HỞ VAN HAI LÁ : CẬP NHẬT
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
PGS TS Nguyễn Anh Vũ
Bộ môn Nội, Đại học Y Dược Huế-Trung tâm tim mạch Huế
Nguyên nhân hở van hai lá
Hở hai lá nguyên phát (bất thường lá van):
- Sa van hai lá dạng thoái hoá nhầy
- Thoái hoá
- Nhiễm trùng
- Viêm
- Bẩm sinh
- Sa lá van, trôi lá van, đứt hoặc dài dây chằng
- Dày, vôi hoá
- Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, thủng, phình
- Thấp tim, bệnh tạo keo, tia xạ, thuốc
- Chẻ van hai lá, van hình dù
Hở hai lá thứ phát (tái cấu trúc thất):
- Nguyên nhân thiếu máu cục bộ do bệnh mạch
vành
- Bệnh cơ tim không do thiếu máu cục bộ:
Giãn vòng van Rung nhĩ, bệnh cơ tim hạn chế
Luận văn Khảo sát tình trạng loãng xương và một số yếu tố nguy cơ ở người cao tuổi tại Bệnh viện Lão khoa trung ương.Ngày nay, tuổi thọ trung bình của người dân trên thế giới ngày càng cao điều đó được coi như thành tựu của nhân loại. Tại Việt Nam, theo dự báo dân số của tổng cục thống kê năm 2010: dân số Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “già hóa” từ năm 2017. Khi đó, tỷ lệ người cao tuổi chiếm 10% tổng dân số. Điều đó có nghĩa: thành tựu sẽ đi đôi với những thách thức do sự già hóa gây nên. Ngành y tế sẽ phải đối mặt với thực tế chính là bệnh tật của quá trình lão hóa. Một trong số đó thì hiện nay loãng xương đang được coi là một dịch bệnh âm thầm nhưng nguy hiểm đang lan rộng trên khắp thế giới
HỞ VAN HAI LÁ : CẬP NHẬT
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
PGS TS Nguyễn Anh Vũ
Bộ môn Nội, Đại học Y Dược Huế-Trung tâm tim mạch Huế
Nguyên nhân hở van hai lá
Hở hai lá nguyên phát (bất thường lá van):
- Sa van hai lá dạng thoái hoá nhầy
- Thoái hoá
- Nhiễm trùng
- Viêm
- Bẩm sinh
- Sa lá van, trôi lá van, đứt hoặc dài dây chằng
- Dày, vôi hoá
- Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, thủng, phình
- Thấp tim, bệnh tạo keo, tia xạ, thuốc
- Chẻ van hai lá, van hình dù
Hở hai lá thứ phát (tái cấu trúc thất):
- Nguyên nhân thiếu máu cục bộ do bệnh mạch
vành
- Bệnh cơ tim không do thiếu máu cục bộ:
Giãn vòng van Rung nhĩ, bệnh cơ tim hạn chế
Luận văn Khảo sát tình trạng loãng xương và một số yếu tố nguy cơ ở người cao tuổi tại Bệnh viện Lão khoa trung ương.Ngày nay, tuổi thọ trung bình của người dân trên thế giới ngày càng cao điều đó được coi như thành tựu của nhân loại. Tại Việt Nam, theo dự báo dân số của tổng cục thống kê năm 2010: dân số Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “già hóa” từ năm 2017. Khi đó, tỷ lệ người cao tuổi chiếm 10% tổng dân số. Điều đó có nghĩa: thành tựu sẽ đi đôi với những thách thức do sự già hóa gây nên. Ngành y tế sẽ phải đối mặt với thực tế chính là bệnh tật của quá trình lão hóa. Một trong số đó thì hiện nay loãng xương đang được coi là một dịch bệnh âm thầm nhưng nguy hiểm đang lan rộng trên khắp thế giới
Cùng độc giả
Trên tay quý độc giả là ấn bản
đầu tiên của K+ Sức khỏe gồm 48
trang với những chuyên mục đa
dạng, phong phú và đặc biệt hữu ích
đối với bạn đọc.
Thông qua ấn phẩm, các chuyên
gia y tế hàng đầu sẽ cung cấp thông
tin chuyên sâu về các căn bệnh nan y
như: ung thư, tim mạch, tiểu đường,
gout… cách phòng chống, phát hiện
và chữa trị chúng một cách hiệu quả
nhất.
Bên cạnh đó K+ Sức khỏe sẽ cung
cấp các phương cách chữa trị phổ
quát các căn bệnh thường gặp theo
cách đơn giản nhất, ngắn nhất, tiết
kiệm nhất và thành công nhất. Đây
đồng thời cũng là kênh thông tin để
bạn đọc có thể trao đổi, thắc mắc,
giải đáp nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực
khoa học y học cùng các y bác sĩ, các
lương y…
Là cẩm nang sức khỏe hữu ích,
thiết thực đối với mọi gia đình, chúng
tôi hy vọng K+ Sức khỏe không chỉ
đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, các
nhà chuyên ngành y học, mà còn
có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cần
thiết đối với tất cả mọi người ở mỗi
cương vị khác nhau đang làm việc
tại các đơn vị, doanh nghiệp… có
thêm điều kiện cập nhật kiến thức
để chăm sóc sức khỏe, phòng trách
được những căn bệnh nan y hiệu quả
trước khi quá muộn.
Chính vì thế, chúng tôi hy
vọng và đề nghị các đơn vị, các nhà
chuyên ngành y học và bạn đọc cùng
đồng hành chung tay góp sức, đóng
góp làm cho K+ Sức khỏe ngày càng
bổ ích và thiết thực với cộng đồng xã
hội.
Trân trọng cảm ơn
Ban biên tập K+ Sức khỏe
Nhịp cầu dược lâm sàng_N2_Tăng huyết áp_docHA VO THI
Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng ra đời với mong muốn là nơi tổng hợp, chia sẻ những thông tin mới, thiết thực hỗ trợ cho công tác Thực hành, Đào tạo và Nghiên cứu Dược lâm sàng tại Việt Nam.
Tập san được thành lập từ sự hợp tác của các dược sĩ có kinh nghiệm trong các lĩnh vực khác nhau (thực hành, giảng dạy, nghiên cứu), trong và ngoài nước, cũng như các sinh viên dược trẻ đầy tài năng, nhiệt huyết với mục đích hoàn toàn phi lợi nhuận. Cụ thể, sự hợp tác là hoàn toàn tự nguyện và Tập san có thể truy cập hoàn toàn miễn phí.
Dự định Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng sẽ phát hành 1 số mỗi quý. Mỗi số sẽ có một chủ đề trọng tâm. Sau số đầu tiên có chủ đề là "Thuốc chống đông đường uống", số thứ 2 này có chủ đề là "Tăng huyết áp". Tăng huyết áp là một bệnh mạn tính phổ biến trong đó bệnh nhân phải được tư vấn điều trị lâu dài để phòng các biến chứng trên tim mạch nghiêm trọng. Vai trò của dược sĩ dược lâm sàng trong việc tư vấn hướng dẫn sử dụng thuốc tối ưu cho các bệnh mạn tính nói chung và tăng huyết áp nói riêng đang ngày càng được khẳng định. Hy vọng Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng số 2 này sẽ là tài liệu cung cấp những thông tin hữu ích, cập nhật cho mỗi Dược sĩ lâm sàng!
Xin gửi đến quý đồng nghiệp dược sĩ và các sinh viên lời chúc sức khỏe và công tác tốt!
Thay mặt Ban biên tập và các thành viên cố vấn/cộng tác viên
Tổng ban biên tập: Ths.DS. Võ Thị Hà
Phó ban biên tập: TS.DS. Nguyễn Thị Vân Anh
Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng ra đời với mong muốn là nơi tổng hợp, chia sẻ những thông tin mới, thiết thực hỗ trợ cho công tác Thực hành, Đào tạo và Nghiên cứu Dược lâm sàng tại Việt Nam.
Tập san được thành lập từ sự hợp tác của các dược sĩ có kinh nghiệm trong các lĩnh vực khác nhau (thực hành, giảng dạy, nghiên cứu), trong và ngoài nước, cũng như các sinh viên dược trẻ đầy tài năng, nhiệt huyết với mục đích hoàn toàn phi lợi nhuận. Cụ thể, sự hợp tác là hoàn toàn tự nguyện và Tập san có thể truy cập hoàn toàn miễn phí.
Dự định Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng sẽ phát hành 1 số mỗi quý. Mỗi số sẽ có một chủ đề trọng tâm. Sau số đầu tiên có chủ đề là "Thuốc chống đông đường uống", số thứ 2 này có chủ đề là "Tăng huyết áp". Tăng huyết áp là một bệnh mạn tính phổ biến trong đó bệnh nhân phải được tư vấn điều trị lâu dài để phòng các biến chứng trên tim mạch nghiêm trọng. Vai trò của dược sĩ dược lâm sàng trong việc tư vấn hướng dẫn sử dụng thuốc tối ưu cho các bệnh mạn tính nói chung và tăng huyết áp nói riêng đang ngày càng được khẳng định. Hy vọng Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng số 2 này sẽ là tài liệu cung cấp những thông tin hữu ích, cập nhật cho mỗi Dược sĩ lâm sàng!
Xin gửi đến quý đồng nghiệp dược sĩ và các sinh viên lời chúc sức khỏe và công tác tốt!
Thay mặt Ban biên tập và các thành viên cố vấn/cộng tác viên
Tổng ban biên tập: Ths.DS. Võ Thị Hà
Phó ban biên tập: TS.DS. Nguyễn Thị Vân Anh
NCDLS_N3_Hen phế quản và Ứng dụng CNTT trong thực hành dượcHA VO THI
Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng ra đời với mong muốn là nơi tổng hợp, chia sẻ những thông tin mới, thiết thực hỗ trợ cho công tác Thực hành, Đào tạo và Nghiên cứu Dược lâm sàng tại Việt Nam.
Tập san được thành lập từ sự hợp tác của các dược sĩ có kinh nghiệm trong các lĩnh vực khác nhau (thực hành, giảng dạy, nghiên cứu), trong và ngoài nước, cũng như các sinh viên dược trẻ đầy tài năng, nhiệt huyết với mục đích hoàn toàn phi lợi nhuận. Cụ thể, sự hợp tác là hoàn toàn tự nguyện và Tập san có thể truy cập hoàn toàn miễn phí.
Dự định Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng sẽ phát hành 1 số mỗi quý. Mỗi số sẽ có một chủ đề trọng tâm. Sau số đầu tiên có chủ đề là "Thuốc chống đông đường uống", số thứ 2 chủ đề là "Tăng huyết áp". Số thứ 3 này chủ đề là "Hen phế quản" và "Ứng dụng Công nghệ thông tin trong thực hành dược".
Hy vọng Tập san Nhịp cầu Dược lâm sàng số 3 này sẽ là tài liệu cung cấp những thông tin hữu ích, cập nhật cho mỗi Dược sĩ lâm sàng!
Xin gửi đến quý đồng nghiệp dược sĩ và các sinh viên lời chúc sức khỏe và công tác tốt!
Thay mặt Ban biên tập và các thành viên cố vấn/cộng tác viên
Tổng ban biên tập: Ths.DS. Võ Thị Hà
Phó ban biên tập: TS.DS. Nguyễn Thị Vân Anh
Nhận xét triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí bệnh tiền sản giật tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2013.Tiền sản giật là một bệnh lý phức tạp thường xảy ra trong ba tháng cuối của thời kỳ thai nghén và có thể gây nên những tác hại nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của thai phụ và thai nhi. Nguyên nhân của bệnh cho đến nay vẫn chưa được biết rõ ràng.
Theo các kết quả nghiên cứu được cống bố gần đây trong nước cũng như trên thế giới và theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2003, tiền sản giật được xác định là có tăng huyết áp và protein niệu hoặc đi kèm phù và có thể kèm theo một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng khác
Download luận văn thạc sĩ ngành y học dự phòng với đề tài: Thực trạng lo âu, trầm cảm và nhu cầu hỗ trợ tâm lý xã hội của người bệnh ung thư vú điều trị tại một số bệnh viện ở Hà Nội năm 2015
Các bạn có thể mua cuốn "Tai biến mạch máu não" và cách tài liêu y học, y dược, sách y học cổ truyền khác tại http://sachyhoc.vn/
SACHYHOC.VN - TINH HOA TRI THỨC Y HỌC
CHUYÊN CUNG CẤP SÁCH Y HỌC, SÁCH Y DƯỢC, SÁCH CHUYÊN KHOA TẠI HÀ NỘI VÀ CÁC TỈNH
CAM KẾT SÁCH BẢN QUYỀN, CHẤT LƯỢNG TỐT, PHỤC VỤ NHANH CHÓNG
❔ Các bạn cần tài liệu y học hay để nghiên cứu ?
CỦA HÀNG SÁCH Y HỌC sẽ cung cấp cho bạn sách độc quyền, sách theo yêu cầu
☀ Nếu bạn bạn có thắc mắc, yêu cầu mua sách alo nhé! ☺
Các bạn chỉ cần nêu tên sách còn lại hãy để SACHYHOC.VN lo hết chooo.. ! Sách nào cũng có!
Website: http://sachyhoc.vn/
Để chọn được ngành nghề phù hợp với bản thân và dễ xin việc làm khi ra trường, điều quan trọng nhất chính là tìm hiểu nhu cầu của xã hội. Trên đây là một số ngành được đánh giá là phát triển ổn định và luôn có nhu cầu về nhân lực trong tương lai.
Download luận án tiến sĩ ngành y học với đề tài: Nghiên cứu típ, độ mô học và một số yếu tố tiên lượng ung thư biểu mô tuyến cổ tử cung, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành y học với đề tài: Nghiên cứu típ, độ mô học và một số yếu tố tiên lượng ung thư biểu mô tuyến cổ tử cung, cho các bạn làm luận án tham khảo
1. CẤP CỨU LÃO KHOA
Thảo luận case lâm sàng
Amal Mattu, Shamai Grossman, Peter Rosen
Robert Anderson, Christopher R. Carpenter, Andrew Chang,
Jon Mark Hirshon, Ula Hwang, Maura Kennedy, Don Melady,
Vaishal Tolia, Scott Wilbur
Ths. Bs Phạm Hoàng Thiên
Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
2. LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1980 đến nay, số lượng bệnh nhân cao tuổi đến khám tại các bệnh
viện và khoa cấp cứu trên toàn thế giới đã tăng hơn gấp đôi. Khác với những
bệnh nhân trẻ, người cao tuổi mắc nhiều bệnh đi kèm, tỷ lệ tử vong cao hơn,
yêu cầu nhiều đánh giá và xét nghiệm phân loại hơn, việc điều trị phức tạp hơn
và có xu hướng trở lại khoa cấp cứu lâu hơn.
Đây là cuốn sách được viết bởi các chuyên gia được quốc tế công nhận về y học
cấp cứu và lão khoa, được thiết kế để hướng dẫn các bác sĩ cấp cứu cách tiếp
cận và chăm sóc tốt nhất cho nhóm bệnh nhân cụ thể này. Nó nói đến những
thay đổi sinh lý, các tình trạng nguy cơ cao và các biểu hiện không điển hình
liên quan đến bệnh nhân cao tuổi tại khoa cấp cứu dẫn đến chẩn đoán sai
thường xuyên hoặc chậm trễ trong chẩn đoán. Nó hướng dẫn người đọc cách
chăm sóc bệnh nhân cao tuổi tốt nhất để giảm thiểu tàn tật và tử vong, giải
quyết một số vấn đề tâm lý xã hội khó khăn mà các bác sĩ chăm sóc bệnh nhân
cao tuổi phải đối mặt, chẳng hạn như bệnh tâm thần và chăm sóc cuối đời. Lợi
ích của cuốn sách này không chỉ giới hạn cho các bác sĩ cấp cứu, mà còn hữu
ích cho tất cả các bác sĩ và điều dưỡng có liên quan đến việc điều trị bệnh nhân
cao tuổi mắc các bệnh cấp tính hoặc phẫu thuật.
Thông qua những cuộc thảo luận về từng case lâm sàng thực tế của các chuyên
gia cấp cứu và lão khoa hàng đầu thế giới, cho chúng ta hiểu thêm về nhiều
khía cạnh quan trọng của y học cấp cứu ở người cao tuổi, xác định các yêu cầu
chăm sóc có thể của họ - những yêu cầu thường xuyên vẫn không được đáp
ứng. Tính cập nhật và chuyên sâu sẽ hỗ trợ các bác sĩ cấp cứu xác định những
bệnh nhân có nguy cơ bị kết cục bất lợi, trong tiến trình hoạt động đánh giá
hợp lý, toàn diện và cung cấp điều trị kịp thời và đầy đủ. Chú ý đặc biệt những
lỗi thường gặp trong quá trình tiếp cận đánh giá và điều trị bệnh nhân cao
tuổi.
Đây là cuốn sách hay nhất trong tất cả các cuốn cấp cứu lão khoa mà mình đã
từng đọc. Mình dịch cuốn sách này với mong muốn có thể giúp được các em
sinh viên cũng như các bác sĩ có thể tiếp cận phần nào tri thức của thế giới
trong lĩnh vực cấp cứu. Cuốn sách này tuy được xuất bản đã lâu, nhưng những
kiến thức mà nó mang lại cực kỳ tuyệt vời.
Hy vọng cuốn sách sẽ hữu ích cho các bạn.
Chân thành cảm ơn!
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên
3. CẤP CỨU LÃO KHOA
Thảo luận case lâm sàng
Edited by
Amal Mattu
University of Maryland School of Medicine, Department of Emergency Medicine,
USA
Shamai A. Grossman
Harvard Medical School, USA
Beth Israel Deaconess Medical Center, Boston Massachusetts, USA
Peter L. Rosen
Harvard Medical School, USA
Beth Israel Deaconess Medical Center, Boston Massachusetts, USA
Associate Editors
Robert Anderson, MD
Christopher Carpenter, MD, MSC
Andrew Chang, MD, MS
Jon Mark Hirshon, MD, MPH, PhD
Ula Hwang, MD, MPH
Maura Kennedy, MD, MPH
Don Melady, MD, MSC(Ed)
Vaishal Tolia, MD, MPH
Scott Wilber, MD, MPH
Dịch giả: Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên
Group “Cập nhật Kiến thức Y khoa”
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 1 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
4. Nội dung
Chương 1 Đánh giá tổng quát ở người cao tuổi
Alison Southern & Scott Wilber
Chương 2 Thay đổi sinh lý theo sự lão hóa
Kate D. Zimmerman & Robert S. Anderson, Jr.
Chương 3 Đánh giá chức năng người cao tuổi
Kirk A. Stiffler
Chương 4 Vấn đề dược lý ở người cao tuổi
Ruben Olmedo & Denise Nassisi
Chương 5 Thay đổi ý thức ở người cao tuổi
Josh Joseph & Maura Kennedy
Chương 6 Cấp cứu tâm thần ở người cao tuổi
Josh Joseph & Maura Kennedy
Chương 7 Đau bụng cấp ở người cao tuổi: những nguyên nhân ngoại khoa
Katren Tyler & Maura Kennedy
Chương 8 Đau bụng cấp ở người cao tuổi: những nguyên nhân không phải
ngoại khoa
Katren Tyler & Maura Kennedy
Chương 9 Đau lưng ở người cao tuổi
Nicholas Santavicca & Michael E. Winters
Chương 10 Đau đầu ở người cao tuổi
Benjamin W. Friedman & Rebecca Nerenberg
Chương 11 Khó thở ở người cao tuổi
Mercedes Torres & Siamak Moayedi
Chương 12 Đau ngực cấp ở người cao tuổi
Marianne Haughey
Chương 13 Ngất ở người cao tuổi
Timothy C Peck, Nissa J Ali & Shamai A Grossman
Chương 14 Nhiễm trùng ở người cao tuổi
Jason Ondrejka & Scott Wilber
Chương 15 Chóng mặt ở người cao tuổi
Jonathan Edlow & Alessandro Cancelliere
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 2 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
5. Chương 16 Yếu và suy giảm chức năng ở người cao tuổi
Colleen M McQuown
Chương 17 Đánh giá ngã ở người cao tuổi tại cấp cứu
Tania D. Strout & Robert S. Anderson
Chương 18 Quản lý đau tại cấp cứu ở người cao tuổi
Teresita M Hogan & Alexandra Wong
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 3 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
6. Danh sách cộng tác viên
Nissa J. Ali, MD
Beth Israel Deaconess Medical Center
Harvard Affiliated Emergency Medicine
Residency
Department of Emergency Medicine
West Campus Clinical Center
Boston, MA, USA
Robert S. Anderson, Jr., MD
Assistant Professor
Tufts University School of Medicine
Departments of Emergency Medicine and
Internal Medicine and Division of Geriatric
Medicine
Maine Medical Center
Portland, ME, USA
Kevin Biese, MD, MAT
Vice Chair of Academic Affairs
Department of Emergency Medicine
University of North Carolina at Chapel Hill
Chapel
Hill, NC, USA
Michael C. Bond, MD
Associate Professor, Residency Program
Director Department of Emergency Medicine
University of Maryland School of Medicine
Baltimore, MD, USA
Alexander Bromfield, MD
Clinical Instructor, Department of Emergency
Medicine
University of California San Diego Health
System
San Diego, CA, USA
Kenneth H. Butler, DO
Associate Professor, Associate Residency
Program Director
Department of Emergency Medicine
University of Maryland School of Medicine
Baltimore, MD, USA
Colleen Campbell, MD
Associate Clinical Professor
Department of Emergency Medicine
Division of Emergency Ultrasound
University of California
San Diego Health System
San Diego, CA, USA
Alessandro Cancelliere, MD PhD
Assistant Professor
Department of Emergency Medicine
University of Massachusetts Medical School
Worcester, MA, USA
Christopher R. Carpenter, MD, MSC
Associate Professor
Division of Emergency Medicine
Washington University in St. Louis School of
Medicine
St. Louis, MO, USA
Andrew K. Chang, MD, MS
Vincent P. Verdile Vice Chair for Research
and Academic Affairs
Professor of Emergency
Medicine Albany Medical
College Attending Physician
Albany Medical Center
Albany, New York
Eric A. Coleman, MD, MPH
Professor of Medicine and Head, Division of
Health Care Policy and Research
Director Care Transitions Program University of
Colorado Denver
Anschutz Medical Campus
Aurora, CO, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 4 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
7. Elizabeth Couser, MSW
Gerontology PhD Candidate
Doctoral Program in
Gerontology University of
Maryland Baltimore, MD, USA
Susanne DeMeester, MD
Attending Physician and Director Emergency
Observation Center
St Joseph Mercy Hospital
Ann Arbor, MI, USA
Jonathan Edlow, MD
Vice-Chair, Department of Emergency
Medicine Beth Israel Deaconess Medical
Center Professor of Medicine and Emergency
Medicine Harvard Medical School Boston,
MA, USA
Benjamin W. Friedman, MD, MS
Associate Professor of Emergency
Medicine Albert Einstein College of
Medicine Montefiore Medical Center
Bronx, NY, USA
Shamai A. Grossman, MD
Associate Professor of Medicine and
Emergency Medicine
Harvard Medical School
Vice Chair for Health Care
Quality Director
Observation Medicine
Department of Emergency
Medicine Beth Israel Deaconess
Medical Center Boston, MA, USA
Kama Guluma, MD
Clinical Professor
Department of Emergency Medicine
University of California San Diego Health
System
San Diego, CA, USA
Marianne Haughey, MD
Associate Professor of Emergency
Medicine Albert Einstein College of
Medicine Jacobi Medical Center Bronx,
New York, NY, USA
Bryan Hayes, PharmD
Clinical Associate Professor
Department of Emergency Medicine
University of Maryland School of Medicine
Baltimore, MD, USA
Jon Mark Hirshon, MD, MPH, PhD
Professor
Departments of Emergency Medicine and of
Epidemiology and Public Health
University of Maryland School of Medicine
Baltimore, MD, USA
Teresita M. Hogan, MD
Director of Geriatric Emergency Medicine
Department of Medicine
Sections of Emergency Medicine and Geriatrics
& Palliative Care
The University of Chicago
Chicago, IL, USA
Ula Hwang, MD, MPH
Associate Professor
Department of Emergency Medicine
Brookdale Department of Geriatrics and
Palliative Medicine
Icahn School of Medicine at Mount Sinai
New York, NY
Geriatric Research, Education and Clinical
Center
James J. Peters VAMC
Bronx, NY, USA
Joshua W. Joseph, MD
Fellow in Clinical Informatics
Department of Emergency Medicine Beth
Israel Deaconess Medical Center Clinical
Fellow in Emergency Medicine Harvard
Medical School, Boston, MA, USA
Maura Kennedy, MD,
MPH Associate Director for
Emergency Medicine Research
Department of Emergency Medicine
Beth Israel Deaconess Medical Center
Assistant Professor of Emergency Medicine
Harvard Medical School
Boston, MA, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 5 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
8. Phillip D. Magidson, MD, MPH
Departments of Emergency Medicine and
Medicine University of Maryland Medical
Center Baltimore, MD, USA
Amal Mattu, MD
Professor of Emergency Medicine and Vice
Chair Department of Emergency Medicine
University of Maryland School of Medicine
Baltimore, MD, USA
Colleen M. McQuown, MD
Associate Professor, Northeast Ohio Medical
University Rootstown, OH, USA
Associate Research Director
Department of Emergency Medicine
Summa Akron City Hospital
Akron, OH, USA
Don Melady, MD, MSC(Ed)
Schwartz/Reisman Emergency Centre
Mount Sinai Hospital
Assistant Professor, Faculty of Medicine
University of Toronto
Toronto, ON, Canada
Siamak Moayedi, MD
Assistant Professor
Department of Emergency Medicine
University of Maryland School of Medicine
Baltimore, MD, USA
Barbara Morano, MPH, LCSW
Program Manager
Department of Geriatrics
Icahn School of Medicine at Mount Sinai
New York, NY, USA
Carmen Morano, PhD, LCSW
Associate Professor
Silberman School of Social Work at Hunter
College
Director Silberman Aging: A Hartford Center of
Excellence in Diverse Aging
Managing Editor
Journal of Gerontological Social Work
New York, NY, USA
Denise Nassisi, MD
Director of the Geriatric Emergency Department
Mount Sinai Medical Center
Associate Professor Departments of Emergency
Medicine & Medicine Icahn School of Medicine at
Mount Sinai
New York, NY, USA
Rebecca Nerenberg, MD
Assistant Professor of Clinical Emergency
Medicine
Department of Emergency Medicine
Montefiore Medical Center
Albert Einstein College of Medicine
Bronx, NY, USA
Charles W. O’Connell, MD
Clinical Instructor
Department of Emergency Medicine
Division of Medical Toxicology
University of California San Diego Health System
San Diego, CA, USA
Ruben E. Olmedo, MD
Director
Division of Toxicology
Department of Emergency Medicine
Mount Sinai Medical Center
Assistant Professor
Icahn School of Medicine at Mount Sinai
New York, NY, USA
Jason Ondrejka, DO
Summa Akron City Hospital
Department of Emergency
Medicine Akron, OH, USA
Leslie C. Oyama, MD
Associate Clinical Professor
Associate Residency Director
University of California San Diego Health System
San Diego, CA, USA
Timothy C. Peck, MD
Beth Israel Deaconess Medical Center
Harvard Affiliated Emergency Medicine Residency
Department of Emergency Medicine
West Campus Clinical Center
Boston, MA, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 6 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
9. Peter L. Rosen, MD
Senior Lecturer Emergency Medicine
Harvard Medical School
Attending Emergency Physician Beth
Israel/Deaconess Medical Center
Visiting Clinical Professor of Emergency
Medicine
University of Arizona School of Medicine
Tucson
Emeritus Professor of Emergency Medicine
University of California
San Diego, CA, USA
Roxanna Sadri, MD
Department of Emergency Medicine
University of California San Diego Health
System
San Diego, CA, USA
Nicholas Santavicca, MD
Fellow, Emergency Medicine/Internal
Medicine/Critical Care Program
University of Maryland Medical Center
Baltimore, MD, USA
Davut Savaser, MD
Clinical Instructor
Department of Emergency Medicine
Division of Hyperbaric and Undersea Medicine
University of California San Diego Health
System
San Diego, CA, USA
John G. Schumacher, PhD
Graduate Program Director, Associate Professor
Department of Sociology and Anthropology
University of Maryland
Baltimore County (UMBC),
Baltimore, MD, USA
Kirk A. Stiffler, MD, MPH
Department of Emergency Medicine,
Summa Akron City Hospital
Associate Professor of Emergency Medicine
Northeast Ohio Medical University
Akron, OH, USA
Tania D. Strout, PhD, RN, MS
Associate Professor
Tufts University School of Medicine
Director of Research
Department of Emergency Medicine
Maine Medical Center
Portland, ME, USA
Alison Southern, MD
Associate Program Director, Department of
Emergency Medicine
Summa Health System
Associate Professor of Emergency Medicine
Northeast Ohio Medical University
Akron, OH, USA
Vaishal Tolia, MD, MPH
Associate Clinical Professor
Emergency & Internal Medicine
Medical Director & Director of Observation
Medicine
Department of Emergency Medicine
UCSD Health System
San Diego, CA
Mercedes Torres, MD
Clinical Assistant Professor Department
of Emergency Medicine University of
Maryland School of Medicine Baltimore,
MD, USA
Julie Watkins-Torrey, MD
Resident Physician
Department of Emergency Medicine
University of California San Diego Health System
San Diego, CA, USA
Katren Tyler, M.B.B.S.
Associate Professor and Associate
Program Director, Geriatric Emergency
Medicine Fellowship Director,
Vice Chair for Faculty Development,
Wellness and Outreach
Department of Emergency
Medicine University of California,
Davis Sacramento, CA, USA
Gabriel Wardi, MD
Department of Emergency Medicine, Fellow,
Division of Pulmonary and Critical Care Medicine,
University of California San Diego Health System
San Diego, CA, USA
Scott Wilber, MD, MPH
Chair, Department of Emergency Medicine
Summa Health System
Professor of Emergency Medicine
Northeast Ohio Medical University
Akron, Ohio, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 7 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
10. Michael Winters, MD Kate D. Zimmerman, DO
Associate Professor of Emergency Medicine and Assistant Professor
Medicine Tufts University School of Medicine, Associate
Departments of Emergency Medicine and Medicine Director of Medical Student Education
University of Maryland School of Medicine Department of Emergency Medicine
Baltimore, MD, USA Maine Medical Center
Richard E. Wolfe, MD
Portland, ME, USA
Chief of Emergency Medicine
Beth Israel Deaconess Medical Center
Boston, MA, USA
Alexandra Wong, BA
Research Associate
Department of Medicine
Section of Geriatrics and Palliative Care
The University of Chicago
Chicago, IL, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 8 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
11. Chương 1:
Đánh giá tổng quát bệnh nhân
cao tuổi
Alison Southern & Scott Wilber
Department of Emergency Medicine, Summa Akron City Hospital,
Northeast Ohio Medical University, Akron, OH, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 9 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
12. Section I: Case lâm sàng
Bệnh nhân là một cụ ông 96 tuổi, vào
viện vì nói lắp (slurred speech) và yếu
toàn thân. Bệnh sử có được từ tờ theo dõi
của nhân viên y tế chăm sóc tại nhà và
gia đình, họ đến khoa cấp cứu (ED) sau
bệnh nhân 15 phút. Các triệu chứng của
ông ngày càng tồi tệ trong vài ngày qua.
Hôm nay, ông nói lắp và yếu bên trái,
hiện đã tự khỏi.
Cô con gái bệnh nhân đã nói rằng kể từ
khi vợ ông chết cách đây 3 tháng, ông đã
giảm 20 pound. Ông đã giảm sự thèm ăn,
giảm hoạt động và giảm chức năng, rồi
suy yếu dần. Trong 2 ngày qua, ông đã
phải được hỗ trợ đi xe lăn đến nhà ăn để
dùng bữa. Gia đình nói là ông không có
một sự thay đổi nào gần đây về tình
trạng lú lẫn.
Tiền sử có ý nghĩa gồm sa sút trí tuệ,
trào ngược dạ dày thực quản, tăng huyết
áp, hẹp van động mạch chủ và phì đại
tuyến tiền liệt lành tính. Ông hiện đang
sống trong một viện dưỡng lão. Con gái
ông đến thăm hàng ngày và hỗ trợ các
hoạt động của cuộc sống hàng ngày
(ADLs: activities of daily living).
Khi thăm khám, các dấu hiệu sống
bình thường. Khám đầu, mắt, tai, mũi và
họng bình thường. Kết quả khám tim
phổi, bụng và tứ chi bình thường. Về
thần kinh, ông định hướng được năm và
người. Ông không định hướng được
ngày hay tháng. Ông gọi tên được 0/3
vật dụng. Điểm số Six-Item Screener
(SIS) là 1. Thang điểm The modified
Richmond Agitation and Sedation Scale
(RASS) của Richmond là 0. Thang đo đột
quỵ NIHSS là 1 cho sự lú lẫn. Việc kiểm
tra da cho thấy loét vùng xương cùng do
nằm giai đoạn 2.
Các xét nghiệm cho thấy albumin là 2,3
và hemoglobin là 9.
Gia đình cảm thấy rằng bệnh nhân đã
suy yếu dần kể từ khi vợ ông qua đời và
yêu cầu đánh giá nhà an dưỡng cuối đời,
vì một nhà an dưỡng cuối đời đã có lợi
cho vợ bệnh nhân.
Section II: Thảo luận case
Dr Peter Rosen (PR): Tôi muốn nhắc nhở
mọi người những gì chúng tôi nói với thực
tập sinh của mình khi chúng tôi lần đầu
tiên nhận được một bản tóm tắt bệnh án
như thế này. Chúng ta nên có những dấu
hiệu sinh tồn chính xác thay vì chỉ nói
bình thường, bởi vì bình thường có thể là
không bình thường ở độ tuổi này. Tôi nghĩ
một trong những điểm đánh giá quan trọng
ở bệnh nhân lớn tuổi là hiểu được những
thay đổi bình thường trong sinh lý khi họ
già đi, để bạn không bị đánh lừa bởi
chúng. Giống như khi bạn nhìn vào một
đứa trẻ sơ sinh, nhịp tim lúc nghỉ là 120
không làm bạn lo ngại, nhưng nếu đó
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 10 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
13. là một đứa trẻ 10 tuổi thì khác. Đó là điều
thứ nhất. Thứ hai: không thể có chuyện ở
độ tuổi đó mà không dùng vô vàn loại
thuốc khác nhau, vì vậy chúng tôi thực sự
cần biết chúng gồm những gì. Không có
những điều đó, rất khó để đi đến tận gốc
rễ mọi vấn đề trong lão khoa. Một số thay
đổi sinh lý bạn mong đợi ở nhóm tuổi này
là gì?
Dr Amal Mattu (AM): Bạn đã đề cập đến
các dấu hiệu sống, vì vậy chúng ta có thể
bắt đầu với chúng. Nhắc lại, các dấu hiệu
sống có thể không đáng tin cậy. Bệnh
nhân cao tuổi có thể có nhịp tim chậm khi
nghỉ trong khi trẻ có thể có nhịp tim nhanh
khi nghỉ. Ngoài ra, nếu họ sử dụng các
thuốc chẹn beta, thuốc chẹn kênh canxi
hoặc digoxin, thì bất kỳ thuốc nào trong số
này cũng có thể làm giảm thêm nhịp tim
đến mức mà ngay cả khi có nhiễm trùng
huyết rất nặng, họ cũng có thể không có
nhịp tim nhanh; hoặc nếu họ bị xuất huyết,
họ cũng có thể không có nhịp tim nhanh
như chúng ta mong đợi từ biểu đồ ATLS.
Bệnh nhân cao tuổi thường sẽ bị tăng
huyết áp tâm thu đơn độc và có thể đi bộ
xung quanh với huyết áp tâm thu 180 hoặc
190. Do đó, khi họ vào viện với huyết áp
tâm thu là 120, nó dường như là một huyết
áp bình thường, nhưng họ thực sự có thể bị
sốc. Đây là hai dấu hiệu sống dễ gây nhầm
lẫn nhất. Bệnh nhân cao tuổi có xu hướng
mất nhiều thời gian hơn để phát sốt. Nếu
họ bị nhiễm trùng, họ cũng có nhiều khả
năng xuất hiện một phản ứng hạ thân
nhiệt.
PR: Hơn nữa, không biết những loại
thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng sẽ ngăn
chúng ta biết những phản ứng của các dấu
hiệu sống mà chúng ta có thể mong đợi.
Mặc dù chúng tôi thường cho rằng đã đo
nhiệt độ cho tất cả bệnh nhân, nhưng
không phải lúc nào cũng vậy. Cần thận
trọng để làm quen với việc phải yêu cầu
đo nhiệt độ, nếu chúng ta cảm thấy nó
không đúng. Bạn có thể nghĩ về bất kỳ
thay đổi sinh lý nào khác cho nhóm tuổi
này mà chúng ta nên biết, chẳng hạn như
các thông số quan trọng (vital capacity)
hay nhịp hô hấp hoặc một điều gì đó để
làm với hệ thống thần kinh?
Dr Scott Wilber (SW): Bác sĩ Mattu đã
đề cập đến việc không có nhịp tim nhanh
ngay cả trong trường hợp nhiễm trùng
huyết nặng. Một trong những điều chúng
ta cũng thấy là thở nhanh thường là một
dấu chỉ điểm tốt hơn cho bệnh nghiêm
trọng như xuất huyết hoặc nhiễm trùng, và
bạn sẽ thường xuyên thấy một bệnh nhân
chỉ có duy nhất thở nhanh là biểu hiện của
một bệnh nghiêm trọng.
PR: Các vấn đề trong trường hợp này là cả
y tế và đạo đức. Dường như chúng ta hiếm
khi cần phải bắt đầu đánh giá đạo đức
trước khi hoàn thành các đánh giá y tế của
mình, nhưng ở đây, một sự khác biệt trong
quản lý bệnh nhân lão khoa. Tôi nghĩ rằng
trừ khi bạn đã sẵn sàng trả lời câu hỏi đạo
đức về việc cần kiểm tra và điều trị bệnh
nhân này đến mức nào, không thì bạn thực
sự không thể có một đánh giá y tế tốt.
Trường hợp này dường như là một ví dụ
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 11 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
14. hoàn hảo về điều đó: một bệnh nhân có
tình trạng đang suy sụp dần, ông ta không
thể tự chăm sóc bản thân. Ngay cả đã có
bệnh sa sút trí tuệ sẵn, gia đình ông vẫn
nhận thấy sự suy sụp. Tôi nghĩ rằng một
câu hỏi đạo đức tốt là tại thời điểm nào thì
việc kiểm tra và điều trị trở nên vô ích và
không cần thiết, thay vì cố gắng đạt những
kết quả y tế mà chúng ta có thể cố gắng
đạt được ở một người nào đó, chắng hạn ở
BN trẻ hơn 30 tuổi có một cuộc sống bình
thường.
AM: Tôi đồng ý việc quản lý theo kỳ vọng
sẽ rất quan trọng. Tôi nghĩ rằng chúng tôi
đã rất may mắn rằng trong trường hợp này,
gia đình thực sự có mặt và chúng tôi có thể
có cuộc thảo luận đó với họ. Hơn nữa,
bệnh nhân có phần ổn định. Chúng tôi có
thể thử hỏi gia đình về những mong đợi
của họ đối với việc chăm sóc bệnh nhân.
Ngoài ra, chúng tôi cần xác định bệnh
nhân đã đến các cơ sở khác hay bác sĩ gia
đình để xem liệu có bất kỳ thay đổi tích
cực nào có thể được thực hiện đối với chế
độ dùng thuốc có thể dẫn đến những biểu
hiện tại ED ngày hôm nay hay không. Sau
đó, chúng ta có thể đặt câu hỏi: chúng ta
nên làm đến mức nào? Các cơ sở chăm sóc
khác có thể đã không làm điều đó, và điều
đó thực sự có thể giải thích tại sao BN ở
đây.
Dr Shamai Grossman (SG): Tôi nghĩ
rằng vấn đề chúng ta đang nêu lên phản
ánh một số hạn chế của cấp cứu. Chúng tôi
hiếm khi có tất cả thông tin về bệnh nhân
và thường đây là lần đầu tiên chúng tôi
gặp bệnh nhân này. Nếu bạn chỉ đọc
trường hợp này, bạn sẽ nhận ra chúng tôi
thiếu những phần quan trọng của tiền sử.
Bạn có biết bệnh nhân đã giảm chức năng
kể từ khi vợ qua đời. Đó có phải là trầm
cảm? Hay là một quá trình sinh lý đang
diễn ra? Vấn đề là chúng tôi đã gặp bệnh
nhân này trong ED, và chúng tôi không
phải là bác sĩ gia đình của ông ấy. Trong
một thế giới lý tưởng, tất cả những điều
này sẽ được bác sĩ gia đình giải quyết. Tốt
nhất, chúng tôi sẽ chỉ có một cuộc thảo
luận ngắn với các thành viên trong gia
đình, và việc đưa ra những quyết định này
sẽ rất khó khăn. Tôi nghĩ rằng việc tiếp
cận người lớn tuổi tại ED, với tất cả những
hạn chế mà chúng ta có, đòi hỏi một
phương pháp khác biệt. Tôi nghĩ rằng một
trách nhiệm chính là xác định các mục tiêu
chăm sóc mà bệnh nhân hoặc theo giấy ủy
quyền, gia đình hoặc người chăm sóc
muốn. Nó mới cho các bác sĩ cấp cứu -
suy nghĩ về điều này. Sau đó, khi chúng
tôi hiểu các mục tiêu chăm sóc trước mắt,
chúng tôi có thể bắt đầu tìm hiểu về các
mục tiêu trung hạn và sau đó là các mục
tiêu dài hạn.
PR: Tôi nghĩ rằng đó là một điểm rất
mạnh, cũng có thể ảnh hưởng đến việc ra
quyết định trong việc bạn sẽ tích cực điều
trị bệnh nhân đó đến mức nào. Ở bất kỳ
bệnh nhân nào, bạn cần khám phá lý do tại
sao họ ở đó và tôi nghĩ có thể hữu ích khi
hỏi những kỳ vọng từ dịch vụ chăm sóc
khẩn cấp mà gia đình này mong muốn là
gì. Nếu ông ấy bị đột quỵ, họ có muốn
chúng tôi điều trị đột quỵ đó không? Nếu
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 12 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
15. anh ấy chỉ suy sụp, thì tại sao họ lại đưa
BN đến ED? Thông thường, bác sĩ gia
đình có thể có câu trả lời, nhưng họ
thường xuyên không chia sẻ chúng với
ED. Bạn có đề xuất gì để kiểm tra khi nghi
ngờ đây là tai biến mạch máu não thoáng
qua (TIA)?
AM: Một lần nữa tôi sẽ bắt đầu với việc
cố gắng tìm hiểu các mục tiêu của gia đình
là gì về kết cục ngắn hạn và dài hạn. Nếu
đây là một bệnh nhân trẻ tuổi, ít có bệnh lý
trước đó, thì có lẽ bạn sẽ cho chụp CT đầu,
hội chẩn bác sĩ thần kinh và làm toàn bộ
các XN mà chúng ta thường thực hiện cho
TIA và đột quỵ. Mặt khác, nếu đây là một
bệnh nhân mà gia đình chỉ muốn làm cho
bệnh nhân thoải mái, thì chúng ta không
cần phải làm gì nhiều. Gia đình đã yêu cầu
một nơi nghỉ ngơi, đề nghị chăm sóc cho
BN thoải mái, và có thể ngăn cản làm bất
cứ điều gì ngoài việc chăm sóc đó.
SW: Tôi nghĩ đôi khi phải mất vài phút trò
chuyện với gia đình để giải thích cho họ
những loại đánh giá khác nhau mà chúng
ta có thể làm trong ED. Ví dụ, trong tình
huống này, gia đình có thể nói rằng họ
không muốn đột quỵ được điều trị tích
cực, họ có thể không muốn phẫu thuật để
rút một khối máu tụ dưới màng cứng,
nhưng nếu bệnh nhân bị nhiễm trùng
đường tiết niệu (UTI) và cần dùng kháng
sinh, họ có thể đồng ý. Hoặc, nếu bệnh
nhân bị hạ natri máu và cần bù một số dịch
IV trong một ngày, họ có thể đồng ý. Do
đó, tôi có thể dành thời gian với gia đình
chỉ để giải thích loại XN chúng tôi có thể
làm, và chúng sẽ dẫn đến điều gì. Trong
tình huống cụ thể này, chụp CT thường có
thể dẫn đến điều trị tích cực hơn so với
kiểm tra điện giải đồ hay nước tiểu của
BN.
SG: Tôi có thể thêm một điều nữa. Chúng
tôi đang tập trung vào mong muốn của gia
đình, nhưng điều chúng tôi cần chắc chắn
là đây cũng là những mong ước của bệnh
nhân. Nếu bệnh nhân không thể nói rõ
những gì ông ta thực sự nghĩ, chúng tôi có
nghĩa vụ phải đảm bảo rằng người bạn
đang nói chuyện thực sự là người chăm
sóc được ủy quyền và đảm bảo rằng khi
bạn nói chuyện với gia đình, họ thực sự
truyền đạt tốt nhất mong muốn của bệnh
nhân chứ không phải là mong muốn của
các thành viên trong gia đình, và rằng họ
không cố gắng biến ai đó có khả năng
sống sót thành bệnh nhân cuối đời. Tôi
nghĩ rằng đó là một vấn đề đạo đức bắt
buộc mà khi chúng ta nói về quyền tự chủ
của bệnh nhân, chứ không chỉ là quyền tự
chủ của gia đình. Khi bệnh nhân bị mất
khả năng quyết định, thì bạn phải làm điều
tốt nhất tiếp theo - đó là cố gắng tìm ra
những gì bệnh nhân muốn.
SW: Các thuật ngữ đạo đức mà chúng tôi
sử dụng đang dùng phán đoán thay thế
thay vì lợi ích tốt nhất. Bất cứ khi nào có
thể, chúng tôi muốn thay thế phán đoán
của chúng tôi bằng những gì bệnh nhân
muốn, thay vì chỉ hành động vì lợi ích tốt
nhất của họ. Khi chúng tôi không có khả
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 13 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
16. năng xác định bệnh nhân muốn gì, thì
chúng tôi sẽ hành động bằng cách sử dụng
lợi ích tốt nhất của bệnh nhân, nhưng bất
cứ khi nào có thể, chúng tôi sử dụng phán
đoán thay thế.
PR: Một số ED đã được hưởng lợi từ việc
có sẵn một dược sĩ trong khoa để giúp
đánh giá các tương tác thuốc phức tạp. Tôi
nghĩ điều này đặc biệt hữu ích trong dân
số lão khoa bởi vì họ có rất nhiều loại
thuốc khác nhau mà không ai trong chúng
ta có thể nhớ tất cả các tương tác trong
đầu. Chúng ta cần thận trọng vì bệnh nhân
có thể đã dùng thuốc không phù hợp và
dùng nhầm thuốc, điều này bằng cách nào
đó đã trở thành điều trị theo y lệnh của
bệnh nhân tại nhà dưỡng lão. Thuốc trị đái
tháo đường là một trong những thứ gây lú
lẫn phổ biến nhất ở bệnh nhân cao tuổi, và
sẽ rất hữu ích khi kiểm tra nồng độ
glucose của BN. Bạn có giải pháp nào để
chúng tôi có thể đảm bảo chất lượng của
các loại thuốc này của BN không?
AM: Tôi không biết rằng khoa ED của
anh có một dược sĩ. Dược sĩ ED có thể rất
hữu ích ở đây vì họ có thể tập trung vào
việc xem xét kỹ lưỡng các loại thuốc mà
những bệnh nhân này đang sử dụng và tìm
kiếm các tương tác thuốc và các tác dụng
phụ tiềm ẩn, đặc biệt nếu bạn dự định
thêm một loại thuốc mới. Có lẽ không có
nhu cầu lớn đối với họ hoặc đối với chúng
tôi để xem xét kỹ lưỡng các loại thuốc ở
bệnh nhân trẻ tuổi, nhưng ở những bệnh
nhân lớn tuổi, nỗ lực này rất quan trọng.
Đôi khi, 5 phút nghiên cứu về hồ sơ trong
quá khứ hoặc hồ sơ thuốc trên máy tính sẽ
xác định nguyên nhân duy nhất gây ra các
triệu chứng của bệnh nhân, sự mê sảng,
hoặc bất cứ điều gì khác đưa họ vào bệnh
viện.
PR: Hầu hết chúng ta không quen với tất
cả các thang điểm được đề cập ở đây và
không có khả năng học chúng. Bạn có bất
cứ đề nghị nào về cách bác sĩ cấp cứu có
thể đánh giá tình trạng tâm thần nhanh
chóng mà có thể xác định hội chứng não
thực thể cấp tính (mê sảng), trái ngược với
chứng sa sút trí tuệ đang xấu dần?
SW: Tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta
phải cố gắng khách quan khi thực hiện
kiểm tra trạng thái tâm thần. Thường thì
tôi sẽ có các nội trú trình bày với tôi rằng
một bệnh nhân tỉnh táo và 3 lần định
hướng được (oriented times three) như thế
nào (A & Ox3). Tôi thường nghĩ rằng điều
này có nghĩa là bệnh nhân đã tỉnh táo và
tương tác được, nhưng họ đã không hỏi
BN những câu hỏi đặc trưng để xác định
định hướng của BN. Vì vậy, tôi nghĩ rằng
điều quan trọng là phải khách quan về việc
này. Trong trường hợp này, chúng tôi đã
sử dụng một thứ gọi là SIS. Một test nhanh
trong đó chúng tôi chỉ yêu cầu bệnh nhân
nhớ ba vật phẩm (táo, bàn và đồng xu) và
sau đó cho chúng tôi biết ngày, tháng và
năm, sau đó lặp lại các đối tượng chúng tôi
yêu cầu. Và điểm từ 4 trở xuống tương
đương với test MMSE (mini mental status
examination) khoảng 23 hoặc nhỏ hơn.
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 14 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
17. Bây giờ không ai trong chúng tôi sẽ thực
hiện MMSE đầy đủ cho bệnh nhân vì có
thể mất 15 phút, nhưng SIS có thể được sử
dụng mà không làm tăng đáng kể thời gian
của bạn với bệnh nhân. Thang điểm RASS
score là điều mà rất nhiều nội trú có thể
quen thuộc ngay bây giờ, nhưng những
người lớn tuổi hơn như chúng ta thì có thể
không. Lý do các nội trú quen thuộc với nó
là vì nó thường được sử dụng trong ICU
để chuẩn độ thuốc an thần. Về cơ bản,
RASS bằng 0 có nghĩa là bệnh nhân thức,
tỉnh táo và tương tác. Điểm số âm tính có
nghĩa là bệnh nhân lơ mơ hơn và có thể
đánh thức bằng lời nói và kích thích đau;
điểm số dương tính cho thấy bệnh nhân bị
kích động nhiều hơn. Cho dù họ sử dụng
thang đo này hay thang đo mô tả, điều
quan trọng là xác định xem bệnh nhân có
tỉnh táo và chú ý
hay không. Một bệnh nhân
không thể chú ý
đến bạn trong khi bạn đang
lấy bệnh sử và bị ám ảnh bởi tiếng bíp của
monitoring và với những thứ đang diễn ra
bên ngoài phòngcó thể là biểu hiện của
những dấu hiệu mê sảng đầu tiên, đó là
thiếu sự chú ý.Vì vậy, tôi nghĩ đó là hai
cách để đánh giá hai phần ý thức của họ:
nội dung ý thức của họ, hay họ lú lẫn đến
mức nào, và mức độ ýthức của họ, hay họ
tỉnh táo đến mức nào.
PR: Chúng tôi thường sử dụng đồng hồ
khi sàng lọc nhanh mê sảng ở những BN
trẻ tuổi. BN có thể nói thời gian mà bạn
cho họ thấy trên mặt đồng hồ không? Nó
đánh giá rất nhanh về một người thỉnh
thoảng có vẻ bình thường và tỉnh táo,
nhưng thực sự bị lú lẫn. Chúng tôi đã từng
sử dụng “string sign” cho hội chứng cai
rượu, khi bạn hỏi “Do you see the string?”
và bạn tất nhiên không có chuỗi tràng hạt
nào. Nếu bệnh nhân báo cáo nhìn thấy một
chuỗi tràng hạt, thì bệnh nhân đang bị lú
lẫn và có một hội chứng não thực thể cấp
tính (mê sảng). Tôi nghĩ rằng vấn đề là
nhiều bệnh nhân trong số này là thay đổi
nhận thức cấp tính trái ngược với việc
bệnh mất trí vốn có. Nếu họ bình thường
trước khi có tương tác thuốc, thì thật hữu
ích khi biết rằng đây là một dạng mất trí
nhớ mà bạn có thể đảo ngược. Amal,
chúng tôi cũngbiết rằng bệnh nhân có tiền
sử phì đại tuyến tiền liệt. Mặc dù chúng ta
biết rằng UTI (nhiễm trùng tiểu) phổ biến
hơn ở người cao tuổi và là một trong
những nguyên nhân phổ biến hơn gây hội
chứng não thực thể cấp tính, bạn có làm
bất kỳ XN đặc biệt nào về tuyến tiền liệt
của BN không? Chẳng hạn bạn sẽ làm một
đánh giá bàng quang để xem có trống rỗng
không, hoặc bệnh nhân được hưởng lợi gì
từ việc đặt một sonde Foley vì chúng ta lại
không thể đề nghị phẫu thuật?
AM: Tôi đã thấy một vài bệnh nhân bị mê
sảng chỉ đơn giản là do bí tiểu. Kiểm tra
nước tiểu và xác nhận rằng bệnh nhân có
thể bài tiết và không ứ nước tiểu là đơn
giản và có lẽ nên được thực hiện. Với siêu
âm sẵn có, có thể dễ dàng nhìn vào bàng
quang và xem liệu nó có bị căng phồng
đáng kể hay không. Nếu có, đặt ống thông
vào để giải nén bàng quang sẽ hữu ích như
XN nước tiểu. Nếu bàng quang có vẻ
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 15 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
18. không căng, sở thích của tôi sẽ là không
đặt ống thông vào vì đó sẽ là một cổng vào
cho vi khuẩn.
SG: Tôi cũng nhớ thăm trực tràng vì viêm
tuyến tiền liệt là nguyên nhân thường bị
bỏ qua của UTI ở BN cao tuổi, họ quay
trở lại ED với nhiễm trùng tái phát hoặc
tồi tệ hơn sau khi dùng kháng sinh xong,
nhưng nhiễm trùng của họ vẫn chưa được
điều trị thích hợp.
PR: Khi đọc case này, có vẻ như mong
muốn của gia đình là thay đổi trọng tâm
chăm sóc của ông ta từ viện dưỡng lão
sang đơn vị chăm sóc cuối đời (hospice).
Cá nhân tôi không nhận thức được bất kỳ
hạn chế nào của việc này mặc dù tôi nghĩ
rằng cái chết sắp xảy ra - 30 ngày hoặc ít
hơn, để vào hospice, và tôi không biết làm
thế nào tôi có thể đưa ra lập luận đó trên
bệnh nhân này. Có lẽ bạn có thể giúp
chúng tôi về việc liệu bệnh nhân này có
phải là ứng cử viên cho hospice hay
không.
SW: Hầu hết các hospice yêu cầu hai bác
sĩ xác nhận rằng bệnh nhân có tiên lượng
dự kiến là 6 tháng hoặc ít hơn. Đó thực sự
không phải là cái chết sắp xảy ra mà là
một dự đoán tốt nhất trong 6 tháng hoặc ít
hơn. Ước tính có thể được gia hạn nếu
bệnh nhân không chết trong vòng 6 tháng
và bệnh nhân có thể được tái chứng nhận
thêm 6 tháng nữa. Có nhiều loại hospice
có chất lượng khác nhau. Có các tiêu chí
cho FTT (failure to thrive: kém phát triển),
đột quỵ,bệnh thận mãn tính, bệnh gan
mãn tính và chứng mất trí. Các chỉ số
chung mà tôi ghi nhớ là nếu ai đó bị suy
giảm chức năng và gặp vấn đề với dinh
dưỡng, họ có thể thích hợp với hospice.
Với kém phát triển, họ phải tăng các triệu
chứng, tiến triển của bệnh hoặc vào ED
thường xuyên cộng với tình trạng dinh
dưỡng bị suy giảm và kém phát triển.
Chúng tôi thấy rằng bệnh nhân này có
albumin là 2,3 cho thấy tình trạng dinh
dưỡng bị suy giảm, và cũng
có một vết loét
do tư thế cho thấy tình trạng chức năng bị
suy giảm. Vì vậy, chúng tôi có một sự suy
giảm chức năng được chứng minh. Suy
giảm chức năng và tình trạng dinh dưỡng
bị suy giảm với giảm cân và lượng
albumin thấp là hai dấu chỉ cho bác sĩ cấp
cứu là bệnh nhân có thể đủ điều kiện để
đưa vào hospice.
Dr Ula Hwang (UH): Có hai điều tôi sẽ
đưa ra khi tiếp cận với mong muốn của gia
đình. Chúng tôi đã thảo luận rất nhiều về
đánh giá y tế tiềm năng, nhưng một điều
khác cũngcó thể có lợi cho bệnh nhân này
là đánh giá nhanh về trầm cảm. Tôi biết
rằng bệnh nhân bị mất trí nhớ đáng kể;
Nghe có vẻ như ông ấy đã thay đổi nhiều
so với bình thường, nhưng tiền sử bao gồm
thực tế là vợ ông ấy đã chết cách đây 3
tháng, và chúng tôi đã thấy sự giảm cân
đáng kể này, có lẽ anh ấy đã bị suy giảm
một số chức năng, giảm sự thèm ăn. Một
số điều này cũngcó thể đóng góp vào bức
tranh lớn cho những gì đang diễn ra. Nó có
lẽ không phải là nguyên nhân duy nhất,
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 16 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
19. nhưng đó cũn
g có thể là một phần của việc
ra quyết định của gia đình về mặt đánh giá
chăm sóc giảm nhẹvà các cuộc thảo luận
về chăm sóc cuối đời với gia đình. Các bác
sĩ có thể nghĩ không nhất thiết là cái chết
sắp xảy ra, mà là rút việc điều trị tích cực.
Nếu ông ta không được điều trị tích cực,
ông ta có thể và nên được đánh giá bằng
thuốc giảm nhẹ,
nếu không phải là đưa đến
hospice, thì ít nhất là các biện pháp chăm
sốc giảm nhẹ
có thể hữu ích cho ông ta.
PR: Có lẽ bạn có thể cho chúng tôi biết
kết cục của trường hợp này và chính xác
nguyên nhân khiến bệnh nhân này đến
bệnh viện ngày hôm đó là gì.
SW: Tôi đã có một cuộc thảo luận với gia
đình. Chúng tôi đã đồng ý
đánh giá các tình
trạng có khả năng hồi phục như UTI– bệnh
mà họ muốn điều trị, và chúng tôi đã quyết
định chụp CT đầu - để tiên lượng hơn là
điều trị. Họ cảm thấy rằng nếu bệnh nhân
có bất thường đáng kể trên CT, điều đó sẽ
khiến họ có nhiều khả năng muốn đưa
bệnh nhân vào hospice. CT đầu không cho
thấy bất cứ điều gì cấp tính. Ông không có
bất kỳ bằng chứng nhiễm trùng. Thuốc của
ông đã được xem xét, và không có gì rõ
ràng đó là tương tác thuốc hoặc một loại
thuốc mới được thêm vào. Trên thực tế,
ông ta đã được đánh giá trầm cảm và đã
dùng thuốc chống trầm cảm kể từ khi vợ
ông ta bị bệnh vài tháng trước; Vì vậy,
chúng tôi không nghĩ rằng trầm cảm mới
là nguyên nhân của sự suy giảm chức năng
và các triệu chứng của ông ta. Bệnh
nhân được nhập viện và được nhóm chăm
sóc giảm nhẹ đánh giá sau đó cho thấy đủ
điều kiện đưa vào hospice. Ông sống thêm
vài tháng dưới sự chăm sóc của hospice
trước khi qua đời.
PR: Tôi muốn thảo luận thêm một ý tưởng
được đưa ra bởi trường hợp này. Chúng tôi
đã làm hầu hết các trách nhiệm của bác sĩ
cấp cứu. Những gì chúng tôi đã không
thảo luận là một số thực tế đau đớn. Đó là,
những bệnh nhân như thế này rất khó để
nhập viện. Hầu hết các dịch vụ y tế không
cảm thấy rằng họ có bất cứ điều gì để cung
cấp cho bệnh nhân và không muốn nhận
bệnh nhân mà không có kết cục có thể
nhìn thấy dễ dàng. Khi tôi còn là một bác
sĩ trẻ, chúng tôi đã có một dịch vụ tại bệnh
viện nơi tôi được đào tạo sẽ tiếp nhận
những bệnh nhân như thế này. Về cơ bản,
họ là BN của xã hội/chính quyền, trong đó
bạn phải đưa bệnh nhân vào bệnh viện
trước khi bạn có thể đưa họ vào viện
dưỡng lão, và đó là chăm sóc giam giữ
(custodial care) hơn là chăm sóc chẩn
đoán hay điều trị. Tôi tự hỏi liệu chúng ta
có nên phát triển nhiều dịch vụ như vậy
không khi chúng ta có dân số ở độ tuổi đó,
và nhiều bệnh nhân đang xuất hiện các
loại vấn đề này. Điều này đặc biệt khó
chịu với vô số vấn đề hiện nay và sự tập
trung ngày càng tăng như việc liệu bệnh
nhân có đủ điều kiện nhập viện bồi hoàn
chi phí (hưởng bảo hiểm) hay không. Tất
cả chúng ta đều khó khăn hơn trong việc
cho những bệnh nhân này nhập viện. Tôi
không có một giải pháp đơn giản nào
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 17 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
20. ngoài việc nhắc nhở tất cả các độc giả rằng
công việc của chúng tôi là ủng hộ cho
bệnh nhân. Chúng ta phải nhớ tại sao
chúng ta đi vào ngành y, đó là chăm sóc
mọi người và không chỉ tập trung vào bồi
hoàn chi phí, và là người ủng hộ cho bệnh
nhân càng nhiều càng tốt. Đôi khi, ủng hộ
cho bệnh nhân không liên quan đến việc
cho thuốc hoặc truyền dịch IV mà chỉ làm
điều tốt nhất cho bệnh nhân. Điều này có
thể liên quan đến một cuộc chiến để khiến
họ được nhập viện chỉ để bảo vệ họ theo
một cách nào đó, hoặc để tạo điều kiện
cho họ chuyển đến viện dưỡng lão hoặc
hospice.
SW: Tôi nghĩ rằng trường hợp này minh
họa một cách tiếp cận mới mà chúng ta
cần thực hiện với các bệnh nhân lớn tuổi
trong ED. Chúng ta cần nhìn vào toàn bộ
bệnh nhân. Chúng tôi không phải lúc nào
cũng cần phải điều trị y tế tích cực, và đôi
khi điều tốt nhất chúng tôi có thể cung cấp
là điều trị giảm nhẹ hay chăm sóc cuối
đời. Những bệnh nhân này rất phức tạp,
nhưng chúng tôi làm cấp cứu để thử thách
và tôi nghĩ rằng những bệnh nhân này đã
thách thức chúng tôi. Chúng tôi có thể kết
thúc với kết quả tốt, và tôi nghĩ rằng bệnh
nhân này đã có một kết quả tốt.
UH: Tôi sẽ nói thêm rằng cách tiếp cận
với bệnh nhân lớn tuổi và đánh giá họ
trong ED là một cách tiếp cận mới và khác
biệt. Các dấu hiệu sống phải được phân
tích khác biệt. Chúng ta phải suy nghĩ về
tình trạng nhận thức và chức năng. Chúng
ta phải cố gắng hết sức để xác định mục
tiêu chăm sóc là gì cho bệnh nhân và cho
các thành viên gia đình.
AM: Tôi chỉ nghĩ rằng khi tôi ở trường y,
các giáo sư y khoa thường nói về cách tiếp
cận toàn diện này với bệnh nhân và một
mô hình tâm-sinh-xã (biopsychosocial)
trong chăm sóc y tế. Nó hơi yếu đuối hoặc
quá lý thuyết cho nhiều người trong chúng
ta. Chúng tôi làm cấp cứu vì chúng tôi
muốn đánh giá có trọng điểm. Cách tiếp
cận nhanh chóng, nhạy cảm, (“treat „em
and street „em”). Tuy nhiên, bây giờ tôi
nghĩ rằng chúng tôi nhận ra rằng khi dân
số đang già đi và chúng tôi đang gặp ngày
càng nhiều bệnh nhân không chỉ là những
vấn đề y tế đơn độc, cách tiếp cận có trọng
điểm là rất thiển cận và không phù hợp để
chăm sóc thành công cho những bệnh
nhân này . Thực tế là y học cấp cứu cần
phải trở nên toàn diện hơn, ít nhất là trong
cách tiếp cận của chúng ta với bệnh nhân
lớn tuổi. Chúng ta cần xem xét không chỉ
các vấn đề y tế mà cả các khía cạnh tâm lý
xã hội trong chăm sóc bệnh nhân. Càng
ngày tôi càng nhận ra rằng khi bạn dành
thời gian để làm điều đó, hóa ra đó là một
khoản đầu tư rất tốt trong việc chăm sóc y
tế cho những bệnh nhân này. Nó dẫn đến
việc ít BN bị từ chối nhập viện hơn. Dân
số đang thay đổi, và thực hành của chúng
ta cũng cần phải thay đổi. Một trường hợp
như thế này là một minh chứng thực sự tốt
về điều đó.
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 18 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
21. Section III: Concepts
Tổng quan
Một khái niệm quan trọng hiển nhiên từ
việc trình bày và thảo luận về trường hợp
này là việc đánh giá chung một bệnh nhân
cao tuổi trong ED rất phức tạp và khác với
thực hành ở bệnh nhân trẻ tuổi và nhóm
bệnh nhân này cần được chú ý đặc biệt.
Họ thường có tiền sử bệnh lý phức tạp và
các vấn đề tâm lý xã hội góp phần vào
biểu hiện hiện tại của họ. Mặc dù dấu hiệu
ổn định ban đầu của bệnh nhân cao tuổi
vẫn là đường thở, hô hấp và tuần hoàn,
phần còn lại của việc đánh giá trở thành
một đánh giá tâm-sinh-xã. Điều cần thiết
là bác sĩ cấp cứu có thể nhìn thấy toàn
cảnh, với mục tiêu cuối cùng là chăm sóc
để quản lý bệnh nhân cao tuổi như họ
mong muốn. Điều này đặt ra nhiều thách
thức bao gồm khai thác và thu thập bệnh
sử chính xác, chẩn đoán các vấn đề y tế
trong bối cảnh thay đổi sinh lý liên quan
đến lão hóa, điều trị các vấn đề y tế phức
tạp cùng với nhiều thuốc, đánh giá tình
trạng nhận thức và chức năng, và xác định
các quyết định và mục tiêu chăm sóc cuối
đời.
Trong hầu hết các trường hợp, việc đánh
giá bệnh nhân lớn tuổi trong ED phải bao
gồm bốn lĩnh vực trọng tâm cụ thể: (1)
đánh giá y tế, (2) đánh giá nhận thức, (3)
đánh giá chức năng và (4) đánh giá xã hội
[1] .
Đánh giá y tế (medical evaluation)
Đánh giá y tế bao gồm cách tiếp cận
tiêu chuẩn cho bệnh nhân ED. Nó nên bao
gồm lấy bệnh sử và thăm khám kỹ lưỡng.
Đôi khi, với hoàn cảnh của bệnh nhân và
ED, những điều này có thể không tiến
hành theo cách thức được dạy trong
trường y, nhưng cả hai nên được thực
hiện.
Bệnh sử
Bệnh sử ban đầu, bao gồm đánh giá lý do
vào viện chính và bệnh sử của bệnh hiện
tại. Một số bệnh nhân lớn tuổi có thể
không thể cung cấp bệnh sử đầy đủ do suy
giảm nhận thức, giảm thính lực hoặc bệnh
nặng; ở những bệnh nhân này, các nguồn
bệnh sử thay thế nên được thu thập và ghi
lại. Các tình trạng nghiêm trọng thường
biểu hiện không điển hình ở những bệnh
nhân ED lớn tuổi và những than phiền mơ
hồ như “yếu”, có thể là dấu hiệu của bệnh
nghiêm trọng [2].
Tiền sử bệnh nên được khơi gợi và xem
xét các thuốc. Điều này sẽ bao gồm danh
sách thuốc và liều lượng hiện tại, chú ý
đến bất kỳ loại thuốc mới thêm vào hoặc
loại bỏ gần đây. Bệnh nhân lớn tuổi
thường được kê đơn nhiều loại thuốc cho
các bệnh mãn tính; điều này có thể dẫn
đến tăng tác dụng phụ và tương tác thuốc.
Số lượng thuốc dùng cho bệnh nhân lớn
tuổi ngày càng tăng. Năm 2002, Khảo sát
Sloan đã thu thập dữ liệu về việc sử dụng
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 19 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
22. thuốc từ một mẫu ngẫu nhiên của các bệnh
nhân ở Mỹ. Khảo sát này cho thấy ở bệnh
nhân ≥ 65 tuổi, 23% phụ nữ và 19% nam
giới dùng ít nhất năm loại thuốc và 12% cả
phụ nữ và nam giới dùng > 10 loại thuốc
[3].
Người ta ước tính rằng 5-10% BN lớn
tuổi nhập viện là do phản ứng có hại của
thuốc [4]. Theo dữ liệu từ ước tính của 58
bệnh viện không phải Nhi khoa đã tham
gia dự án NEISS–CADES (National
Electronic Injury Surveillance System–
Cooperative Adverse Drug Event
Surveillance), ước tính tương tác thuốc
dẫn đến 99.628 ca nhập cấp cứu mỗi năm
ở những người lớn tuổi. Warfarin có liên
quan đến khoảng một phần ba các biến cố
bất lợi này; insulin, thuốc kháng tiểu cầu
đường uống và thuốc hạ đường huyết
đường uống chiếm khoảng một phần ba
khác [5].
Vào năm 2012, Hiệp hội Lão khoa Hoa
Kỳ đã cập nhật các tiêu chí của Beers
(Beers criteria) về những thuốc có khả
năng không phù hợp ở người cao tuổi.
Điều này đã được thực hiện thông qua một
hội đồng chuyên gia tìm kiếm tài liệu.
Beers criteria được sử dụng như một công
cụ giáo dục và thước đo chất lượng; Mục
tiêu của các tiêu chí này là cải thiện chăm
sóc bệnh nhân lớn tuổi bằng cách giảm
tiếp xúc với các loại thuốc có khả năng
không phù hợp. Năm mươi ba loại thuốc
hoặc nhóm thuốc tạo nên updated AGS
Beers Criteria 2012, được chia thành ba
nhóm. Nhóm đầu tiên là các thuốc có khả
năng không phù hợp và nhóm thuốc cần
tránh ở người lớn tuổi. Nhóm tiếp theo
tóm tắt các loại thuốc có khả năng không
phù hợp và nhóm thuốc cần tránh ở người
lớn tuổi mắc một số bệnh và hội chứng
nhất định mà các thuốc được liệt kê có thể
làm trầm trọng thêm. Nhóm thứ ba là các
thuốc nên được sử dụng một cách thận
trọng, đã được thêm vào với bản cập nhật
năm 2012 [6]. Beers Criteria giúp đánh giá
danh sách thuốc của bệnh nhân về các
thuốc có khả năng gây ra tác dụng phụ. Nó
cũng hỗ trợ quyết định của bác sĩ khi cần
dùng thêm thuốc mới.
Các dấu hiệu sống
Điều xảy ra quá thường xuyên là việc
đánh giá nhanh về các dấu hiệu sống ở
một bệnh nhân lớn tuổi dẫn đến kết luận
rằng ông ấy/bà ấy bình thường, như trong
case lâm sàng trên. Tuy nhiên, trong nhóm
tuổi này, những thay đổi tinh tế trong các
dấu hiệu sống có thể dễ dàng bị bỏ qua và
khiến các bác sĩ đi sai hướng. Mỗi dấu
hiệu sống có thể cung cấp thông tin khách
quan ở một bệnh nhân có bệnh sử hạn chế
nhất. Do đó, việc xem xét kỹ lưỡng đầy
đủ toàn bộ các dấu hiệu sống là rất quan
trọng.
Huyết áp có thể gây nhầm lẫn trong dân
số cao tuổi. Một huyết áp có vẻ bình
thường có thể là bất thường rõ rệt so với
huyết áp nền của bệnh nhân. Do sự thay
đổi sinh lý của lão hóa, làm mất các sợi
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 20 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
23. đàn hồi, làm cho các mạch máu cứng hơn
và kém giãn nở hơn. Sự cứng lại của các
mạch máu lớn dẫn đến tăng huyết áp tâm
thu, tăng sức cản ngoại biên và phì đại
tâm thất [7]. Phì đại tâm thất có thể dẫn
đến rối loạn chức năng tâm trương với
giảm khả năng đổ đầy tim [8]. Ở một bệnh
nhân bị tăng huyết áp tâm thu, điều quan
trọng là phải biết huyết áp tâm thu nền của
bệnh nhân là bao nhiêu vì một trị số huyết
áp “bình thường” có thể là một dấu hiệu
sốc.
Bệnh nhân lớn tuổi cũng bị hạ huyết áp
tư thế đứng, hoặc cơ thể không có khả
năng điều chỉnh huyết áp trong khi thay
đổi tư thế, dẫn đến hạ huyết áp. Hạ huyết
áp tư thế đứng được ước tính xảy ra ở 20-
30% bệnh nhân lớn tuổi sống trong cộng
đồng và 50% cư dân ở viện dưỡng lão. Hạ
huyết áp thế đứng có liên quan đến té ngã,
ngất, chóng mặt và lú lẫn ở bệnh nhân lớn
tuổi [9].
Một thay đổi sinh lý tim mạch khác của
sự lão hóa là giảm số lượng tế bào tạo
nhịp nhĩ. Điều này dẫn đến nhịp tim nội
tại (intrinsic heart rate) giảm. Ngoài ra
còn có sự giảm đáp ứng với kích thích thụ
thể beta adrenergic dẫn đến giảm đáp ứng
nhịp tim khi tập thể dục và stress [10].
Bệnh nhân lớn tuổi có nhiều khả năng bị
nhịp tim chậm khi nghỉ ngơi, hội chứng
xoang bệnh lý và rối loạn nhịp nhĩ [11].
Điều này có thể gây thêm nguy cơ cho
một bệnh nhân đã có nguy cơ bị té ngã và
ngất. Một loại thuốc nào đó bệnh nhân
đang dùng cũng có thể che giấu những
vấn đề thường thấy rõ bằng các dấu hiệu
sinh tồn bất thường [12]. Ví dụ, một bệnh
nhân bị nhiễm trùng huyết nặng hoặc sốc
mất máu có thể không có nhịp tim nhanh
do thuốc chẹn beta, thuốc chẹn kênh canxi
hoặc digoxin. Điều này cho thấy tầm quan
trọng hơn nữa của việc xem xét kỹ lưỡng
danh sách thuốc mà bệnh nhân đang dùng.
Lão hóa dẫn đến nhiều thay đổi trong hệ
hô hấp. Mất độ đàn hồi trở lại của phổi,
dẫn đến ngày càng nhiều phế nang không
tham gia trao đổi khí. Thành ngực mất khả
năng nở ra và phổi mất cơ chế phòng vệ,
chẳng hạn như phản xạ lông mao – dịch
nhầy (mucociliary reflex) [13]. Tật gù
lưng có thể làm giảm sự giãn nở thành
ngực và chức năng cơ hoành. Những thay
đổi này có thể làm tăng công hô hấp và
giảm thể tích dự trữ chức năng [14].
Nhịp thở có thể là một dấu hiệu tinh tế ở
bệnh nhân lớn tuổi và có thể là dấu hiệu
quan trọng duy nhất xuất hiện bất thường
trong đánh giá ban đầu. Vì nó cần một
thời gian để đạt được nhịp thở phù hợp, và
nó có thể được ghi nhận sai sót, nên bác sĩ
cần thận trọng để xác minh nhịp thở của
BN. Thở nhanh có liên quan đến ngừng
tim ở bệnh nhân nhập viện, chuyển đến
cấp độ chăm sóc cao hơn trong vòng 24
giờ sau khi nhập ED và tử vong 30 ngày ở
bệnh nhân ED [15, 16]. Thở nhanh có thể
là dấu hiệu của suy hô hấp sắp xảy ra,
nhiễm trùng, bệnh tim hoặc sốc. Ở những
bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết, thở
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 21 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
24. nhanh có liên quan độc lập với tỷ lệ tử
vong tại viện [17]. Ngoài ra còn có mối
liên quan với tỷ lệ tử vong và thở nhanh ở
những bệnh nhân lớn tuổi bị nghi ngờ
nhiễm trùng [18].
Test SpO2 chính xác cũng rất quan
trọng vì nhiều BN lão khoa mắc các bệnh
phổi mạn tính tiềm ẩn cũng như bệnh
mạch máu ngoại biên, điều này có thể làm
cho việc đọc SpO2 chính xác trở nên khó
khăn hơn [19].
Bệnh nhân lớn tuổi có những hạn chế
trong việc điều hòa nhiệt độ cơ thể dẫn
đến nhiệt độ trung tâm của cơ thể thấp
hơn [20]. Họ có thể không có phản ứng
sốt với nhiễm trùng và có khả năng hạ
thân nhiệt do nhiễm trùng [21]. Điểm cắt
(cutoff) xác định sốt có thể cần phải được
điều chỉnh ở những bệnh nhân lớn tuổi để
cải thiện việc phát hiện các bệnh nhiễm
trùng nghiêm trọng. Ví dụ, với các bệnh
nhân lớn tuổi ở viện dưỡng lão vào ED,
nhiệt độ 99∘F (37,2∘C) có độ nhạy 83% và
độ đặc hiệu 89% đối với các bệnh nhiễm
trùng đáng kể do vi khuẩn [22]. Vì nhiệt
độ nền có thể thấp hơn ở những bệnh nhân
lớn tuổi, sự thay đổi so với nhiệt độ nền ít
nhất là 1,3∘C hoặc 2,4∘F có thể là một chỉ
số quan trọng của nhiễm trùng [23].
Thăm khám lâm sàng
Sau khi ổn định ban đầu và xem xét các
dấu hiệu sống, điều quan trọng là phải
thực hiện thăm khám toàn diện khi đánh
giá bệnh nhân cao tuổi. Thông thường,
bệnh sử có thể bị giới hạn do sa sút trí tuệ
mãn tính hoặc thay đổi nhận thức mới xuất
hiện. Những bệnh nhân này có lẽ không có
khả năng kể về việc họ bị đau ở lưng hoặc
thờ ơ với nửa người bên phải. Do đó, thăm
khám toàn bộ từ đầu đến chân bao gồm
kiểm tra da và đánh giá thần kinh là rất
cần thiết. Khi đánh giá da bệnh nhân, điều
quan trọng là phải loại bỏ quần áo bao
gồm cả tất để đánh giá xem có bị tổn
thương da hay không. Điều này đặc biệt
quan trọng trong việc đánh giá các bệnh
nhiễm trùng tiềm ẩn. Có thể cần phải lăn
những bệnh nhân bất động để kiểm tra
mông, xương cùng và lưng.
Xét nghiệm
Có một số XN mà giá trị bình thường
không thay đổi theo tuổi. Chúng bao gồm
điện giải, urê máu, hemoglobin, số lượng
tiểu cầu và bạch cầu. Trong những tình
huống này, so sánh với giá trị nền là hữu
ích để đánh giá xem những giá trị bất
thường này là thay đổi cấp tính hay mãn
tính [24]. Có các thông số XN khác có
phạm vi bình thường thay đổi theo tuổi. Ví
dụ, tốc độ máu lắng có giới hạn trên của
bình thường nên được điều chỉnh theo tuổi
(tuổi/2 đối với nam và (tuổi + 10)/2 đối
với nữ) [25]. Vì giá trị creatinine có liên
quan đến khối lượng nạc của cơ thể, nên
giá trị creatinine bình thường giảm theo
tuổi. Trong tình huống này, giá trị “bình
thường” có thể là biểu thị cho mức lọc cầu
thận giảm [26]. Ngoài ra, giá trị D-dimer
có thể cần điều chỉnh theo tuổi, một loạt
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 22 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
25. các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng giá
trị (tuổi×10) mg/l có thể là điểm cắt hợp lý
để loại trừ tắc mạch phổi [27].
Đánh giá nhận thức
Suy giảm nhận thức là phổ biến ở bệnh
nhân cao tuổi và bác sĩ cấp cứu có thể sử
dụng các công cụ có sẵn để hỗ trợ nhận
biết tình trạng suy yếu này. Thông thường
các bác sĩ sẽ ghi nhận rằng bệnh nhân là
“A&Ox3”. Điều này có thể phản ánh rằng
bệnh nhân có khả năng tiếp tục cuộc trò
chuyện và trả lời các câu hỏi về bệnh sử.
Test kiểm tra chính thức hơn nên được sử
dụng để tránh đánh giá không thích hợp và
không đầy đủ. Hiệp hội cấp cứu lão khoa
(The Geriatric Emergency Medicine Task
Force) khuyến cáo đánh giá tình trạng tâm
thần của tất cả bệnh nhân cao tuổi vào ED
[28].
Vì thường khó phân biệt sa sút trí tuệ
trầm trọng do mê sảng cấp tính ở bệnh
nhân ED lú lẫn, nên tìm thêm thông tin từ
các nhân viên y tế, gia đình, y tá gia đình
và người chăm sóc. Bác sĩ cấp cứu không
nên cho rằng lú lẫn hoặc thay đổi trạng
thái tâm thần này là tình trạng vốn có của
bệnh nhân mà không cần xác minh nó.
Test sàng lọc nhận thức cổ điển là
MMSE. Bài kiểm tra này rất khó thực hiện
trong ED vì nó tốn thời gian và việc chấm
điểm rất phức tạp. Các lựa chọn thay thế
bao gồm các test sàng lọc nhạy, nhanh
chóng và dễ dàng để bác sĩ ghi nhớ và
chấm điểm. SIS và Ottawa 3DY (O3DY)
đáp ứng các tiêu chí này [29].
SIS bao gồm gọi tên vật cộng với định
hướng. SIS mất khoảng 1 phút để hoàn
thành. Nó bắt đầu bằng cách yêu cầu bệnh
nhân lặp lại ba vật như táo, bàn và đồng
xu. Bệnh nhân được yêu cầu nhắc lại các
vật này trong vài phút. Sau đó họ được hỏi
năm, tháng và ngày. Cuối cùng, họ được
yêu cầu nhắc lại ba vật ban đầu. Nó được
tính là tổng của các câu trả lời đúng với 6
là điểm cao nhất. Điểm từ 4 trở xuống cho
thấy suy giảm nhận thức. Một điểm cắt
(cutoff) từ 3 lỗi trở lên có độ nhạy và độ
đặc hiệu tương tự để chẩn đoán chứng mất
trí cũng như điểm cắt là 23 trên MMSE
[30]. Trong một nghiên cứu trên 352 đối
tượng với 111 người bị suy giảm nhận
thức bởi MMSE, SIS có độ nhạy 63% và
đặc hiệu 81% trong việc phát hiện suy
giảm nhận thức. Độ nhạy trong nghiên
cứu này thấp hơn so với báo cáo trong các
nghiên cứu trước đây [31].
O3DY bao gồm yêu cầu bệnh nhân đánh
vần ngược từ “World” (Dlrow), ngày,
tháng và năm. Test này kiểm tra định
hướng và sự lưu loát của lời nói. O3DY
bắt nguồn từ nghiên cứu CSHA-1
(Canadian Study of Health and Aging).
Test cực kỳ ngắn gọn, nhưng nhạy cảm và
đặc hiệu tương đối. Độ nhạy là 95% và
đặc hiệu 51% đối với suy giảm nhận thức
[32].
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 23 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
26. Phân biệt chứng mất trí với mê sảng là
một thách thức đối với bác sĩ cấp cứu.
Nhiều bệnh nhân vào viện với mê sảng
cũngđã mắc sẵn chứng mất trí. Phương
pháp đánh giá lú lẫn CAM (The Confusion
Assessment Method) có thể được sử dụng
nhanh chóng và dễ dàng và có độ đặc hiệu
cao (100%) và độ nhạy (86%) để chẩn
đoán mê sảng [33]. Công cụ này có bốn
mục và đòi hỏi sự hiện diện của một thay
đổi cấp tính so với trước đó về sự không
tập trung hoặc biến động của hành vi,
cùng với suy nghĩ vô tổ chức hoặc mức độ
ý thức thay đổi.
Khi đánh giá mức độ ýthức, thang điểm
RASS hiệu chỉnh có thể được sử dụng
nhanh chóng và có lợi ích trong việc đánh
giá lại. Điểm RASS hiệu chỉnh bằng 0 có
nghĩa là bệnh nhân tỉnh táo và tương tác.
Điểm số âm có nghĩa là bệnh nhân lơ mơ
hơn và điểm số dương có nghĩa là bệnh
nhân bị kích động nhiều hơn. Một số điểm
dương có thể dẫn các bác sĩ cấp cứu đến
con đường chẩn đoán mê sảng cấp tính,
cần nhận ra rằng một trong những dấu
hiệu đầu tiên của mê sảng là không chú ý
.
Một nghiên cứu tiến cứu đoàn hệ đã được
thực hiện tại bệnh viện VA ở New
England. Như một công cụ sàng lọc duy
nhất, RASS hiệu chỉnh có độ nhạy 64% và
độ đặc hiệu 93% đối với mê sảng. Khi
đánh giá nhiều lần nối tiếp nhau, độ nhạy
tăng lên 85%. Do đó, điểm RASS hiệu
chỉnh nên được cân nhắc để sàng lọc mê
sảng hàng ngày [34].
Sau khi đánh giá cả nhận thức và mức
độ nhận thức, nếu cả hai được phát hiện là
bình thường, thì bác sĩ có thể ghi lại “tình
trạng tâm thần bình thường”. Nếu bệnh
nhân bị suy giảm nhận thức hoặc mức độ
ý thức, nên đánh giá thêm. Nên cố gắng
xác định thời gian khởi phát của các triệu
chứng với tất cả các nguồn sẵn có, bao
gồm gia đình, bạn bè, người chăm sóc và
bác sĩ gia đình [35].
Đánh giá chức năng
Đánh giá chức năng của bệnh nhân cao
tuổi bao gồm những thứ như ADL, khả
năng vận động, continence (kiểm soát đại
tiểu tiện) và suy giảm thính và thị lực. Một
đánh giá lão khoa phức tạp có thể là cần
thiết nhưng không thực tế trong ED. Các
công cụ đơn giản đã được phát triển để hỗ
trợ bác sĩ cấp cứu trong việc nhanh chóng
xác định các khiếm khuyết chức năng.
Khả năng thực hiện ADL phù hợp với
đánh giá chung ở bệnh nhân cao tuổi và
xác định mục tiêu chăm sóc. Ví dụ về các
ADL tự chăm sóc cơ bản bao gồm mặc
quần áo, sử dụng nhà vệ sinh và đi bộ. Các
ADL thông qua công cụ (instrumental
ADLs) đánh giá chức năng điều hành, các
ADL cấp cao hơn cần thiết cho chức năng
trong cộng đồng. Ví dụ bao gồm lái xe,
mua sắm và thanh toán hóa đơn [36]. Một
số ADL cơ bản và bằng công cụ có thể
góp phần cho những lần vào ED. Sự suy
giảm các ADL liên quan đến vận động
như khả năng mặc quần áo, di chuyển, đi
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 24 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
27. bộ (ADL cơ bản) và vận chuyển, mua
sắm, chuẩn bị bữa ăn và làm việc nhà
(ADL thông qua công cụ) đã được chứng
minh là góp phần vào các lần vào ED ở
bệnh nhân lớn tuổi [37]. Khi xác định suy
giảm khả năng thực hiện ADL, những
bệnh nhân này có nguy cơ té ngã cao hơn
và có nhiều khả năng cần vào một cơ sở
điều dưỡng lành nghề [38].
Khả năng vận động được xác định bởi
dáng đi, sự cân bằng, khả năng di chuyển
và chức năng khớp [39]. Thử nghiệm “Get
Up and Go” Test là một cách tiếp cận thực
tế để đánh giá dáng đi ở người cao tuổi.
Điều này bao gồm việc hướng dẫn bệnh
nhân đứng dậy, đứng yên, đi về phía
trước, quay lại, bước trở lại ghế và ngồi
xuống. Không có điểm liên quan đến test
này; test được coi là bất thường nếu bệnh
nhân xuất hiện nguy cơ té ngã bất cứ lúc
nào trong quá trình test [40].
Suy giảm thị lực và thính lực có liên
quan đến nguy cơ té ngã đáng kể [41].
Mất dần thị lực và thính lực có thể dẫn
đến suy giảm khả năng thực hiện các ADL
cơ bản và nâng cao. Mặc dù nhìn chung
vượt ra ngoài phạm vi thực hành ED,
trong một số trường hợp, bệnh nhân nên
được kiểm tra sự khó khăn khi nhìn và
nghe tại ED và được chuyển đến chuyên
khoa kiểm tra khi có chỉ định.
Hội chứng lão khoa dễ bị tổn thương
(the geriatric syndrome of frailty) liên
quan đến suy giảm chức năng và được đặc
trưng bởi sụt cân, mệt mỏi, giảm sức cơ,
giảm hoạt động thể chất và giảm tốc độ đi
bộ [42]. Tính dễ bị tổn thương có liên
quan đến việc tăng nguy cơ vào ED, nhập
viện, tàn tật và tử vong [43].
Đánh giá xã hội
Đánh giá xã hội của một bệnh nhân là
quan trọng để đưa ra quyết định bố trí
nhập viện. Có được thông tin quan trọng
sớm có thể làm cho bác sĩ cấp cứu hiệu
quả hơn bằng cách tránh xuất viện không
phù hợp và chủ động giải quyết các mối
quan tâm. Các câu hỏi quan trọng bao gồm
những điều sau đây: Bệnh nhân có bạn bè
hoặc gia đình gần đó có thể cung cấp hỗ
trợ ADL không? Những người này thỉnh
thoảng sẽ có mặt, hàng ngày hay 24/7?
Bệnh nhân có sử dụng bất kỳ thiết bị hỗ
trợ nào, như máy tập đi bộ hay gậy không?
Có bắt buộc phải sử dụng các bậc thang
trong nhà, hoặc phòng ngủ, phòng tắm và
nhà bếp đều nằm trên một tầng không?
Nếu bệnh nhân được gửi về nhà với một
người đi bộ, hành lang có đủ rộng cho
người đi bộ không?
Đặt các loại câu hỏi này cho bệnh nhân
và gia đình sẽ giúp xác định xem môi
trường gia đình có phù hợp không và có
thể phát hiện ra những khó khăn tiềm ẩn
mà bệnh nhân hoặc gia đình chưa từng
xem xét trước đây. Trong một thử nghiệm
được thực hiện để nghiên cứu hiệu quả của
việc phân phối thông tin phòng ngừa té
ngã cho bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên, đã
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 25 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
28. gợi ý rằng ngay cả cuộc thảo luận tối thiểu
về phòng ngừa té ngã có thể dẫn đến sửa
đổi nhà cửa [44].
Phần lớn của các cuộc thảo luận trong
trường hợp này liên quan đến việc thiết lập
các mục tiêu chăm sóc và điều trị theo
mong muốn. Đây có thể là một khía cạnh
tốn thời gian và thách thức trong quản lý
bệnh nhân cao tuổi, nhưng đây cũng có thể
là một khía cạnh có lợi và bổ ích. Nếu
những cuộc thảo luận khó khăn này có thể
diễn ra sớm, thì mục tiêu chăm sóc bệnh
nhân có thể được thiết lập và trong nhiều
trường hợp, bệnh nhân có thể tránh được
các xét nghiệm không cần thiết, gánh nặng
tài chính và nhập viện không phù hợp.
Cần xác định xem bệnh nhân có khả
năng ra quyết định hay không, và nếu
không, hãy xác định một người ra quyết
định thay thế. Pháp luật các nước/bang
khác nhau về vấn đề này. Khi sử dụng
người ra quyết định thay thế, bác sĩ cấp
cứu và người ra quyết định thay thế hành
động theo phán quyết thay thế. Nói cách
khác, người ra quyết định thay thế nên đưa
ra quyết định dựa trên những gì bệnh nhân
muốn, chứ không phải những gì họ muốn.
Chỉ khi không biết mong muốn của bệnh
nhân, người ra quyết định mới quyết định
điều gì sẽ là lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân
[45]. Bác sĩ cấp cứu có thể hỗ trợ người ra
quyết định thay thế sử dụng phán đoán
thay thế thay vì mối quan tâm nhất bằng
cách đặt các câu hỏi như: “Bệnh nhân
muốn chúng ta làm gì trong tình huống
này” thay vì “Bạn muốn chúng tôi làm gì”.
Section IV: Quyết định lâm
sàng
• Đánh giá chung cho bệnh nhân cao tuổi
trong ED là duy nhất và cần được chú ý
đặc biệt.
• Mỗi bệnh nhân lớn tuổi nên có đánh giá
về tình trạng y tế, nhận thức, chức năng
và tình hình xã hội.
• Việc xem xét kỹ lưỡng toàn bộ các dấu
hiệu sống là rất quan trọng.
• Hãy chú ý đến danh sách thuốc của bệnh
nhân, và nhận ra bất kỳ loại thuốc mới
thêm vào hoặc đã loại bỏ gần đây.
• Hiệp hội The Geriatric Emergency
Medicine Task Force khuyến nghị đánh
giá tình trạng tâm thần của tất cả các
bệnh nhân cao tuổi vào ED.
• SIS và O3DY là các test sàng lọc nhạy
cảm, nhanh chóng và dễ dàng để bác sĩ
ghi nhớ và chấm điểm.
• Đánh giá chức năng của bệnh nhân cao
tuổi nên bao gồm những thứ như ADL,
khả năng vận động, khả năng kiểm soát
đại tiểu tiện, sự suy giảm thính lực và thị
lực.
• Mục tiêu cuối cùng của chăm sóc là
quản lý bệnh nhân cao tuổi, sử dụng
phán đoán thay thế hoặc như bệnh nhân
mong muốn.
References
1 Siebens, H. (2005) The domain
management model – a tool for
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 26 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
29. teaching and management of older
adults in emergency departments. Acad.
Emerg. Med., 12 (2), 162–168.
2 Sanders, A.B. and Force S for AEM (U
S) GEMT (1996) Emergency Care of
the Elder Person, Beverly Cracom
Publications, 328 p.
3 Kaufman, D.W., Kelly, J.P.,
Rosenberg, L. et al. (2002) Recent
patterns of medication use in the
ambulatory adult population of the
United States: the Slone survey. J. Am.
Med. Assoc., 287 (3), 337–344.
4 Halter, J., Ouslander, J., Tinetti, M. et
al. (2009) Hazzard’s Geriatric
Medicine and Gerontology, 6th end
edn, McGraw-Hill Professional, New
York, 1760 p.
5 Budnitz, D.S., Lovegrove, M.C.,
Shehab, N., and Richards, C.L. (2011)
Emergency hospitalizations for adverse
drug events in older Americans. N.
Engl. J. Med., 365 (21), 2002–2012.
6 American Geriatrics Society 2012
Beers Criteria Update Expert Panel
(2012) American Geriatrics Society
updated Beers Criteria for potentially
inappropriate medication use in older
adults. J. Am. Geriatr. Soc., 60 (4),
616–631.
7 Narang, A.T. and Sikka, R. (2006)
Resuscitation of the elderly. Emerg.
Med. Clin. North Am., 24 (2), 261–
272,v.
8 Chester, J.G. and Rudolph, J.L. (2011)
Vital signs in older patients: age-related
changes. J. Am. Med. Dir. Assoc., 12
(5), 337–343.
9 Gupta, V. and Lipsitz, L.A. (2007)
Orthostatic hypoten-sion in the elderly:
diagnosis and treatment. Am. J. Med.,
120 (10), 841–847.
10 Cheitlin, M.D. (2003) Cardiovascular
physiology-changes with aging. Am. J.
Geriatr. Cardiol., 12 (1), 9–13.
11Pavri, B.B. and Ho, R.T. (2003)
Syncope. Identifying car-diac causes in
older patients. Geriatrics, 58 (5), 26–
31; quiz 32.
12Douglas, G., Nicol, E.F., and
Robertson, C. (2013) Macleod’s
Clinical Examination, Churchill
Livingstone Elsevier, Edinburgh.
13American College of Emergency
Medicine (2004) Geri-atric Emergency
Medicine, 1st edn (eds S. Meldon, O.J.
Ma, and R. Woolard), McGraw-Hill,
Health Professions Division, New
York, 585 p.
14Pedone, C., Bellia, V., Sorino, C. et al.
(2010) Prognostic significance of
surrogate measures for forced vital
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 27 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
30. capac-ity in an elderly population. J.
Am. Med. Dir. Assoc., 11 (8), 598–604.
15Farley, H., Zubrow, M.T., Gies, J. et al.
(2010) Emer-gency department
tachypnea predicts transfer to a higher
level of care in the first 24 hours after
ED admission. Acad. Emerg. Med., 17
(7), 718–722.
16Fieselmann, J.F., Hendryx, M.S.,
Helms, C.M., and Wakefield, D.S.
(1993) Respiratory rate predicts car-
diopulmonary arrest for internal
medicine inpatients. J. Gen. Intern.
Med., 8 (7), 354–360.
17Shapiro, N.I., Wolfe, R.E., Moore, R.B.
et al. (2003) Mortality in Emergency
Department Sepsis (MEDS) score: a
prospectively derived and validated
clinical prediction rule. Crit. Care Med.,
31 (3), 670–675.
18Caterino, J.M., Kulchycki, L.K.,
Fischer, C.M. et al. (2009) Risk factors
for death in elderly emergency
department patients with suspected
infection. J. Am. Geriatr. Soc., 57 (7),
1184–1190.
19Valdez-Lowe, C., Ghareeb, S.A., and
Artinian, N.T. (2009) Pulse oximetry in
adults. Am. J. Nurs., 109 (6), 52–59;
quiz 60.
20Gomolin, I.H., Lester, P., and Pollack,
S. (2007) Older is colder: observations
on body temperature among nursing
home subjects. J. Am. Med. Dir. Assoc.,
8 (5), 335–337.
21Ball, J. (2015) Seidel’s Guide to
Physical Examination, 8th edn,
Elsevier/Mosby, St. Louis, MO.
22Castle, S.C., Norman, D.C., Yeh, M. et
al. (1991) Fever response in elderly
nursing home residents: are the older
truly colder? J. Am. Geriatr. Soc., 39
(9), 853–857.
23Castle, S.C. (2000) Clinical relevance
of age-related immune dysfunction.
Clin. Infect. Dis., 31 (2), 578–585.
24Kane, R.L., Ouslander, J.G., and
Abrass, I.B. (1999) Essentials of
Clinical Geriatrics, McGraw-Hill,
Health Professions Division, New York.
25Miller, A., Green, M., and Robinson, D.
(1983) Sim-ple rule for calculating
normal erythrocyte sedimenta-tion rate.
Br. Med. J. (Clin. Res. Ed), 286 (6361),
266.
26Levey, A.S., Stevens, L.A., Schmid,
C.H. et al. (2009) A new equation to
estimate glomerular filtration rate. Ann.
Intern. Med., 150 (9), 604–612.
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 28 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
31. 27Righini, M., Van Es, J., Den Exter, P.L.
et al. (2014) Age-adjusted D-dimer
cutoff levels to rule out pul-monary
embolism: the ADJUST-PE study. J.
Am. Med. Assoc., 311 (11), 1117–1124.
28Samaras, N., Chevalley, T., Samaras,
D., and Gold, G. (2010) Older patients
in the emergency department: a review.
Ann. Emerg. Med., 56 (3), 261–269.
29 Wilber, S.T., Lofgren, S.D., Mager,
T.G. et al. (2005) An evaluation of two
screening tools for cognitive
impairment in older emergency
department patients. Acad. Emerg.
Med., 12 (7), 612–616.
30Callahan, C.M., Unverzagt, F.W., Hui,
S.L. et al. (2002) Six-item screener to
identify cognitive impairment among
potential subjects for clinical research.
Med. Care, 40 (9), 771–781.
31Wilber, S.T., Carpenter, C.R., and
Hustey, F.M. (2008) The Six-Item
Screener to detect cognitive
impairment in older emergency
department patients. Acad. Emerg.
Med., 15 (7), 613–616.
32Carpenter, C.R., Bassett, E.R., Fischer,
G.M. et al. (2011) Four sensitive
screening tools to detect cognitive
dysfunction in geriatric emergency
department patients: brief Alzheimer‟s
Screen, Short Blessed Test, Ottawa
3DY, and the caregiver-completed
AD8. Acad. Emerg. Med., 18 (4), 374–
384.
33Monette, J., Galbaud du Fort, G., Fung,
S.H. et al. (2001) Evaluation of the
Confusion Assessment Method (CAM)
as a screening tool for delirium in the
emergency room. Gen. Hosp.
Psychiatry., 23 (1), 20–25.
34Chester, J.G., Beth Harrington, M.,
Rudolph, J.L., and VA Delirium
Working Group (2012) Serial
administra-tion of a modified
Richmond Agitation and Sedation
Scale for delirium screening. J. Hosp.
Med., 7 (5), 450–453.
35Wilber, S.T. (2006) Altered mental
status in older emergency department
patients. Emerg. Med. Clin. North Am.,
24 (2), 299–316, vi.
36Lawton, M.P. and Brody, E.M. (1969)
Assessment of older people: self-
maintaining and instrumental activi-ties
of daily living. Gerontologist, 9 (3),
179–186.
37Wilber, S.T., Frey, J.A., Poland, S.A. et
al. (2012) Muscle strength, muscle
mass, and muscle fatigue and their
relationship with mobility-related
activities of daily living in older
emergency department patients. Ann.
Emerg. Med., 60 (4), S29–S30.
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 29 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
32. 38Robbins, A.S., Rubenstein, L.Z.,
Josephson, K.R. et al. (1989) Predictors
of falls among elderly people. Results
of two population-based studies. Arch.
Intern. Med., 149 (7), 1628–1633.
39Tinetti, M.E. and Ginter, S.F. (1988)
Identifying mobility dysfunctions in
elderly patients. Standard neuromus-
cular examination or direct assessment?
J. Am. Med. Assoc., 259 (8), 1190–
1193.
40Mathias, S., Nayak, U.S., and Isaacs, B.
(1986) Balance in elderly patients: the
“get-up and go” test. Arch. Phys. Med.
Rehabil., 67 (6), 387–389.
41Tinetti, M.E., Inouye, S.K., Gill, T.M.,
and Doucette, J.T. (1995) Shared risk
factors for falls, incontinence, and
functional dependence. Unifying the
approach to geriatric syndromes. J. Am.
Med. Assoc., 273 (17), 1348–1353.
42Robertson, D.A., Savva, G.M., and
Kenny, R.A. (2013) Frailty and
cognitive impairment – a review of the
evi-dence and causal mechanisms.
Ageing Res. Rev., 12 (4), 840–851.
43Stiffler, K.A., Finley, A., Midha, S., and
Wilber, S.T. (2013) Frailty assessment
in the emergency department.
J. Emerg. Med., 45 (2), 291–298.
44Gerson, L.W., Camargo, C.A., and
Wilber, S.T. (2005) Home modification
to prevent falls by older ED patients.
Am. J. Emerg. Med., 23 (3), 295–298.
45Combs, M.P., Rasinski, K.A., Yoon,
J.D., and Curlin, F.A. (2013)
Substituted judgment in principle and
practice: a national physician survey.
Mayo Clin. Proc., 88 (7), 666–673.
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 30 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
33. Chương 2:
Thay đổi sinh lý theo sự lão hóa
Kate D. Zimmerman1
& Robert S. Anderson, Jr.2
1
Department of Emergency Medicine, Maine Medical Center, Portland, ME, USA
2
Departments of Emergency Medicine and Internal Medicine and Division of
Geriatric Medicine, Tufts University School of Medicine, Maine Medical
Center, Portland, ME, USA
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 31 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
34. Section I: Case lâm sàng
Một BN nữ 85 tuổi bị mất trí tiến triển,
từ nhà vào viện với gia đình vì những than
phiền không cụ thể về suy giảm chức năng
từ tuần trước. Bà ấy đi lại được với sự hỗ
trợ nhỏ. Bà ấy thường ân cần và thân mật.
Gia đình lưu ý rằng trong tuần trước, bà
đã cần mức độ hỗ trợ cao hơn, ngủ nhiều
hơn, không thân mật và ăn ít hơn. Gia
đình không ghi nhận ho, đau bụng, đau
ngực, tiêu chảy, ngã hoặc phát ban. Họ đo
nhiệt độ miệng là 37,2o
C (99, o
F) vào một
ngày trước.
Tiền sử đáng chú ý là tăng huyết áp và
tăng lipid máu. Với độ tuổi và chứng mất
trí của bà, một quyết định đã được đưa ra
là giảm thuốc 6 tháng trước đó. Thuốc
hiện tại của cô là aspirin và khi cần thiết.
Khi thăm khám, nhiệt độ miệng của bà
là 37,3o
C (99,1o
F), huyết áp nằm ngửa là
105/60 mmHg và nhịp tim là 80 nhịp/phút.
Khi đứng, huyết áp của bà là 95/50 mmHg
và nhịp tim 110 nhịp/phút. Nhịp thở là 22
nhịp/phút. với SpO2 93% ở không khí
phòng. Bà ấy đã có thể làm theo mệnh
lệnh và chú ý. Bà không thể đứng mà
không có sự trợ giúp. Kiểm tra phổi, tim
và bụng không có gì đáng lưu ý. Bà bị khô
vùng nách, sức căng da kém và niêm mạc
khô.
Các XN bao gồm CBC, CMP, và UA.
Đáng lưu ý gồm giảm bạch cầu, tăng BUN
và creatinine, tỷ trọng nước tiểu là 1.030,
tăng bạch cầu và nitrite dương tính, và
thỉnh thoảng có vi khuẩn trong nước tiểu.
Với SpO2 như trên, sốt nhiệt độ thấp và
nhịp thở tăng, BN đã được chụp X quang
ngực cho thấy thâm nhiễm thùy giữa phải.
Section II: Thảo luận case
Peter Rosen: Rob, đây là một trường hợp
hấp dẫn liên quan đến sự siêng năng của
gia đình đã quản lý bệnh nhân cao tuổi này
ở nhà lâu hơn nhiều so với hầu hết các gia
đình khác. Thay vì một vấn đề về sinh lý
của sự lão hóa, tôi đã tự hỏi liệu đây có
phải là một trường hợp đạo đức hay không
bởi vì thực tế là chúng ta có một bệnh
nhân sa sút tuệ mà trí nhớ của BN vốn
không ổn định và giờ đang bắt đầu tệ hơn.
Tôi nghĩ rằng gia đình đã giải quyết một
số vấn đề về việc hỗ trợ y tế cho bà ấy đến
mức nào. Nhưng rõ ràng là họ không đồng
ý với việc bà ấy trở nên tồi tệ hơn. Tôi
thấy rằng, một lần nữa, điều thú vị là biểu
hiện của bệnh nhân khi đến khoa cấp cứu
(ED) trái ngược với bác sĩ gia đình. Có lẽ
bạn có thể thảo luận về lý do tại sao họ
vào ED, và một số vấn đề đạo đức về cách
bạn xác định “sự điều trị không vì hiệu
quả/lợi ích” (futility) ở một bệnh nhân mất
trí nhớ.
Rob Anderson: Peter, quan điểm của bạn
rất thú vị vì trường hợp này được dự định
để vẽ một bức tranh về một BN nữ mắc
chứng sa sút trí tuệ - người thường ân cần
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 32 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
35. và tương tác với gia đình bà. Bà ấy là một
người phụ nữ mà cuộc sống của bà rất có
giá trị với chính bà, gia đình bà, và người
điều trị bệnh nhiễm trùng cấp tính với rất
nhiều tình cảm. Điều này trái ngược với
những người bị sa sút trí tuệ giai đoạn cuối
- những người không còn khả năng giao
tiếp, không còn cơ động và việc điều trị
một bệnh nhiễm trùng nào đó có thể cần
phải được tranh luận.
PR: Bạn phải đánh giá các quyết định của
mình về tính vô ích (futility) ở một mức
độ nào đó của những gì bạn đang bắt đầu,
và điều đó không may dẫn đến những lỗi
chủ quan. Những chất lượng cuộc sống mà
chúng ta không đặc biệt muốn cho bản
thân mình, chúng ta cũng cho rằng người
khác cũng không muốn, tuy nhiên, như
bạn đã chỉ ra, đây là một gia đình có một
số tương tác tích cực với bệnh nhân này và
muốn giữ gìn nó. Do đó, các quyết định là
có vô ích (futility) hay không sẽ được đưa
ra bởi gia đình, không nhất thiết là từ một
mình bệnh nhân.
Ngoài ra, bạn có thảo luận gì không, bạn
có nghĩ cung cấp một số mức độ chăm sóc
giảm nhẹ, điều trị nhiễm trùng không?
RA: Đó là một câu hỏi rất phức tạp, tôi
không chắc mình có câu trả lời. Một số
người cảm thấy kháng sinh có thể là điều
trị giảm nhẹ để điều trị nhiễm trùng đường
tiết niệu. Quyết định sử dụng hay không
sử dụng kháng sinh được đưa ra trong mẫu
đơn Physician Orders for Life Sustaining
Treatment, hoặc POLST. Trong bối cảnh
chính xác, sẽ là lý tưởng khi bắt đầu cuộc
thảo luận với gia đình trước vấn đề cấp
tính. Tôi nghĩ rằng quyết định nên được
đưa ra tùy từng trường hợp riêng biệt.
Amal Mattu: Tôi chỉ muốn nói thêm
rằng, trước hết, tôi đồng ý với những gì
bạn nói rằng tùy theo từng trường hợp.
Tình trạng vốn có/trước đó của bệnh nhân
là gì – tình trạng mà bạn hy vọng sẽ đưa
họ trở lại đó và điều này cũng tạo ra sự
khác biệt về loại nhiễm trùng mà bạn đang
điều trị. Nếu bệnh nhân có chất lượng
cuộc sống hợp lý, tất nhiên là rất chủ quan,
nhưng gia đình hài lòng với điều đó và bạn
nghĩ rằng đây là một bệnh nhiễm trùng sẽ
hợp lý để điều trị, thì tôi nghĩ rằng bạn nên
cố gắng hết mình. Mặt khác, nếu bệnh
nhân bị nhiễm trùng nặng và bạn nghĩ rằng
cơ hội đưa bệnh nhân trở lại tình trạng vốn
có là rất thấp, thì có lẽ bạn muốn điều trị
bằng mọi cách, nhưng tôi nghĩ rằng bạn
nên tập trung hơn vào việc giữ cho bệnh
nhân càng thoải mái càng tốt. Trong
trường hợp cụ thể này, có vẻ như bệnh
nhân bị viêm phổi thùy và bệnh nhân
không có vẻ gì là nhiễm độc. Chúng ta có
thể nói về một số cạm bẫy liên quan đến
những dấu hiệu sinh tồn nhìn có vẻ tương
đối bình thường này, tuy nhiên, bệnh nhân
không có vẻ gì là nhiễm độc.
PR: Maura, viêm phổi đã được gọi là một
người bạn cũ. Tôi nghĩ rằng ngay cả trong
những trường hợp sa sút trí tuệ nghiêm
trọng, nhiễm trùng đường tiết niệu và viêm
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 33 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"
36. phổi vẫn đáng để điều trị vì chúng rõ ràng
làm xấu đi tình trạng tâm thần. Bạn cảm
thấy thế nào về những vấn đề đó?
Maura Kennedy: Tôi hoàn toàn đồng ý.
Tôi đồng tình với cả Amal và Rob về phổ
bệnh của sa sút trí tuệ. Bệnh nhân này
bình thường đi lại được với sự trợ giúp
nhỏ, nên có vẻ như bà ấy có mức độ chức
năng cao hơn so với nhiều bệnh nhân lớn
tuổi khác. Dấu hiệu sinh tồn của bà ấy cho
thấy thở nhanh và thiếu oxy. Tôi sẽ cho
rằng bà ấy không thoải mái khi bị nhiễm
trùng này và tôi nghĩ việc điều trị cho
bệnh nhân này bằng kháng sinh để cố
gắng cải thiện triệu chứng của bà là điều
hoàn toàn phù hợp và hy vọng sẽ đưa bà
ấy trở lại mức độ hoạt động trước đó. Mặc
dù hiện tại bà có chú ý, vì vậy có thể chưa
mê sảng, việc điều trị chậm trễ có thể
khiến bà trở nên mê sảng, và chắc chắn
điều đó có thể làm giảm chất lượng cuộc
sống của bà nhiều hơn.
PR: Rob, đây là một bệnh nhân mà ban
đầu tôi không có xu hướng nhập vào ICU
và tôi đoán hầu hết các ICU sẽ không nhận
bà ấy mặc dù bà ấy có lẽ là bệnh nhân
được hưởng lợi nhiều nhất từ việc chăm
sóc tích cực cho nhiễm trùng này trước khi
bà ấy xấu đi. Bạn có cân nhắc điều trị một
bệnh nhân như thế này tại nhà để cố gắng
tránh một số tác động tiêu cực của việc
nhập viện như mê sảng?
RA: Tôi nghĩ rằng đó là một câu hỏi và
điểm thảo luận tuyệt vời bởi vì và chúng
ta nên luôn luôn tự hỏi mình rằng “điều gì
là tốt nhất cho người này?” Bà ấy có thể
vào viện và bị mê sảng rồi được cho về
nhà và sau đó có khả năng tồi tệ đi (mất
bù). Tôi nghĩ rằng nó cũng dựa trên các
nguồn lực mà bạn có trong tay, sự ưu tiên
của gia đình và khả năng theo dõi với
PCP. Chúng tôi có một chương trình y tá
tại nhà rất khỏe mạnh ở Maine, vì vậy BN
này có thể có một y tá đến thăm tại nhà
vào ngày hôm sau để kiểm tra SpO2 của
bà ấy và xem bà ấy như thế nào. Thảo
luận với gia đình là tối quan trọng và nên
hướng dẫn quyết định cuối cùng.
PR: Maura, bạn đã đưa ra những điểm rất
hữu ích trong các cuộc thảo luận về trường
hợp trước đây về xã hội học của bệnh
nhân cao tuổi tại nhà. Bạn có thể thảo luận
một chút về điểm mà bạn nghĩ rằng một
người như thế này có lẽ sẽ tốt hơn nếu
không ở bên gia đình, nhưng cần phải
được hỗ trợ trong cuộc sống? Gia đình đã
làm một công việc tuyệt vời với bà ấy, và
tôi không biết liệu có ai đó ở đây có khả
năng ở nhà với bà ấy, nhưng tại thời điểm
nào bạn nghĩ cả bệnh nhân và gia đình sẽ
được hưởng lợi từ chương trình hỗ trợ
cuộc sống, giả sử rằng nó sẵn có và tài
chính cho phép?
MK: Ngoài bệnh cấp tính hoặc liên quan
đến bệnh cấp tính, chúng ta phải đối phó
với?
PR: Cũng có thể bị kích phát bởi bệnh
cấp tính, nhưng tôi nghĩ nhiều hơn bất
Ths.Bs Phạm Hoàng Thiên 34 Group "Cập nhật Kiến thức Y khoa"