ cơ bản trong quá trình hoạt
động như: vấn đề đổi mới công nghệ trang thiết bị, đặt chi nhánh, văn phòng
đại diện để phát triển SXKD; vấn đề tuyển dụng, thuê mướn, sử dụng, đào tạo
lao động cũng như xây dựng, áp dụng các định mức lao động, vật tư đơn giá
tiền lương…
30
Bên cạnh đó, 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt
động công ích cũng có những điểm khác biệt cơ bản. Về mục tiêu hoạt động,
nếu như DNNN hoạt động kinh doanh hoạt động trước hết vì mục tiêu lợi
nhuận thì DNNN hoạt động công ích hoạt động không lấy lợi nhuận làm mục
tiêu hàng đầu. Nói cách khác, mục tiêu lợi nhuận chỉ có ý nghĩa khi DN hoàn
thành nhiệm vụ công ích. Từ nhiệm vụ và mục tiêu như vậy, một số hoạt động
khác cũng có sự khác biệt nhất định như mức độ tự quyết kế hoạch sản xuất
sản phẩm chủ yếu, tự quyết giá mua bán sản phẩm, tự lựa chọn thị trường… là
những vấn đề mà DNNN hoạt động kinh doanh nào cũng thực hiện và được
pháp luật thừa nhận, trong khi DNNN hoạt động công ích lại bị hạn chế; hoặc
việc đầu tư liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần, kinh doanh ngành nghề bổ
sung, nộp thuế… của DNNN hoạt động công ích cũng chỉ được thực hiện khi
có những điều kiện nhất định, còn đối với DNNN hoạt động kinh doanh thì
đây là những quyền và nghĩa vụ được thực hiện hàng năm hoặc bất kỳ lúc nào
theo khả năng kinh doanh của DN…
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA DNNN HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH Ở NƢỚC TA
1.2.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển DNNN hoạt
động công ích ở nƣớc ta:
Kể từ khi đất nước ta giành được độc lập (1945) đến nay, DNNN nói
chung, DNNN hoạt động công ích nói riêng đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Cụ thể có thể nhìn nhận qua 4 giai đoạn chủ yếu như sau:
1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975:
Đây là giai đoạn đất nước ta mới thoát khỏi ách đô hộ của chế độ Thực
dân - Phong kiến, Nhà nước dân chủ nhân dân mới ra đời nhưng dân tộc ta
vẫn phải tiếp tục trên con đường đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nứớc
và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Điểm cần chú ý của giai đoạn này là, đất nước
ta phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Mọi hoạt động của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đều phải tập trung phục vụ cho cuộc đấu
tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Vì vậy, Nhà nước đã huy động mọi
nguồn lực để phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh như
31
vậy, DNNN cũng được thành lập nhằm thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp những nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, mà không lấy lợi nhuận mục tiêu
hoạt động của DNNN.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nền kinh tế nước ta chủ yếu là
tự túc, tự cấp. Các DNNN chủ yếu hoạt động trong một nền công nghiệp quân
giới, quân nhu, quân dược, một nền nông nghiệp tự nhiên "nuôi quân đánh
giặc".
Từ năm 1961, các ngành, lĩnh vực kinh tế được Nhà nước ta quan tâm,
đầu tư nhiều hơn. Mỗi năm, ngành công nghiệp được đầu tư khoản 350 triệu
đồng. Nhiều DN thuộc các ngành công nghiệp như: than, điện, cơ khí, hoá
chất, dệt may, xà phòng, thuốc lá, thiết bị nông nghiệp, phân bón… được
thành lập mới. Một số khu công nghiệp được hình thành như: Việt Trì, Thái
Nguyên, Quảng Ninh…
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do có sự quan tâm, chú trọng
phát triển công nghiệp nên DNNN hình thành và phát triển mạnh mẽ hơn. Có
nhiều cách thức hình thành DNNN trong giai đoạn này như: xây dựng mới các
DNNN bằng nguồn viện trợ của nước ngoài (các nước XHCN), các DN
thương nghiệp quốc doanh theo tinh thần "ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ"; quốc hữu hoá các
DN TBTN chốn chạy khỏi miền Bắc hoặc tiếp quản các DN của nước ngoài
rút lui; nâng cấp các DN công tư hợp doanh hoặc HTX cao cấp sau khi Nhà
nước đã hỗ trợ đầu tư cho các cơ sở này.
Có thể rút ra một số đặc điểm chính của DNNN trong giai đoạn này
như sau:
- Tuyệt đại đa số các Xí nghiệp quốc doanh được thành lập, hoạt động
đều có nhiệm vụ trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ nhiệm vụ chiến đấu. Vì vậy,
hoạt động chủ yếu nhằm vào mục đích công cộng, lợi ích của toàn dân, lợi ích
quốc gia, mà không quan tâm hoặc không quan tâm nhiều đến mục tiêu lợi
nhuận.
32
- Số lượng Xí nghiệp quốc doanh chưa nhiều, cơ cấu không cân đối cho
sự phát triển kinh tế vì chủ yếu tập trung vào sản xuất các sản phẩm cho quân
đội.
- Mức độ đầu tư của Nhà nước vào các xí nghiệp quốc doanh chưa lớn,
hiệu quả của các xí nghiệp quốc doanh chưa được đánh giá một cách cụ thể
trên cơ sở hiệu qủa kinh tế mà chỉ đánh giá theo mức độ hoàn thành chỉ tiêu,
kế hoạch Nhà nước giao.
- Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động chủ yếu theo chỉ tiêu kế hoạch,
mệnh lệnh hành chính nhà nước chứ chưa có một hành lang pháp lý cho loại
hình doanh nghiệp này.
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986.
Trong giai đoạn này Nhà nước ta áp dụng chính sách quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Cơ cấu nền kinh tế chủ yếu chỉ có các
DNNN dưới các hình thức như xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, nông
trường, công trường quốc doanh... Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
không được chú ý khuyến khích phát triển. DNNN trong giai đoạn này có một
số đặc điểm chính sau:
- Số lượng DNNN tương đối nhiều song hiệu quả kinh tế của bản thân
từng DNNN cũng như của toàn bộ hệ thống DNNN hết sức yếu kém. Với
chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã hạn chế tính
năng động của các DNNN, tình trạng “lỗ thật, lãi giả” của các DNNN kéo dài
nhiều năm liền đã là gánh nặng hết sức to lớn đối với ngân sách nhà nước.
- Tất cả các DNNN đều được coi là một loại hình DN thuộc Nhà nước,
hoạt động vì những mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hai loại hình
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích chưa hề được đề
cập đến trong hệ thống DNNN của nước ta trong giai đoạn này.
- Mặc dù đã có một số văn bản có tính chất pháp lý qui định về tổ chức
và hoạt động của DNNN nhưng vẫn hết sức sơ sài. Các DNNN vẫn chưa có
một hành lang pháp lý để hoạt động mà vẫn phải dựa trên cơ sở những chỉ
tiêu kế hoạch mệnh lệnh hành chính nhà nước.
33
- Khu vực kinh tế công cộng, hệ thống cơ sở hạ tầng quá yếu kém
nhưng hầu như không được đầu tư. Diện được hưởng phúc lợi xã hội quá lớn
sau chiến tranh, các chính sách xã hội chưa được quan tâm đúng mức do ngân
sách nhà nước hạn hẹp. Vì vậy các DNNN hoạt động vì những lợi ích chung
của xã hội trong giai đoạn này cũng chưa được chú ý đầu tư phát triển.
- Xuất phát điểm của nước ta quá thấp do phải trải qua một thời gian
dài chiến tranh. Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, làm không đủ ăn, ngân
sách nhà nước eo hẹp, vì vậy Nhà nước phải tập trung ngân sách chủ yếu cho
việc giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt như lo ăn, mặc, ở hàng ngày
của người lao động mà chưa thể đầu tư vào khu vực kinh tế công cộng.
- Về mặt chủ quan, cơ chế chính sách kinh tế của chúng ta còn nhiều sai
lầm, bất cập, không kích thích được sản xuất trong nước, không thu hút được
vốn đầu tư của nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư vào khu vực kinh tế công cộng
chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước mà chưa chú ý đúng mức đến
các nguồn vốn khác.
- Trong một thời gian dài, khu vực kinh tế công cộng bị quan niệm là
khu vực phi sản xuất, chỉ tiêu dùng thu nhập quốc dân chứ không trực tiếp tạo
ra thu nhập quốc dân, vì vậy Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng trong việc
đầu tư phát triển khu vực này.
- Trong điều kiện còn hạn hẹp về vốn, Nhà nước chưa thể đầu tư thoả
đáng vào khu vực kinh tế công cộng, nơi đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn
nhưng không thể thu hồi trực tiếp và phát huy hiệu quả chậm.
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995.
Đây là giai đoạn đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà
nước theo chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
XHCN.
Thực tiễn đã chứng tỏ rằng sự đổi mới là đúng hướng và đã mang lại
những kết quả rõ rệt. Tình hình kinh tế và đời sống nhân dân từng bước được
cải thiện. Hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và
34
lưu thông tương đối thuận lợi, có tiến bộ nhiều về chất lượng, mẫu mã. Chính
vì vậy mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã
khẳng định rằng “... cơ chế quản lý kinh tế mới đã tạo môi trường thuận lợi
cho các DN phát huy tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động SXKD...”.
Cùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ nhờ chính sách đổi mới mang
lại, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang bộc lộ ngày càng rõ rệt, thể
hiện ở những khía cạnh chính như sau:
- Nhiều DNNN quá chú trọng đến hiệu quả kinh tế nên sao nhãng hoặc
đôi khi quên mất nhiệm vụ bảo đảm lợi ích xã hội do Nhà nước giao.
- Tình trạng nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả, tiêu cực, lãng phí lớn
dẫn đến đòi hỏi cấp thiết mà Nhà nước cần sớm giải quyết trên nguyên tắc
“...đổi mới cơ bản về tổ chức và cơ chế quản lý DNNN để vừa đảm bảo quyền
tự chủ kinh doanh của DN trong cơ chế thị trường, vừa đảm bảo sự kiểm soát
của Nhà nước”.
- Hệ thống DNNN, ngoài chức năng nhiệm vụ chung của một đơn vị
kinh tế nhà nước, đang có sự dịch chuyển dần về hai cực:
Thứ nhất, các DN sản xuất ra các mặt hàng, cung cấp dịch vụ phục vụ
nhu cầu thiết yếu của cá nhân, do vậy DNNN loại này đang phải đứng trước
sự cạnh tranh hết sức quyết liệt của các thành phần kinh tế khác và hiệu quả
kinh tế trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của DNNN trong cuộc cạnh
tranh này.
Thứ hai, một số DNNN từ trước đến nay đang thực hiện việc sản xuất,
cung ứng các dịch vụ vì lợi ích công cộng đang gặp vướng mắc trong việc
hạch toán kinh doanh do các DNNN hoạt động trong lĩnh vực này không thu
được nhiều lợi nhuận thậm chí thường xuyên thua lỗ. Trong khi đó, Nhà nước
lại chưa có sự phân định rõ rệt về mặt pháp lý giữa loại hình DNNN hoạt
động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Do vậy, DNNN hoạt động
công ích vẫn phải hoạt động theo cơ chế và chính sách quản lý Nhà nước đối
35
với DNNN nói chung, có tính tới những đặc thù hoạt động của lĩnh vực này
mà thôi.
- Nhà nước đã có sự nhận thức về kinh tế công cộng và kinh tế tư nhân,
đồng thời, sự phát triển yếu kém của khu vực kinh tế công cộng đang ảnh
hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Sự thiếu đồng
bộ về luật pháp, sự lạc hậu về hệ thống kết cấu hạ tầng, sự phát triển chậm
của hệ thống bảo hiểm xã hội và của quỹ phúc lợi công cộng... đang là những
vấn đề cản trở quá trình phát triển kinh tế, tạo ra nguy cơ tụt hậu về mọi mặt ở
nước ta. Vì vậy, Nhà nước đã bắt đầu chú trọng đến việc đầu tư và thu hút đầu
tư vào khu vực kinh tế công cộng, song kết quả đạt được chưa cao do nhiều
nguyên nhân, và một trong những nguyên nhân cơ bản là Nhà nước chưa có
chính sách khuyến khích cũng như chưa xây dựng được một quy chế pháp lý
rõ ràng cho loại hình đầu tư này.
1.2.1.4. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay:
Đây là giai đoạn có nhiều sự đầu tư và thay đổi lớn nhất trong các lĩnh
vực hoạt động công ích. Điểm đáng chú ý là sự kiện Quốc hội thông qua Luật
DNNN ngày 20 tháng 04 năm 1995, trong đó DNNN hoạt động công ích được
thừa nhận là một loại hình hoạt động của DNNN, đòi hỏi phải có chính sách
và cơ chế quản lý riêng. Trên cơ sở đó, hệ thống văn bản pháp lý qui định và
giải thích rõ hơn về chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước đối với loại hình
DN này được ban hành tương đối hoàn chỉnh như Nghị định số 56/CP ngày
02 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ về DNNN hoạt động công ích hay
Thông tư số 01 BKH/DN ngày 29 tháng 01 năm 1997 của Bộ kế hoạch và đầu
tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 56/CP ngày 2 tháng 10 năm 1996 và
Thông tư 06 TC/TCDN ngày 24 tháng 2 năm 1997 của Bộ Tài chính hướng
dẫn chế độ quản lý tài chính đối với DNNN hoạt động công ích...
DNNN hoạt động công ích trong giai đoạn này có một số đặc điểm
chính như sau:
- Hoạt động công ích đã được Nhà nước chú trọng đầu tư nhiều; hệ
thống hạ tầng cơ sở như: đường sá công cộng, các sân bay, cảng biển, đèn
36
chiếu sáng đô thị, xây dựng nhiều cầu cống; bệnh viện, trường học được đầu
tư nâng cấp...
- Có nhiều tổ chức kinh tế lớn trên thế giới đã giúp Việt Nam nâng cấp
khu vực kinh tế công cộng nhờ chính sách, cơ chế quản lý thích hợp hơn của
Nhà nước.
- Số lượng DNNN hoạt động công ích tăng lên từ việc thành lập mới
hoặc chuyển đổi một số đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, DNNN hoạt
động kinh doanh thành DNNN hoạt động công ích.
Từ những hoạt động trên, DNNN hoạt động công ích ở nước ta trong
giai đoạn này phát triển nhanh chóng. Ở hầu hết các bộ, ngành trung ương,
các địa phương đều có DNNN hoạt động công ích. Tính đến ngày 31 tháng 12
năm 1999, trong cả nước có 726 DNNN hoạt động công ích, trong đó các Bộ,
tổng cục có 188 DN, các tỉnh, thành phố là 538 DN. Số DN tập trung chủ yếu
ở các Bộ, ngành như: Giao thông vận tải: 75, Quốc phòng: 68, Nông nghiệp
Phát triển nông thôn: 26 DN. Các tỉnh, TP có DN nhiều DN nhất là: TP Hồ
Chí Minh: 53, Kon Tum: 22, Hà Tây: 20, Nghệ An: 20, Khánh Hoà 18, Thanh
Hoá: 18, Hải Dương: 17, Hưng Yên: 17, Thái Bình: 17; một số bộ, ngành, địa
phương khác có từ 1 đến 15 đơn vị… (chỉ có 02 tỉnh là không có đơn vị nào,
đó là Lạng Sơn và Lai Châu).12
1.2.2. Đòi hỏi khách quan về việc duy trì và phát triển DNNN hoạt
động công ích trong điều kiện hiện nay
Nền kinh tế thị trường nói chung là nền kinh tế hàng hoá luôn chịu sự
tác động, điều tiết của những qui luật thị trường như qui luật giá trị, qui luật
cung cầu, qui luật cạnh tranh... với những ưu điểm rõ rệt so với cơ chế kinh tế
khác như: cơ chế tự điều tiết nền kinh tế linh hoạt, mềm dẻo và uyển chuyển;
nó có tác dụng kích thích nhanh, mạnh sự quan tâm thường xuyên đến đổi
mới kỹ thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; tác
dụng lớn trong việc tuyển chọn các DN cũng như cá nhân quản lý kinh doanh
12
Nguồn: "Báo cáo tổng hợp DNNN thuộc các Bộ, TCT 91 và các địa phương", Bộ Kế hoach và Đầu tư
tháng 12 năm 1999.
37
giỏi, qua đó, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển... Nhưng
mặt khác, bản thân nền kinh tế thị trường cũng hàm chứa trong nó những
nguy cơ, tiêu cực có thể gây bất ổn và mất cân đối cho trong đời sống xã hội
mà Nhà nước không thể không tính đến. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản
xuất, kinh doanh có thể coi nhẹ những lợi ích công cộng mà gây hậu quả xấu
cho xã hội. Những ngành nghề có lợi nhuận thấp, nhất là khu vực kinh tế
công cộng ít được các nhà đầu tư quan tâm. Điều đó tất yếu sẽ làm cho các
vấn đề về công bằng xã hội không được bảo đảm, phân hoá xã hội cao, môi
trường sống bị huỷ hoại, cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp,
làm ăn bất hợp pháp, tệ nạn xã hội ngày một gia tăng…
Trong khi đó, quá trình phát kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay
vẫn còn nhiều khó khăn. Giáo dục, đào tạo còn yếu về chất lượng, khoa học
công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở
vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thông tin, thể thao
còn nhiều thiếu thốn. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó
khăn, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động
chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn, xã hội chưa được
đẩy lùi, bệnh dịch có chiều hướng gia tăng và lan rộng. Môi trường sống bị ô
nhiễm ngày càng nhiều.
Nhận thức được điều đó, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã rất chú trọng đến việc đảm bảo
tính ưu việt của chế độ XHCN theo tinh thần: Nhà nước khuyến khích phát
triển nền kinh tế tuân theo những qui luật của kinh tế thị trường, phát huy
những mặt tích cực của qui luật thị trường đến sự phát triển kinh tế, đồng thời
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế mang lại, đảm bảo sự công
bằng và những lợi ích chung của xã hội; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát
38
triển13
… Đặc biệt, để đảm bảo tính định hướng XHCN trên cơ sở nền kinh tế
thị trường cần phải thực hiện đồng bộ những điều kiện như:
- Phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình
thức tổ chức SXKD, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
- Phát triển nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo thống nhất giữa sự phát
triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
- Xây dựng một nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường hội nhập vào
nền kinh tế thị trường khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên
kết phong phú, đa phương, đa dạng.14
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII trình
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: Xây dựng và từng
bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin,
thuỷ lợi, cấp nước, thoát nước…khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô
nhiễm môi trường…; quan tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường
quốc phòng - an ninh ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
biên giới, hải đảo, chú trọng các vùng Tây nguyên, Tây Bắc, Tây Nam; có
chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển kết cấu hạ
tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói, giảm nghèo, đưa các vùng
này vượt qua tình trạng kém phát triển15
…
Đảng ta cũng vạch ra mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) là: đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân;
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường…Kết
13
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
14
Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, 2001, trang
14.
15
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2001.
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf
Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf

More Related Content

Similar to Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf

Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệpBài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOTLuận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
de an mon hoc (46).Doc
de an mon hoc  (46).Docde an mon hoc  (46).Doc
de an mon hoc (46).DocLuanvan84
 
Cau 1+2+3
Cau 1+2+3Cau 1+2+3
Cau 1+2+3
Bui Tra Nha Truc
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH  VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH  VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
hieu anh
 
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao độngĐề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệpLuận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...
Thích Hô Hấp
 
Luận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAY
Luận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAYLuận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAY
Luận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
bai mau tieu luan ve loi ich kinh
bai mau tieu luan ve loi ich kinhbai mau tieu luan ve loi ich kinh
Tim hieu kinh te truyen hinh (2)
Tim hieu kinh te truyen hinh (2)Tim hieu kinh te truyen hinh (2)
Tim hieu kinh te truyen hinh (2)
USSH, VNU - Vietnam
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
anh hieu
 
CNQLKTNN.pdf
CNQLKTNN.pdfCNQLKTNN.pdf
CNQLKTNN.pdf
ThanhNguyen641188
 
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOTQuản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...
Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...
Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...
sividocz
 
Câu hỏi đường lối
Câu hỏi đường lốiCâu hỏi đường lối
Câu hỏi đường lốihuyentrangnh3
 
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệpTổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf (20)

Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệpBài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
 
Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOTLuận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
 
de an mon hoc (46).Doc
de an mon hoc  (46).Docde an mon hoc  (46).Doc
de an mon hoc (46).Doc
 
Cau 1+2+3
Cau 1+2+3Cau 1+2+3
Cau 1+2+3
 
Luật kinh doanh
Luật kinh doanhLuật kinh doanh
Luật kinh doanh
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH  VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH  VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
 
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao độngĐề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
Đề tài: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động
 
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệpLuận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
 
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...
Tiểu luận “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị t...
 
Luận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAY
Luận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAYLuận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAY
Luận án: Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, HAY
 
bai mau tieu luan ve loi ich kinh
bai mau tieu luan ve loi ich kinhbai mau tieu luan ve loi ich kinh
bai mau tieu luan ve loi ich kinh
 
Tim hieu kinh te truyen hinh (2)
Tim hieu kinh te truyen hinh (2)Tim hieu kinh te truyen hinh (2)
Tim hieu kinh te truyen hinh (2)
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
CNQLKTNN.pdf
CNQLKTNN.pdfCNQLKTNN.pdf
CNQLKTNN.pdf
 
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOTQuản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của xã viên hợp tác xã theo luật - Gửi miễn phí q...
 
Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...
Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...
Luận Văn Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành...
 
Câu hỏi đường lối
Câu hỏi đường lốiCâu hỏi đường lối
Câu hỏi đường lối
 
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệpTổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
 

More from NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
NuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
NuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
NuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
NuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
NuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
NuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
NuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
NuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
NuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
NuioKila
 

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
PhiTrnHngRui
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
vivan030207
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
onLongV
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
ChuPhan32
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (18)

PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 

Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp 6834346.pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUANG VỸ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH - THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 50515 Luận văn Thạc sỹ khoa học Luật Hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Mẫn HÀ NỘI, NĂM 2002
  • 2. LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn các thầy, cô giáo đang công tác tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cùng các thầy, cô đã giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và xây dựng luận văn. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn Tiến sĩ luật học Nguyễn Minh Mẫn - Vụ trưởng Vụ cải cách hành chính - Văn phòng Chính phủ đã tận tình hướng dẫn, chỉ đạo, có nhiều ý kiến quý báu giúp em xây dựng và nâng cao chất lượng luận văn. Xin trân trọng cảm ơn Viện Nghiên cứu Hành chính - Học viện Hành chính Quốc gia; Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương; Vụ doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và xây dựng luận văn. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và xây dựng luận văn này. Hà Nội, tháng 6 năm 2002 Nguyễn Quang Vỹ
  • 3. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp Nhà nước SXKD Sản xuất kinh doanh ĐKKD Đăng ký kinh doanh XHCN Xã hội chủ nghĩa UBND Uỷ ban nhân dân HĐQT Hội đồng quản trị TNHH Trách nhiệm hữu hạn NXB Nhà xuất bản. TBTN Tư bản tư nhân
  • 4. MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích 8 1.1 Khái niệm, đặc điểm của DNNN hoạt động công ích 8 1.2 Vị trí, vai trò của DNNN hoạt động công ích ở nước ta 30 1.3 Một số mô hình cung cấp hàng hoá, dịch vụ công ích điển hình trên thế giới. 42 Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích 49 2.1 Những quy định của pháp luật về thành lập, giải thể, phá sản và tổ chức hoạt động của DNNN hoạt động công ích 49 2.2 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của DNNN hoạt động công ích 77 2.3 Một số nhận xét và đánh giá đối với những qui định của pháp luật về DNNN hoạt động công ích 89 Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích 100 3.1 Phương hướng đổi mới pháp luật về DNNN hoạt động công ích 101 3.2 Một số giải pháp đổi mới pháp luật về DNNN hoạt động công ích 112 Kết luận 121 Tài liệu tham khảo 122
  • 5. 1 LỜI MỞ ĐẦU Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của đất nước ta. Với Đại hội này, Đảng ta đã chủ trương chuyển nền kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo cơ chế kinh tế mới, các chủ thể kinh doanh, trong đó có DNNN đã chuyển mình sang một môi trường kinh doanh mới với nhiều thuận lợi và thách thức. Một mặt, loại hình doanh nghiệp này vừa được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận là hệ thống doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế then chốt, giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế. Mặt khác, DNNN cũng phải đương đầu với nhiều vấn đề do bản thân nền kinh tế thị trường mang lại như: vấn đề bình đẳng cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp, về trình độ, năng lực kinh doanh, cũng như các vấn đề công nghệ, trang thiết bị và đặc biệt là trình độ quản lý doanh nghiệp… Nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế xuất hiện, trong đó giải quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra giữa mục tiêu kinh tế và xã hội đã trở thành một đòi hỏi cấp bách.Trước tình hình đó, Nhà nước phải làm gì để thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ nói trên? Đây cũng là đề tài mà nhiều nhà quản lý, nhà kinh tế, đặc biệt được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Hiểu rõ DNNN hoạt động công ích là gì và phạm vi hoạt động của nó đến đâu, vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với các hoạt động công ích như thế nào đang là một chủ đề hấp dẫn cần được nghiên cứu đầy đủ và đưa ra các giải pháp hiệu quả. 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 20 tháng 4 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua Luật doanh nghiệp Nhà nước. Đạo luật này có hiệu lực từ ngày 30 tháng 4 năm 1995. Một trong những điểm mới của đạo luật này là lần đầu tiên pháp luật nước ta có sự phân biệt rõ hơn giữa hai loại hình DNNN, đó là DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích, trong đó, thuật ngữ DNNN hoạt động công ích được ghi nhận trong Luật đã thể hiện được sự
  • 6. 2 quan tâm nhiều hơn, cũng như sự nhìn nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò của loại hình doanh nghiệp này. Hơn thế nữa, ngày 2 tháng 10 năm 1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/CP quy định chi tiết tổ chức và hoạt động của các DNNN hoạt động công ích. Trên cơ sở Luật DNNN và Nghị định 56, nhiều Bộ, ngành đã ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các quan hệ liên quan đến DNNN hoạt động công ích. Thực tiễn hơn 6 năm thực hiện đã chứng minh rằng: Luật doanh nghiệp nhà nước và các văn bản pháp luật nói trên đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam từ trước đến nay điều chỉnh loại hình DNNN. Với việc áp dụng các văn bản pháp luật này, DNNN nói chung, DNNN hoạt động công ích nói riêng đã chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, từng bước đi vào hoạt động ổn định, đóng vai trò là lực lượng quan trọng trong thực hiện chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh, ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường1 … Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, quá trình thực hiện Luật DNNN cũng như các văn bản dưới luật nói trên đã nảy sinh những những vấn đề cần phải quan tâm: DNNN nói chung còn nhiều hạn chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ còn nhiều lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ2 … Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình điều hành đã gặp nhiều vướng mắc, một số DNNN còn lúng túng trong việc xác định loại hình doanh nghiệp của 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ưong 3, Khoá IX.
  • 7. 3 mình, đặc biệt là việc xác định loại hình DNNN hoạt động công ích. Nhiều doanh nghiệp về mô hình tổ chức hoạt động sản xuất là DNNN hoạt động kinh doanh, nhưng thực tế lại hoạt động vì lợi ích chung của xã hội; có những doanh nghiệp được thành lập để thực hiện chức năng công ích cũng như một số đơn vị hành chính sự nghiệp của Nhà nước lại có nguồn thu từ các hoạt động của mình. Chính vì vậy, thời gian qua, Nhà nước ta đã có chủ trương sắp xếp, đổi mới tổ chức hoạt động DNNN, trong đó có việc hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của DNNN hoạt động công ích, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Từ đó, một loạt các vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ như sự cần thiết phải có DNNN hoạt động công ích; phân biệt giữa DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh; làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN hoạt động công ích; về tổ chức, hoạt động của DNNN hoạt động công ích như thế nào cho hiệu quả… Xuất phát từ tình hình đó, chúng tôi chọn "Pháp luật về Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - Thực trạng và các giải pháp đổi mới" làm Luận văn Cao học luật vì tính bức xúc cả về phương diện lý luận và thực tiễn của vấn đề. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi Luật DNNN ra đời, ở nước ta chưa có sự nhận thức rõ ràng về loại hình DNNN hoạt động công ích nên chưa có sự quan tâm nghiên cứu thực sự nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách và cơ chế quản lý riêng đối với loại hình doanh nghiệp này. Mặt khác, cơ chế kinh tế thị trường còn là vấn đề mới đang đặt ra nhiều thách thức đối với cơ chế quản lý ở Việt Nam. Các vấn đề kinh tế - xã hội trong những năm đầu của
  • 8. 4 nền kinh tế thị trường đang đặt ra một cách bức xúc đã hướng sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách kinh tế, pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu trước hết vào các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh của nền kinh tế thị trường hoặc loại hình DNNN hoạt động kinh doanh. Nhu cầu về sự phát triển đồng bộ giữa hai loại hình DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh trong những năm đầu đổi mới còn chưa bộc lộ rõ, chưa thực sự gây chú ý đối với các nhà nghiên cứu. Vì vậy, cho đến nay, nhiều đề tài nghiên cứu về DNNN mới chỉ tập trung vào DNNN nói chung hoặc DNNN hoạt động kinh doanh nói riêng. Kiến thức và kinh nghiệm nước ngoài về DNNN hoạt động công ích được giới thiệu ở nước ta chủ yếu là kết hợp lồng ghép vào nội dung doanh nghiệp hoặc DNNN nói chung mà chưa có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập một cách có hệ thống và tập trung vào các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến DNNN hoạt động công ích cũng như cơ chế quản lý đối với loaị hình doanh nghiệp này. Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây chưa đòi hỏi có sự phân tách giữa hai mô hình DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh, trong khi cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực sự đòi hỏi cần phải có sự phân định và chính sách quản lý riêng giữa loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích nhằm đảm bảo không những quyền tự chủ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn phải đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Đặc biệt, trong vài năm gần đây, với những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang có xu hướng gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo, các lợi ích chung của xã hội không được quan tâm đúng mức đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh, định hướng của Nhà nước. Pháp luật là một trong những công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng này. Việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh từng loại hình
  • 9. 5 doanh nghiệp là điều kiện để tạo lập nên một hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động, đặc biệt là những chính sách đảm bảo lợi ích chung của xã hội được Nhà nước cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến DNNN hoạt động công ích. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Trong bản luận văn này, tác giả có ý định: - Phân tích những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn đang đặt ra từ nội dung của pháp luật về DNNN hoạt động công ích, cũng như từ thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật này. - Trên cơ sở những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về DNNN hoạt động công ích, luận văn sẽ lần lượt giải quyết các vấn đề đặt ra bằng việc đề xuất các kiến nghị cũng như các giải pháp tiếp tục hoàn thiện và thực hiện pháp luật về DNNN hoạt động công ích. Từ việc nghiên cứu đó, luận văn có những đóng góp chủ yếu như sau: - Tổng hợp, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận chung như: những quan niệm về DNNN, hoạt động công ích và DNNN hoạt động công ích, vai trò và sự cần thiết phải có DNNN hoạt động công ích, vai trò của nhà nước đối với hoạt động công ích nói chung, DNNN hoạt động công ích nói riêng. - Giúp phân biệt được giữa hai loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích, từ đó xây dựng cơ chế quản lý thích hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp. - Tìm ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp trong pháp luật về DNNN hoạt động công ích, từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh loại hình doanh nghiệp này.
  • 10. 6 4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng duy vật và những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập đến việc hoàn thiện và đổi mới hệ thống pháp luật về DNNN hoạt động công ích. Đề tài cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê xã hội học và chứng minh; phương pháp lịch sử, logíc pháp lý, phương pháp hệ thống, so sánh, quy nạp và diễn dịch... 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài "Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - thực trạng và các giải pháp đổi mới" là một đề tài nghiên cứu tương đối mới và phức tạp, bởi vì, nghiên cứu pháp luật về DNNN hoạt động công ích là: phải nghiên cứu những vấn đề cơ bản của pháp luật về DNNN nói chung, đồng thời, phải xem xét những đặc điểm pháp lý của DNNN hoạt động công ích, phân biệt nó với loại hình DNNN hoạt động kinh doanh cũng như các loại hình doanh nghiệp khác. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp luật về DNNN hoạt động công ích trên cơ sở: - Hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh loại hình DNNN nói chung, pháp luật điều chỉnh DNNN hoạt động công ích nói riêng và các quy phạm pháp luật khác có liên quan. - Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về DNNN hoạt động công ích kể từ khi Luật DNNN được ban hành và có hiệu lực, làm căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc nghiên cứu.
  • 11. 7 Từ việc nghiên cứu này, đề tài tìm ra những điểm chưa phù hợp của pháp luật với thực tiễn, những điểm pháp luật còn bỏ ngỏ nhằm đề xuất, kiến nghị những phương hướng và giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật về DNNN hoạt động công ích. 6. Bố cục của luận văn Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu như đã nêu trên, luận văn được trình bầy với những nội dung cơ bản như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích.
  • 12. 8 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH 1.1.1. Khái niệm và những đặc trƣng cơ bản của DNNN 1.1.1.1. Khái niệm DNNN DN - một loại chủ thể kinh doanh chủ yếu, có vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với sự hình thành và phát triển của bất kỳ nền kinh tế thị trường nào. Nó cũng là một đối tượng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có những cách lý giải, những quan niệm khác nhau về khái niệm DN. Tuy nhiên, theo quan niệm chung nhất, thì DN là một tổ chức kinh tế được thành lập để tiến hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, chế biến, chế tạo sản phẩm hoặc mua bán hàng hoá, làm dịch vụ cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường, xã hội. Thông qua đó, DN có thể đạt được nhiều mục đích khác nhau, trong đó có mục đích căn bản là thu lợi nhuận. Trong thực tiễn đời sống kinh tế và pháp lý ở nước ta, cùng với sự hình thành nền kinh tế thị trường, thuật ngữ DN được chính thức sử dụng lần đầu tiên trong Luật Công ty được Quốc hội thông qua ngày 21.12.1990. Điều 3 Luật này định nghĩa “DN là một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Khi Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12. 06 .1999 thì thuật ngữ DN một lần nữa đã được khẳng định và giải thích rõ hơn. Điều 3 Luật Luật doanh nghiệp định nghĩa: “DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, theo cách định nghĩa của Luật doanh nghiệp, DN được hiểu là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.
  • 13. 9 DNNN trước hết được hiểu là một loại hình DN của Nhà nước. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn khái niệm DNNN với khái niệm DN nói chung theo Luật DN năm 1999 bởi vì thuật ngữ DNNN được sử dụng để phân biệt với các loại hình DN khác cùng tồn tại trong nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Khái niệm DNNN ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế giới đều có những tiêu chí khác so với khái niệm DN nói chung. Xét về mặt lý luận, cho đến nay, trên thế giới vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về DNNN. Tuỳ theo những đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của riêng mình mà mỗi quốc gia đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác định DNNN. Chẳng hạn, có người định nghĩa DNNN xuất phát từ mục đích thành lập, có người định nghĩa căn cứ vào cơ cấu tổ chức, mức độ vốn của Nhà nước trong DN… Theo khái niệm của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới cũng như của Quỹ tiền tệ Quốc tế, DNNN là đơn vị SXKD do Nhà nước thành lập, đầu tư, xây dựng. Nhà nước có quyền chi phối hoạt động SXKD dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Tức là coi các DNNN là thực thể kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nưóc đối với quá trình hình thành và hoạt động của DNNN. Theo đó, DNNN là "những DN do Nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của DN"3 . Một số nhà kinh tế học cho rằng: DNNN được coi là một tổ chức trong đó kết hợp những yếu tố công ích và những yếu tố DN. Nói cách khác, DNNN tự nó vừa có chức năng phục vụ, vừa có chức năng kinh doanh với tư cách là một đơn vị kinh tế. Cụ thể: Những yếu tố “công ích” phản ánh chức năng phục vụ, bao gồm: - Những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức Nhà nước đảm nhận mà tiêu chí quan trọng trong các quyết định này không thuần tuý chỉ là mục tiêu lợi nhuận. - Lợi nhuận thu được là của Nhà nước chứ không thuộc về một nhóm cá nhân nào khác. 3 Nguồn: Báo cáo về tình hình Kinh tế -xã hội thế giới năm 1985 của Liên hợp quốc.
  • 14. 10 - DN chịu trách nhiệm về việc bảo đảm các lợi ích xã hội trong phạm vi hoạt động của mình. Như vậy, yếu tố “công ích” trong DNNN là đặc điểm cơ bản thể hiện sự khác biệt của DNNN với các loại hình DN khác trong nền kinh tế cũng như vai trò của Nhà nước trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh tế thông qua hệ thống DN của mình với tư cách của người điều tiết, đảm bảo các lợi ích kinh tế - xã hội của cộng đồng. Những yếu tố “DN”, phản ánh chức năng kinh doanh bao gồm: - DN có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. - Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí. Yêu cầu này xuất phát từ đòi hỏi giá cả phải bù đắp được toàn bộ chi phí. Mặc dù có sự khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng cũng cần phải khẳng định rằng, DNNN chính là một bộ phận của hệ thống DN nói chung, được hình thành và phát triển trong nền kinh tế của từng quốc gia trên thế giới và được xác định trên cơ sở 3 tiêu chí chủ yếu như sau: Thứ nhất, về quyền sở hữu tài sản của DN: Nhà nước là chủ sở hữu hoặc là cổ đông chính, cổ đông có cổ phần chi phối trong DN. Theo đó, Nhà nước có thể thực hiện quyền kiểm soát những chính sách chung mà DN theo đuổi, có thể bổ nhiệm hoặc cách chức Ban quản lý DN. Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ: DNNN được thành lập nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước trên nguyên tắc đảm bảo những lợi ích chung, lợi ích xã hội. Thứ ba, về trách nhiệm của DN trong việc quản lý, thu chi tài chính: DNNN cũng như các loại hình DN khác trong nền kinh tế, phải chịu trách nhiệm độc lập về hạch toán, thu chi tài chính trong hoạt động SXKD của mình. Một DN nếu thiếu điều kiện thứ nhất sẽ là DN ngoài quốc doanh. Nếu thiếu điều kiện thứ hai thì chỉ được coi như những DN kinh doanh đơn thuần và nền kinh tế sẽ thiếu sự cạnh tranh lành mạnh nếu Nhà nước sử dụng vốn của mình để tiến hành những hoạt động SXKD thuần tuý. Mặt khác, một
  • 15. 11 DNNN không chịu trách nhiệm độc lập về tài chính sẽ không còn được coi là một DN nữa mà chỉ có thể được xem là tổ chức công cộng hay tổ chức sự nghiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, tuỳ theo chính sách kinh tế-xã hội của mỗi nước, những tiêu chí cụ thể để xác định DNNN có những khác biệt.Ví dụ, xét trên tiêu thức về quyền sở hữu của Nhà nước, DNNN ở các nước như Úc, Tây Ban Nha thì Nhà nước phải chiếm trên 50 % giá trị tài sản của DN, trong khi đó, ở Italia là 25%, ở Malaysia là 20% và ở Hàn Quốc chỉ là 10%. ở Việt Nam, việc xác định DNNN cũng có những tiêu chí riêng biệt so với tiêu chí của các quốc gia khác trên thế giới. Trước khi Luật DNNN ra đời, thuật ngữ DNNN được sử dụng chính thức trong Nghị định 388/HĐBT ngày 20.11.1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Qui chế về thành lập và giải thể DNNN. Điều 1 của Nghị định số 388 đã định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu”. Theo đó DNNN được xác định dựa trên những tiêu chí sau: - Về hình thức sở hữu về vốn: DNNN được Nhà nước đầu tư vốn và là chủ sở hữu toàn bộ số vốn của DN. - Về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức: DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức bộ máy quản lý DN, định hướng hoạt động SXKD, DNNN được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ kinh tế-xã hội do Nhà nước giao. - Về chế độ quản lý thu chi tài chính: DNNN thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh như các loại hình DN khác và chịu trách nhiệm độc lập trong phạm vi phần vốn Nhà nước giao. Như vậy, theo Nghị định trên, mục đích hoạt động của DNNN được đồng nhất và có chung mặt bằng pháp lý với các DN khác là cùng kinh doanh vì lợi nhuận và vì thế, chưa thể hiện được vị trí vai trò của DNNN là một bộ phận của hệ thống kinh tế Nhà nước, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cũng như chưa thể hiện tính chất đặc biệt của DNNN là công cụ để
  • 16. 12 Nhà nước điều tiết nền kinh tế và hoạt động của DNNN không chỉ đơn thuần vì mục đích kinh tế mà còn nhằm đảo bảo những lợi ích xã hội. Để khắc phục những hạn chế trên, Điều 1, Luật DNNN được Quốc hội nước ta thông qua ngày 20 tháng 04 năm 1995 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”. Định nghĩa và quan niệm trên đã xác định vị trí đích thực của DNNN, phù hợp với sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội trong cơ chế kinh tế mới, tạo cơ sở pháp lý nhằm vừa phát huy vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của DNNN, tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với loại hình DN này vừa thúc đẩy hệ thống DNNN hoạt động có hiệu quả và thực hiện đúng các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. 1.1.1.2. Đặc điểm của DNNN: Theo định nghĩa tại Điều 1, Luật DNNN, chúng ta thấy DNNN có những đặc điểm sau: - DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, chịu sự quản lý của Nhà nước. DNNN là một loại hình DN nói chung, bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động SXKD như đối với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, tất cả các DNNN đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập khi thấy việc thành lập DN là cần thiết. Đồng thời, DNNN được tổ chức và hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo sự phân cấp quản lý của Nhà nước.
  • 17. 13 - DNNN do Nhà nước đầu tư vốn, tài sản trong DNNN là một bộ phận của tài sản Nhà nước. Khi DNNN được chính thức thành lập trong đó, vốn và tài sản của DN do Nhà nước cấp. Nhà nước chính là chủ sở hữu trái quyền hay sở hữu về mặt giá trị4 đối với số vốn và tài sản của DNNN. Với tư các chủ sở hữu, Nhà nước giao vốn cho DNNN quản lý và sử dụng theo qui định của pháp luật trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Song, vốn và tài sản của DNNN luôn là một bộ phận của tài sản nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới DNNN, nhiều DNNN đã thực hiện cổ phần hoá trong đó có sự tham gia đầu tư của các cá nhân, tổ chức thuộc khu vực tư nhân; một phần tài sản của DNNN do các cá nhân, tổ chức này góp vốn với tư cách cổ đông của công ty. Do vậy cần hiểu một cách đầy đủ hơn về đặc điểm này, hay nói một cách chính xác hơn là: DNNN do Nhà nước đầu tư toàn bộ hay một phần vốn theo những điều kiện mà pháp luật qui định. - DNNN được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Nhà nước luôn phải thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đó, Nhà nước đầu tư vốn, thành lập hệ thống DN của mình và với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước giao cho từng DNNN thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, cụ thể DNNN có nghĩa vụ phải thực hiện và đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước giao cho bởi vì đây chính là mục đích của việc Nhà nước thành lập nên hệ thống DNNN. Thông qua phương tiện vật chất là hệ thống DNNN, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế cũng như đảm bảo các chính sách xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản trong hoạt động của DNNN so với các loại hình DN ngoài quốc doanh. - DNNN là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và là chủ thể trong các quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự. Điều này được thể hiện ở các khía cạnh sau: 4 TS. Nguyễn Như Phát, Quyền tự chủ về vốn và tài sản của DNNN, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/1999, trang 25.
  • 18. 14 + DNNN được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định thành lập (được thành lập một cách hợp pháp). + DNNN được Nhà nước giao vốn (có tài sản riêng) và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng tài sản đó khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, dân sự. + DNNN có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động SXKD của DN. + Là một pháp nhân, DNNN nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật và là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các quan hệ tố tụng. - DNNN chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn do DN quản lý. Trên có sở số vốn được Nhà nước cấp, DNNN tự quyết định, tổ chức hoạt động SXKD theo qui định của pháp luật trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Trong các quan hệ kinh tế, DNNN chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi số vốn do DN quản lý (DNNN chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn điều lệ của DN). 1.1.1.3. Phân loại DNNN DNNN có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định trong văn bản pháp luật hiện hành, DNNN ở nước ta được phân loại như sau: Căn cứ theo mục tiêu hoạt động, DNNN có thể phân thành hai loại, gồm: - DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền và nghĩa vụ quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện các mục tiêu kinh doanh, nhằm thu lợi nhuận hoặc thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt của Nhà nước. - DNNN hoạt động công ích là các DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, hoạt động chủ yêú không vì mục tiêu lợi nhuận. DNNN hoạt động công ích có quyền và nghĩa vụ qủan lý,
  • 19. 15 sử dụng có hiệu quả vốn, kinh phí và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ công ích theo kế hoạch, đơn đặt hàng của Nhà nước theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định. Căn cứ theo hình thức tổ chức hoạt động có thể chia DNNN thành 2 nhóm chính như sau: - DNNN độc lập là DNNN không ở trong có cấu DNNN khác. - Tổng công ty theo Luật DNNN là loại hình Tổng công ty được Nhà nước thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết tự nguyện của nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Tổng công ty Nhà nước theo Luật DNNN có thể có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập; hạch toán phụ thuộc hoặc đơn vị sự nghiệp. Căn cứ theo cơ cấu tổ chức, DNNN gồm hai loại: - DNNN có HĐQT: DNNN độc lập qui mô lớn và Tổng công ty thường có HĐQT, có cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm HĐQT, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc và bộ máy giúp việc. HĐQT thực hiện chức năng quản lý hoạt động của DN, chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước được Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển DN theo mục tiêu Nhà nước giao. - DNNN không có HĐQT: Những DNNN có qui mô nhỏ thường được tổ chức theo mô hình gồm giám đốc và bộ máy giúp việc mà không có sự quản lý của HĐQT. Căn cứ theo qui mô kinh doanh, DNNN có thể phân thành 3 nhóm sau: - DNNN qui mô lớn; - DNNN qui mô vừa; - DNNN có quy mô nhỏ. Căn cứ theo mức độ đóng góp vốn của Nhà nước và mức độ chi phối của Nhà nước, ta có:
  • 20. 16 - DN có 100% vốn của Nhà nước là DN do Nhà nước đầu tư toàn bộ số vốn với tư cách chủ sở hữu duy nhất của DN. - DNNN có cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của Nhà nước, trường hợp này đã có sự tham gia đầu tư vốn của thành phần kinh tế khác, nhưng cổ phần chi phối của Nhà nước chiếm từ 50% tổng số cổ phần của DN, hoặc cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong DN. Còn cổ phần đặc biệt của Nhà nước là cổ phần của Nhà nước trong một số DN mà Nhà nước không có cổ phần chi phối, nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của DN theo thoả thuận trong điều lệ của DN. Căn cứ theo các ngành kinh tế- kỹ thuật có thể phân DNNN theo nhóm các ngành kinh tế kỹ thuật sau đây: - DNNN thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp. - DNNN thuộc các ngành công nghiệp - xây dựng và phục vụ sản xuất công nghiệp. - DNNN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên lạc. - DNNN thuộc các ngành khác, Căn cứ tinh thần Nghị quyết Trung ương ba Khoá IX của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, ngày 26 tháng 4 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ban hành tiêu chí danh mục phân loại DNNN và Tổng công ty nhà nước. Theo tinh thần Quyết định này, về cơ bản các DNNN cũng được phân chia theo những tiêu chí như đã trình bầy ở trên; Cụ thể là được phân chia thành các DNNN (bao gồm các DNNN độc lập và DN thành viên của các Tổng công ty nhà nước) và các Tổng công ty nhà nước, DNNN độc lập và DN thành viên của các Tổng công ty nhà nước, DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích, hoặc phân chia theo qui mô, mức độ đầu tư vốn (ví dụ: Tổng công ty nhà nước phải có mức vốn từ 500 tỷ đồng trở lên, đối với
  • 21. 17 ngành đặc thù theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ vốn nhà nước có thể thấp hơn nhưng không dưới 100 tỷ đồng), hay theo ngành, lĩnh vực hoạt động của DNNN. Tóm lại, do đặc thù của từng nền kinh tế trên thế giới, tiêu chí cụ thể để xác định DNNN của các nước trên thế giới còn có nhiều điểm khác nhau. ở Việt Nam, theo qui định của pháp luật hiện hành, DNNN được coi là một tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn, tổ chức quản lý và hoạt động theo những mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trên thực tế, sự tồn tại và phát triển của DNNN chủ yếu trên các lĩnh vực, những ngành kinh tế trọng yếu như tài chính, ngân hàng, dầu khí, điện lực, hàng không, bưu chính viễn thông và các lĩnh vực dịch vụ khác có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế, đảm bảo những lợi ích kinh tế của Nhà nước. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của DNNN hoạt động công ích: 1.1.2.1. Hàng hoá, dịch vụ công cộng và hoạt động công ích Trong nền kinh tế thị trường, khu vực tư thường chiếm tỷ trọng lớn trong việc cung ứng các hàng hoá, dịch vụ cho xã hội. Song, có những dịch vụ tối cần thiết cho cuộc sống bình thường của cộng đồng mà tư nhân không thể cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không đảm bảo được lợi ích của xã hội. Khi đó, nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền có trách nhiệm cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát việc cung ứng các dịch vụ này nhằm đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế. Trong kinh tế học, các nhà khoa học đã phân biệt hai loại hàng hoá chính mà con người phải sử dụng là hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng. Hàng hoá cá nhân là loại hàng hoá phục vụ nhu cầu của cá nhân mà khi người này sử dụng, tiêu dùng thì người khác không thể sử dụng được nữa và với một số lượng hàng hoá cá nhân nhất định, nếu người này dùng nhiều thì người khác sẽ phải dùng ít đi, tức là tiêu dùng của người này ảnh hưởng trực tiếp tới tiêu dùng của người khác. Trái lại, hàng hoá công cộng là loại hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ những nhu cầu chung của xã hội. Hàng hóa công cộng có thể phân biệt được với hàng hoá tư nhân ở chỗ, hàng hoá tư nhân có thể đo được, và đặc biệt có khả năng rất cao về phân chia theo khẩu phần, trong khi đó, hàng hoá
  • 22. 18 công cộng như quốc phòng có thể cung cấp cho tất cả ngay cả khi nó được cung cấp cho một người. Loại hàng hoá và dịch vụ này mang lại lợi ích không chỉ cho những người mua nó mà cho cả những người không phải trả tiền cho hàng hoá, dịch đó. Đó là nguyên nhân dẫn đến chỗ chính phủ trở thành người sản xuất hoặc bảo đảm cung ứng các loại hàng hoá, dịch vụ công cộng5 . Hay hiểu theo nghĩa rộng hơn, hàng hoá và dịch vụ công cộng là những hàng hoá và dịch vụ được nhà nước cung cấp cho lợi ích của tất cả hay đa số nhân dân.6 Như vậy, để nhận dạng hàng hoá công cộng, cần dựa vào 3 đặc trưng chủ yếu: Thứ nhất, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng. Cụ thể hàng hoá công cộng một khi đã được cung ứng cho người này thì có thể được cung ứng cho người khác mà không phải chi phí thêm. Thứ hai, tính không ngăn cản trong tiêu dùng. Trên thực tế, sẽ không thể hoặc rất khó khăn, tốn kém nếu muốn ngăn cản một người sử dụng hàng hoá, dịch vụ công cộng. Bởi vì, hàng hoá công cộng có loại không thể loại trừ việc tiêu dùng như lợi ích quốc phòng, an ninh, hệ thống đê điều, hệ thống đèn tín hiệu, biển báo giao thông... hoặc có loại có thể loại trừ tiêu dùng nhưng việc loại trừ này rất tốn kém như việc sử dụng hệ thống giao thông công cộng, cầu cống... Ngoài ra, có một số loại hàng hoá công cộng như cứu hoả, tiêm chủng, phòng và chữa bệnh... thì việc hạn chế sử dụng nó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nguy hiểm cho những lợi ích chung của xã hội. Thứ ba, tính không thể loại bỏ được. Có nghĩa là một người không thể từ chối việc tiêu dùng một hàng hoá công cộng ngay cả khi người đó muốn như vậy. Thí dụ như hệ thống đê điều, hệ thống an ninh quốc phòng... ` Căn cứ vào 3 đặc trưng nêu trên, hàng hoá công cộng được phân chia thành hai nhóm: Nhóm hàng hoá và dịch vụ công cộng thuần tuý và nhóm hàng hoá và dịch vụ công cộng không thuần tuý. 5 Học viện Hành chính Quốc gia: "Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 166. 6 Chritoppher Pass, Bryan Lower Leslie Davies, Từ điển kinh tế, bản dịch tiếng Việt của Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học ngân hàng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
  • 23. 19 - Hàng hoá và dịch vụ công cộng thuần tuý là loại hàng hoá và dịch vụ thể hiện đầy đủ cả 3 đặc trưng của hàng hoá công ích. Cụ thể, hàng hoá, dịch vụ công cộng thuần tuý không thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng và người ta cũng không muốn sử dụng nó theo khẩu phần,7 cũng như không thể qui định mức độ sử dụng các loại hàng hoá và dịch vụ này. Hay hiểu một cách khác, việc sử dụng hàng hoá công cộng của người này không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng của người khác (ví dụ hệ thống đèn chiếu sáng công cộng). Ngoài ra, khi đã cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng thuần tuý thì không thể ngăn cản những người muốn tiêu dùng nó (ví dụ hệ thống đèn hải đăng hoặc hệ thống đèn cảnh báo luồng lạch). Hơn nữa, việc sử dụng loại hàng hoá, dịch vụ công ích thuần tuý không chỉ có ý nghĩa cho bản thân người sử dụng mà còn mang lại những lợi ích lớn hơn về mặt xã hội. Đồng thời, do không thể chia nhỏ cũng như không thể xác định một cách chính xác số lượng người sử dụng hàng dịch vụ, công cộng thuần tuý nên người sản xuất, cung cấp dịch vụ cũng không thể định giá cho đối tượng sử dụng loại hàng hoá, dịch vụ này (ví dụ dịch vụ quốc phòng, an ninh hay thông tin dự báo thời tiết...). Từ đặc điểm này, chúng ta có thể liệt kê một số loại hàng hoá, dịch vụ công cộng thuần tuý của một quốc gia như sau: + Hệ thống an ninh, quốc phòng của quốc gia; + Hệ thống phòng cháy chữa cháy; + Hệ thống dịch vụ bảo vệ môi trường sinh thái; + Hệ thống đê điều, phòng chống bão lụt; + Hệ thống các biển báo, chỉ dẫn đường sông, đường biển, đường bộ, đường hàng không; + Hệ thống dịch vụ thông tin dự báo thời tiết, khí hậu thuỷ văn; + Hệ thống dịch vụ vệ sinh môi trường đô thị, thoát nước; + Hệ thống thông tin các công trình phát minh, sáng chế đã được công bố; 7 Joseph E.Stiglitz, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học kỹ thuật, 1995, trang 166.
  • 24. 20 + Các loại hàng hoá và dịch vụ công cộng không phải trả tiền khác. - Hàng hoá và dịch vụ công cộng không thuần tuý: Đây là loại hàng hoá và dịch vụ không thể hiện đầy đủ 3 đặc trưng của hàng hoá, dịch vụ công ích. Cụ thể, việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ công cộng không thuần tuý có thể hạn chế được và thường người sử dụng nó phải tuân thủ những điều kiện nhất định như phải trả lệ phí sử dụng, phải chờ đợi để được thoả dụng (ví dụ hệ thống cầu đường, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống cung cấp điện, nước; hệ thống bưu điện, thông tin bưu chính viễn thông...). Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân biệt giữa hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng, hay giữa hàng hoá, dịch vụ công cộng thuần tuý và hàng hoá, dịch vụ công cộng không thuần tuý chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì, có những loại hàng hoá, dịch vụ vừa mang tính chất công ích, vừa mang tính chất cá nhân (như hàng hoá, dịch vụ công cộng không thuần tuý). Hơn nữa, việc xác định loại hàng hoá, dịch vụ công cộng không chỉ đơn thuần dựa vào tính chất công của hàng hoá đó mà nó còn phụ thuộc vào chính sách cung cấp của Nhà nước đối với loại hàng hoá này. Nhà nước có thể bao cấp toàn bộ hoặc bao cấp một phần đối với những loại hình dịch vụ công cộng tuỳ theo chính sách xã hội và những lợi ích xã hội mà dịch vụ công ích đó mang lại. Nếu như trước đây, dịch vụ y tế, giáo dục được Nhà nước bao cấp hoàn toàn thì chúng được coi là hàng hoá công cộng thuần tuý và mọi người không phải trả tiền và được quyền sử dụng như nhau đối với loại dịch vụ này. Nhưng hiện nay, theo chính sách xã hội hoá của nhà nước đối với loại hình dịch vụ y tế, giáo dục, người tiêu dùng phải trả một phần chi phí khi sử dụng dịch vụ này và do vậy, loại hình dịch vụ công cộng này lại trở thành dịch vụ công cộng không thuần tuý. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu còn xếp hàng hoá và dịch vụ công cộng không thuần tuý vào loại hàng hoá và dịch vụ cá nhân được cung cấp công cộng. Một cách tiếp cận khác cho rằng, dịch vụ công cộng là những hoạt động phục vụ cho lợi ích chung tối cần thiết của cả cộng đồng, do các cơ quan
  • 25. 21 công quyền hay những chủ thể được chính quyền uỷ nhiệm đứng ra thực hiện.8 Theo cách tiếp cận này, dịch vụ công cộng có những đặc điểm chính như sau: - Đó là những hoạt động có tính chất xã hội, phục vụ lợi ích chung tối cần thiết của cả cộng đồng để bảo đảm cuộc sống được bình thường và an toàn. - Đó là những hoạt động do các cơ quan công quyền hay những chủ thể được chính quyền uỷ nhiệm đứng ra thực hiện như một trách nhiệm chính thức của nhà nước trước công dân. - Việc trao đổi dịch vụ công cộng không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông thường, người sử dụng hàng hoá, dịch vụ này không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng hơn là trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước để nhà nước tổ chức việc cung ứng các dịch vụ này. Nhưng cũng có những dịch vụ mà người sử dụng vẫn phải trả thêm một phần hoặc toàn bộ kinh phí; tuy nhiên, đối với các dịch vụ này, nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm việc cung ứng không nhằm vào mục tiêu lợi nhuận. - Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít hoặc không phải đóng thuế) đều có quyền tiếp cận ngang nhau đến những loại dịch vụ công cộng, có quyền thụ hưởng sự cung ứng dịch vụ này ở một mức độ tối thiểu, với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Lượng dịch vụ công cộng mà mỗi người tiêu dùng không phụ thuộc vào mức thuế mà người đó đóng góp. - Khác với những loại dịch vụ thông thường được hiểu là những hoạt động phục vụ không tạo ra sản phẩm hình thái hiện vật, dịch vụ công cộng là những hoạt động của nhà nước phục vụ các nhu cầu thiết yếu của xã hội, bất kể sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện vật. - Xét dưới góc độ kinh tế học, dịch vụ công cộng là hoạt động cung cấp cho xã hội những hàng hoá công cộng, bao gồm cả những hàng hoá có tính cá 8 TS. Lê Chi Mai, Dịch vụ công cộng và những căn cứ để xã hội hoá dịch vụ công cộng, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 6/ 2000, trang 18.
  • 26. 22 nhân, thiết yếu được nhà nước bảo đảm cung ứng như điện, nước nước sinh hoạt… Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu một cách khái quát nhất hàng hoá và dịch vụ công cộng là những hàng hoá, dịch vụ được cung cấp cho việc sử dụng chung của mọi người và mọi người dân đều có quyền bình đẳng với nhau khi tiếp cận đến loại hàng hóa, dịch vụ này. Khi bàn đến khái niệm hoạt động công ích cũng có nhiều quan niệm khác nhau tuỳ thuộc vào cách tiếp cận của mỗi nhà khoa học. Chẳng hạn, có quan niệm cho rằng, hoạt động công ích chính là những hoạt động phục vụ trực tiếp lợi ích công cộng, bao gồm các nhu cầu thiết yếu, cơ bản trong đời sống con người - được gọi là các dịch vụ công cộng (như cung cấp điện nước, thu gom rác thải, xây dựng kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục…) mà người dân mong muốn và yêu cầu nhà nước cung cấp cho mình.9 Mặc dù quan niệm này chưa chỉ rõ chúng có bao gồm những hoạt động của các DN đảm nhận nhiệm vụ an ninh, quốc phòng hay không, nhưng theo chúng tôi, ở đây cũng cần khẳng định thêm rằng, các hoạt động do các DN đảm nhận mặc dù có một số đặc thù nhất định, nhưng xét về tính chất hoạt động và chủ thể của việc cung cấp, các hàng hoá, dịch vụ này có thể được xem là sản phẩm của hoạt động công ích. Cũng cần khẳng định, hoạt động công ích có mối quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng hoá, dịch vụ công cộng. Trong nhiều trường hợp, hàng hoá, dịch vụ công cộng chính là sản phẩm của hoạt động công ích. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, mặc dù hoạt động công ích và hàng hoá và dịch vụ công cộng là hai khái niệm có quan hệ gần gũi, nhiều khi khó phân biệt, nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất. Nếu như dấu hiệu cơ bản của hàng hoá dịch vụ công cộng là những hàng hoá dịch vụ mà một người này sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng của người khác; người sản xuất hàng hoá, dịch vụ công cộng có thể bị lỗ hoặc có thể có lãi thì hoạt động công ích theo tư tưởng của pháp luật nước ta cũng như ở một số nước trên thế giới là 9 Học viện Hành chính Quốc gia: "Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 166-167.
  • 27. 23 những hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ có thể là phục vụ cho mục đích sử dụng công cộng hoặc tiêu dùng cá nhân nhưng ít nhất phải đáp ứng hai điều kiện (điều kiện bắt buộc): - Là hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nếu không có nó thì sẽ ảnh hưởng đến đời sống an toàn xã hội. - Do chi phí quá cao và không có lãi, hoặc lãi thấp nên người sản xuất không muốn làm, hoặc do chính sách của nhà nước phải qui định giá hoặc phí và vì vậy, người sản xuất cũng không có khả năng thu lời đối với hàng hoá, dịch vụ công ích nên nhà nước phải là người chịu trách nhiệm tổ chức, sản xuất cung ứng và có cơ chế thích hợp.10 Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động công ích là việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho lợi ích và nhu cầu thiết yếu của cộng đồng xã hội hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bí mật quốc gia do nhà nước hoặc những chủ thể được nhà nước uỷ nhiệm đứng ra tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định, an toàn và phát triển bình thường của xã hội mà không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu. Trong thực tiễn nghiên cứu, hoạt động công ích được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau: - Nếu căn cứ vào tính chất của từng loại hình hoạt động, người ta phân hoạt động công ích thành nhiều loại. Thông thường thì những hoạt động đó là: + Hoạt động công ích trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng; + Hoạt động công ích trong lĩnh vực nhà ở; + Hoạt động cung cấp điện, nước, khí đốt cho người dân, đặc biệt ở các thành phố lớn; + Dịch vụ thu gom rác thải, các loại phế thải rắn; 10 TS. Trần Tiến Cường, Dự án VIE/97/016 "Cải thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh" Hội thảo Đổi mới quản lý hoạt động công ích và DNNN hoạt động công ích, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội, 2000.
  • 28. 24 + Dịch vụ thoát nước thải, nước mưa; + Dịch vụ vận tải công cộng trong các thành phố lớn cũng như vận tải liên tỉnh (thành phố); + Dịch vụ chiếu sáng công cộng, cây xanh, công viên, cảnh quan đô thị; + Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ; + Dịch vụ giáo dục và đào tạo; + Dịch vụ văn hoá, thông tin; + Dịch vụ vui chơi, giải trí; + Các loại dịch vụ công ích khác; - Nếu căn cứ vào hình thức thanh toán khi sử dụng dịch vụ công ích, loại hình dịch vụ này được chia thành hai nhóm: + Nhóm thứ nhất: Loại dịch vụ công ích không phải trả tiền và ai cũng có quyền được hưởng loại dịch vụ này (Nhà nước sẽ bao cấp toàn bộ việc cung cấp loại hình dịch vụ này). + Nhóm thứ hai: Dịch vụ công ích phải trả một phần tiền hay toàn bộ giá trị mà dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng. Quan điểm phân chia hai nhóm dịch vụ này càng trở nên phổ biến trong nền kinh tế thị trường nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước cũng như nâng cao chất lượng của từng loại hình dịch vụ công ích. - Nếu căn cứ vào vai trò của chủ thể cung cấp dịch vụ công ích, có thể phân chia dịch vụ công ích thành hai nhóm: + Nhóm dịch vụ công ích chỉ do Nhà nước đảm nhận việc cung cấp; + Nhóm các loại dịch vụ công ích do các thành phần kinh tế khác có thể tham gia cung cấp và chịu sự quản lý của Nhà nước. Xét trên phương diện quản lý nhà nước, việc phân chia các loại dịch vụ công ích theo hai nhóm khác nhau do các chủ thể kinh tế cung cấp như trên có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức và đưa ra các phương thức quản lý cho
  • 29. 25 phù hợp. Song mỗi loại hình dịch vụ công ích đã nêu có một vai trò quan trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, do đó cũng cần quan tâm đến các cách phân loại khác khi đưa ra các biện pháp cần thiết để tiến hành quản lý các loại hình cung cấp dịch vụ công ích. 1.1.2.2. Khái niệm DNNN hoạt động công ích: Nói đến DNNN hoạt động công ích là nói đến một loại chủ thể được thành lập chủ yếu để thực hiện các hoạt động công ích. Theo đó, DNNN hoạt động công ích có thể được hiểu là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, thực hiện việc sản xuất cung ứng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho lợi ích và nhu cầu thiết yếu của cộng đồng xã hội hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bí mật quốc gia nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định, an toàn và phát triển bình thường của xã hội mà không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu. Nói cách khác, DNNN hoạt động công ích, được hiểu là một tổ chức của Nhà nước sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước. ở Việt Nam, trước khi Luật DNNN năm 1995 được ban hành, khái niệm DN hoạt động công ích cũng như khái niệm DNNN hoạt động công ích chưa được đề cập đến trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta. Sở dĩ như vậy là vì trên thực tế chưa có sự phân biệt giữa hoạt động sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng với hoạt động sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Các DNNN được lập ra đều nhằm mục đích thực hiện những nhiệm vụ kinh tế- xã hội do Nhà nước giao. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hiệu quả SXKD là nhân tố quyết định sự sống còn của DNNN. Trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại hệ thống DNNN theo hướng gọn nhẹ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đã xuất hiện những DNNN hoạt động trong những lĩnh vực mang lại lợi ích xã hội nhiều hơn là lợi ích kinh tế. Song, chính sách, pháp luật của Nhà nước về DNNN thường chỉ chú trọng đến việc điều chỉnh những DNNN hoạt động kinh doanh thuần tuý. Vì vậy, Nhà nước phải có những chính sách cụ thể đối với loại hình DNNN hoạt động công ích bởi vì không thể đánh giá hiệu quả của những DN loại này khi chỉ đơn thuần dựa trên hiệu quả kinh tế hay chỉ tiêu lợi nhuận. Từ thực tế này, hệ
  • 30. 26 thống pháp luật về DNNN cần phải ghi nhận một loại hình DN mới, đó là DNNN hoạt động công ích. Theo tinh thần đó, Luật DNNN năm 1995 đã ghi nhận hai mô hình: DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Điều đó đã làm thay đổi khái niệm DNNN trước đây, đồng thời thừa nhận một loại hình DNNN mới, có vai trò và chức năng đặc biệt trong nền kinh tế - xã hội, đó là DNNN hoạt động công ích. Khoản 4, Điều 3, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 định nghĩa: “DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”. Với khái niệm này rất khó xác định DNNN nào được coi là DNNN hoạt động công ích bởi vì tiêu chí “sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước” vẫn chưa chỉ rõ những loại hàng hoá, dịch vụ nào được coi là hàng hoá, dịch vụ công cộng. Chính vì vậy mà Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/CP ngày 02 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ giải thích rõ hơn về DNNN hoạt động công ích. Điều 1 của Nghị định này qui định: “DNNN hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty nhà nước, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận”. Như vậy, lần đầu tiên, thuật ngữ “DNNN hoạt động công ích” và khái niệm về DNNN hoạt động công ích đã được ghi nhận trong pháp luật ở nước ta. Mục đích của việc ghi nhận loại hình DNNN hoạt động công ích là nhằm đưa ra một tiêu chí xác định một loại hình DNNN đặc thù nhằm phân biệt với loại hình DNNN hoạt động kinh doanh đơn thuần, từ đó xây dựng một qui chế pháp lý phù hợp cho từng loại hình DNNN. Điểm khác biệt cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả của hai loại hình DNNN là lấy hiệu quả tổng hợp bao gồm:
  • 31. 27 kinh tế - chính trị - xã hội, trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của DN kinh doanh; lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của DN công ích11 . 1.1.2.3. Đặc điểm của DNNN hoạt động công ích: Với tư cách là một loại hình của DNNN, nên DNNN hoạt động công ích cũng chứa đựng những đặc điểm của DNNN nói chung. Bên cạnh đó, DNNN hoạt động công ích còn có những đặc điểm riêng biệt so với các loại hình DN khác. Có thể kể đến những đặc điểm này như sau: Về nhiệm vụ: DNNN hoạt động công ích là DNNN trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh hoặc sản xuất sản phẩm cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước. Điều 2 của Nghị định số 56/CP qui định rõ các nhiệm vụ cụ thể đó bao gồm: - Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng an ninh và các DN tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng. - Sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng khác có ít nhất 70% doanh thu từ các hoạt động trong các lĩnh vực sau đây: + Giao thông công chính đô thị, + Quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống đường sắt quốc gia, đường bộ, đường thuỷ, sân bay, điều hành bay, bảo đảm hàng hải, dẫn dắt tàu ra vào cảng biển, kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ, đường thuỷ. + Kiểm tra, kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện. + Khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi. + Sản xuất giống gốc cây trồng vật nuôi. + Sản xuất và phát hành sách giáo khoa, sách báo chính trị, sản xuất và phát hành phim thời sự, tài liệu, phim cho thiếu nhi, sản xuất và cung ứng 11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa IX.
  • 32. 28 muối ăn, chiếu bóng phục vụ vùng cao, biên giới, hải đảo, sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ khác theo chính sách xã hội của Nhà nước. Về cách thức tiến hành sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ: DNNN hoạt động công ích không được tự ý tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng mà hoạt động sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng của DN phải thực hiện kế hoạch do Nhà nước giao hoặc theo đơn đặt hàng của Nhà nước. Nếu như điểm nổi bật trong Luật DNNN năm 1995 là việc Nhà nước giao quyền tự chủ cho các DN của mình trong việc lập kế hoạch, tổ chức hoạt động SXKD thì DNNN hoạt động công ích lại hoạt động trên cơ sở đơn đặt hàng của Nhà nước. Nhìn ở góc độ hình thức pháp lý, qui định này chứa đựng mâu thuẫn với chủ trương giao quyền tự chủ trong SXKD của DNNN và vẫn mang mầu sắc của DNNN trong cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp trước đây. Hệ quả của sự can thiệp này rất dễ dẫn đến sự độc quyền của DNNN hoạt động công ích. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất, vai trò mang tính đặc thù của DNNN hoạt động công ích được thể hiện qua nhiệm vụ, tầm quan trọng của nó, nên việc quy định như vậy cũng là yêu cầu cần thiết. Bởi vì, suy cho cùng các loại hàng hoá, dịch vụ do DNNN hoạt động công ích cung cấp cũng chính là sự thể hiện vai trò của Nhà nước đối với sự sống còn, ổn định và phát triển của nền kinh tế - xã hội của quốc gia, nên cần phải có sự tác động hay quản lý chặt chẽ và phù hợp với tính chất của hoạt động này. Vấn đề còn lại là việc tác động đó ở mức độ nào và cần được thực hiện dưới những hình thức, phương pháp có hiệu quả nhất. Về mức độ chủ động trong hoạt động: DNNN hoạt động công ích không được tự ý xây dựng đơn giá cho sản phẩm hoặc dịch vụ công cộng mà phải thực hiện theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định. Nếu như trong cơ chế thị trường, DNNN hoạt động kinh doanh được Nhà nước cho phép tự xây dựng giá thành sản phẩm (trừ những sản phẩm do Nhà nước định giá) thì giá thành sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của DNNN hoạt động công ích phải được thực hiện theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định. Việc khống chế giá thành sản phẩm của DNNN hoạt động công ích cũng xuất phát từ tính chất đặc biệt của loại hàng hoá, dịch vụ này, từ những ảnh hưởng xã
  • 33. 29 hội do việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ công cộng mang lại. Bên cạnh những quy định chung đối với DNNN (như tổ chức bộ máy, đổi mới công nghệ, tuyển chọn thuê mướn lao động, trả lương, hưởng chế độ ưu đãi đầu tư, sử dụng quỹ khấu hao cơ bản…) thì Nhà nước có những chế định cụ thể can thiệp sâu hơn vào quá trình sản xuất, thể hiện sự khống chế và ràng buộc ở mức độ chặt chẽ hơn của Nhà nước đối với quyền chủ động SXKD ở các DNNN hoạt động công ích. Về mục đích hoạt động: DNNN hoạt động công ích hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận mà trước hết là nhằm đáp ứng những lợi ích công cộng theo chính sách của Nhà nước. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh cũng như các loại hình DN khác. Nếu như DNNN hoạt động kinh doanh và các loại hình DN khác hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận thì DNNN hoạt động công ích hoạt động trước hết, vì những lợi ích xã hội chứ không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu. Nếu so sánh theo quy định của pháp luật hiện hành thì 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích có những điểm đồng nhất và khác biệt cơ bản. Cụ thể: - Cả 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích đều có chung một nguồn tài chính, đó là Ngân sách nhà nước. Vốn và tài sản của DN do Nhà nước đầu tư và là một bộ phận tài sản của Nhà nước với tư cách là chủ đầu tư. DN do Nhà nước thành lập và chịu sự quản lý của Nhà nước, có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn do DN quản lý và là chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự; tổ chức bộ máy quản lý của 2 loại hình DN này cũng có chung một quy chế. Ngoài ra, cả 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích đều có chung những quyền và nghĩa vụ cơ bản trong quá trình hoạt động như: vấn đề đổi mới công nghệ trang thiết bị, đặt chi nhánh, văn phòng đại diện để phát triển SXKD; vấn đề tuyển dụng, thuê mướn, sử dụng, đào tạo lao động cũng như xây dựng, áp dụng các định mức lao động, vật tư đơn giá tiền lương…
  • 34. 30 Bên cạnh đó, 2 loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích cũng có những điểm khác biệt cơ bản. Về mục tiêu hoạt động, nếu như DNNN hoạt động kinh doanh hoạt động trước hết vì mục tiêu lợi nhuận thì DNNN hoạt động công ích hoạt động không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu. Nói cách khác, mục tiêu lợi nhuận chỉ có ý nghĩa khi DN hoàn thành nhiệm vụ công ích. Từ nhiệm vụ và mục tiêu như vậy, một số hoạt động khác cũng có sự khác biệt nhất định như mức độ tự quyết kế hoạch sản xuất sản phẩm chủ yếu, tự quyết giá mua bán sản phẩm, tự lựa chọn thị trường… là những vấn đề mà DNNN hoạt động kinh doanh nào cũng thực hiện và được pháp luật thừa nhận, trong khi DNNN hoạt động công ích lại bị hạn chế; hoặc việc đầu tư liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần, kinh doanh ngành nghề bổ sung, nộp thuế… của DNNN hoạt động công ích cũng chỉ được thực hiện khi có những điều kiện nhất định, còn đối với DNNN hoạt động kinh doanh thì đây là những quyền và nghĩa vụ được thực hiện hàng năm hoặc bất kỳ lúc nào theo khả năng kinh doanh của DN… 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA DNNN HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH Ở NƢỚC TA 1.2.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển DNNN hoạt động công ích ở nƣớc ta: Kể từ khi đất nước ta giành được độc lập (1945) đến nay, DNNN nói chung, DNNN hoạt động công ích nói riêng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Cụ thể có thể nhìn nhận qua 4 giai đoạn chủ yếu như sau: 1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975: Đây là giai đoạn đất nước ta mới thoát khỏi ách đô hộ của chế độ Thực dân - Phong kiến, Nhà nước dân chủ nhân dân mới ra đời nhưng dân tộc ta vẫn phải tiếp tục trên con đường đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nứớc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Điểm cần chú ý của giai đoạn này là, đất nước ta phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đều phải tập trung phục vụ cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Vì vậy, Nhà nước đã huy động mọi nguồn lực để phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh như
  • 35. 31 vậy, DNNN cũng được thành lập nhằm thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp những nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, mà không lấy lợi nhuận mục tiêu hoạt động của DNNN. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nền kinh tế nước ta chủ yếu là tự túc, tự cấp. Các DNNN chủ yếu hoạt động trong một nền công nghiệp quân giới, quân nhu, quân dược, một nền nông nghiệp tự nhiên "nuôi quân đánh giặc". Từ năm 1961, các ngành, lĩnh vực kinh tế được Nhà nước ta quan tâm, đầu tư nhiều hơn. Mỗi năm, ngành công nghiệp được đầu tư khoản 350 triệu đồng. Nhiều DN thuộc các ngành công nghiệp như: than, điện, cơ khí, hoá chất, dệt may, xà phòng, thuốc lá, thiết bị nông nghiệp, phân bón… được thành lập mới. Một số khu công nghiệp được hình thành như: Việt Trì, Thái Nguyên, Quảng Ninh… Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do có sự quan tâm, chú trọng phát triển công nghiệp nên DNNN hình thành và phát triển mạnh mẽ hơn. Có nhiều cách thức hình thành DNNN trong giai đoạn này như: xây dựng mới các DNNN bằng nguồn viện trợ của nước ngoài (các nước XHCN), các DN thương nghiệp quốc doanh theo tinh thần "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ"; quốc hữu hoá các DN TBTN chốn chạy khỏi miền Bắc hoặc tiếp quản các DN của nước ngoài rút lui; nâng cấp các DN công tư hợp doanh hoặc HTX cao cấp sau khi Nhà nước đã hỗ trợ đầu tư cho các cơ sở này. Có thể rút ra một số đặc điểm chính của DNNN trong giai đoạn này như sau: - Tuyệt đại đa số các Xí nghiệp quốc doanh được thành lập, hoạt động đều có nhiệm vụ trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ nhiệm vụ chiến đấu. Vì vậy, hoạt động chủ yếu nhằm vào mục đích công cộng, lợi ích của toàn dân, lợi ích quốc gia, mà không quan tâm hoặc không quan tâm nhiều đến mục tiêu lợi nhuận.
  • 36. 32 - Số lượng Xí nghiệp quốc doanh chưa nhiều, cơ cấu không cân đối cho sự phát triển kinh tế vì chủ yếu tập trung vào sản xuất các sản phẩm cho quân đội. - Mức độ đầu tư của Nhà nước vào các xí nghiệp quốc doanh chưa lớn, hiệu quả của các xí nghiệp quốc doanh chưa được đánh giá một cách cụ thể trên cơ sở hiệu qủa kinh tế mà chỉ đánh giá theo mức độ hoàn thành chỉ tiêu, kế hoạch Nhà nước giao. - Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động chủ yếu theo chỉ tiêu kế hoạch, mệnh lệnh hành chính nhà nước chứ chưa có một hành lang pháp lý cho loại hình doanh nghiệp này. 1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986. Trong giai đoạn này Nhà nước ta áp dụng chính sách quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Cơ cấu nền kinh tế chủ yếu chỉ có các DNNN dưới các hình thức như xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, nông trường, công trường quốc doanh... Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được chú ý khuyến khích phát triển. DNNN trong giai đoạn này có một số đặc điểm chính sau: - Số lượng DNNN tương đối nhiều song hiệu quả kinh tế của bản thân từng DNNN cũng như của toàn bộ hệ thống DNNN hết sức yếu kém. Với chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã hạn chế tính năng động của các DNNN, tình trạng “lỗ thật, lãi giả” của các DNNN kéo dài nhiều năm liền đã là gánh nặng hết sức to lớn đối với ngân sách nhà nước. - Tất cả các DNNN đều được coi là một loại hình DN thuộc Nhà nước, hoạt động vì những mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hai loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích chưa hề được đề cập đến trong hệ thống DNNN của nước ta trong giai đoạn này. - Mặc dù đã có một số văn bản có tính chất pháp lý qui định về tổ chức và hoạt động của DNNN nhưng vẫn hết sức sơ sài. Các DNNN vẫn chưa có một hành lang pháp lý để hoạt động mà vẫn phải dựa trên cơ sở những chỉ tiêu kế hoạch mệnh lệnh hành chính nhà nước.
  • 37. 33 - Khu vực kinh tế công cộng, hệ thống cơ sở hạ tầng quá yếu kém nhưng hầu như không được đầu tư. Diện được hưởng phúc lợi xã hội quá lớn sau chiến tranh, các chính sách xã hội chưa được quan tâm đúng mức do ngân sách nhà nước hạn hẹp. Vì vậy các DNNN hoạt động vì những lợi ích chung của xã hội trong giai đoạn này cũng chưa được chú ý đầu tư phát triển. - Xuất phát điểm của nước ta quá thấp do phải trải qua một thời gian dài chiến tranh. Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, làm không đủ ăn, ngân sách nhà nước eo hẹp, vì vậy Nhà nước phải tập trung ngân sách chủ yếu cho việc giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt như lo ăn, mặc, ở hàng ngày của người lao động mà chưa thể đầu tư vào khu vực kinh tế công cộng. - Về mặt chủ quan, cơ chế chính sách kinh tế của chúng ta còn nhiều sai lầm, bất cập, không kích thích được sản xuất trong nước, không thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư vào khu vực kinh tế công cộng chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước mà chưa chú ý đúng mức đến các nguồn vốn khác. - Trong một thời gian dài, khu vực kinh tế công cộng bị quan niệm là khu vực phi sản xuất, chỉ tiêu dùng thu nhập quốc dân chứ không trực tiếp tạo ra thu nhập quốc dân, vì vậy Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng trong việc đầu tư phát triển khu vực này. - Trong điều kiện còn hạn hẹp về vốn, Nhà nước chưa thể đầu tư thoả đáng vào khu vực kinh tế công cộng, nơi đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn nhưng không thể thu hồi trực tiếp và phát huy hiệu quả chậm. 1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995. Đây là giai đoạn đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước theo chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng sự đổi mới là đúng hướng và đã mang lại những kết quả rõ rệt. Tình hình kinh tế và đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và
  • 38. 34 lưu thông tương đối thuận lợi, có tiến bộ nhiều về chất lượng, mẫu mã. Chính vì vậy mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định rằng “... cơ chế quản lý kinh tế mới đã tạo môi trường thuận lợi cho các DN phát huy tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động SXKD...”. Cùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ nhờ chính sách đổi mới mang lại, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang bộc lộ ngày càng rõ rệt, thể hiện ở những khía cạnh chính như sau: - Nhiều DNNN quá chú trọng đến hiệu quả kinh tế nên sao nhãng hoặc đôi khi quên mất nhiệm vụ bảo đảm lợi ích xã hội do Nhà nước giao. - Tình trạng nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả, tiêu cực, lãng phí lớn dẫn đến đòi hỏi cấp thiết mà Nhà nước cần sớm giải quyết trên nguyên tắc “...đổi mới cơ bản về tổ chức và cơ chế quản lý DNNN để vừa đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của DN trong cơ chế thị trường, vừa đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước”. - Hệ thống DNNN, ngoài chức năng nhiệm vụ chung của một đơn vị kinh tế nhà nước, đang có sự dịch chuyển dần về hai cực: Thứ nhất, các DN sản xuất ra các mặt hàng, cung cấp dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của cá nhân, do vậy DNNN loại này đang phải đứng trước sự cạnh tranh hết sức quyết liệt của các thành phần kinh tế khác và hiệu quả kinh tế trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của DNNN trong cuộc cạnh tranh này. Thứ hai, một số DNNN từ trước đến nay đang thực hiện việc sản xuất, cung ứng các dịch vụ vì lợi ích công cộng đang gặp vướng mắc trong việc hạch toán kinh doanh do các DNNN hoạt động trong lĩnh vực này không thu được nhiều lợi nhuận thậm chí thường xuyên thua lỗ. Trong khi đó, Nhà nước lại chưa có sự phân định rõ rệt về mặt pháp lý giữa loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Do vậy, DNNN hoạt động công ích vẫn phải hoạt động theo cơ chế và chính sách quản lý Nhà nước đối
  • 39. 35 với DNNN nói chung, có tính tới những đặc thù hoạt động của lĩnh vực này mà thôi. - Nhà nước đã có sự nhận thức về kinh tế công cộng và kinh tế tư nhân, đồng thời, sự phát triển yếu kém của khu vực kinh tế công cộng đang ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Sự thiếu đồng bộ về luật pháp, sự lạc hậu về hệ thống kết cấu hạ tầng, sự phát triển chậm của hệ thống bảo hiểm xã hội và của quỹ phúc lợi công cộng... đang là những vấn đề cản trở quá trình phát triển kinh tế, tạo ra nguy cơ tụt hậu về mọi mặt ở nước ta. Vì vậy, Nhà nước đã bắt đầu chú trọng đến việc đầu tư và thu hút đầu tư vào khu vực kinh tế công cộng, song kết quả đạt được chưa cao do nhiều nguyên nhân, và một trong những nguyên nhân cơ bản là Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích cũng như chưa xây dựng được một quy chế pháp lý rõ ràng cho loại hình đầu tư này. 1.2.1.4. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay: Đây là giai đoạn có nhiều sự đầu tư và thay đổi lớn nhất trong các lĩnh vực hoạt động công ích. Điểm đáng chú ý là sự kiện Quốc hội thông qua Luật DNNN ngày 20 tháng 04 năm 1995, trong đó DNNN hoạt động công ích được thừa nhận là một loại hình hoạt động của DNNN, đòi hỏi phải có chính sách và cơ chế quản lý riêng. Trên cơ sở đó, hệ thống văn bản pháp lý qui định và giải thích rõ hơn về chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước đối với loại hình DN này được ban hành tương đối hoàn chỉnh như Nghị định số 56/CP ngày 02 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ về DNNN hoạt động công ích hay Thông tư số 01 BKH/DN ngày 29 tháng 01 năm 1997 của Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 56/CP ngày 2 tháng 10 năm 1996 và Thông tư 06 TC/TCDN ngày 24 tháng 2 năm 1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với DNNN hoạt động công ích... DNNN hoạt động công ích trong giai đoạn này có một số đặc điểm chính như sau: - Hoạt động công ích đã được Nhà nước chú trọng đầu tư nhiều; hệ thống hạ tầng cơ sở như: đường sá công cộng, các sân bay, cảng biển, đèn
  • 40. 36 chiếu sáng đô thị, xây dựng nhiều cầu cống; bệnh viện, trường học được đầu tư nâng cấp... - Có nhiều tổ chức kinh tế lớn trên thế giới đã giúp Việt Nam nâng cấp khu vực kinh tế công cộng nhờ chính sách, cơ chế quản lý thích hợp hơn của Nhà nước. - Số lượng DNNN hoạt động công ích tăng lên từ việc thành lập mới hoặc chuyển đổi một số đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, DNNN hoạt động kinh doanh thành DNNN hoạt động công ích. Từ những hoạt động trên, DNNN hoạt động công ích ở nước ta trong giai đoạn này phát triển nhanh chóng. Ở hầu hết các bộ, ngành trung ương, các địa phương đều có DNNN hoạt động công ích. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 1999, trong cả nước có 726 DNNN hoạt động công ích, trong đó các Bộ, tổng cục có 188 DN, các tỉnh, thành phố là 538 DN. Số DN tập trung chủ yếu ở các Bộ, ngành như: Giao thông vận tải: 75, Quốc phòng: 68, Nông nghiệp Phát triển nông thôn: 26 DN. Các tỉnh, TP có DN nhiều DN nhất là: TP Hồ Chí Minh: 53, Kon Tum: 22, Hà Tây: 20, Nghệ An: 20, Khánh Hoà 18, Thanh Hoá: 18, Hải Dương: 17, Hưng Yên: 17, Thái Bình: 17; một số bộ, ngành, địa phương khác có từ 1 đến 15 đơn vị… (chỉ có 02 tỉnh là không có đơn vị nào, đó là Lạng Sơn và Lai Châu).12 1.2.2. Đòi hỏi khách quan về việc duy trì và phát triển DNNN hoạt động công ích trong điều kiện hiện nay Nền kinh tế thị trường nói chung là nền kinh tế hàng hoá luôn chịu sự tác động, điều tiết của những qui luật thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh... với những ưu điểm rõ rệt so với cơ chế kinh tế khác như: cơ chế tự điều tiết nền kinh tế linh hoạt, mềm dẻo và uyển chuyển; nó có tác dụng kích thích nhanh, mạnh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; tác dụng lớn trong việc tuyển chọn các DN cũng như cá nhân quản lý kinh doanh 12 Nguồn: "Báo cáo tổng hợp DNNN thuộc các Bộ, TCT 91 và các địa phương", Bộ Kế hoach và Đầu tư tháng 12 năm 1999.
  • 41. 37 giỏi, qua đó, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển... Nhưng mặt khác, bản thân nền kinh tế thị trường cũng hàm chứa trong nó những nguy cơ, tiêu cực có thể gây bất ổn và mất cân đối cho trong đời sống xã hội mà Nhà nước không thể không tính đến. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể coi nhẹ những lợi ích công cộng mà gây hậu quả xấu cho xã hội. Những ngành nghề có lợi nhuận thấp, nhất là khu vực kinh tế công cộng ít được các nhà đầu tư quan tâm. Điều đó tất yếu sẽ làm cho các vấn đề về công bằng xã hội không được bảo đảm, phân hoá xã hội cao, môi trường sống bị huỷ hoại, cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, làm ăn bất hợp pháp, tệ nạn xã hội ngày một gia tăng… Trong khi đó, quá trình phát kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn. Giáo dục, đào tạo còn yếu về chất lượng, khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn, xã hội chưa được đẩy lùi, bệnh dịch có chiều hướng gia tăng và lan rộng. Môi trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều. Nhận thức được điều đó, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã rất chú trọng đến việc đảm bảo tính ưu việt của chế độ XHCN theo tinh thần: Nhà nước khuyến khích phát triển nền kinh tế tuân theo những qui luật của kinh tế thị trường, phát huy những mặt tích cực của qui luật thị trường đến sự phát triển kinh tế, đồng thời hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế mang lại, đảm bảo sự công bằng và những lợi ích chung của xã hội; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát
  • 42. 38 triển13 … Đặc biệt, để đảm bảo tính định hướng XHCN trên cơ sở nền kinh tế thị trường cần phải thực hiện đồng bộ những điều kiện như: - Phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức SXKD, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. - Phát triển nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. - Xây dựng một nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường hội nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú, đa phương, đa dạng.14 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: Xây dựng và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thuỷ lợi, cấp nước, thoát nước…khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường…; quan tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, chú trọng các vùng Tây nguyên, Tây Bắc, Tây Nam; có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói, giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển15 … Đảng ta cũng vạch ra mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) là: đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường…Kết 13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. 14 Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, 2001, trang 14. 15 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.