SlideShare a Scribd company logo
1
Luận văn
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công
nghiệp, khu chế xuất Thực trạng và giải pháp
NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và
các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những
ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4
thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á đã thu được
những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những
thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt
nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển
quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế.
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu... góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước.
Là một bộ phận của hoạt động đầu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh
động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã
gây ảnh hưởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu tư trực tiếp, trong khi các
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì
vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là
nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại
của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức
tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: làm thế nào
để thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập?
3
Để góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất,
sau một thời gian nghiên cứu, người viết mạnh dạn chọn đề tài:" Đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải
pháp" để viết khoá luận tốt nghiệp với hy vọng khoá luận sẽ phần nào có ích
cho những người quan tâm.
Khoá luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
một hay một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách
tổng thể trên toàn bộ các khu trong khoảng thời gian gần mười năm trở lại
đây, kể từ khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện
tại.
Trong khi nghiên cứu vấn đề, khoá luận đã sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực
tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang
nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví
dụ... cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề.
Khoá luận được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
Bản khoá luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của các chuyên gia Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất
Việt Nam, TS Vũ Chí Lộc. Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối
4
với sự chỉ bảo tận tình và những ý kiến đóng góp của các Thầy, đã giúp đỡ
người viết hoàn tất đề tài trong thời gian vừa qua.
Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tương đối phức tạp, đòi
hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên
cứu chưa nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm
khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo
và những người có quan tâm đến vấn đề này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2000.
Nguyễn Hoàng Hải.
5
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT -
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KCN, KCX
I. VÀI NÉT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1. Khái niệm:
1.1 Khu chế xuất:
a. Cơ sở lí luận:
Sự hình thành và phát triển khu chế xuất trên thế giới xuất phát từ
những thay đổi trong môi trường kinh tế- kĩ thuật của nền kinh tế toàn cầu sau
chiến tranh thế giới lần thứ II, và nhất là trong thập kỉ 60.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các
nước công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân
công tiền công thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn
trước đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa, nay đã giành
được độc lập. Mặt khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nền kĩ thuật tự
động hoá chưa đủ sức giải quyết được những khó khăn này của các nước phát
triển.
Trong khi đó, các nước đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ
thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát
triển kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do
thiếu vốn, thiếu kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lí và công nhân
lành nghề có trình độ cao nên các nước đang phát triển khó có điều kiện kiến
tạo đầy đủ ngay một lúc trên phạm vi cả nước những điều kiện và yếu tố để có
được những sản phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
Ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước
phát triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân
6
công giá rẻ và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ
sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến
gần các nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn
chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút
đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu
tố thuận lợi về pháp lý và kĩ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp
với khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và
rất có ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực
tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển.
Khu chế xuất cũng chính là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể
lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một
vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng,
xét về mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lí thuyết lợi thế so sánh, khu
chế xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các công
ty xuyên quốc gia, người nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài hiện nay trên thế giới.
b. Định nghĩa:
Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế
độ mậu dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác
nhau về khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình
kinh tế này.
- Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA):
Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các
khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự
do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực
khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế
7
xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và
Singapo vào các khu chế xuất.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO):
Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính,
có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu
trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ
thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu
về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm
viêc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt
những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh doanh nước
ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất
hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi
hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực
tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất.
- Định nghĩa củaViệt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”.
Như vậy, về cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định
nghĩa hẹp của UNIDO.
1.2 Khu công nghiệp:
a. Khu công nghiệp- sự cải biên cần thiết của khu chế xuất cổ điển.
- Hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển:
Có thể thấy rằng, khu chế xuất là một trong những công cụ hành chính
để tạo ra thể chế thương mại tự do cho các nghành công nghiệp chế biến xuất
khẩu. Sự thành công của các khu chế xuất, đặc biệt là ở các nước Châu Á như
Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaixia, đặc khu kinh tế
8
Trung Quốc... trong hơn 3 thập kỉ qua đã đóng góp tích cực vào trào lưu phổ
thông hoá công cụ thúc đẩy xuất khẩu này.
Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ khu chế xuất được thành lập nhiều
và thu được nhiều thành công lớn ở các nước Châu Á, vì đây là khu vực có
lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đường
hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động vào bậc nhất thế
giới. Các khu chế xuất châu Á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế
xuất trên toàn thế giới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lượng xuất khẩu của
một nước, nhưng tổng kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc,
Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế
giới.
Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực
sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác.Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến điều này:
+ Một là, có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên
thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu
vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các
khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài
chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh
doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư.
+ Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các
nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kĩ thuật
nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa.
Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện. Theo báo
cáo của Ngân hàng thế giới khả năng tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và
tạo mối liên kết với các cơ sở sản xuất trong nước của các khu chế xuất là rất
hạn chế, trong khi đó, đóng góp của các khu chế xuất trong tổng kim nghạch
xuất khẩu các nước cũng rất khiêm tốn, chỉ ở mức 4-5%.
9
+ Ba là, do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hoá và nguồn thu ngoại tệ về
cho đất nước, đồng thời phải bảo hộ nền sản xuất trong nước, nên các nước
đều buộc xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị
trường thế giới. Chính vì vậy nên khu chế xuất thường được bố trí là một khu
vực lãnh thổ khép kín, có hàng rào bao quanh để thuận tiện cho quản lý hải
quan.
Chính yêu cầu xuất khẩu đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất trước
những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của khu
chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng công
nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có
dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại
trước các xí nghiệp khu chế xuất. Hơn nữa, việc không cho tiêu thụ hàng hoá
của các khu chế xuất, mà chủ yếu là của các công ty nước ngoài trên thị
trường nội địa, không tạo nên môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao
giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác động tiêu cực đối với khả năng tăng
năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung.
Có thể thấy nguyên tắc "mở ngoài, đóng trong" đối với các khu chế
xuất có thể làm chậm tiến trình cải cách thương mại cần thiết trên phạm vi cả
nước, không còn thích hợp với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và nhu cầu đầu
tư phát triển trong nước giai đoạn mới. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế
trên đây của mô hình khu chế xuất cổ điển, nhiều nước đã chuyển sang phát
triển mô hình kinh tế uyển chuyển, năng động hơn, trong đó thị trường trong
nước được tính đến như một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, đó chính là khu công nghiệp tập trung.
Khu công nghiệp - mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô
hình khu chế xuất cổ điển.
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư
nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được
thị trường nội địa như một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp
10
trong khu. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài vì đối với họ thị trường nội địa còn là một thị trường mới, có dung
lượng lớn, trong khi đó thị trường thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại
sản phẩm của các doanh nghiệp khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng
loại và chất lượng.
Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự
do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc tiêu thụ hàng hoá của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp khu công
nghiệp nói riêng tại thị trường trong nước góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn
chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài tràn vào , đây cũng là yếu tố kích thích cạnh
tranh, nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng
xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới.
Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài,
khu công nghiệp có thể được các nhà đầu tư trong nước quan tâm do có môi
trường và điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất.
b. Định nghĩa:
Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt
động kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô
hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác
nhau về khu công nghiệp.
- Định nghĩa 1:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà
ở... Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính -
kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công
nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không
11
có dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui
mô khác nhau.
- Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là
"khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, kông có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ
quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế
xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa
hai.
1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX:
a. Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng
một vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế
xuất Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu
công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu
công nghiệp Sài Đồng là 97 ha...
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu
có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ
300 đến 400 người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu
công nghiệp là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu
dùng, cơ khí chế tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô
nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và phương tiện trong khu...
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ
chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngoài.
12
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được
thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh,
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu
công nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu
tư trực tiếp của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ
tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công
nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư.
b. Khác nhau:
- Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất
khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công
nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu
đãi dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng
khác nhau.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành
vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7
năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu
công nghiệp và doanh nghiệp khu chế xuất như sau:
+ Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong
hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%,
được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp
theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế
thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở
13
lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm
tiếp theo, là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh
nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn 1 năm kể từ
khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.1 Mục tiêu:
Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất trên
thế giới gắn liền với những mục tiêu của các nước thành lập khu công nghiệp,
khu chế xuất và những mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài.
2.1.1 Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài:
- Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ
ở các nước đang phát triển.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nhất là
từ đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nước đó.
Khi tại các nước này, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm,
giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty
xuyên quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có
hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do
giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu,
công nghiệp tiêu chuẩn hóa như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện... không đòi
hỏi trình độ công nghệ cao tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu
quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài
ngày càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới.
Điều này có thể giúp chúng ta lí giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại
thường đầu tư vào những ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, lắp ráp như dệt,
may mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu công nghiệp, khu chế xuất của
các nước đang phát triển.
14
- Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước
đang phát triển, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thuế và
các ưu đãi khác của các nước này nhằm tăng cường lợi ích của các công ty
xuyên quốc gia.
- Bảo vệ môi trường của các nước phát triển.
Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công
nghiệp nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường không kiểm
soát nổi ở các nước phát triển, làm cho chi phí bảo vệ môi trường ngày càng
tăng. Xu hướng chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các
ngành công nghiệp này sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường
nước họ và giảm chi phí sản xuất.
- Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài.
Khi đầu tư ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất, các công ty tư bản nước ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ
đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ.
Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào
Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó.
2.1.2 Mục tiêu của các nước thành lập:
Trong khi các công ty tư bản nước ngoài tìm kiếm lợi ích của mình
thông qua các động cơ không cần che giấu đó, thì các nước tiếp nhận đầu tư
cũng cố gắng đạt được những mục tiêu chiến lược của mình thông qua việc
thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất. Ở đây khó có thể đề cập đến
mục tiêu của từng nước đang phát triển, bởi lẽ mỗi nước trong mỗi khu vực
có những điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế riêng. Song nếu phân tích từ
giác độ vĩ mô, có thể tóm lại mục tiêu cơ bản và thống nhất của các nước này
như sau:
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với tính chất là "vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi
trường đầu tư chung của cả nước, khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành
15
công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở mang hoạt động
sản xuất kinh doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của
cả nền kinh tế.
Các nước chủ nhà, trong nhiều trường hợp, đã thông qua khu công
nghiệp, khu chế xuất như một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào các phần lãnh thổ còn lại của đất nước.
- Mở rộng hoạt động ngoại thương.
Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, nước chủ nhà
muốn đẩy mạnh hoạt đông ngoại thương với các nước.
Sau khi giành được độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nhiều nước
đang phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương muốn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập của mình. Họ vấp phải khó khăn không thể
vượt qua do thiếu nguồn ngoại tệ. Thành lập khu chế xuất để tăng nhanh xuất
khẩu hàng hoá và thu ngoại tệ là con đường mà nhiều nước theo đuổi.
Những nước xưa nay vốn dựa vào hoạt động xuất khẩu và chuyển khẩu để
phát triển kinh tế như Singapo, Hồng Kông thường thông qua việc mở khu
chế xuất, bảo đảm những biện pháp quản lý đặc biệt và điều kiện ưu đãi nhằm
thu hút phương tiện và nguồn hàng các nước đến để thực hiện dịch vụ xuất
khẩu và chuyển khẩu.
Đối với nước đang phát triển khác, việc lập ra các khu công nghiệp, khu
chế xuất để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài, mở rộng
công nghiệp xuất khẩu, từ đó tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn là
điều quan tâm nhất. Theo hướng này, ở nhiều nước Châu Á - Thái Bình
Dương, xuất khẩu hàng công nghiệp sản xuất ở khu công nghiệp, khu chế
xuất chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở các nước đó.
- Tạo công ăn việc làm.
Khuyến khích toàn dụng lao động là một trong những mục tiêu quan
trọng của các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự
bùng nổ dân số và tình trạng thất nghiệp đã làm cho bức tranh kinh tế của các
nước này càng trở nên ảm đạm. Trong khi các nước mới dành được độc lập
16
dư thừa sức lao động thì tình trạng thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao động
tiền công thấp ở các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn
sử dụng nguồn lao động dồi dào trong đội quân thất nghiệp khổng lồ ở các
nước đang phát triển.
Mở mang khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo ra nhiều hơn chỗ làm
việc là mục tiêu chung của các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, khu
công nghiệp, khu chế xuất là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lựoc lâu dài về
toàn dụng lao động ở các nước đó.
- Du nhập kĩ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của
các công ty tư bản nước ngoài.
Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh té, đặc
biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên
thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa
học kĩ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng
khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo
điều kiện nhập khẩu kĩ thuật, công nghệ của các công ty tư bản nước ngoài,
học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữu hiệu mà nhiều
nước từng áp dụng.
Ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết
kĩ thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ
trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kĩ thuật phục
vụ cho công cuộc bốn hiện đại hoá là mục tiêu luôn được quan tâm của Trung
Quốc, đặc biệt ở các đặc khu kinh tế được thành lập trong những năm cuối
thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao
được thành lập trong những năm gần đây.
- Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế trong nước.
Trước hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị
trường nội địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng
nhập lậu từ nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu.
17
Còn khu chế xuất, với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt
động của khu chế xuất chủ yếu hướng ra thị trường thế giới. Vì vậy, có thể
xem khu công nghiệp, khu chế xuất như là một cửa ngõ khai thông nền kinh
tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, khu công nghiệp, khu chế xuất vốn là một bộ phận cấu thành
của kinh tế trong nước, tạo nên sức hút với nhà đầu tư nước ngoài. Tạo ra
năng lực sản xuất mới, thu hút lao động trong nước vào làm việc ở các khu
công nghiệp, khu chế xuất, phát triển mối liên kết với các doanh nghiệp trong
nước nằm ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất thông qua các hợp đồng gia
công, cung cấp nguyên liệu giữa các xí nghiệp này là thực tế diễn ra ở nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là các đặc khu kinh tế Trung Quốc,
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan.
Dù được thành lập trong những điều kiện khác nhau, với tính chất và
thời điểm khác nhau, nhưng những mục tiêu của khu công nghiệp, khu chế
xuất đều gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế của từng quốc gia. Chính vì
vậy, liều lượng và tính chất ưu tiên đối với mục tiêu cụ thể của từng nước
cũng rất khác nhau, thể hiện qua những ưu đãi mà Chính phủ các nước này
dành cho khu công nghiệp, khu chế xuất. Thí dụ, trong khi Đài Loan, Hàn
Quốc, Malaixia, Philipin dường như đặt lên hàng đầu mục tiêu xuất khẩu và
tạo việc làm, Xrilanca và Ấn Độ chú trọng vào việc thu hút vốn, thì Trung
Quốc lại ưu tiên nhiều hơn cho mục tiêu thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển nền
kinh tế khu vực ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất.
Ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có
thu nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
tạo công ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của
hoạt động đầu tư trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất
ở Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó.
Song để có các khu công nghiệp, khu chế xuất thành công, điều cơ bản
của các nước chủ nhà là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các
công ty xuyên quốc gia - đối tượng đầu tư chủ yếu của các khu. Nói cách khác
18
hai bên phải tìm được điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu
công nghiệp, khu chế xuất là công cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt được
trong môi trường đầu tư do các nước chủ nhà tạo ra để sẵn sàng đón nhận đầu
tư của các công ty xuyên quốc gia.
2.2 Đặc điểm:
Các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là công cụ thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại đáp ứng
nhu cầu về hàng hoá của thị trường trong nước và thế giới. Với cơ cấu được
hình thành trên cơ sở kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, khu công nghiệp, khu
chế xuất bao gồm những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (đối với khu công nghiệp) hàng
xuất khẩu (đối với khu chế xuất), và các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp (đối với khu công nghiệp) cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu (đối với khu chế xuất), là những doanh nghiệp
cơ bản đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
- Thứ hai, việc hình thành khu chế xuất và khu công nghiệp tạo nên sự thay
đổi một cách căn bản về hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài khu, là cơ sở để hình
thành các khu vực đô thị, các thành phố công nghiệp trong tương lai.
- Thứ ba, khu chế xuất và khu công nghiệp góp phần vào việc tạo ra hiệu quả
kinh tế - xã hội, trước hết là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi cho khu vực lãnh thổ có các khu này.
- Thứ tư, tạo nên sự liên kết với các cơ sở kinh tế trong nước, trước hết là
khu vực quanh khu chế xuất và khu công nghiệp.
Như vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác
động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ việc tổ
chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, phát triển hạ tầng kiến
trúc, bảo vệ môi trường đến việc nâng cao mức sống nhân dân
19
II. QUAN HỆ GIỮA VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, KHU
CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1. Khu công nghiệp, khu chế xuất- sự phát triển tất yếu của hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Bước vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và
quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực có những biến chuyển nhanh
chóng và sâu sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ, cũng như tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với
những biến đổi ấy, ở nhiều nước đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo
hướng tận dụng tốt nhất những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao
động quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nước.
Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nước ta cải
cách kinh tế theo hướng "mở cửa" đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Vào thời điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh
vốn đầu tư để duy trì và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ
tụt hậu về phát triển giữa nước ta và các nước được đặt ra hết sức cấp bách.
Khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là
giải pháp chính cho vấn đề nói trên. Nhưng khi nguồn đầu tư trong nước còn
hạn chế, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường để huy động tối đa nguồn
vốn đó, thì nguồn lực bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc
xây dựng các công trình quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với công nghiệp
hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của chính sách "mở cửa". Thêm vào đó Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, được Quốc hội CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 29
tháng 12 năm 1987 và đã qua nhiều lần sửa đổi, đã tạo môi trường pháp lý
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Luật đầu tư, Nhà nước Viêt
Nam cam kết bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tư vốn,
bảo đảm cho tiền vốn và tài sản của họ không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch
20
thu trong quá trình hoạt động; khuyến khích đầu tư thông qua các điều kiện
ưu đãi về thuế, bao gồm miễn, giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và
các điều kiện thuận lợi khác về cư trú, đi lại ở Việt Nam... Luật đầu tư nước
ngoài bảo đảm đối xử công bằng đối với tất cả các đối tác nước ngoài, khuyến
khích họ đầu tư vào tất cả các hình thức, từ hợp đồng hợp tác kinh doanh,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của các nhà đầu tư nước
ngoài; hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao để xây dựng, khai thác
các công trình hạ tầng... Cũng theo Luật đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài chịu sự quản lý của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu
tư - nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý
Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài. Nội dung quản lý bao gồm: xúc
tiến đầu tư, hình thành dự án; thẩm định, cấp giấy phép đầu tư; quản lý doanh
nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư.
Với nền tảng pháp lý nói trên, với những mục tiêu cơ bản: thu hút vốn, kĩ
thuật, tạo việc làm, mở rộng thị trường và học tập kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của thế giới, hoạt động đầu tư trực tiếp đã thu được những kết quả quan
trọng và gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Tính đến thời điểm cuối năm 1994,
tổng số dự án được cấp giấy phép hoạt động là 1.190 với tổng vốn đăng ký là
10.700 triệu đôla. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhanh, năm 1994
tăng gấp 9,7 lần năm 1988, trong đó riêng năm 1994 bằng 53% của 6 năm
trước đó cộng lại.
Tuy đã đạt được mức tăng trương tương đối cao trong những năm đầu
thực hiện Luật đầu tư, nhưng dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài "chảy vào"
nước ta vẫn gặp phải trở ngại rất lớn là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát
triển, cơ chế quản lý và thủ tục đầu tư còn quá phức tạp, phiền hà, chịu nhiều
ảnh hưởng của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, nói "một cửa" nhưng
trên thực tế là nhiều cửa. Trong khi đó, khi gọi vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chúng ta mới chỉ chú trọng vào những mục tiêu chính của mình, đặc
biệt là xuất khẩu và tạo công ăn việc làm, mà chưa đẩy mạnh vấn đề xây dựng
môi trường đầu tư tốt, nhất là một hệ thống chính sách toàn diện, đồng bộ;
21
một cơ chế quản lý thích hợp giải quyết nhanh mọi thủ tục và yêu cầu của nhà
đầu tư; một cơ sở hạ tầng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất công
nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước sản xuất hàng xuất khẩu
đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và hàng cung cấp cho thị trường
trong nước.
Nhằm thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu khi trong nền kinh tế và cơ
chế quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự hiểu biết về thị trường thế
giới còn hạn chế, ở nước ta khu công nghiệp và khu chế xuất được sử dụng
như những công cụ để thu hút đầu tư nước ngoài, là biện pháp tăng năng lực
xuất khẩu bằng cách tạo ra môi trường đầu tư tự do, điều kiện thương mại tự
do và cung cấp cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi với một cơ chế quản lý phù hợp.
Như vậy, việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất để tăng năng lực
xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác có hiệu quả
các nguồn lực trong nước, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nước ta trong
nền kinh tế thế giới và khu vực, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa-
hiện đại hóa theo hướng hướng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan, là
bước phát triển có tính chất lôgic của các chính sách phát triển kinh tế đất
nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngoài nói riêng.
2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp như nước ta, việc
tạo ra những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới là điều không dễ dàng, đơn giản. Muốn có dược như vậy, phải
có những điều kiện và yếu tố cần thiết, trước hết là vốn, kỹ thuật công nghệ
tiên tiến, đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để
sản xuất hàng hoá với giá cả và chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh cao.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được coi là công cụ quan trọng và hữu hiệu
nhất để thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật, sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời là cửa ngõ khai thông ra thị trường
thế giới.
22
Ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh hệ thống khu công nghiệp,
khu chế xuất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là vì:
- Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư của các nước
phát triển, trước hết là của các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tư bản lớn
là nguồn đầu tư quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trướng thị
trường, các công ty xuyên quốc gia có xu hướng di chuyển một bộ phận năng
lực sản xuất công nghiệp, thường là ngành công nghiệp có hàm lượng lao
động, vật chất cao, không đòi hỏi trình độ thật tinh vi đến gần những nơi có
nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ, cước phí vận chuyển không quá lớn và có
những điều kiện ưu đãi. Ở những nơi này, các công ty xuyên quốc gia vừa
không bị hạn chế bởi hàng rào quan thuế bảo hộ mậu dịch và các thủ tục hành
chính quản lý phức tạp của nước chủ nhà, vừa phát huy được hiệu quả đầu tư
do giảm chi phí sản xuất. Khu công nghiệp, khu chế xuất chính là môi trường
thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất hàng xuất
khẩu.
- Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội trên những vùng rộng lớn
của đất nước đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của từng vùng nói riêng. Mặc
dù chúng ta đã có nỗ lực to lớn trong xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
nhưng do khả năng nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không
thể khắc phục nhược điểm này trên qui mô toàn quốc, mà cần thiết phải có
các biện pháp đặc biệt đối với từng khu vực, từng vùng, trước hết là ở những
địa bàn có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các
nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn, phương tiện kỹ thuật để sản xuất hàng
hoá, tạo môi trường liên kết với nền kinh tế trong nước. Khu công nghiệp,
khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết
để tạo ra cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế, với chi phí thấp đáp ứng đòi hỏi
của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Trở lại thời kỳ 1991- 1994, xuẫt khẩu nước ta đã đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, chủ yếu là do xuất khẩu dầu mỏ ngày càng tăng trong khi gạo,
23
hàng hải sản, nông sản và hàng may mặc vẫn duy trì ở mức xuất khẩu khá.
Song dự trữ dầu mỏ có hạn, khả năng xuất khẩu gạo và nông sản nguyên dạng
cũng có giới hạn bởi diện tích đất trồng trọt, nên muốn tiếp tục tăng trưởng
xuất khẩu phải có những chuyển biến về cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng
các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng
cao hiệu quả xuất khẩu, tận dụng được ưu thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng
cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.
Xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước
ta sẽ có tác dụng tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước
và các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó có thể xây dựng được một số lượng lớn
các doanh nghiệp chế biến và chế tạo trong các khu, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu và nâng cao năng lực xuất khẩu.
- Luật đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra môi trường thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy những qui định về quản lý và thủ
tục hành chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn
phức tạp, rườm rà, đã hạn chế tính năng động, linh hoạt của các doanh nghiệp
trước những biến đổi của thị trường. Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép
áp dụng qui chế riêng với những qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành
chính, trước hết là thủ tục hải quan, thuế tương đối đơn giản, thông thoáng, dễ
áp dụng nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đối với việc quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất, chúng ta có điều kiện áp dụng chế độ dịch vụ
"một cửa", theo đó các chủ doanh nghiệp trong khu chỉ cần tiếp xúc với một
đầu mối là Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất để giải quyết mọi công
việc; còn phía mình, cơ quan Nhà nước các cấp có thể phối hợp thông qua đầu
mối này trong quá trình quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất mà không tạo
nên nhiều tầng nấc quản lý, giảm nhẹ thủ tục cho các chủ doanh nghiệp.
- Khu công nghiệp, khu chế xuất được xây dựng thành công sẽ trở thành một
mô hình kinh tế năng động, có hiệu quả cao. Các khu có khả năng đón nhận
nhiều nguồn đầu tư lớn vào nhiều lĩnh vực, trước hết là vào các ngành công
nghiệp truyền thống, đã tiêu chuẩn hoá, sử dụng nhiều lao động. Các khu
24
cũng là nơi đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phương pháp quản
trị kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, cung cấp
cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề có chuyên môn kỹ thuật cho các
ngành kinh tế. Vì vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất là giải pháp có hiệu quả
đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo công ăn việc làm.
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, trên một địa bàn nhỏ, nhưng có mật
độ cao các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (hàng xuất khẩu
đối với khu chế xuất) và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (các
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu đối với khu chế
xuất) khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một cầu nối gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới, là nhân tố quan trọng trong việc thu
hút vốn đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đất nước và đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh
tế thế giới.
Với những lý do trên, việc xây dựng và phát triển hệ thống khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan đối với việc tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển kinh tế nước ta.
25
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM
TRONG
THỜI GIAN QUA.
I. TÌNH HÌNH CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT CHO ĐẾN
HẾT QUÍ II NĂM 2000:
1. Sự thành lập và qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất:
1.1 Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất:
- Qui mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Đến tháng 6/ 2000, đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành
lập (không kể khu công nghiệp Dung Quất rộng 14000 ha nằm ở vùng Trung
Bộ). Tổng diện tích đất tự nhiên của các khu công nghiệp, khu chế xuất là
11.023 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 7.290 ha.
Như vậy, qui mô bình quân của một khu là 164,5 ha. Khu công nghiệp
có diện tích lớn nhất (không kể khu công nghiệp Dung Quất mà thực chất là
khu kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) là khu công nghiệp Phú Mỹ I tại
Bà Rịa- Vũng Tàu với diện tích 954,4 ha, còn khu công nghiệp có qui mô nhỏ
nhất là khu công nghiệp Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với diện tích
28 ha. So với các khu công nghiệp, khu chế xuất châu Á - thường có diện tích
từ 10,5 đến 425 ha mà phần lớn là từ 100 đến 200 ha thì khu công nghiệp, khu
chế xuất của Việt nam thuộc loại khá lớn về diện tích.
- Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất:
Trong 67 khu được thành lập nói trên, có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế
xuất và đặc biệt là 1 khu công nghệ cao.
Diện tích đất tự nhiên và đất công nghiệp của các khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu công nghệ cao.
26
Số
lượng
Diện tích đất tự
nhiên (ha)
Diện tích đất
công nghiệp (ha)
Tổng cộng 67 11.023 7.715
Khu công nghiệp 63 9.313 7.191
Khu chế xuất 3 510 374
Khu công nghệ cao 1 200 150
Như vậy, khu công nghiệp chiếm số lượng áp đảo, chỉ có 3 khu chế xuất
trong khi có tới 63 khu công nghiệp. Có thể kể đến một số khu công nghiệp
lớn, có diện tích trên 200 ha như khu công nghiệp Daewoo-Hanel ở Hà Nội,
khu công nghiệp Phú Mỹ I thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (954,4 ha), khu công
nghiệp Nhơn Trạch I, II, III thuộc tỉnh Đồng Nai (với diện tích tương ứng là
430, 350, 368 ha), khu công nghiệp Hiệp Phước I ở thành phố Hồ Chí Minh
(332 ha)...
Ba khu chế xuất hiện nay là: khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất
Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu chế xuất Hải Phòng ở thành phố
Hải Phòng.
Khu công nghệ cao Hoà Lạc thuộc địa phận tỉnh Hà Tây là khu công
nghệ cao duy nhất hiện nay ở Việt Nam. Đây là "khu tập trung các doanh
nghiệp kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ
cao gồm nghiên cứu-triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ
liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp
chế xuất." (theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao
ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/ 4/ 1997 của Chính phủ)
- Phân bố khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng:
Số các khu đã được thành lập tại các vùng.
27
Vùng
Số khu công
nghiệp
Diện tích
(ha)
Vùng núi Bắc Bộ 2 139
Vùng Tây Nguyên 0 0
Vùng đồng bằng sông Cửu Long 6 649,6
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 10 1307
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ ( 7 628,6
chưa kể khu công nghiệp Dung Quất)
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 33 7110
Các vùng khác 9 1188,8
Các khu công nghiệp, khu chế xuất phân bố không đều theo lãnh thổ: tập
trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và
đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 56/ 64 khu). Trong khi đó, vùng Tây
Nguyên chưa có một khu công nghiệp hay khu chế xuất nào. Vùng núi Bắc
Bộ có 2 khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Thụy Vân thuộc tỉnh Phú
Thọ được thành lập năm 1997 và khu công nghiệp Sông Công thuộc tỉnh Thái
Nguyên mới được thành lập năm 1999 với diện tích nhỏ so với mặt bằng
chung của cả nước. Tại những vùng này, việc xây dựng khu công nghiệp, khu
chế xuất là rất khó khăn do vị trí địa lý kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng chưa phát
triển.
Về diện tích, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 10 khu với tổng diện
tích 1.307 ha, chiếm 11,86%; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 33 khu
với tổng diện tích 7.110 ha, chiếm 64,5%; vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung có 7 khu với diện tích 628,6 ha, chiếm 5,7% tổng diện tích các khu
công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập. Như vậy, các khu công nghiệp,
khu chế xuất tập trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm không chỉ về mặt
số lượng mà còn cả về mặt diện tích.
28
Ngoài ra, tại vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, Chính phủ đã quyết định
thành lập khu công nghiệp Dung Quát( thực chất là khu kinh tế tổng hợp với
diện tích 14.000 ha) và nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở Chu Lai.
1.2 Qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000.
Đến nay, đã có 96 khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong
qui hoạch đến năm 2010.
Số các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng theo qui hoạch.
Vùng Số khu công nghiệp,
khu chế xuất
Vùng núi Bắc Bộ 3
Vùng Tây Nguyên 3
Vùng đồng bằng sông Cửu Long 8
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 16
Vùng kinh tế trọng điểm Trung 10
Bộ 39
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 17
Các vùng khác
Trong đó, số khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong qui
hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/ 1996 là 35 khu. Số khu
công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trước tháng 8/ 1996 là 16 và số khu
công nghiệp, khu chế xuất được bổ sung (bổ sung qui hoạch hoặc đã được
Thủ tướng chấp nhận về chủ trương) là 45. Đã có 67 khu công nghiệp, khu
chế xuất được thành lập trên cả nước nên trong khoảng thời gian sắp tới, sẽ có
thêm 29 khu mới.
Nhìn chung qui hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất phù hợp
với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và từng vùng, tham gia
tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nói cách
29
khác, đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nhằm mục tiêu tạo đà tăng
trưởng cho công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng
bước thực hiện việc phát triển công nghiệp theo qui hoạch, tránh phát triển
các cơ sở công nghiệp một cách tự phát, tiết kiệm đất, thu hút và sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp,
thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển.
Thực tế thời gian qua cho thấy khu công nghiệp, khu chế xuất được hình
thành từ khu vực chưa có các yếu tố hạ tầng và doanh nghiệp công nghiệp,
hoặc trên cơ sở qui hoạch lại các doanh nghiệp đã được thành lập từ trước đó.
Ngoài ra có một số khu công nghiệp để sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp qui
mô vừa và nhỏ của địa phương, tạo điều kiện qui hoạch, tổ chức lại sản xuất
công nghiệp, kết cấu hạ tầng và xử lý môi trường ở các tỉnh.
2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất:
- Qui mô xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Tổng vốn đầu tư đăng ký xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp,
khu chế xuất, tính đến đầu năm 2000, vào khoảng 1.148,1 triệu đôla và
24.429 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tổng vốn đầu tư đăng ký là 12
triệu USD.
+ Doanh nghiệp liên doanh có tổng vốn đầu tư đăng ký là 879,5 triệu USD.
+ Doanh nghiệp Việt Nam có tổng vốn đầu tư đăng ký là 256,6 triệu USD và
24.429 tỷ đồng.
Đến hết tháng 12/ 1999 có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất triển khai
đầu tư xây dựng hạ tầng. Các khu này đã thực hiện được 396,5 triệu USD và
1.133 tỷ đồng vốn xây dựng hạ tầng, chỉ bằng 25% tổng số vốn đầu tư đăng
ký hoặc dự toán được duyệt. Vì vậy, đẩy nhanh thực hiện vốn xây dựng hạ
tầng trong thời gian trước mắt đang là vấn đề cấp thiết đối với hệ thống các
khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam.
30
Về qui mô bình quân, một khu có diện tích là 164,5 ha với vốn đầu tư
xây dựng hạ tầng theo dự kiến trong hồ sơ dự án là 28,8 triệu USD (bình quân
khoảng 175.000 USD/ ha).
Theo số liệu tổng kết của WEPZA, một khu công nghiệp hay một khu
chế xuất điển hình có diện tích khoảng 100 ha với vốn đầu tư ban đầu xây
dựng hạ tầng khoảng 50 triệu USD, tạo việc làm cho 10.000 lao động và tạo
ra giá trị xuất khẩu và GDP khoảng 200 triệu USD. Cũng theo WEPZA, qui
mô khu đó đem lại hiệu quả cao nhất, vì phát huy nhanh vốn đầu tư xây dựng
hạ tầng, dễ đảm bảo các điều kiện hoạt động cho khu như điện, nước, thông
tin, giao thông vận tải, dễ vận động đầu tư vào khu mà không gây những hậu
quả lớn về môi trường, về kinh tế - xã hội do tích tụ với mật độ lớn các doanh
nghiệp và số lao động làm việc thường xuyên trong khu. Như vậy, đa phần
các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trước mắt chưa thể gọi là
"điển hình".
- Tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nhìn chung, tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế
xuất chậm. Ngoài một số khu công nghiệp, khu chế xuất đã xây dựng xong
hoặc cơ bản đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng như khu công nghiệp Nomura
Hải Phòng, khu công nghiệp Đà Nẵng ở Đà Nẵng, khu chế xuất Tân Thuận và
khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Amata
và khu công nghiệp Biên Hoà II ở Đồng Nai, khu công nghiệp Việt Nam -
Singapore và khu công nghiệp Việt Hương ở Bình Dương, giai đoạn I khu
công nghiệp Nội Bài Hà Nội... với đầy đủ các hạng mục công trình hạ tầng
như hệ thống giao thông nội khu, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống đường
dây và trạm điện, hệ thống xử lý chất thải, nhất là hệ thống xử lý nước thải,
cây xanh và công trình công cộng trong khu, các khu công nghiệp còn lại
đang trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng, trong đó một số đang san
lấp mặt bằng, chuẩn bị xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
Riêng khu công nghiệp Dung Quất có diện tích 14.000 ha, nằm trên địa
phận 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, bao gồm nhiều khu công nghiệp nhỏ,
31
một số khu đô thị, khu dân cư và các công trình công cộng... đã được khởi
công tháng 1 năm 1998. Xây dựng khu công nghiệp Dung Quất đòi hỏi có
nguồn vốn đầu tư rất lớn, dự tính nguồn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ từ
nhiều nguồn khác nhau như vốn Ngân sách, đầu tư theo hình thức BOT, vốn
đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài. Đến thời điểm hiện nay, các
chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đang tập trung đầu tư di dân, tái định cư và
giải phóng mặt bằng, xây dựng hệ thống giao thông, cấp điện, nước, thông tin
liên lạc, chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1- công trình đầu tiên
và cũng là công trình trọng điểm của khu công nghiệp này.
Như đã nói ở trên, chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp,
khu chế xuất đa phần là các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghệp Việt
Nam (chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh) đầu tư hạ tầng đến nay đã thực
hiện được 1.697 tỷ đồng, mà nguồn vốn để xây dựng hạ tầng chủ yếu là từ
nguồn tín dụng ưu đãi và từ tiền thuê đất ứng trước của các nhà đầu tư thứ cấp
(đối với một số ít khu) và một phần nhỏ là vốn tự có của doanh nghiệp. Do
vậy, doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng thường được tập trung vốn ít
hơn, vừa đầu tư, vừa khai thác đem vào kinh doanh dẫn đến việc xây dựng hạ
tầng chậm và có chất lượng không bằng các khu công nghiệp do doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng.
Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất của
các doanh nghiệp Việt Nam đều thực hiện theo hình thức cuốn chiếu, chủ đầu
tư phân kỳ công tác xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở vốn đầu tư hạn hẹp. Vì
thế, hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất này hiện nay đều chưa có cơ
sở hạ tầng hoàn chỉnh (trừ khu công nghiệp Biên Hoà II đã được xây dựng
xong cơ sở hạ tầng và đã cho thuê được hơn 90% diện tích đất có thể cho
thuê).
3. Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Có thể xem xét và đánh giá tình hình thu hút đầu tư vào khu công
nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua bằng các chỉ tiêu cơ bản sau: số dự
32
án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; tỷ lệ cho thuê đất trong khu
công nghiệp, khu chế xuất; tổng vốn đầu tư đăng ký tại các vùng.
- Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đến đầu quí III năm 2000, số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất là 1.092 với tổng vốn đầu tư đăng ký 9.362,7 triệu đôla và 26.841,8
tỷ đồng (bao gồm cả các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án sản xuất
công nghiệp). Trong đó:
+ Có 1.025 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, dịch vụ trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất, với vốn đầu tư đăng ký 8.202,6 triệu đôla và 15.552,8
tỷ đồng. Trong số 1.025 dự án loại này, có 623 dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
+ Có 67 dự án đầu tư vào xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.160 triệu đôla và
11.289 tỷ đồng.
Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có xu hướng tăng
theo thời gian. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2000, có thêm 178 dự án thuộc
lĩnh vực sản xuất, dịch vụ với tổng vốn đầu tư đăng ký 486,6 triệu đôla và
1.712,8 tỷ đồng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Điều này
phần nào cho thấy, đầu tư trên cả nước nói chung và đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất nói riêng đang có dấu hiệu tăng trưởng, sau một
thời gian dài tăng chậm, thậm chí trì trệ do tác động của nhiều nguyên nhân
khác nhau. Chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu
vực, cạnh tranh mãnh liệt giữa các nước đang phát triển để thu hút vốn đầu
tư trực tiếp từ các nước khác, môi trường đầu tư còn nhiều tồn tại ở trong
nước...
- Tỷ lệ cho thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với phương thức kinh doanh vừa đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ
tầng, vừa tranh thủ kêu gọi, thu hút đầu tư, đến nay các khu công nghiệp, khu
chế xuất đã cho thuê được 2.432 ha, chiếm khoảng 32% tổng diện tích đất
33
công nghiệp có thể cho thuê của các khu (tính cả doanh nghiệp Việt Nam có
sẵn trong khu).
Một số khu đã cho thuê được nhiều đất như khu công nghiệp Biên Hoà II
thuộc tỉnh Đồng Nai (đã cho thuê 243 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là
261 ha, tương đương với tỉ lệ 93.1%), khu công nghiệp Gò Dầu thuộc tỉnh
Đồng Nai (đã cho thuê 104 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là 136 ha,
tương đương với tỉ lệ 76.47%), hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung ở
thành phố Hồ Chí Minh (đã cho thuê 57,71% với khu chế xuất Tân Thuận và
60.23% với khu chế xuất Linh Trung). Có 3 khu đã cho thuê gần hết diện tích
đất công nghiệp giai đoạn I và hiện nay đang thực hiện giai đoạn II đó là khu
công nghiệp Việt Nam- Singapore, khu công nghiệp Việt Hương (đều thuộc
tỉnh Bình Dương) và khu công nghiệp Sài Đồng B ở Hà Nội.
Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất theo tỷ lệ cho thuê đất.
Tỉ lệ đất cho thuê/Diện tích đất công nghiệp
(%)
Số khu
Đã cho thuê từ 80% trở lên 4
Đã cho thuê từ 50 - 80% 5
Đã cho thuê từ 30 - 50% 13
Đã cho thuê từ 10 - 30% 15
Đã cho thuê từ 01 - 10% 11
Chưa cho thuê được đất 19
Tổng cộng 67
Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự thành công của các
khu công nghiệp, khu chế xuất - theo UNIDO - là tỷ lệ đất cho thuê của
khu.Trong khi hiện nay, các khu ở Đài Loan; khu Masan, Iri của Hàn Quốc;
khu Penang của Malaixia... có tỷ lệ đất cho thuê đều đạt hơn 80%, thì ở các
khu của các nước Châu Á khác, tỷ lệ này thường chưa đến 50%. Việt Nam chỉ
đạt mức 32% (tính tới thời điểm hiện nay), một con số phản ánh rõ tình trạng
34
hoạt động chưa hiệu quả của hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất. Có tới
19 khu chưa cho thuê được đất, 11 khu chỉ cho thuê được dưới 10% và 15 khu
chỉ cho thuê được dưới 30%. Tình hình phát triển và hoạt động của các khu
đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều khu trong khi khả
năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây
dựng hạ tầng. Hay nói cách khác, hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất
phát triển có sự lệch lạc giữa "chất" và "lượng".
Có nhiều loại hình doanh nghiệp xin thuê đất để đầu tư trong khu. Trước
hết là doanh nghiệp Việt Nam mà chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế quốc doanh - được thành lập từ trước khi khu được thành lập,
nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ
sở qui hoạch các doanh nghiệp có trước; hoặc các doanh nghiệp xin đầu tư
mới vào các khu trong năm 1997, 1998, 1999, 2000 (điển hình là các doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương);
các doanh nghiệp di chuyển từ nội thành ra theo chủ trương qui hoạch doanh
nghiệp có khả năng gây ô nhiễm. Ngoài doanh nghiệp trong nước, còn có loại
hình doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp này thừa đủ khả năng
thuê lại đất của công ty phát triển hạ tầng với giá thường cao hơn so với giá
thuê đất nằm ngoài khu (do hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đầu tư). Điều
này cũng giải thích vì sao phần lớn doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập trong những năm gần đây là doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Còn số doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần
kinh tế thành lập và hoạt động trong các khu chưa nhiều ngoài các doanh
nghiệp hoạt động trước khi thành lập khu.
- Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu công nghiệp, khu chế xuất tính theo
vùng.
35
Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu tính theo vùng đến đầu năm 2000
(không kể các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
khu công nghiệp, khu chế xuất)
Vùng Vốn FDI
(triệu USD)
Vốn đầu tư trong
nước (tỷ đồng)
Vùng núi Bắc Bộ 0 0
Vùng Tây Nguyên 0 0
Vùng đồng bằng sông Cửu Long 214,25 0
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 425 0
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ 177,6 427,8
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 5372,67 12181,6
Có thể thấy sự phân bố không đều theo vùng lãnh thổ của khu công
nghiệp, khu chế xuất đã gây nên hệ quả tất yếu là vốn đầu tư chỉ tập trung chủ
yếu ở ba vùng kinh tế trọng điểm và vùng đồng bằng sông Cửu Long (chiếm
tới 56 trên tổng số 67 khu của cả nước). Vùng Tây Nguyên chưa có một khu
nào được thành lập nên chưa thu hút dược vốn đầu tư. Tình cảnh tương tự
cũng diễn ra với vùng núi Bắc Bộ, khi hai khu công nghiệp duy nhất (khu
công nghiệp Thụy Vân và khu công nghiệp Sông Công) mới được thành lập,
hệ thống cơ sở hạ tầng trong khu hầu như chưa có gì.
II. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia.
Đến thời điểm đầu năm 2000, đã có trên 30 nước đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam với tổng số 565 dự án. Các dự án này
có số vốn đầu tư là 8.607,5 triệu USD (kể cả dự án Nhà máy lọc dầu số 1 ở
36
khu công nghiệp Dung Quất có vốn đầu tư 1.300 triệu USD). So với số dự án
và vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được
cấp giấy phép hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài thì tỷ trọng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đăng ký đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm
23,5%, trong đó:
+ Có 14 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất với vốn đầu tư đăng ký 891,5 triệu USD.
+ Có 551 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất với tổng vốn đầu tư 7.716 triệu USD. Đến hết quí
II năm 2000, số dự án loại này là 623, thêm 72 dự án mới.
- Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu
chế xuất ở Việt Nam, các quốc gia Châu Á có một vị trí hết sức quan trọng.
Nếu căn cứ theo số dự án, 7 nước Châu Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia đã chiếm hơn 80% trên
tổng số ( với 464 dự án, tính đến thời điểm đầu năm 2000).
+ Đài Loan là nước có số dự án nhiều nhất (190 dự án). Trong đó, 187
dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, còn 3 dự án đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng (một dự án đầu tư vào khu công nghiệp Đài Tư- Hà Nội do doanh
nghiệp 100% vốn của Đài Loan đảm nhận, hai dự án đầu tư vào khu công
nghiệp Đức Hoà I thuộc tỉnh Long An và khu chế xuất Tân Thuận ở thành
phố Hồ Chí Minh do doanh nghiệp liên doanh giữa Đài Loan và Việt Nam
đảm nhận).
+ Nhật Bản là nước đứng thứ hai sau Đài Loan, với 102 dự án. Trong đó
có 99 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, và cũng giống Đài Loan,
có 3 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (một dự án đầu tư vào khu công
nghiệp LOTECO của Đồng Nai, một dự án vào khu công nghiệp Thăng Long
ở Hà Nội và một dự án vào khu công nghiệp Nomura - Hải Phòng, cả ba đều
do doanh nghiệp liên doanh giữa Nhật Bản với Việt Nam đảm nhận).
37
Nhật Bản từ lâu đã là một đối tác quan trọng của Việt Nam. Được liệt
vào hàng ngũ "cường quốc kinh tế", Nhật Bản vẫn đang tiếp tục khẳng định vị
thế của mình bằng việc đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua nhiều
con đường, nhất là con đường đầu tư vào các nước khác trong bối cảnh đồng
yên của họ liên tục lên giá. Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến những nước trong
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - là khu vực kinh tế năng động nhất hiện
nay trên thế giới. Việt Nam, một quốc gia Đông Nam Á có nhiều điều kiện
tương đối thuận lợi cho đầu tư nước ngoài như tình hình chính trị ổn định, vị
trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lao động dồi
dào... không thể nằm ngoài "tầm ngắm" của các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, đầu tư vào Việt Nam của Nhật Bản có phần
giảm sút nhưng đang dần hồi phục trong những năm gần đây.
+ Singapore và Hàn Quốc, hai quốc gia đứng kế tiếp Nhật Bản.
Singapore có 54 dự án, còn Hàn Quốc có 49 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ. Ngoài ra, Singapore có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
khu công nghiệp Việt - Sing thuộc tỉnh Bình Dương theo hình thức liên doanh
với nước chủ nhà, còn Hàn Quốc, có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu
công nghiệp Daewoo - Hanel ở Hà Nội.
Bên cạnh đó, có thể kể đến Malaixia, Thái Lan, Hồng Kông - là những nước
Châu Á có khá nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam.
- Đầu tư trực tiếp của các nước Châu Âu.
Nhìn chung, đầu tư trực tiếp của các nước ở khu vực Châu Âu còn hạn
chế. Trong khi các tập đoàn tư bản Nhật Bản và các nước công nghiệp Châu
Á chiếm lĩnh gần như "độc quyền" các khu công nghiệp, khu chế xuất Châu Á
thì các tập đoàn của Châu Âu lại tập trung chủ yếu ở Châu Phi, vùng Ấn Độ
Dương, Địa Trung Hải và chỉ một số rất ít các nước Châu Á.
Những nước Châu Âu với số dự án đầu tư tương đối vào Việt Nam có
thể kể đến là Anh, Pháp, Australia, Đức. 17 dự án của Anh, 15 dự án của
Pháp, 12 dự án của Australia và 7 dự án của CHLB Đức đều là những dự án
38
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, không có dự án nào đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng của khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Đầu tư trực tiếp vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam của Hoa
Kỳ.
Các nhà tư bản Mỹ không đầu tư tập trung vào một số vùng như các nhà
tư bản Tây Âu, mà họ có mặt ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
các khu vực khác nhau trên thế giới. Vì lý do chính trị, đầu tư của Mỹ vào
Việt Nam diễn ra khá muộn. Tuy vậy, tính tới đầu năm 2000, Mỹ cũng có 18
dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam với tổng
vốn đầu tư khoảng 390 triệu USD. Hiệp định thương mại vừa được ký kết
giữa hai nước Việt Nam- Hoa Kỳ ngày 13/ 7/ 2000 sẽ là một điều kiện thuận
lợi thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam.
- Nếu căn cứ vào tiêu chí vốn đầu tư thì Nhật Bản, Đài Loan, Nga,
HànQuốc, Singapore là những nước đứng đầu.
+ Nhật Bản có 102 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 1.552 triệu USD.
Như vậy vốn đầu tư bình quân một dự án của Nhật Bản là 15,2 triệu USD,
bằng với vốn đầu tư bình quân một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nói
chung.
+ Đài Loan tuy chiếm số dự án áp đảo nhưng tổng vốn đầu tư chỉ đạt
khoảng 1.353 triệu USD. Vốn đầu tư bình quân một dự án là 7,12 triệu USD.
Các dự án của Đài Loan thường là những dự án vừa và nhỏ so với mặt bằng
chung.
+ Nga hiện chỉ có 5 dự án đầu tư vào Việt Nam nhưng trong 5 dự án này,
đặc biệt phải kể đến dự án Nhà máy lọc dầu số 1 với vốn đầu tư đăng ký
1.300 triệu USD tại khu công nghiệp Dung Quất. Bốn dự án còn lại là những
dự án qui mô nhỏ (tổng vốn đầu tư của 4 dự án là 34 triệu USD).
39
+ Hàn Quốc là quốc gia có nhiều dự án đầu tư lớn vào Việt Nam. Vốn
đầu tư bình quân một dự án của Hàn Quốc là 22,98 triệu USD (50 dự án với
tổng vốn đầu tư khoảng 1.150 triệu USD).
+ Singapore, chỉ đứng sau Đài Loan và Nhật Bản về số dự án (như đã
trình bày) nhưng tổng vốn đầu tư thì đứng sau cả Nga và Hàn Quốc do các dự
án của Singapore có qui mô bình quân rất nhỏ (55 dự án với tổng vốn đầu tư
là 596 triệu USD, bình quân 0,011 triệu USD một dự án).
+ Trong số 4 nước Châu Âu với tương đối nhiều dự án đầu tư vào các
khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam: Anh, Pháp, Australia, Đức, các
dự án của Anh và Đức là có qui mô bình quân lớn hơn cả (32,3 triệu USD với
Anh và 21,8 triệu USD với Đức). Còn dự án của Pháp và Australia chỉ đa số
là những dự án vừa và nhỏ (7,2 triệu USD với Pháp và 8,5 triệu USD với
Australia).
Nhìn một cách tổng thể, cơ cấu vốn đầu tư vào các khu theo quốc gia
như hiện nay là chưa cân đối. Trong khi Nhật Bản và các nước công nghiệp
Châu Á chiếm vị trí chủ đạo bởi lượng vốn đầu tư và số dự án áp đảo thì Châu
Âu và Bắc Mỹ có vai trò còn rất mờ nhạt. Đây cũng là một vấn đề bức xúc
được đặt ra với các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và Ban quản lý khu
công nghiệp, khu chế xuất nói riêng trong công tác xúc tiến, vận động đầu tư.
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công
nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
40
Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công
nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Ngành, lĩnh vực Số dự án Vốn đầu tư (triệu
đôla)
Tổng số 565 8.607,5
Xi măng 0 0
Sắt thép 3 141,25
Ô tô, xe máy 2 301,5
Điện 5 446,67
Cơ khí chế tạo 16 179,5
Đường mía 0 0
Dệt may - 1.321,11
Bia, nước giải khát 2 88,8
Xây dựng CSHT khu công nghiệp 14 891,5
Gạch ốp lát, sứ vệ sinh 3 67
Điện tử 31 618,78
Phân bón NPK 1 39,95
Nước cho sinh hoạt và sản xuất 1 19
Chế biến gạo xuất khẩu 1 10
- Có thể thấy các dự án công nghiệp nặng như vật liệu xây dựng (xi măng,
sắt thép), hoá chất, điện, cơ khí... về cơ bản đã hình thành tương đối đầy đủ
trong các khu, tuy số lượng và vốn đầu tư của các dự án này còn khá "khiêm
tốn". Đây là kết quả có được sau một thời gian dài các khu công nghiệp, khu
chế xuất nỗ lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ vào công nghiệp
nhẹ, điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng, mà còn vào công nghiệp nặng, bước
41
đầu góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngành cơ khí chế tạo chiếm số dự án nhiều nhất (16 dự án) trong tổng số
các dự án công nghiệp nặng. Đáng chú ý là dự án sản xuất động cơ điện nhỏ
và siêu nhỏ của công ty Mabuchi Motor Việt Nam, một công ty đang hoạt
động tốt trong hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta của nhà đầu
tư Nhật Bản. Vốn đầu tư của Mabuchi Motor Việt Nam cỡ khoảng 69,9 triệu
đôla, chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư của 16 dự án cơ khí chế tạo (179,5 triệu
đôla). Một dự án công nghiệp nặng khác cũng có số vốn đầu tư lớn (69,6 triệu
đôla) và đang sản xuất tốt là dự sản xuất thép của công ty liên doanh thép
Vinakyoei giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Ngành sản xuất điện có 5 dự án, đứng trên ngành hoá chất và vật liệu
xây dựng về số dự án. Các dự án sản xuất điện đều là dự án lớn với tổng vốn
đầu tư 446,67 triệu đôla (chẳng hạn công ty liên doanh AMATA Power Việt-
Thái với vốn đầu tư 110 triệu đôla) nên tuy đứng sau về số dự án nhưng
ngành sản xuất điện lại vượt xa về số vốn đầu tư so với ngành cơ khí chế tạo.
- Các dự án công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc, lắp ráp điện tử...) và công
nghiệp thực phẩm là các dự án chủ yếu trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đáng chú ý nhất là dệt may và điện tử, hai ngành có số vốn đầu tư vượt trội
các ngành khác.
+ Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành dệt may là 1.321,11 triệu
đôla. Con số này chắc chắn sẽ còn tăng nữa trong tương lai, khi thị trường
xuất khẩu hàng dệt may đang có chiều hướng được mở rộng, đặc biệt phải kể
đến Hoa Kỳ - một thị trường triển vọng đối với hàng dệt may Việt Nam sau
khi quan hệ kinh tế hai nước được thiết lập. Công ty Hualon Corporation Việt
Nam (liên doanh giữa Malaixia và Việt Nam) là một trong những công ty lớn
đang hoạt động tốt ở lĩnh vực sản xuất hàng dệt may với số vốn đầu tư gần
480 triệu đôla.
+ Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành điện tử là 618,78 triệu đôla.
Các dự án lớn đều của chủ đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản. Chẳng hạn như công
42
ty TNHH đèn hình Orion - Hanel với 178,6 triệu đôla vốn đầu tư, công ty
Deawoo - Hanel với 152 triệu đôla vốn đầu tư (đều của Hàn Quốc), hay công
ty máy tính Fujitsu với 198,8 triệu đôla vốn đầu tư (của Nhật Bản).
Nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu
chế xuất đã "có mặt" ở hầu hết các lĩnh vực công nghiệp chủ chốt, từ công
nghiệp nặng đến công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, tuy số dự án có
khác nhau với từng ngành. Nếu không kể một vài dự án công nghiệp có qui
mô lớn tập trung ở một số khu như khu công nghiệp Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng
Tàu... thì các dự án có mức vốn đầu tư khoảng 4 - 5 triệu đôla, lao động 300 -
400 người, doanh thu 5 - 6 triệu đôla/ năm, là những dự án hết sức đặc trưng
và phổ biến ở các khu.
3. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất
theo vùng lãnh thổ.
Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất theo vùng lãnh thổ (kể cả các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng khu công nghiệp, khu chế xuất) tính đến đầu năm 2000.
Tổng vốn
FDI đăng ký
(triệu đôla)
FDI đăng ký
trong các khu
(triệu đôla)
Tỷ trọng
(%)
Cả nước 35.660 8.607,5 24,1
Vùng trọng điểm Nam Bộ 17.304,84 5.685,6 31
Vùng trọng điểm Bắc Bộ 10.888,6 990,6 9,1
Vùng trọng điểm Trung Bộ 1.983,5 1.516,6 76,5
Vùng Tây Nguyên 898 0 -
Vùng núi Bắc Bộ 264 0 -
Vùng ĐB sông Cửu Long 1.005,83 214,25 21,3
3.1 Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ.
43
Ở vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, số khu công nghiệp, khu chế xuất đã
được thành lập là 33 khu (có hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung) với
tổng diện tích 7.110 ha, trong đó có gần 4.800 ha diện tích đất công nghiệp.
Do tập trung một số lượng lớn các khu, vùng kinh tế này đã thu hút được
697 dự án có tổng vốn đầu tư 5.755 triệu đôla và trên 21.000 tỷ đồng, gồm
213 dự án đầu tư trong nước và 484 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
+ 6 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất
với 312,9 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
+ 478 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công
nghiệp với 5.372,7 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
- Những năm gần đây, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng liên tục giảm sút: 1.103,3 triệu đôla
vào năm 1997, 340 triệu đôla vào năm 1998 và chỉ 292,8 triệu đôla vào năm
1999. Tuy nhiên, vẫn có những khu đang hoạt động và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài rất thành công như khu công nghiệp Biên Hoà II, khu công nghiệp
Việt Nam - Singapore, khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất Linh Trung...
và so với các vùng khác trên cả nước, vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ thu
hút đầu tư vẫn đạt nhiều khả quan hơn.
Cùng với dự án đầu tư trong nước, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
tạo việc làm cho 123.000 lao động. Năm 1999, doanh thu của các doanh
nghiệp đạt gần 2.092 triệu đôla, trong đó giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt
khoảng 1.466 triệu đôla (trên 80% là đóng góp của doanh nghiệp FDI).
Các khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng đã cho thuê 1.655 ha đất,
chiếm 34,5% diện tích đất công nghiệp. Để lấp kín các khu này, ước tính cần
hơn 10 tỷ đôla vốn đầu tư và tạo thêm việc làm cho khoảng 250.000 lao động
nữa. Vì vậy, đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và đặc biệt là thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới đang là mục tiêu của tất cả các khu.
44
- Một số nguyên nhân dẫn đến thành công của vùng kinh tế trọng điểm Nam
Bộ trong việc phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất tạo điều kiện
tốt hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu là:
+ Môi trường đầu tư thuận lợi: chi phí đầu tư thấp hơn các vùng khác, cơ
sở hạ tầng tương đối tốt, thu nhập cao của dân cư và thói quen tiêu dùng của
dân cư.
+ Uỷ ban nhân dân, các cấp lãnh đạo của các tỉnh, thành phố quan tâm
và chỉ đạo kịp thời Ban quản lý cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động của các
khu.
+ Vận dụng cơ chế chính sách phù hợp để thu hút đầu tư.
3.2 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, số khu công nghiệp, khu chế xuất đã
được thành lập là 10 khu (trong đó có một khu công nghệ cao Hoà Lạc) với
tổng diện tích 1.307 ha, trong đó có gần 1.000 ha diện tích đất công nghiệp.
Vùng kinh tế này đã thu hút được 43 dự án đầu tư có tổng vốn đầu tư 1.086,6
triệu đôla và 253,4 tỷ đồng, gồm 6 dự án đầu tư trong nước, 40 dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
- Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
+ 7 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất
với 565,6 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
+ 33 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp
với 425 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
- Giống với vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, những năm gần đây, số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
của vùng giảm sút mạnh: 300,3 triệu đôla vào năm 1997; 2,9 triệu đôla vào
năm 1998 và tăng lên một chút 28,2 triệu đôla vào năm 1999.
Dựa vào đặc điểm chung của các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu
chế xuất ở nước ta là các dự án vừa và nhỏ, có qui mô vốn đầu tư khoảng 4 - 5
triệu đôla, chiếm trung bình 1 - 1,5 ha đất công nghiệp, thì để lấp đầy các khu
đã được thành lập ở vùng này cần có trên 600 dự án với tổng vốn đầu tư đăng
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp

More Related Content

Similar to Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp

80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam
80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam
80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam
Luu Quan
 

Similar to Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp (20)

Bài nghiên cứu đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...
Bài nghiên cứu   đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...Bài nghiên cứu   đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...
Bài nghiên cứu đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...
 
Bài nghiên cứu đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...
Bài nghiên cứu   đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...Bài nghiên cứu   đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...
Bài nghiên cứu đề tài chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới...
 
Bài nghiên cứu chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới tình hìn...
Bài nghiên cứu chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới tình hìn...Bài nghiên cứu chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới tình hìn...
Bài nghiên cứu chính sách khuyến khích và những ảnh hưởng của nó tới tình hìn...
 
80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam
80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam
80541086 thực-trạng-nghanh-lua-gạo-hiện-nay-của-việt-nam
 
Khu công nghiệp là gì? lý luận về phát triển khu công nghiệp ở việt nam – luậ...
Khu công nghiệp là gì? lý luận về phát triển khu công nghiệp ở việt nam – luậ...Khu công nghiệp là gì? lý luận về phát triển khu công nghiệp ở việt nam – luậ...
Khu công nghiệp là gì? lý luận về phát triển khu công nghiệp ở việt nam – luậ...
 
Đề tài thực trạng và giải pháp hoạt động kinh doanh xuất khẩu điểm cao
Đề tài thực trạng và giải pháp hoạt động kinh doanh xuất khẩu điểm caoĐề tài thực trạng và giải pháp hoạt động kinh doanh xuất khẩu điểm cao
Đề tài thực trạng và giải pháp hoạt động kinh doanh xuất khẩu điểm cao
 
Luận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp tại Hà Nội, HAYLuận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố
Luận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phốLuận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố
Luận văn: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố
 
Luận văn: Phát triển khu công nghiệp tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển khu công nghiệp tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Phát triển khu công nghiệp tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển khu công nghiệp tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Qt053
Qt053Qt053
Qt053
 
QT238.doc
QT238.docQT238.doc
QT238.doc
 
Nh013 998
Nh013 998Nh013 998
Nh013 998
 
Pháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt của một số quốc gia
Pháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt của một số quốc giaPháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt của một số quốc gia
Pháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt của một số quốc gia
 
Pháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế của một số quốc gia, HAY
Pháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế của một số quốc gia, HAYPháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế của một số quốc gia, HAY
Pháp luật về đơn vị hành chính - kinh tế của một số quốc gia, HAY
 
Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư fdi ở việt nam giai đoạn 2005 2014
Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư fdi ở việt nam giai đoạn 2005 2014Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư fdi ở việt nam giai đoạn 2005 2014
Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư fdi ở việt nam giai đoạn 2005 2014
 
Thực trang và giải pháp thu hút nguồn vốn fdi ở việt nam giai đoạn 2005 2014
Thực trang và giải pháp thu hút nguồn vốn fdi ở việt nam giai đoạn 2005   2014Thực trang và giải pháp thu hút nguồn vốn fdi ở việt nam giai đoạn 2005   2014
Thực trang và giải pháp thu hút nguồn vốn fdi ở việt nam giai đoạn 2005 2014
 
Công Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá Và Thực Trạng, Giải Pháp Ở Nước Ta Hiện Nay.doc
Công Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá Và Thực Trạng, Giải Pháp Ở Nước Ta Hiện Nay.docCông Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá Và Thực Trạng, Giải Pháp Ở Nước Ta Hiện Nay.doc
Công Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá Và Thực Trạng, Giải Pháp Ở Nước Ta Hiện Nay.doc
 
Đề tài khóa luận năm 2024 Ứng dụng MAR- MIX trong kinh doanh xuất khẩu của cô...
Đề tài khóa luận năm 2024 Ứng dụng MAR- MIX trong kinh doanh xuất khẩu của cô...Đề tài khóa luận năm 2024 Ứng dụng MAR- MIX trong kinh doanh xuất khẩu của cô...
Đề tài khóa luận năm 2024 Ứng dụng MAR- MIX trong kinh doanh xuất khẩu của cô...
 
QT053.doc
QT053.docQT053.doc
QT053.doc
 
Luận văn: Chiến lược thu hút đầu tư vào Khu công nghiệp dệt may
Luận văn: Chiến lược thu hút đầu tư vào Khu công nghiệp dệt mayLuận văn: Chiến lược thu hút đầu tư vào Khu công nghiệp dệt may
Luận văn: Chiến lược thu hút đầu tư vào Khu công nghiệp dệt may
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsbkjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
hoangphuc12ta6
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
LngHu10
 

Recently uploaded (18)

2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
 
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NGThực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
 
onluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doc
onluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doconluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doc
onluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doc
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
3000 từ thông dụng tiếng anh quốc tế Effortless
3000 từ thông dụng tiếng anh quốc tế Effortless3000 từ thông dụng tiếng anh quốc tế Effortless
3000 từ thông dụng tiếng anh quốc tế Effortless
 
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsbkjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
 
slide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hust
slide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hustslide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hust
slide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hust
 
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptxBài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
 
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
 
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
 

Khoá Luận Tốt Nghiệp Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất Thực Trạng Và Giải Pháp

  • 1. 1 Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất Thực trạng và giải pháp NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864 WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
  • 2. 2 LỜI NÓI ĐẦU Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4 thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á đã thu được những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế. Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất khẩu... góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước. Là một bộ phận của hoạt động đầu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã gây ảnh hưởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu tư trực tiếp, trong khi các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: làm thế nào để thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập?
  • 3. 3 Để góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, sau một thời gian nghiên cứu, người viết mạnh dạn chọn đề tài:" Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải pháp" để viết khoá luận tốt nghiệp với hy vọng khoá luận sẽ phần nào có ích cho những người quan tâm. Khoá luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một hay một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng thể trên toàn bộ các khu trong khoảng thời gian gần mười năm trở lại đây, kể từ khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện tại. Trong khi nghiên cứu vấn đề, khoá luận đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví dụ... cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề. Khoá luận được trình bày với kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. Bản khoá luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của các chuyên gia Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, TS Vũ Chí Lộc. Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối
  • 4. 4 với sự chỉ bảo tận tình và những ý kiến đóng góp của các Thầy, đã giúp đỡ người viết hoàn tất đề tài trong thời gian vừa qua. Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tương đối phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên cứu chưa nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo và những người có quan tâm đến vấn đề này. Hà Nội, tháng 12 năm 2000. Nguyễn Hoàng Hải.
  • 5. 5 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT - ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KCN, KCX I. VÀI NÉT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT. 1. Khái niệm: 1.1 Khu chế xuất: a. Cơ sở lí luận: Sự hình thành và phát triển khu chế xuất trên thế giới xuất phát từ những thay đổi trong môi trường kinh tế- kĩ thuật của nền kinh tế toàn cầu sau chiến tranh thế giới lần thứ II, và nhất là trong thập kỉ 60. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các nước công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân công tiền công thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn trước đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa, nay đã giành được độc lập. Mặt khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nền kĩ thuật tự động hoá chưa đủ sức giải quyết được những khó khăn này của các nước phát triển. Trong khi đó, các nước đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát triển kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do thiếu vốn, thiếu kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lí và công nhân lành nghề có trình độ cao nên các nước đang phát triển khó có điều kiện kiến tạo đầy đủ ngay một lúc trên phạm vi cả nước những điều kiện và yếu tố để có được những sản phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân
  • 6. 6 công giá rẻ và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến gần các nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý và kĩ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp với khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và rất có ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Khu chế xuất cũng chính là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng, xét về mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lí thuyết lợi thế so sánh, khu chế xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các công ty xuyên quốc gia, người nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hiện nay trên thế giới. b. Định nghĩa: Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình kinh tế này. - Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA): Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế
  • 7. 7 xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và Singapo vào các khu chế xuất. - Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO): Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm viêc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh doanh nước ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất. - Định nghĩa củaViệt Nam: Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa hẹp của UNIDO. 1.2 Khu công nghiệp: a. Khu công nghiệp- sự cải biên cần thiết của khu chế xuất cổ điển. - Hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển: Có thể thấy rằng, khu chế xuất là một trong những công cụ hành chính để tạo ra thể chế thương mại tự do cho các nghành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Sự thành công của các khu chế xuất, đặc biệt là ở các nước Châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaixia, đặc khu kinh tế
  • 8. 8 Trung Quốc... trong hơn 3 thập kỉ qua đã đóng góp tích cực vào trào lưu phổ thông hoá công cụ thúc đẩy xuất khẩu này. Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ khu chế xuất được thành lập nhiều và thu được nhiều thành công lớn ở các nước Châu Á, vì đây là khu vực có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đường hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động vào bậc nhất thế giới. Các khu chế xuất châu Á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế xuất trên toàn thế giới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lượng xuất khẩu của một nước, nhưng tổng kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế giới. Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này: + Một là, có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư. + Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kĩ thuật nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa. Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới khả năng tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và tạo mối liên kết với các cơ sở sản xuất trong nước của các khu chế xuất là rất hạn chế, trong khi đó, đóng góp của các khu chế xuất trong tổng kim nghạch xuất khẩu các nước cũng rất khiêm tốn, chỉ ở mức 4-5%.
  • 9. 9 + Ba là, do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hoá và nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước, đồng thời phải bảo hộ nền sản xuất trong nước, nên các nước đều buộc xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường thế giới. Chính vì vậy nên khu chế xuất thường được bố trí là một khu vực lãnh thổ khép kín, có hàng rào bao quanh để thuận tiện cho quản lý hải quan. Chính yêu cầu xuất khẩu đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất trước những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của khu chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng công nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại trước các xí nghiệp khu chế xuất. Hơn nữa, việc không cho tiêu thụ hàng hoá của các khu chế xuất, mà chủ yếu là của các công ty nước ngoài trên thị trường nội địa, không tạo nên môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác động tiêu cực đối với khả năng tăng năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung. Có thể thấy nguyên tắc "mở ngoài, đóng trong" đối với các khu chế xuất có thể làm chậm tiến trình cải cách thương mại cần thiết trên phạm vi cả nước, không còn thích hợp với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và nhu cầu đầu tư phát triển trong nước giai đoạn mới. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên đây của mô hình khu chế xuất cổ điển, nhiều nước đã chuyển sang phát triển mô hình kinh tế uyển chuyển, năng động hơn, trong đó thị trường trong nước được tính đến như một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đó chính là khu công nghiệp tập trung. Khu công nghiệp - mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được thị trường nội địa như một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp
  • 10. 10 trong khu. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vì đối với họ thị trường nội địa còn là một thị trường mới, có dung lượng lớn, trong khi đó thị trường thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại sản phẩm của các doanh nghiệp khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng loại và chất lượng. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp khu công nghiệp nói riêng tại thị trường trong nước góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài tràn vào , đây cũng là yếu tố kích thích cạnh tranh, nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới. Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài, khu công nghiệp có thể được các nhà đầu tư trong nước quan tâm do có môi trường và điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất. b. Định nghĩa: Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về khu công nghiệp. - Định nghĩa 1: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu. - Định nghĩa 2: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không
  • 11. 11 có dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui mô khác nhau. - Định nghĩa của Việt Nam: Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là "khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, kông có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa hai. 1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX: a. Giống nhau: - Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng một vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu công nghiệp Sài Đồng là 97 ha... - Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ 300 đến 400 người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu công nghiệp là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, cơ khí chế tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và phương tiện trong khu... - Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài.
  • 12. 12 - Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu công nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư. b. Khác nhau: - Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu. - Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu đãi dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác nhau. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu công nghiệp và doanh nghiệp khu chế xuất như sau: + Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%, được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo. + Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở
  • 13. 13 lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo, là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn 1 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. 2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất: 2.1 Mục tiêu: Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất trên thế giới gắn liền với những mục tiêu của các nước thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất và những mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài. 2.1.1 Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài: - Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ ở các nước đang phát triển. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nhất là từ đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nước đó. Khi tại các nước này, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm, giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu, công nghiệp tiêu chuẩn hóa như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện... không đòi hỏi trình độ công nghệ cao tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài ngày càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Điều này có thể giúp chúng ta lí giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thường đầu tư vào những ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, lắp ráp như dệt, may mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu công nghiệp, khu chế xuất của các nước đang phát triển.
  • 14. 14 - Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thuế và các ưu đãi khác của các nước này nhằm tăng cường lợi ích của các công ty xuyên quốc gia. - Bảo vệ môi trường của các nước phát triển. Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường không kiểm soát nổi ở các nước phát triển, làm cho chi phí bảo vệ môi trường ngày càng tăng. Xu hướng chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các ngành công nghiệp này sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường nước họ và giảm chi phí sản xuất. - Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài. Khi đầu tư ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, các công ty tư bản nước ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ. Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó. 2.1.2 Mục tiêu của các nước thành lập: Trong khi các công ty tư bản nước ngoài tìm kiếm lợi ích của mình thông qua các động cơ không cần che giấu đó, thì các nước tiếp nhận đầu tư cũng cố gắng đạt được những mục tiêu chiến lược của mình thông qua việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất. Ở đây khó có thể đề cập đến mục tiêu của từng nước đang phát triển, bởi lẽ mỗi nước trong mỗi khu vực có những điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế riêng. Song nếu phân tích từ giác độ vĩ mô, có thể tóm lại mục tiêu cơ bản và thống nhất của các nước này như sau: - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất. Với tính chất là "vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trường đầu tư chung của cả nước, khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành
  • 15. 15 công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở mang hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nền kinh tế. Các nước chủ nhà, trong nhiều trường hợp, đã thông qua khu công nghiệp, khu chế xuất như một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các phần lãnh thổ còn lại của đất nước. - Mở rộng hoạt động ngoại thương. Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, nước chủ nhà muốn đẩy mạnh hoạt đông ngoại thương với các nước. Sau khi giành được độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nhiều nước đang phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập của mình. Họ vấp phải khó khăn không thể vượt qua do thiếu nguồn ngoại tệ. Thành lập khu chế xuất để tăng nhanh xuất khẩu hàng hoá và thu ngoại tệ là con đường mà nhiều nước theo đuổi. Những nước xưa nay vốn dựa vào hoạt động xuất khẩu và chuyển khẩu để phát triển kinh tế như Singapo, Hồng Kông thường thông qua việc mở khu chế xuất, bảo đảm những biện pháp quản lý đặc biệt và điều kiện ưu đãi nhằm thu hút phương tiện và nguồn hàng các nước đến để thực hiện dịch vụ xuất khẩu và chuyển khẩu. Đối với nước đang phát triển khác, việc lập ra các khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài, mở rộng công nghiệp xuất khẩu, từ đó tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn là điều quan tâm nhất. Theo hướng này, ở nhiều nước Châu Á - Thái Bình Dương, xuất khẩu hàng công nghiệp sản xuất ở khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở các nước đó. - Tạo công ăn việc làm. Khuyến khích toàn dụng lao động là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự bùng nổ dân số và tình trạng thất nghiệp đã làm cho bức tranh kinh tế của các nước này càng trở nên ảm đạm. Trong khi các nước mới dành được độc lập
  • 16. 16 dư thừa sức lao động thì tình trạng thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao động tiền công thấp ở các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn sử dụng nguồn lao động dồi dào trong đội quân thất nghiệp khổng lồ ở các nước đang phát triển. Mở mang khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là mục tiêu chung của các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, khu công nghiệp, khu chế xuất là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lựoc lâu dài về toàn dụng lao động ở các nước đó. - Du nhập kĩ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty tư bản nước ngoài. Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh té, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa học kĩ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo điều kiện nhập khẩu kĩ thuật, công nghệ của các công ty tư bản nước ngoài, học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữu hiệu mà nhiều nước từng áp dụng. Ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết kĩ thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kĩ thuật phục vụ cho công cuộc bốn hiện đại hoá là mục tiêu luôn được quan tâm của Trung Quốc, đặc biệt ở các đặc khu kinh tế được thành lập trong những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao được thành lập trong những năm gần đây. - Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước. Trước hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị trường nội địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu từ nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu.
  • 17. 17 Còn khu chế xuất, với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động của khu chế xuất chủ yếu hướng ra thị trường thế giới. Vì vậy, có thể xem khu công nghiệp, khu chế xuất như là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, khu công nghiệp, khu chế xuất vốn là một bộ phận cấu thành của kinh tế trong nước, tạo nên sức hút với nhà đầu tư nước ngoài. Tạo ra năng lực sản xuất mới, thu hút lao động trong nước vào làm việc ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát triển mối liên kết với các doanh nghiệp trong nước nằm ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất thông qua các hợp đồng gia công, cung cấp nguyên liệu giữa các xí nghiệp này là thực tế diễn ra ở nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là các đặc khu kinh tế Trung Quốc, khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan. Dù được thành lập trong những điều kiện khác nhau, với tính chất và thời điểm khác nhau, nhưng những mục tiêu của khu công nghiệp, khu chế xuất đều gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế của từng quốc gia. Chính vì vậy, liều lượng và tính chất ưu tiên đối với mục tiêu cụ thể của từng nước cũng rất khác nhau, thể hiện qua những ưu đãi mà Chính phủ các nước này dành cho khu công nghiệp, khu chế xuất. Thí dụ, trong khi Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia, Philipin dường như đặt lên hàng đầu mục tiêu xuất khẩu và tạo việc làm, Xrilanca và Ấn Độ chú trọng vào việc thu hút vốn, thì Trung Quốc lại ưu tiên nhiều hơn cho mục tiêu thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển nền kinh tế khu vực ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có thu nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động đầu tư trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó. Song để có các khu công nghiệp, khu chế xuất thành công, điều cơ bản của các nước chủ nhà là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia - đối tượng đầu tư chủ yếu của các khu. Nói cách khác
  • 18. 18 hai bên phải tìm được điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu công nghiệp, khu chế xuất là công cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt được trong môi trường đầu tư do các nước chủ nhà tạo ra để sẵn sàng đón nhận đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. 2.2 Đặc điểm: Các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là công cụ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của thị trường trong nước và thế giới. Với cơ cấu được hình thành trên cơ sở kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, khu công nghiệp, khu chế xuất bao gồm những đặc điểm sau: - Thứ nhất, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (đối với khu công nghiệp) hàng xuất khẩu (đối với khu chế xuất), và các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (đối với khu công nghiệp) cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu (đối với khu chế xuất), là những doanh nghiệp cơ bản đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Thứ hai, việc hình thành khu chế xuất và khu công nghiệp tạo nên sự thay đổi một cách căn bản về hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài khu, là cơ sở để hình thành các khu vực đô thị, các thành phố công nghiệp trong tương lai. - Thứ ba, khu chế xuất và khu công nghiệp góp phần vào việc tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội, trước hết là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi cho khu vực lãnh thổ có các khu này. - Thứ tư, tạo nên sự liên kết với các cơ sở kinh tế trong nước, trước hết là khu vực quanh khu chế xuất và khu công nghiệp. Như vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ việc tổ chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, phát triển hạ tầng kiến trúc, bảo vệ môi trường đến việc nâng cao mức sống nhân dân
  • 19. 19 II. QUAN HỆ GIỮA VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI. 1. Khu công nghiệp, khu chế xuất- sự phát triển tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bước vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực có những biến chuyển nhanh chóng và sâu sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, cũng như tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với những biến đổi ấy, ở nhiều nước đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo hướng tận dụng tốt nhất những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nước. Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nước ta cải cách kinh tế theo hướng "mở cửa" đã đạt được những thành tựu quan trọng. Vào thời điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh vốn đầu tư để duy trì và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu về phát triển giữa nước ta và các nước được đặt ra hết sức cấp bách. Khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là giải pháp chính cho vấn đề nói trên. Nhưng khi nguồn đầu tư trong nước còn hạn chế, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường để huy động tối đa nguồn vốn đó, thì nguồn lực bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc xây dựng các công trình quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những bộ phận quan trọng nhất của chính sách "mở cửa". Thêm vào đó Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, được Quốc hội CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987 và đã qua nhiều lần sửa đổi, đã tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Luật đầu tư, Nhà nước Viêt Nam cam kết bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tư vốn, bảo đảm cho tiền vốn và tài sản của họ không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch
  • 20. 20 thu trong quá trình hoạt động; khuyến khích đầu tư thông qua các điều kiện ưu đãi về thuế, bao gồm miễn, giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các điều kiện thuận lợi khác về cư trú, đi lại ở Việt Nam... Luật đầu tư nước ngoài bảo đảm đối xử công bằng đối với tất cả các đối tác nước ngoài, khuyến khích họ đầu tư vào tất cả các hình thức, từ hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của các nhà đầu tư nước ngoài; hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao để xây dựng, khai thác các công trình hạ tầng... Cũng theo Luật đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu sự quản lý của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư - nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài. Nội dung quản lý bao gồm: xúc tiến đầu tư, hình thành dự án; thẩm định, cấp giấy phép đầu tư; quản lý doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Với nền tảng pháp lý nói trên, với những mục tiêu cơ bản: thu hút vốn, kĩ thuật, tạo việc làm, mở rộng thị trường và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, hoạt động đầu tư trực tiếp đã thu được những kết quả quan trọng và gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Tính đến thời điểm cuối năm 1994, tổng số dự án được cấp giấy phép hoạt động là 1.190 với tổng vốn đăng ký là 10.700 triệu đôla. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhanh, năm 1994 tăng gấp 9,7 lần năm 1988, trong đó riêng năm 1994 bằng 53% của 6 năm trước đó cộng lại. Tuy đã đạt được mức tăng trương tương đối cao trong những năm đầu thực hiện Luật đầu tư, nhưng dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài "chảy vào" nước ta vẫn gặp phải trở ngại rất lớn là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ chế quản lý và thủ tục đầu tư còn quá phức tạp, phiền hà, chịu nhiều ảnh hưởng của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, nói "một cửa" nhưng trên thực tế là nhiều cửa. Trong khi đó, khi gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta mới chỉ chú trọng vào những mục tiêu chính của mình, đặc biệt là xuất khẩu và tạo công ăn việc làm, mà chưa đẩy mạnh vấn đề xây dựng môi trường đầu tư tốt, nhất là một hệ thống chính sách toàn diện, đồng bộ;
  • 21. 21 một cơ chế quản lý thích hợp giải quyết nhanh mọi thủ tục và yêu cầu của nhà đầu tư; một cơ sở hạ tầng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất công nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước sản xuất hàng xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và hàng cung cấp cho thị trường trong nước. Nhằm thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu khi trong nền kinh tế và cơ chế quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự hiểu biết về thị trường thế giới còn hạn chế, ở nước ta khu công nghiệp và khu chế xuất được sử dụng như những công cụ để thu hút đầu tư nước ngoài, là biện pháp tăng năng lực xuất khẩu bằng cách tạo ra môi trường đầu tư tự do, điều kiện thương mại tự do và cung cấp cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi với một cơ chế quản lý phù hợp. Như vậy, việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất để tăng năng lực xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nước ta trong nền kinh tế thế giới và khu vực, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo hướng hướng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan, là bước phát triển có tính chất lôgic của các chính sách phát triển kinh tế đất nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngoài nói riêng. 2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp như nước ta, việc tạo ra những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới là điều không dễ dàng, đơn giản. Muốn có dược như vậy, phải có những điều kiện và yếu tố cần thiết, trước hết là vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để sản xuất hàng hoá với giá cả và chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh cao. Khu công nghiệp, khu chế xuất được coi là công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất để thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật, sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời là cửa ngõ khai thông ra thị trường thế giới.
  • 22. 22 Ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là vì: - Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư của các nước phát triển, trước hết là của các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tư bản lớn là nguồn đầu tư quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trướng thị trường, các công ty xuyên quốc gia có xu hướng di chuyển một bộ phận năng lực sản xuất công nghiệp, thường là ngành công nghiệp có hàm lượng lao động, vật chất cao, không đòi hỏi trình độ thật tinh vi đến gần những nơi có nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ, cước phí vận chuyển không quá lớn và có những điều kiện ưu đãi. Ở những nơi này, các công ty xuyên quốc gia vừa không bị hạn chế bởi hàng rào quan thuế bảo hộ mậu dịch và các thủ tục hành chính quản lý phức tạp của nước chủ nhà, vừa phát huy được hiệu quả đầu tư do giảm chi phí sản xuất. Khu công nghiệp, khu chế xuất chính là môi trường thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. - Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội trên những vùng rộng lớn của đất nước đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của từng vùng nói riêng. Mặc dù chúng ta đã có nỗ lực to lớn trong xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nhưng do khả năng nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không thể khắc phục nhược điểm này trên qui mô toàn quốc, mà cần thiết phải có các biện pháp đặc biệt đối với từng khu vực, từng vùng, trước hết là ở những địa bàn có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn, phương tiện kỹ thuật để sản xuất hàng hoá, tạo môi trường liên kết với nền kinh tế trong nước. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế, với chi phí thấp đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài. - Trở lại thời kỳ 1991- 1994, xuẫt khẩu nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chủ yếu là do xuất khẩu dầu mỏ ngày càng tăng trong khi gạo,
  • 23. 23 hàng hải sản, nông sản và hàng may mặc vẫn duy trì ở mức xuất khẩu khá. Song dự trữ dầu mỏ có hạn, khả năng xuất khẩu gạo và nông sản nguyên dạng cũng có giới hạn bởi diện tích đất trồng trọt, nên muốn tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu phải có những chuyển biến về cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu, tận dụng được ưu thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới. Xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta sẽ có tác dụng tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó có thể xây dựng được một số lượng lớn các doanh nghiệp chế biến và chế tạo trong các khu, thực hiện chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu và nâng cao năng lực xuất khẩu. - Luật đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy những qui định về quản lý và thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn phức tạp, rườm rà, đã hạn chế tính năng động, linh hoạt của các doanh nghiệp trước những biến đổi của thị trường. Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép áp dụng qui chế riêng với những qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành chính, trước hết là thủ tục hải quan, thuế tương đối đơn giản, thông thoáng, dễ áp dụng nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đối với việc quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, chúng ta có điều kiện áp dụng chế độ dịch vụ "một cửa", theo đó các chủ doanh nghiệp trong khu chỉ cần tiếp xúc với một đầu mối là Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất để giải quyết mọi công việc; còn phía mình, cơ quan Nhà nước các cấp có thể phối hợp thông qua đầu mối này trong quá trình quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất mà không tạo nên nhiều tầng nấc quản lý, giảm nhẹ thủ tục cho các chủ doanh nghiệp. - Khu công nghiệp, khu chế xuất được xây dựng thành công sẽ trở thành một mô hình kinh tế năng động, có hiệu quả cao. Các khu có khả năng đón nhận nhiều nguồn đầu tư lớn vào nhiều lĩnh vực, trước hết là vào các ngành công nghiệp truyền thống, đã tiêu chuẩn hoá, sử dụng nhiều lao động. Các khu
  • 24. 24 cũng là nơi đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phương pháp quản trị kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, cung cấp cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề có chuyên môn kỹ thuật cho các ngành kinh tế. Vì vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất là giải pháp có hiệu quả đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo công ăn việc làm. Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, trên một địa bàn nhỏ, nhưng có mật độ cao các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (hàng xuất khẩu đối với khu chế xuất) và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu đối với khu chế xuất) khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một cầu nối gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, là nhân tố quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước và đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với những lý do trên, việc xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan đối với việc tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển kinh tế nước ta.
  • 25. 25 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. I. TÌNH HÌNH CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT CHO ĐẾN HẾT QUÍ II NĂM 2000: 1. Sự thành lập và qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất: 1.1 Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất: - Qui mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất: Đến tháng 6/ 2000, đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập (không kể khu công nghiệp Dung Quất rộng 14000 ha nằm ở vùng Trung Bộ). Tổng diện tích đất tự nhiên của các khu công nghiệp, khu chế xuất là 11.023 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 7.290 ha. Như vậy, qui mô bình quân của một khu là 164,5 ha. Khu công nghiệp có diện tích lớn nhất (không kể khu công nghiệp Dung Quất mà thực chất là khu kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) là khu công nghiệp Phú Mỹ I tại Bà Rịa- Vũng Tàu với diện tích 954,4 ha, còn khu công nghiệp có qui mô nhỏ nhất là khu công nghiệp Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 28 ha. So với các khu công nghiệp, khu chế xuất châu Á - thường có diện tích từ 10,5 đến 425 ha mà phần lớn là từ 100 đến 200 ha thì khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt nam thuộc loại khá lớn về diện tích. - Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất: Trong 67 khu được thành lập nói trên, có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế xuất và đặc biệt là 1 khu công nghệ cao. Diện tích đất tự nhiên và đất công nghiệp của các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
  • 26. 26 Số lượng Diện tích đất tự nhiên (ha) Diện tích đất công nghiệp (ha) Tổng cộng 67 11.023 7.715 Khu công nghiệp 63 9.313 7.191 Khu chế xuất 3 510 374 Khu công nghệ cao 1 200 150 Như vậy, khu công nghiệp chiếm số lượng áp đảo, chỉ có 3 khu chế xuất trong khi có tới 63 khu công nghiệp. Có thể kể đến một số khu công nghiệp lớn, có diện tích trên 200 ha như khu công nghiệp Daewoo-Hanel ở Hà Nội, khu công nghiệp Phú Mỹ I thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (954,4 ha), khu công nghiệp Nhơn Trạch I, II, III thuộc tỉnh Đồng Nai (với diện tích tương ứng là 430, 350, 368 ha), khu công nghiệp Hiệp Phước I ở thành phố Hồ Chí Minh (332 ha)... Ba khu chế xuất hiện nay là: khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu chế xuất Hải Phòng ở thành phố Hải Phòng. Khu công nghệ cao Hoà Lạc thuộc địa phận tỉnh Hà Tây là khu công nghệ cao duy nhất hiện nay ở Việt Nam. Đây là "khu tập trung các doanh nghiệp kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu-triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất." (theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/ 4/ 1997 của Chính phủ) - Phân bố khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng: Số các khu đã được thành lập tại các vùng.
  • 27. 27 Vùng Số khu công nghiệp Diện tích (ha) Vùng núi Bắc Bộ 2 139 Vùng Tây Nguyên 0 0 Vùng đồng bằng sông Cửu Long 6 649,6 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 10 1307 Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ ( 7 628,6 chưa kể khu công nghiệp Dung Quất) Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 33 7110 Các vùng khác 9 1188,8 Các khu công nghiệp, khu chế xuất phân bố không đều theo lãnh thổ: tập trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 56/ 64 khu). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên chưa có một khu công nghiệp hay khu chế xuất nào. Vùng núi Bắc Bộ có 2 khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Thụy Vân thuộc tỉnh Phú Thọ được thành lập năm 1997 và khu công nghiệp Sông Công thuộc tỉnh Thái Nguyên mới được thành lập năm 1999 với diện tích nhỏ so với mặt bằng chung của cả nước. Tại những vùng này, việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất khó khăn do vị trí địa lý kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Về diện tích, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 10 khu với tổng diện tích 1.307 ha, chiếm 11,86%; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 33 khu với tổng diện tích 7.110 ha, chiếm 64,5%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 7 khu với diện tích 628,6 ha, chiếm 5,7% tổng diện tích các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập. Như vậy, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm không chỉ về mặt số lượng mà còn cả về mặt diện tích.
  • 28. 28 Ngoài ra, tại vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, Chính phủ đã quyết định thành lập khu công nghiệp Dung Quát( thực chất là khu kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) và nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở Chu Lai. 1.2 Qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000. Đến nay, đã có 96 khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong qui hoạch đến năm 2010. Số các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng theo qui hoạch. Vùng Số khu công nghiệp, khu chế xuất Vùng núi Bắc Bộ 3 Vùng Tây Nguyên 3 Vùng đồng bằng sông Cửu Long 8 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 16 Vùng kinh tế trọng điểm Trung 10 Bộ 39 Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 17 Các vùng khác Trong đó, số khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong qui hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/ 1996 là 35 khu. Số khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trước tháng 8/ 1996 là 16 và số khu công nghiệp, khu chế xuất được bổ sung (bổ sung qui hoạch hoặc đã được Thủ tướng chấp nhận về chủ trương) là 45. Đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trên cả nước nên trong khoảng thời gian sắp tới, sẽ có thêm 29 khu mới. Nhìn chung qui hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và từng vùng, tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nói cách
  • 29. 29 khác, đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nhằm mục tiêu tạo đà tăng trưởng cho công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước thực hiện việc phát triển công nghiệp theo qui hoạch, tránh phát triển các cơ sở công nghiệp một cách tự phát, tiết kiệm đất, thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp, thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển. Thực tế thời gian qua cho thấy khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành từ khu vực chưa có các yếu tố hạ tầng và doanh nghiệp công nghiệp, hoặc trên cơ sở qui hoạch lại các doanh nghiệp đã được thành lập từ trước đó. Ngoài ra có một số khu công nghiệp để sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp qui mô vừa và nhỏ của địa phương, tạo điều kiện qui hoạch, tổ chức lại sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng và xử lý môi trường ở các tỉnh. 2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất: - Qui mô xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất: Tổng vốn đầu tư đăng ký xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất, tính đến đầu năm 2000, vào khoảng 1.148,1 triệu đôla và 24.429 tỷ đồng. Cụ thể như sau: + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tổng vốn đầu tư đăng ký là 12 triệu USD. + Doanh nghiệp liên doanh có tổng vốn đầu tư đăng ký là 879,5 triệu USD. + Doanh nghiệp Việt Nam có tổng vốn đầu tư đăng ký là 256,6 triệu USD và 24.429 tỷ đồng. Đến hết tháng 12/ 1999 có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng. Các khu này đã thực hiện được 396,5 triệu USD và 1.133 tỷ đồng vốn xây dựng hạ tầng, chỉ bằng 25% tổng số vốn đầu tư đăng ký hoặc dự toán được duyệt. Vì vậy, đẩy nhanh thực hiện vốn xây dựng hạ tầng trong thời gian trước mắt đang là vấn đề cấp thiết đối với hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam.
  • 30. 30 Về qui mô bình quân, một khu có diện tích là 164,5 ha với vốn đầu tư xây dựng hạ tầng theo dự kiến trong hồ sơ dự án là 28,8 triệu USD (bình quân khoảng 175.000 USD/ ha). Theo số liệu tổng kết của WEPZA, một khu công nghiệp hay một khu chế xuất điển hình có diện tích khoảng 100 ha với vốn đầu tư ban đầu xây dựng hạ tầng khoảng 50 triệu USD, tạo việc làm cho 10.000 lao động và tạo ra giá trị xuất khẩu và GDP khoảng 200 triệu USD. Cũng theo WEPZA, qui mô khu đó đem lại hiệu quả cao nhất, vì phát huy nhanh vốn đầu tư xây dựng hạ tầng, dễ đảm bảo các điều kiện hoạt động cho khu như điện, nước, thông tin, giao thông vận tải, dễ vận động đầu tư vào khu mà không gây những hậu quả lớn về môi trường, về kinh tế - xã hội do tích tụ với mật độ lớn các doanh nghiệp và số lao động làm việc thường xuyên trong khu. Như vậy, đa phần các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trước mắt chưa thể gọi là "điển hình". - Tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất. Nhìn chung, tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất chậm. Ngoài một số khu công nghiệp, khu chế xuất đã xây dựng xong hoặc cơ bản đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng như khu công nghiệp Nomura Hải Phòng, khu công nghiệp Đà Nẵng ở Đà Nẵng, khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Amata và khu công nghiệp Biên Hoà II ở Đồng Nai, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore và khu công nghiệp Việt Hương ở Bình Dương, giai đoạn I khu công nghiệp Nội Bài Hà Nội... với đầy đủ các hạng mục công trình hạ tầng như hệ thống giao thông nội khu, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống đường dây và trạm điện, hệ thống xử lý chất thải, nhất là hệ thống xử lý nước thải, cây xanh và công trình công cộng trong khu, các khu công nghiệp còn lại đang trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng, trong đó một số đang san lấp mặt bằng, chuẩn bị xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Riêng khu công nghiệp Dung Quất có diện tích 14.000 ha, nằm trên địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, bao gồm nhiều khu công nghiệp nhỏ,
  • 31. 31 một số khu đô thị, khu dân cư và các công trình công cộng... đã được khởi công tháng 1 năm 1998. Xây dựng khu công nghiệp Dung Quất đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư rất lớn, dự tính nguồn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ từ nhiều nguồn khác nhau như vốn Ngân sách, đầu tư theo hình thức BOT, vốn đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài. Đến thời điểm hiện nay, các chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đang tập trung đầu tư di dân, tái định cư và giải phóng mặt bằng, xây dựng hệ thống giao thông, cấp điện, nước, thông tin liên lạc, chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1- công trình đầu tiên và cũng là công trình trọng điểm của khu công nghiệp này. Như đã nói ở trên, chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất đa phần là các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghệp Việt Nam (chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh) đầu tư hạ tầng đến nay đã thực hiện được 1.697 tỷ đồng, mà nguồn vốn để xây dựng hạ tầng chủ yếu là từ nguồn tín dụng ưu đãi và từ tiền thuê đất ứng trước của các nhà đầu tư thứ cấp (đối với một số ít khu) và một phần nhỏ là vốn tự có của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng thường được tập trung vốn ít hơn, vừa đầu tư, vừa khai thác đem vào kinh doanh dẫn đến việc xây dựng hạ tầng chậm và có chất lượng không bằng các khu công nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đều thực hiện theo hình thức cuốn chiếu, chủ đầu tư phân kỳ công tác xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở vốn đầu tư hạn hẹp. Vì thế, hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất này hiện nay đều chưa có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh (trừ khu công nghiệp Biên Hoà II đã được xây dựng xong cơ sở hạ tầng và đã cho thuê được hơn 90% diện tích đất có thể cho thuê). 3. Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Có thể xem xét và đánh giá tình hình thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua bằng các chỉ tiêu cơ bản sau: số dự
  • 32. 32 án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; tỷ lệ cho thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất; tổng vốn đầu tư đăng ký tại các vùng. - Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến đầu quí III năm 2000, số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất là 1.092 với tổng vốn đầu tư đăng ký 9.362,7 triệu đôla và 26.841,8 tỷ đồng (bao gồm cả các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án sản xuất công nghiệp). Trong đó: + Có 1.025 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, dịch vụ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, với vốn đầu tư đăng ký 8.202,6 triệu đôla và 15.552,8 tỷ đồng. Trong số 1.025 dự án loại này, có 623 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Có 67 dự án đầu tư vào xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.160 triệu đôla và 11.289 tỷ đồng. Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có xu hướng tăng theo thời gian. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2000, có thêm 178 dự án thuộc lĩnh vực sản xuất, dịch vụ với tổng vốn đầu tư đăng ký 486,6 triệu đôla và 1.712,8 tỷ đồng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Điều này phần nào cho thấy, đầu tư trên cả nước nói chung và đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng đang có dấu hiệu tăng trưởng, sau một thời gian dài tăng chậm, thậm chí trì trệ do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, cạnh tranh mãnh liệt giữa các nước đang phát triển để thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ các nước khác, môi trường đầu tư còn nhiều tồn tại ở trong nước... - Tỷ lệ cho thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Với phương thức kinh doanh vừa đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng, vừa tranh thủ kêu gọi, thu hút đầu tư, đến nay các khu công nghiệp, khu chế xuất đã cho thuê được 2.432 ha, chiếm khoảng 32% tổng diện tích đất
  • 33. 33 công nghiệp có thể cho thuê của các khu (tính cả doanh nghiệp Việt Nam có sẵn trong khu). Một số khu đã cho thuê được nhiều đất như khu công nghiệp Biên Hoà II thuộc tỉnh Đồng Nai (đã cho thuê 243 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là 261 ha, tương đương với tỉ lệ 93.1%), khu công nghiệp Gò Dầu thuộc tỉnh Đồng Nai (đã cho thuê 104 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là 136 ha, tương đương với tỉ lệ 76.47%), hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh (đã cho thuê 57,71% với khu chế xuất Tân Thuận và 60.23% với khu chế xuất Linh Trung). Có 3 khu đã cho thuê gần hết diện tích đất công nghiệp giai đoạn I và hiện nay đang thực hiện giai đoạn II đó là khu công nghiệp Việt Nam- Singapore, khu công nghiệp Việt Hương (đều thuộc tỉnh Bình Dương) và khu công nghiệp Sài Đồng B ở Hà Nội. Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất theo tỷ lệ cho thuê đất. Tỉ lệ đất cho thuê/Diện tích đất công nghiệp (%) Số khu Đã cho thuê từ 80% trở lên 4 Đã cho thuê từ 50 - 80% 5 Đã cho thuê từ 30 - 50% 13 Đã cho thuê từ 10 - 30% 15 Đã cho thuê từ 01 - 10% 11 Chưa cho thuê được đất 19 Tổng cộng 67 Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự thành công của các khu công nghiệp, khu chế xuất - theo UNIDO - là tỷ lệ đất cho thuê của khu.Trong khi hiện nay, các khu ở Đài Loan; khu Masan, Iri của Hàn Quốc; khu Penang của Malaixia... có tỷ lệ đất cho thuê đều đạt hơn 80%, thì ở các khu của các nước Châu Á khác, tỷ lệ này thường chưa đến 50%. Việt Nam chỉ đạt mức 32% (tính tới thời điểm hiện nay), một con số phản ánh rõ tình trạng
  • 34. 34 hoạt động chưa hiệu quả của hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất. Có tới 19 khu chưa cho thuê được đất, 11 khu chỉ cho thuê được dưới 10% và 15 khu chỉ cho thuê được dưới 30%. Tình hình phát triển và hoạt động của các khu đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều khu trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Hay nói cách khác, hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển có sự lệch lạc giữa "chất" và "lượng". Có nhiều loại hình doanh nghiệp xin thuê đất để đầu tư trong khu. Trước hết là doanh nghiệp Việt Nam mà chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh - được thành lập từ trước khi khu được thành lập, nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ sở qui hoạch các doanh nghiệp có trước; hoặc các doanh nghiệp xin đầu tư mới vào các khu trong năm 1997, 1998, 1999, 2000 (điển hình là các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương); các doanh nghiệp di chuyển từ nội thành ra theo chủ trương qui hoạch doanh nghiệp có khả năng gây ô nhiễm. Ngoài doanh nghiệp trong nước, còn có loại hình doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp này thừa đủ khả năng thuê lại đất của công ty phát triển hạ tầng với giá thường cao hơn so với giá thuê đất nằm ngoài khu (do hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đầu tư). Điều này cũng giải thích vì sao phần lớn doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trong những năm gần đây là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Còn số doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế thành lập và hoạt động trong các khu chưa nhiều ngoài các doanh nghiệp hoạt động trước khi thành lập khu. - Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu công nghiệp, khu chế xuất tính theo vùng.
  • 35. 35 Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu tính theo vùng đến đầu năm 2000 (không kể các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất) Vùng Vốn FDI (triệu USD) Vốn đầu tư trong nước (tỷ đồng) Vùng núi Bắc Bộ 0 0 Vùng Tây Nguyên 0 0 Vùng đồng bằng sông Cửu Long 214,25 0 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 425 0 Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ 177,6 427,8 Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 5372,67 12181,6 Có thể thấy sự phân bố không đều theo vùng lãnh thổ của khu công nghiệp, khu chế xuất đã gây nên hệ quả tất yếu là vốn đầu tư chỉ tập trung chủ yếu ở ba vùng kinh tế trọng điểm và vùng đồng bằng sông Cửu Long (chiếm tới 56 trên tổng số 67 khu của cả nước). Vùng Tây Nguyên chưa có một khu nào được thành lập nên chưa thu hút dược vốn đầu tư. Tình cảnh tương tự cũng diễn ra với vùng núi Bắc Bộ, khi hai khu công nghiệp duy nhất (khu công nghiệp Thụy Vân và khu công nghiệp Sông Công) mới được thành lập, hệ thống cơ sở hạ tầng trong khu hầu như chưa có gì. II. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT. 1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia. Đến thời điểm đầu năm 2000, đã có trên 30 nước đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam với tổng số 565 dự án. Các dự án này có số vốn đầu tư là 8.607,5 triệu USD (kể cả dự án Nhà máy lọc dầu số 1 ở
  • 36. 36 khu công nghiệp Dung Quất có vốn đầu tư 1.300 triệu USD). So với số dự án và vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài thì tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm 23,5%, trong đó: + Có 14 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất với vốn đầu tư đăng ký 891,5 triệu USD. + Có 551 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất với tổng vốn đầu tư 7.716 triệu USD. Đến hết quí II năm 2000, số dự án loại này là 623, thêm 72 dự án mới. - Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, các quốc gia Châu Á có một vị trí hết sức quan trọng. Nếu căn cứ theo số dự án, 7 nước Châu Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia đã chiếm hơn 80% trên tổng số ( với 464 dự án, tính đến thời điểm đầu năm 2000). + Đài Loan là nước có số dự án nhiều nhất (190 dự án). Trong đó, 187 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, còn 3 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (một dự án đầu tư vào khu công nghiệp Đài Tư- Hà Nội do doanh nghiệp 100% vốn của Đài Loan đảm nhận, hai dự án đầu tư vào khu công nghiệp Đức Hoà I thuộc tỉnh Long An và khu chế xuất Tân Thuận ở thành phố Hồ Chí Minh do doanh nghiệp liên doanh giữa Đài Loan và Việt Nam đảm nhận). + Nhật Bản là nước đứng thứ hai sau Đài Loan, với 102 dự án. Trong đó có 99 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, và cũng giống Đài Loan, có 3 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (một dự án đầu tư vào khu công nghiệp LOTECO của Đồng Nai, một dự án vào khu công nghiệp Thăng Long ở Hà Nội và một dự án vào khu công nghiệp Nomura - Hải Phòng, cả ba đều do doanh nghiệp liên doanh giữa Nhật Bản với Việt Nam đảm nhận).
  • 37. 37 Nhật Bản từ lâu đã là một đối tác quan trọng của Việt Nam. Được liệt vào hàng ngũ "cường quốc kinh tế", Nhật Bản vẫn đang tiếp tục khẳng định vị thế của mình bằng việc đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua nhiều con đường, nhất là con đường đầu tư vào các nước khác trong bối cảnh đồng yên của họ liên tục lên giá. Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến những nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - là khu vực kinh tế năng động nhất hiện nay trên thế giới. Việt Nam, một quốc gia Đông Nam Á có nhiều điều kiện tương đối thuận lợi cho đầu tư nước ngoài như tình hình chính trị ổn định, vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lao động dồi dào... không thể nằm ngoài "tầm ngắm" của các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, đầu tư vào Việt Nam của Nhật Bản có phần giảm sút nhưng đang dần hồi phục trong những năm gần đây. + Singapore và Hàn Quốc, hai quốc gia đứng kế tiếp Nhật Bản. Singapore có 54 dự án, còn Hàn Quốc có 49 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Ngoài ra, Singapore có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Việt - Sing thuộc tỉnh Bình Dương theo hình thức liên doanh với nước chủ nhà, còn Hàn Quốc, có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Daewoo - Hanel ở Hà Nội. Bên cạnh đó, có thể kể đến Malaixia, Thái Lan, Hồng Kông - là những nước Châu Á có khá nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam. - Đầu tư trực tiếp của các nước Châu Âu. Nhìn chung, đầu tư trực tiếp của các nước ở khu vực Châu Âu còn hạn chế. Trong khi các tập đoàn tư bản Nhật Bản và các nước công nghiệp Châu Á chiếm lĩnh gần như "độc quyền" các khu công nghiệp, khu chế xuất Châu Á thì các tập đoàn của Châu Âu lại tập trung chủ yếu ở Châu Phi, vùng Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải và chỉ một số rất ít các nước Châu Á. Những nước Châu Âu với số dự án đầu tư tương đối vào Việt Nam có thể kể đến là Anh, Pháp, Australia, Đức. 17 dự án của Anh, 15 dự án của Pháp, 12 dự án của Australia và 7 dự án của CHLB Đức đều là những dự án
  • 38. 38 đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, không có dự án nào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của khu công nghiệp, khu chế xuất. - Đầu tư trực tiếp vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam của Hoa Kỳ. Các nhà tư bản Mỹ không đầu tư tập trung vào một số vùng như các nhà tư bản Tây Âu, mà họ có mặt ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Vì lý do chính trị, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam diễn ra khá muộn. Tuy vậy, tính tới đầu năm 2000, Mỹ cũng có 18 dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam với tổng vốn đầu tư khoảng 390 triệu USD. Hiệp định thương mại vừa được ký kết giữa hai nước Việt Nam- Hoa Kỳ ngày 13/ 7/ 2000 sẽ là một điều kiện thuận lợi thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. - Nếu căn cứ vào tiêu chí vốn đầu tư thì Nhật Bản, Đài Loan, Nga, HànQuốc, Singapore là những nước đứng đầu. + Nhật Bản có 102 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 1.552 triệu USD. Như vậy vốn đầu tư bình quân một dự án của Nhật Bản là 15,2 triệu USD, bằng với vốn đầu tư bình quân một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung. + Đài Loan tuy chiếm số dự án áp đảo nhưng tổng vốn đầu tư chỉ đạt khoảng 1.353 triệu USD. Vốn đầu tư bình quân một dự án là 7,12 triệu USD. Các dự án của Đài Loan thường là những dự án vừa và nhỏ so với mặt bằng chung. + Nga hiện chỉ có 5 dự án đầu tư vào Việt Nam nhưng trong 5 dự án này, đặc biệt phải kể đến dự án Nhà máy lọc dầu số 1 với vốn đầu tư đăng ký 1.300 triệu USD tại khu công nghiệp Dung Quất. Bốn dự án còn lại là những dự án qui mô nhỏ (tổng vốn đầu tư của 4 dự án là 34 triệu USD).
  • 39. 39 + Hàn Quốc là quốc gia có nhiều dự án đầu tư lớn vào Việt Nam. Vốn đầu tư bình quân một dự án của Hàn Quốc là 22,98 triệu USD (50 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 1.150 triệu USD). + Singapore, chỉ đứng sau Đài Loan và Nhật Bản về số dự án (như đã trình bày) nhưng tổng vốn đầu tư thì đứng sau cả Nga và Hàn Quốc do các dự án của Singapore có qui mô bình quân rất nhỏ (55 dự án với tổng vốn đầu tư là 596 triệu USD, bình quân 0,011 triệu USD một dự án). + Trong số 4 nước Châu Âu với tương đối nhiều dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam: Anh, Pháp, Australia, Đức, các dự án của Anh và Đức là có qui mô bình quân lớn hơn cả (32,3 triệu USD với Anh và 21,8 triệu USD với Đức). Còn dự án của Pháp và Australia chỉ đa số là những dự án vừa và nhỏ (7,2 triệu USD với Pháp và 8,5 triệu USD với Australia). Nhìn một cách tổng thể, cơ cấu vốn đầu tư vào các khu theo quốc gia như hiện nay là chưa cân đối. Trong khi Nhật Bản và các nước công nghiệp Châu Á chiếm vị trí chủ đạo bởi lượng vốn đầu tư và số dự án áp đảo thì Châu Âu và Bắc Mỹ có vai trò còn rất mờ nhạt. Đây cũng là một vấn đề bức xúc được đặt ra với các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng trong công tác xúc tiến, vận động đầu tư. 2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
  • 40. 40 Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Ngành, lĩnh vực Số dự án Vốn đầu tư (triệu đôla) Tổng số 565 8.607,5 Xi măng 0 0 Sắt thép 3 141,25 Ô tô, xe máy 2 301,5 Điện 5 446,67 Cơ khí chế tạo 16 179,5 Đường mía 0 0 Dệt may - 1.321,11 Bia, nước giải khát 2 88,8 Xây dựng CSHT khu công nghiệp 14 891,5 Gạch ốp lát, sứ vệ sinh 3 67 Điện tử 31 618,78 Phân bón NPK 1 39,95 Nước cho sinh hoạt và sản xuất 1 19 Chế biến gạo xuất khẩu 1 10 - Có thể thấy các dự án công nghiệp nặng như vật liệu xây dựng (xi măng, sắt thép), hoá chất, điện, cơ khí... về cơ bản đã hình thành tương đối đầy đủ trong các khu, tuy số lượng và vốn đầu tư của các dự án này còn khá "khiêm tốn". Đây là kết quả có được sau một thời gian dài các khu công nghiệp, khu chế xuất nỗ lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ vào công nghiệp nhẹ, điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng, mà còn vào công nghiệp nặng, bước
  • 41. 41 đầu góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành cơ khí chế tạo chiếm số dự án nhiều nhất (16 dự án) trong tổng số các dự án công nghiệp nặng. Đáng chú ý là dự án sản xuất động cơ điện nhỏ và siêu nhỏ của công ty Mabuchi Motor Việt Nam, một công ty đang hoạt động tốt trong hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta của nhà đầu tư Nhật Bản. Vốn đầu tư của Mabuchi Motor Việt Nam cỡ khoảng 69,9 triệu đôla, chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư của 16 dự án cơ khí chế tạo (179,5 triệu đôla). Một dự án công nghiệp nặng khác cũng có số vốn đầu tư lớn (69,6 triệu đôla) và đang sản xuất tốt là dự sản xuất thép của công ty liên doanh thép Vinakyoei giữa Việt Nam và Nhật Bản. Ngành sản xuất điện có 5 dự án, đứng trên ngành hoá chất và vật liệu xây dựng về số dự án. Các dự án sản xuất điện đều là dự án lớn với tổng vốn đầu tư 446,67 triệu đôla (chẳng hạn công ty liên doanh AMATA Power Việt- Thái với vốn đầu tư 110 triệu đôla) nên tuy đứng sau về số dự án nhưng ngành sản xuất điện lại vượt xa về số vốn đầu tư so với ngành cơ khí chế tạo. - Các dự án công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc, lắp ráp điện tử...) và công nghiệp thực phẩm là các dự án chủ yếu trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Đáng chú ý nhất là dệt may và điện tử, hai ngành có số vốn đầu tư vượt trội các ngành khác. + Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành dệt may là 1.321,11 triệu đôla. Con số này chắc chắn sẽ còn tăng nữa trong tương lai, khi thị trường xuất khẩu hàng dệt may đang có chiều hướng được mở rộng, đặc biệt phải kể đến Hoa Kỳ - một thị trường triển vọng đối với hàng dệt may Việt Nam sau khi quan hệ kinh tế hai nước được thiết lập. Công ty Hualon Corporation Việt Nam (liên doanh giữa Malaixia và Việt Nam) là một trong những công ty lớn đang hoạt động tốt ở lĩnh vực sản xuất hàng dệt may với số vốn đầu tư gần 480 triệu đôla. + Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành điện tử là 618,78 triệu đôla. Các dự án lớn đều của chủ đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản. Chẳng hạn như công
  • 42. 42 ty TNHH đèn hình Orion - Hanel với 178,6 triệu đôla vốn đầu tư, công ty Deawoo - Hanel với 152 triệu đôla vốn đầu tư (đều của Hàn Quốc), hay công ty máy tính Fujitsu với 198,8 triệu đôla vốn đầu tư (của Nhật Bản). Nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã "có mặt" ở hầu hết các lĩnh vực công nghiệp chủ chốt, từ công nghiệp nặng đến công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, tuy số dự án có khác nhau với từng ngành. Nếu không kể một vài dự án công nghiệp có qui mô lớn tập trung ở một số khu như khu công nghiệp Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu... thì các dự án có mức vốn đầu tư khoảng 4 - 5 triệu đôla, lao động 300 - 400 người, doanh thu 5 - 6 triệu đôla/ năm, là những dự án hết sức đặc trưng và phổ biến ở các khu. 3. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất theo vùng lãnh thổ. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các khu công nghiệp, khu chế xuất theo vùng lãnh thổ (kể cả các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất) tính đến đầu năm 2000. Tổng vốn FDI đăng ký (triệu đôla) FDI đăng ký trong các khu (triệu đôla) Tỷ trọng (%) Cả nước 35.660 8.607,5 24,1 Vùng trọng điểm Nam Bộ 17.304,84 5.685,6 31 Vùng trọng điểm Bắc Bộ 10.888,6 990,6 9,1 Vùng trọng điểm Trung Bộ 1.983,5 1.516,6 76,5 Vùng Tây Nguyên 898 0 - Vùng núi Bắc Bộ 264 0 - Vùng ĐB sông Cửu Long 1.005,83 214,25 21,3 3.1 Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ.
  • 43. 43 Ở vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, số khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập là 33 khu (có hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung) với tổng diện tích 7.110 ha, trong đó có gần 4.800 ha diện tích đất công nghiệp. Do tập trung một số lượng lớn các khu, vùng kinh tế này đã thu hút được 697 dự án có tổng vốn đầu tư 5.755 triệu đôla và trên 21.000 tỷ đồng, gồm 213 dự án đầu tư trong nước và 484 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: + 6 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất với 312,9 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký. + 478 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp với 5.372,7 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký. - Những năm gần đây, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong các khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng liên tục giảm sút: 1.103,3 triệu đôla vào năm 1997, 340 triệu đôla vào năm 1998 và chỉ 292,8 triệu đôla vào năm 1999. Tuy nhiên, vẫn có những khu đang hoạt động và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài rất thành công như khu công nghiệp Biên Hoà II, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore, khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất Linh Trung... và so với các vùng khác trên cả nước, vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ thu hút đầu tư vẫn đạt nhiều khả quan hơn. Cùng với dự án đầu tư trong nước, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo việc làm cho 123.000 lao động. Năm 1999, doanh thu của các doanh nghiệp đạt gần 2.092 triệu đôla, trong đó giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 1.466 triệu đôla (trên 80% là đóng góp của doanh nghiệp FDI). Các khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng đã cho thuê 1.655 ha đất, chiếm 34,5% diện tích đất công nghiệp. Để lấp kín các khu này, ước tính cần hơn 10 tỷ đôla vốn đầu tư và tạo thêm việc làm cho khoảng 250.000 lao động nữa. Vì vậy, đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới đang là mục tiêu của tất cả các khu.
  • 44. 44 - Một số nguyên nhân dẫn đến thành công của vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ trong việc phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu là: + Môi trường đầu tư thuận lợi: chi phí đầu tư thấp hơn các vùng khác, cơ sở hạ tầng tương đối tốt, thu nhập cao của dân cư và thói quen tiêu dùng của dân cư. + Uỷ ban nhân dân, các cấp lãnh đạo của các tỉnh, thành phố quan tâm và chỉ đạo kịp thời Ban quản lý cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động của các khu. + Vận dụng cơ chế chính sách phù hợp để thu hút đầu tư. 3.2 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, số khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập là 10 khu (trong đó có một khu công nghệ cao Hoà Lạc) với tổng diện tích 1.307 ha, trong đó có gần 1.000 ha diện tích đất công nghiệp. Vùng kinh tế này đã thu hút được 43 dự án đầu tư có tổng vốn đầu tư 1.086,6 triệu đôla và 253,4 tỷ đồng, gồm 6 dự án đầu tư trong nước, 40 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: + 7 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất với 565,6 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký. + 33 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp với 425 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký. - Giống với vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, những năm gần đây, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong các khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng giảm sút mạnh: 300,3 triệu đôla vào năm 1997; 2,9 triệu đôla vào năm 1998 và tăng lên một chút 28,2 triệu đôla vào năm 1999. Dựa vào đặc điểm chung của các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta là các dự án vừa và nhỏ, có qui mô vốn đầu tư khoảng 4 - 5 triệu đôla, chiếm trung bình 1 - 1,5 ha đất công nghiệp, thì để lấp đầy các khu đã được thành lập ở vùng này cần có trên 600 dự án với tổng vốn đầu tư đăng