Đặc điểm dịch tễ và hiệu quả can thiệp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại hai huyện tỉnh Bắc Ninh.Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là bệnh thường gặp, có thể dự phòng và điều trị được, đặc trưng bởi sự tắc nghẽn đường thở, tiến triển nặng dần, liên quan tới phản ứng viêm bất thường của phổi bởi các phân tử và khí độc hại [6], [24], [38]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, đến năm 2020 bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính sẽ đứng hàng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong và đứng hàng thứ năm trong gánh nặng bệnh tật toàn cầu [100]. Tại Mỹ, theo kết quả điều tra về sức khỏe Quốc gia lần thứ ba có 23,6 triệu người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong đó có 2,6 triệu người mắc bệnh ở giai đoạn nặng. Ước tính mức độ lưu hành của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính vào khoảng 10% dân số Hoa Kỳ [63]. Tại Vương quốc Anh (2000), có khoảng 3,4 triệu người được chẩn đoán là mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (6,4% dân số của Anh và xứ Wales) [58], [64]. Ở Việt Nam, theo thống kê của dự án phòng chống bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính quốc gia (2013) cho thấy tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong cộng đồng dân cư trên toàn quốc từ 40 tuổi trở lên là 4,2%, trong đó nam là 7,1% và nữ là 1,9%. Phân chia bệnh theo khu vực thì nông thôn là 4,7%, thành thị là 3,3% và miền núi là 3,6% [3]. Theo Đinh Ngọc Sỹ năm 2009 trong cộng đồng dân cư có khoảng 1,4 triệu người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, tỷ lệ mắc ở nam: 3,5%; nữ: 1,1%. Bệnh có xu hướng tăng theo tuổi, liên quan đến hút thuốc lá và sử dụng nhiên liệu đốt hữu cơ [30], còn Phan Thu Phương nghiên cứu ở Lạng Giang, Bắc Giang năm 2009 cho thấy tỷ lệ bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là 3,85% và các yếu tố hút thuốc lá, tuổi cao, bệnh hen liên quan đến bệnh