1. Chương I
ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC
I. KHOA HỌ C
1. Khái niệ m
Khoa học được hiểu là “hệ thống tri thức về mọi
loại quy luật của vật chất và sự vận động của vật
chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy”.
Hệ thống tri thức được nói ở đây là hệ thống tri
thức khoa học, khác với tri thức kinh nghiệm.
2. -Tri thứ c kinh nghiệ m
• Được tích lũy một cách ngẫu nhiên từ trong đời sống
hằng ngày.
• Con người có được những hình dung thực tế về các sự
vật, biết cách phản ứng trước tự nhiên, biết ứng xử trong
các quan hệ xã hội.
• Ngày càng trở nên phong phú, chứa đựng những mặt
đúng đắn, nhưng riêng biệt, chưa thể đi sâu vào bản chất
các sự vật.
• Chỉ giúp cho con người phát triển đến một khuôn khổ
nhất định.
Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm luôn là một cơ sở quan
trọng cho sự hình thành các tri thức khoa học.
3. -Tri thứ c khoa họ c
• Được tích lũy một cách hệ thống nhờ hoạt động
nghiên cứu khoa học.
• Là loại hoạt động được vạch sẵn theo một mục
tiêu xác định và được tiến hành dựa trên những
phương pháp khoa học.
• Không phải là sự kế tục giản đơn các tri thức
kinh nghiệm, mà là sự tổng kết những tập hợp
số liệu và sự ngẫu nhiên, rời rạc để khái quát
hóa thành cơ sở lý thuyết về các liên hệ bản
chất.
4. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các
bộ môn khoa học (diclipline) chẳng hạn triết học, sử
học, kinh tế học, toán học, vật lý học, hóa học, sinh
học,…
2. Phân loạ i khoa họ c
• là sự phân chia các bộ môn khoa học thành
những nhóm các bộ môn khoa học theo cùng
một tiêu thức nào đó.
• là để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức.
Có nhiều cách phân loại, mỗi cách phân loại dựa
trên một tiêu thức có một ý nghĩa ứng dụng nhất
định.
5. a) Phân loạ i theo phươ ng pháp hình thành khoa
họ c
Tiêu thức phân loại là phương pháp hình thành cơ sở
lý thuyết của bộ môn khoa học. Khoa học tiền
nghiệm, là những bộ môn khoa học được hình
thành dựa trên những tiên đề hoặc hệ tiên đề, ví
dụ: hình học, lý thuyết tương đối.
• Khoa học hậu nghiệm, là những bộ môn khoa học
được hình thành dựa trên quan sát hoặc thực
nghiệm, ví dụ: xã hội học, vật lý học thực nghiệm.
6. • Khoa học phân lập, là những bộ môn khoa
học được hình thành dựa trên những sự phân
chia đối tượng ngiên cứu của một bộ môn
khoa học vốn tồn tại thành những đối tượng
nghiên cứu hẹp hơn, ví dụ: khảo cổ học được
phân lập từ sử học, cơ học được phân lập từ
vật lý học.
• Khoa học tích hợp, là những bộ môn khoa học
được hình thành dựa trên sự hợp nhất về cơ
sở lý thuyết hoặc phương pháp luận của hai
hoặc nhiều bộ môn khoa học khác nhau, ví
dụ: kinh tế học chính trị được tích hợp từ kinh
tế học và chính trị học, hóa lý được tích hợp
từ hóa học và vật lý học.
7. b) Phân loạ i theo đố i tượ ng nghiên cứ u củ a khoa họ c
8. Để tiện sử dụng, mô hình này đã được tuyến tính hóa
theo trình tự sau:
• Khoa học tự nhiên và khoa học trừu tượng (hoặc
khoa học chính xác).
• Khoa học kỹ thuật và công nghệ, ví dụ: kỹ thuật
điện tử, kỹ thuật di truyền.
• Khoa học nông nghiệp, bao gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản.
• Khoa học sức khỏe, ví dụ: dịch tễ học, bệnh học.
• Khoa học xã hội và nhân văn, ví dụ: sử học, ngôn
ngữ học.
• Triết học, bao gồm cả các khoa học về tư duy như
logic học.
9. 3. Các giai đoạ n phát triể n củ a tri thứ c khoa họ c
10. • Phươ ng hướ ng khoa họ c (scientific
orientation) là một tập hợp những nội dung
nghiên cứu thuộc một hoặc một số lĩnh vực
khoa học, được định hướng theo một hoặc
một số mục tiêu về lý thuyết hoặc phương
pháp luận.
• Trườ ng phái khoa họ c (scientific school) là
một phương hướng khoa học được phát triển
đến một cách nhìn mới hoặc một góc nhìn
mới đối với đối tượng nghiên cứu, là tiền đề
cho sự hình thành một hướng mới về lý
thuyết hoặc phương pháp luận.
11. • Bộ môn khoa họ c (scientific discipline) là hệ
thống lý thuyết hoàn chỉnh về một đối tượng
nghiên cứu.
• Ngành khoa họ c (specialty) là một lĩnh vực
hoạt động xã hội về nghiên cứu khoa học
hoặc một lĩnh vực đào tạo. Chẳng hạn, khi nói
“chuyên gia ngành luật” có nghĩa là người
hoạt động trong ngành luật, đã nắm vững
hàng loạt bộ môn khoa học về luật, như luật
dân sự, luật quốc tế, luật học so sánh,…
12. 4. Tiêu chí nhậ n biế t mộ t bộ môn khoa họ c
• Tiêu chí 1. Có mộ t đố i tượ ng nghiên cứ u. Đối
tượng nghiên cứu là bản chất sự vật được đặt
trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học.
• Tiêu chí 2. Có mộ t hệ thố ng lý thuyế t. Lý thuyết là
một hệ thống tri thức khoa học bao gồm khái niệm,
phạm trù, quy luật. Hệ thống lý thuyết của bộ môn
khoa học thường gồm hai bộ phận: bộ phận riêng
có và bộ phận kế thừa từ các khoa học khác.
13. • Tiêu chí 3. Có mộ t hệ thố ng phươ ng pháp
luậ n. Phương pháp luận hiện được hiểu hai
nghĩa: (1) Lý thuyết về phương pháp; (2) Hệ
thống các phương pháp. Phương pháp luận
của của một bộ môn khoa học bao gồm hai
bộ phận: phương pháp luận riêng có và
phương pháp luận thâm nhập từ các bộ môn
khoa học khác nhau.
14. • Tiêu chí 4. Có mụ c đích ứ ng dụ ng. Do khoảng
cách giữa nghiên cứu và áp dụng ngày càng
rút ngắn về không gian giữa phòng thí nghiệm
nghiên cứu với cơ sở sản xuất và thời gian từ
nghiên cứu đến áp dụng, mà người ta ngày
càng dành nhiều mối quan tâm tới mục đích
ứng dụng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp
người nghiên cứu chưa biết trước mục đích
ứng dụng. Vì vậy, không nên vận dụng một
cách máy móc tiêu chí này.
15. • Tiêu chí 5. Có mộ t lị ch sử nghiên cứ u. Lịch sử
nghiên cứu của một bộ môn khoa học thường
có thể bắt nguồn từ một bộ môn khoa học
khác. Trong giai đoạn tiếp sau, với sự hoàn
thiện về lý thuyết và phương pháp luận,
những bộ môn khoa học độc lập ra đời, tách
khỏi khuôn khổ bộ môn khoa học cũ. Tuy
nhiên, không phải mọi bộ môn khoa học đều
có lịch sử phát triển như vậy. Vì vậy, cũng
không nên vận dụng máy móc tiêu chí này.
16. II NGHIÊN CỨ U KHOA HỌ C
1. Khái niệ m
Nghiên cứu khoa học
- là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm
kiếm những điều mà khoa học chưa biết.
- hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển
nhận thức khoa học về thế giới.
- hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương
tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới.
17. 2. Phân loạ i nghiên cứ u khoa họ c
1) Phân loạ i theo chứ c năng nghiên cứ u
• Nghiên cứ u mô tả, là những nghiên cứu nhằm đưa ra
một hệ thống tri thức về nhận dạng sự vật giúp con
người phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa
sự vật này với sự vật khác. Nội dung mô tả có thể bao
gồm mô tả hình thái, động thái, tương tác; mô tả định
tính tức các đặc trưng về chất của sự vật; mô tả định lượng
nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật.
• Nghiên cứ u giả i thích, là những nghiên cứu nhằm làm
rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và quy luật chi
phối quá trình vận động của sự vật. Nội dung của giải
thích có thể bao gồm giải thích nguồn gốc; động thái;
cấu trúc; tương tác; hậu quả; quy luật chung chi phối
quá trình vận động của sự vật.
18. • Nghiên cứ u dự báo, là những nghiên cứu nhằm
nhận dạng trạng thái của sự vật trong tương lai.
Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch,
kể cả trong nghiên cứu tự nhiên và xã hội. Sự sai
lệch trong các kết quả dự báo có thể do nhiều
nguyên nhân: sai lệch khách quan trong kết quả
quan sát; sai lệch do những luận cứ bị biến dạng
trong sự tác động của các sự vật khác; môi trường
cũng luôn có thể biến động,…
• Nghiên cứ u sáng tạ o, là loại nghiên cứu nhằm
làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Khoa
học không bao giớ dừng lại ở mô tả, giải thích và
dự báo mà luôn hướng vào sự sáng tạo các giải
pháp cải tạo thế giới.
19. 2). Phân loạ i theo tính chấ t củ a sả n phẩ m nghiên cứ u
-Nghiên cứ u cơ bả n (fundamental research) là những nghiên cứu
nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật, t ương
tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật
khác. Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá, phát
hiện, phát minh, dẫn đến việc hình thành một hệ thống lý
thuyết có giá trị tổng quát, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh
vực khoa học, chẳng hạn, Newton phát minh định luật hấp dẫn
vũ trụ; Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư. Nghiên cứu cơ
bản được phân thành hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần túy và
nghiên cứu cơ bản định hướng.
• Nghiên cứ u cơ bả n thuầ n túy, còn gọi là nghiên cứu cơ bản tự
do, hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng, là những nghiên
cứu về bản chất sự vật để nâng cao nhận thức, chưa có hoặc
chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng.
• Nghiên cứ u cơ bả n đị nh hướ ng, là những nghiên cứu cơ bản đã
dự kiến trước mục đích ứng dụng. Các hoạt động đều tra cơ bản
tài nguyên, kinh tế, xã hội,… đều có thể xem là nghiên c ứu c ơ
bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản định hướng được phân chia
thành nghiên cứu nền tảng (background research) và nghiên cứu
chuyên đề (thematic research).
20. • Nghiên cứ u nề n tả ng, là những nghiên cứu
về quy luật tổng thể của một hệ thống sự
vật. Hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và
các điều kiện thiên nhiên như địa chất,
nghiên cứu đại dương, khí quyển, khí tượng;
điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội đều thuộc
loại nghiên cứu nền tảng.
• Nghiên cứ u chuyên đề, là nghiên cứu về một
hiện tượng đặc biệt của sự vật, ví dụ trạng
thái plasma của vật chất, bức xạ vũ trụ, gen di
truyền. Nghiên cứu chuyên đề vừa dẫn đến
hình thành những cơ sở lý thuyết, mà còn dẫn
đến những ứng dụng có ý nghĩa thực tiễn.
21. • Nghiên cứ u ứ ng dụ ng (applied research) là sự vận
dụng quy luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản
để giải thích một sự vật; tạo ra những nguyên lý mới
về các giải pháp và áp dụng chúng vào sản xuất và
đời sống. Giải pháp được hiểu theo một nghĩa rộng
nhất của thuật ngữ này: có thể là một giải pháp về
công nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một
số giải pháp công nghệ có thể trở thành sáng chế.
Cần lưu ý rằng, kết quả của nghiên cứu ứng dụng thì
chưa ứng dụng được. Để có thể đưa kết quả nghiên
cứu ứng dụng vào sử dụng thì còn phải tiến hành
một loại hình nghiên cứu khác, có tên gọi là triển
khai.
22. • Triể n khai, (development), còn gọi là triển khai thực
nghiệm hoặc triển khai thực nghiệm kỹ thuật, là sự
vận dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ
bản) và các nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng
dụng) để đưa ra các hình mẫu với những tham số
khả thi về kỹ thuật. Điều cần lưu ý là, kết quả triển
khai thì chưa triển khai được (!). Sản phẩm của triển
khai chỉ mới là những hình mẫu khả thi kỹ thuật,
nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật. Để áp
dụng được, còn phải tiến hành nghiên cứu những
tính khả thi khác, như khả thi tài chính, khả thi kinh
tế, khả thi môi trường, khả thi xã hội. Hoạt động
triển khai gồm triển khai trong phòng và triển khai
bán đại trà.
23. • Triể n khai trong phòng, là loại hình triển khai nhằm
khẳng định kết quả sao cho ra được sản phẩm, chưa
quan tâm đến quy mô áp dụng. Trong những nghiên
cứu về công nghệ, loại hình này được thực hiện
trong các phòng thí nghiệm, labô công nghệ, nhà
kính (trong nghiên cứu nông nghiệp). Trên một quy
mô lớn hơn, hoạt động triển khai cũng được tiến
hành trong các xưởng thực nghiệm (pilot workshop)
thuộc viện hoặc xí nghiệp sản xuất.
• Triể n khai bán đạ i trà, còn gọi là pilot trong các
nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và khoa
học công nghệ, là một dạng triển khai nhằm kiểm
chứng giả thuyết về hình mẫu trên một quy nhất
định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà, trong
nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và khoa
học công nghệ được gọi là quy mô bán công nghiệp.
24.
25. III ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨ U KHOA HỌ C
1. Kháiniệ m đề tài
Đề tài là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa
học, được đặc trưng bởi một nhiệm vụ nghiên cứu
và do một người hoặc một nhóm người thực hiện.
Một số hình thức tổ chức nghiên cứu khác, tuy
không hoàn toàn mang tính chất nghiên cứu khoa
học, nhưng có những đặc điểm tương tự với đề tài
khoa học, chẳng hạn: chương trình, dự án, đề án.
Có thể phân biệt chúng như sau:
• Đề tài định hướng vào việc trả lời những câu hỏi về
ý nghĩa học thuật, có thể chưa quan tâm nhiều đến
việc hiện thực hóa trong hoạt động thực tế.
26. • Dự án là một loại đề tài có mục đích ứng
dụng xác định, cụ thể về kinh tế và xã hội. Dự
án có những đòi hỏi khác đề tài như: đáp ứng
một nhu cầu đã được nêu ra; chịu sự ràng
buộc của kỳ hạn và thường là ràng buộc về
nguồn lực; phải thực hiện trong một bối cảnh
không chắc chắn.
27. • Đề án là loại văn kiện được xây dựng để trình
một cấp quản lý hoặc một cơ quan tài trợ để
xin thực hiện một công việc nào đó, chẳng
hạn, xin thành lập một tổ chức; xin cấp tài trợ
cho một hoạt động xã hội. Sau khi một đề án
được phê chuẩn, sẽ có thể xuất hiện những
dự án, chương trình, đề tài hoặc tổ chức hoặc
những hoạt động kinh tế, xã hội theo yêu cầu
của đề án.
28. • Chươ ng trình là một nhóm các đề tài hoặc dự
án, được tập hợp theo một mục đích xác
định. Giữa chúng có thể có tính độc lập tương
đối cao. Tiến độ thực hiện đề tài, dự án trong
chương trình không có sự đòi hỏi quá cứng
nhắc, nhưng những nội dung của một chương
trình thì phải luôn đồng bộ.
29. 2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u
Nhiệm vụ nghiên cứu là một chủ đề mà người nghiên cứu (hoặc
nhóm nghiên cứu) thực hiện. Có nhiều nguồn nhiệm vụ:
• Chủ trươ ng phát triể n kinh tế và xã hộ i củ a quố c gia được
ghi trong các văn kiện chính thức của các cơ quan có thẩm
quyền. Người nghiên cứu có thể tìm kiếm “thị trường” trong
những nhiệm vụ thuộc loại này.
• Nhiệ m vụ đượ c giao từ cơ quan cấ p trên của cá nhân hoặc
tổ chức nghiên cứu. Đối với nguồn nhiệm vụ này, người
nghiên cứu không óc sự chọn lựa mà phải làm theo yêu cầu.
• Nhiệ m vụ đượ c nhậ n từ hợ p đồ ng vớ i các đố i tác. Đối tác
có thể là doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội hoặc cơ quan
chính phủ. Nguồn này thường dẫn đến những nguồn thu
nhập cao, tạo tiền đề phát triển nguồn lực nghiên cứu.
• Nhiệ m vụ do ngườ i nghiên cứ u tự đặ t cho mình xuất phát
từ những ý tưởng khoa học của người nghiên cứu. Khi có
điều kiện (chẳng hạn về kinh phí) thì người nghiên cứu biến
những ý tưởng đó thành một đề tài.
30. 3. Khách thể nghiên cứ u, đố i tượ ng nghiên cứ u, đố i tượ ng khả o sát
Khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát là
những khái niệm công cụ luôn được sử dụng trong quá trình thực
hiện một đề tài.
• Đố i tượ ng nghiên cứ u là bản chất sự vật hoặc hiện tượng cần
được xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Ví dụ:
• Đối tượng nghiên cứu của triết học là các quy luật phổ quát của sự
vật.
• Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Thủ pháp phức điệu trong các
bản giao hưởng của Becthoven” là thủ pháp phức điệu.
• Khách thể nghiên cứ u là hệ thống sự vật tồn tại khách quan trong
các mối liên hệ mà người nghiên cứu cần khám phá, là vật mang
đối tượng nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu chính là nơi chứa
đựng những câu hỏi mà người nghiên cứu cần tìm câu trả lời. Ví
dụ:
• Khách thể nghiên cứu của đề tài “Sử dụng thời gian nhàn rỗi c ủa
sinh viên” là các trường đại học.
• Khách thể nghiên cứu của đề tài “Xác định biện pháp hạn chế rủi ro
của các ngân hàng thương mại quốc doanh” là các ngân hàng
31. • Đố i tượ ng khả o sát là một bộ phận đủ đại diện của
khách thể nghiên cứu được người nghiên cứu lựa
chọn để xem xét. Không bao giờ người nghiên cứu
có thể đủ quỹ thời gian và kinh phí để khảo sát trên
toàn bộ khách thể.
• Trong đề tài “Xây dựng biện pháp hạn chế rủi ro tín
dụng ở các ngân hàng thương mại quốc doanh”, thì
đối tượng khảo sát là một số ngân hàng thương mại
quốc doanh được chọn để nghiên cứu.
• Trong đề tài nghiên cứu âm nhạc về : “Thủ pháp
phức điệu trong các bản giao hưởng của
Becthoven”, thì khách thể nghiên cứu và điố tượng
nghiên cứu trong trường hợp này có thể trùng nhau,
vì người nghiên cứu có thể nghiên cứu trên tất cả
các bản giao hưởng của Becthoven.
32.
33. • Một khách thể nghiên cứu hoặc một đối tượng khảo
sát có thể phục vụ cho nhiều đối tượng nghiên cứu
khác nhau. Chẳng hạn, các ngân hàng thương mại
quốc doanh có thể là đối tượng nghiên cứu về các
biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng, nhưng lại có th ể là
đối tượng nghiên cứu về công nghệ ngân hàng, công
nghệ thông tin, thậm chí về tố chức và quản lý doanh
nghiệp,…
• Phạ m vi nghiên cứ u. Không phải đối tượng nghiên
cứu và đối tượng khảo sát được xem xét một cách
toàn diện trong mọi thời gian, mà nó được giới h ạn
trong một số phạm vi nhất định: phạm vi về quy mô
của đối tượng; phạm vi về không gian của sự vật;
phạm vi thời gian của tiến trình của sự vật.
34. 4. Mụ c tiêu và mụ c đích nghiên cứ u
Mục tiêu (Objective) và mục đích (aim hoặc
purpose) là những khái niệm then chốt trong
nghiên cứu khoa học:
• Mụ c tiêu là cái đích về nội dung mà người nghiên
cứu vạch ra để định hướng nỗ lực tìm kiếm. Mục
tiêu là những điều cần làm trong công việc nghiên
cứu. Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái gì?”.
• Mụ c đích là ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu, là
đối tượng phục vụ của sản phẩm nghiên cứu.
Mục đích trả lời câu hỏi “nhằm vào việc gì?”,
hoặc “để phục vụ cho cái gì?”.
35. • Mỗi đề tài nghiên cứu đều có một hoặc một
số mục tiêu xác định, nhưng chưa hẳn đã có
mục đích xác định. Ví dụ, đại số Boole trong
suốt một thế kỷ rưỡi không trả lời được câu
hỏi “Nghiên cứu để làm gì?” Chỉ đến khi xuất
hiện chiếc máy tính điện tử đầu tiên, người ta
mới biết được nó đóng vai trò quan trọng như
thế nào trong việc đảm bảo toán học cho sự
vận hành của máy tính.
36. 5. Mộ tsố thành tự u khoa họ c đặ c biệ t
Một số sản phẩm đặc biệt của nghiên cứu,
như phát hiện, phát minh, sáng chế, là những
khái niệm cần hiểu đúng trong giới hạn
nghiên cứu và trên các diễn đàn, bởi vì nó
đụng chạm đến nhiều vấn đề công nghệ, kinh
tế, pháp lý và xã hội.
37. • Phát minh. Phát minh (tiếng Anh-discovery) là sự
khám phá ra những quy luật, những tính chất
hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn
tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết,
nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức con người.
Ví dụ, Archimède phát minh định luật sức nâng
của nước; Lebedev phát minh tính chất áp suất
của ánh sáng, Nguyễn Văn Hiệu phát minh quy
luật bất biến tiết diện của các quá trình sinh hạt.
Phát minh là khám phá về quy luật khách quan,
chưa có ý nghĩa áp dụng trực tiếp vào sản xuất
hoặc đời sống. Vì vậy, phát minh không có giá trị
thương mại, không được cấp bằng phát minh và
không được bảo hộ pháp lý.
38. • Phát hiệ n. Phát hiện (tiếng Anh cũng là discovery) là
sự khám phá ra những vật thể, những quy luật xã
hội đang tồn tại một cách khách quan. Ví dụ, Kock
phát hiện vi trùng lao, Marie Curie phát hiện nguyên
tố phóng xạ radium. Christoph Colomb phát hiện
châu Mỹ , Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư.
Adam Smith phát hiện quy luật “bàn tay vô hình”
của kinh tế thị trường. Phát hiện, cũng chỉ mới là sự
khám phá các vật thể hoặc các quy luật xã hội, làm
thay đổi nhận thức, chưa thể áp dụng trực tiếp, chỉ
có thể áp dụng thông qua các giải pháp. Vì vậy, phát
hiện cũng không có giá trị thương mại, không cấp
bằng và không được bảo hộ pháp lý.
39. • Sáng chế . Sáng chế là loại thành tựu trong
khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong khoa
học xã hội và nhân văn không có sản phẩm
loại này, song các nhà khoa học xã hội luôn
phải bàn đến sáng chế khi phân tích ý nghĩa
kinh tế, pháp lý và xã hội của sáng chế.
40. • Sáng chế (tiếng Anh, tiếng Pháp – invention) là
một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên
lý kỹ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được. Ví dụ,
máy hơi nước của Jame Watt, công thức thuốc
nổ TNT của Nobel. Vì sáng chế có khả năng áp
dụng, nên có ý nghĩa thương mại, được cấp bằng
sáng chế (patent), có thể mua bán patent hoặc ký
kết các hợp đồng cấp giấy phép sử dụng (hợp
đồng licence) cho người có nhu cầu, và được bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp.
41.
42. Chương II
ĐẠI CƯƠNG VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2.1. KHÁI NIỆ M NGHIÊN CỨ U KHOA HỌ C
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người,
nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh ngày càng
tăng lên và tưởng chừng như không bao giờ
ngừng.
43. Chẳng hạn:
• Con người từ đâu đến và con người sẽ đi về đâu?
• Đâu là giới hạn của vũ trụ? Có một nền văn minh nào
ngoài trái đất của chúng ta? Chẳng lẽ Trái Đất là nơi có
một nền văn minh duy nhất trong vũ trụ?
• Thế giới này sẽ phát triển đến một giới hạn hay là sẽ
phát triển đến vô cùng?
• Thời gian là vô thuỷ vô chung, hay là có điểm khởi đầu
và có điểm tận cùng?
• v.v…
Những câu hỏi như thế là vô cùng tận. Trả lời mỗi câu
hỏi ấy là những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm
túc.
44. • Như vậy, nghiên cứu khoa học là sự phát hiện
bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học
về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới
và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự
vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con
người.
45. Có thể định nghĩa, nghiên cứu khoa học là quá
trình hình thành và chứng minh luận điểm
khoa học về một sự vật hoặc hiện tượng cần
khám phá.Cho ví dụ đối với ngành CNSH
46. 2.2. CÁC ĐẶ C ĐIỂ M CỦ A NGHIÊN CỨ U KHOA
HỌ C
Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là
sự tìm tòi những sự vật, hiện tượng mà khoa học
chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng
loạt đặc điểm khác nhau của nghiên cứu khoa
học, mà người nghiên cứu cần quan tâm khi xử lý
những vấn đề cụ thể về mặt phương pháp luận
nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu.
47. 2.2.1. Tính mớ i
Trong nghiên cứu khoa học không có sự lặp lại
như cũ những phát hiện hoặc sáng tạo mà các
đồng nghiệp đi trước đã thực hiện.
Tính mới là tính quan trọng số một của nghiên
cứu khoa học.
48. 2.2.2. Tính tin cậ y
Một kết quả nghiên cứu đạt được nhờ một
phương pháp nào đó phải có khả năng kiểm chứng
lại nhiều lần trong những điều kiện quan sát hoặc
thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những kết
quả thu được hoàn toàn giống nhau. Một kết quả
thu được ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đã
đặt ra trước đó cũng chưa thể xem là đủ tin cậy để
kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
Điều này đẫn đến một nguyên tắc mang tính
phương pháp luận của nghiên cứu khoa học, là khi
trình bày một kết quả nghiên cứu, người nghiên
cứu cần chỉ rõ những điều kiện, các nhân tố và
phương tiện thực hiện (nếu có).
49. 2.2.3. Tính thông tin
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện
dưới nhiều dạng, có thể đó là một báo cáo khoa
học, một tác phẩm khoa học, song cũng có thể là
một mẫu vật liệu mới, mô hình thí điểm về một
phương thức tổ chức sản xuất mới, v.v…Tuy nhiên,
trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa
học luôn mang đặc trưng thông tin. Đó là những
thông tin về quy luật vận động của sự vật, thông
tin về quy luật vận động của sự vật, thông tin về
một quá trình xã hội hoặc quy trình công nghệ và
các tham số đặc trưng cho quy trình đó.
50. 2.2.4. Tính khách quan
• Tính khách quan vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa
học, vừa là một tiêu chuẩn về phẩm chất của người nghiên
cứu khoa học. Trong xã hội học khoa học (sociology of
science), người ta xem đó là một chuẩn mực giá trị. Một
nhận định vội vã theo tình cảm, một kết luận thiếu các xác
nhận bằng kiểm chứng chưa thể xem là một phản ánh
khách quan về bản chất của sự vật, hiện tượng.
• Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu cần phải
luôn đặt các câu hỏi ngược lại những kết luận đã được xác
nhận. Ví dụ:
• Kết quả có thể khác không?
• Nếu kết quả là đúng, thì đúng trong những điều kiện nào?
• Còn phương pháp nào cho kết quả tốt hơn?
51. 2.2.5. Tính rủ i ro
Quá trình khám phá bản chất sự vật và sáng
tạo sự vật mới hoàn toàn có thể gặp thất bại.
Đó là tính rủi ro (risque) của nghiên cứu. Sự
thất bại trong nghiên cứu khoa học có thể do
nhiều nguyên nhân, chẳng hạn, thiếu những
thông tin cần thiết và đủ tin cậy; trình độ kỹ
thuật của thiết bị quan sát hoặc thí nghiệm
thấp; năng lực xử lý thông tin của người
nghiên cứu còn hạn chế; giả thuyết khoa học
đặt ra là sai do những tác nhân bất khả
kháng, v.v….
52. Ngay khi kết quả nghiên cứu đã được thử nghiệm
thành công cũng vẫn gặp những rủi ro trong áp
dụng. Hai trường hợp có thể xảy ra là:
• Thứ nhất, kỹ thuật chưa được làm chủ, khi triển
khai áp dụng trong phạm vi mở rộng không thành
công.
• Thứ hai, ngay cả khi đã thử nghiệm thành công
thì vẫn không thể đi đến quyết định áp dụng vì
một nguyên nhân xã hôị nào đó.
53. • Tuy nhiên, trong khoa học, thất bại cũng được xem
là một kết quả. Kết quả ấy cũng mang một ý nghĩa
là một kết luận của nghiên cứu khoa học, mà nội
dung là các giả thuyết đã đặt ra không được xác
nhận về mặt khoa học, nghĩa là trong sự vật không
tồn tại quy luật hoặc giải pháp như đã dự kiến. Xét
về ý nghĩa khoa học, đây là một kết quả quan
trọng. Nó giúp cho các đồng nghiệp đi sau khỏi
dẫm chân lên lối mòn, lãng phí các nguồn lực
nghiên cứu.
54. 2.2.6. Tính kế thừ a
Ngày nay không còn một công trình nghiên cứu khoa học
nào bắt đầu từ chỗ hoàn toàn trống không về kiến thức.
Mỗi nghiên cứu phải kế thừa các kết quả nghiên cứu trong
các lĩnh vực khoa học khác nhau rất xa.
Tính kế thừa có một ý nghĩa quan trọng về mặt phương
pháp luận nghiên cứu: một người nghiên cứu chân chính
không bao giờ đóng cửa cố thủ trong những lý luận và
phương pháp luận “riêng có”, “của mình” mà bài xích sự
thâm nhập về lý luận và phương pháp luận từ các lĩnh vực
khoa học dù rất khác nhau. Hàng loạt phương hướng
nghiên cứu mới và bộ môn khoa học mới xuất hiện chính là
kết quả kế thừa lẫn nhau giữa các bộ môn khoa học.
55. 2.2.7. Tính cá nhân
Dù là một công trình nghiên cứu khoa học do
một tập thể thực hiện thì vai trò cá nhân trong
sáng tạo cũng mang tính quyết định. Tính cá
nhân được thể hiện trong tư duy cá nhân, nỗ lực
cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.
56. Chương 3
“VẤ N ĐỀ ” NGHIÊN CỨ U KHOA HỌ C
3.1. Bả n chấ t củ a quan sát
Trước đây, con người dựa vào niềm tin để giải thích những
gì thấy được xảy ra trong thế giới xung quanh mà không có
kiểm chứng hay thực nghiệm để chứng minh tính vững
chắc của những quan niệm, tư tưởng, học thuyết mà họ
đưa ra. Ngoài ra, con người cũng không sử dụng phương
pháp khoa học để có câu trả lời cho câu hỏi.
57. • Thí dụ ở thời đại của Aristotle (thế kỷ IV trước
công nguyên), con người (kể cả một số nhà
khoa học) tin rằng: các sinh vật đang sống có
thể tự xuất hiện, các vật thể trơ (không có sự
sống) có thể biến đổi thành vật thể hay sinh
vật sống, và cho rằng con trùn, bọ, ếch nhái,…
xuất hiện từ bùn lầy, bụi đất khi ngập lũ xảy
ra.
58. • Ngày nay, các nhà khoa học không ngừng
quan sát, theo dõi sự vật, hiện tượng, qui luật
của sự vận động, mối quan hệ, … trong thế
giới xung quanh và dựa vào kiến thức, kinh
nghiệm hay các nghiên cứu có trước để khám
phá, tìm ra kiến thức mới, giải thích các qui
luật vận động, mối quan hệ giữa các sự vật
một cách khoa học.
59. • Bản chất của quan sát là cảm giác được cảm nhận
nhờ giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác,
khướu giác và vị giác. Các giác quan nầy giúp cho
nhà nghiên cứu phát hiện hay tìm ra “vấn đề”
NCKH. Khi quan sát phải khách quan, không được
chủ quan, vì quan sát chủ quan thường dựa trên
các ý kiến cá nhân và niềm tin thì không thuộc lĩnh
vực khoa học.
• Tóm lại, quan sát hiện tượng, sự vật là quá trình
mà ý nghĩ hay suy nghĩ phát sinh trước cho bước
đầu làm NCKH. Việc quan sát kết hợp với kiến thức
có trước của nhà nghiên cứu là cơ sở cho việc hình
thành câu hỏi và đặt ra giả thuyết để nghiên cứu.
60. 3.2. “Vấ n đề ” nghiên cứ u khoa họ c
3.2.1. Đặ t câu hỏ i
Bản chất của quan sát thường đặt ra những câu hỏi, từ đó
đặt ra “vấn đề” nghiên cứu cho nhà khoa học và người
nghiên cứu. Câu hỏi đặt ra phải đơn giản, cụ thể, rõ ràng
(xác định giới hạn, phạm vi nghiên cứu) và làm sao có thể
thực hiện thí nghiệm để kiểm chứng, trả lời. Thí dụ, câu
hỏi: “Có bao nhiêu học sinh đến trường hôm nay?”. Câu trả
lời được thực hiện đơn giản bằng cách đếm số lượng học
sinh hiện diện ở trường. Nhưng một câu hỏi khác đặt ra:
“Tại sao bạn đến trường hôm nay?”. Rõ ràng cho thấy
rằng, trả lời câu hỏi này thực sự hơi khó thực hiện, thí
nghiệm khá phức tạp vì phải tiến hành điều tra học sinh.
61. • Cách đặt câu hỏi thường bắt đầu như sau:
Làm thế nào, bao nhiêu, xảy ra ở đâu, nơi
nào, khi nào, ai, tại sao, cái gì, …? Đặt câu hỏi
hay đặt “vấn đề” nghiên cứu là cơ sở giúp nhà
khoa học chọn chủ đề nghiên cứu (topic)
thích hợp. Sau khi chọn chủ đề nghiên cứu,
một công việc rất quan trọng trong phương
pháp nghiên cứu là thu thập tài liệu tham
khảo (tùy theo loại nghiên cứu mà có phương
pháp thu thập thông tin khác nhau).
62. 3.2.2. Phân loạ i “vấ n đề ” nghiên cứ u khoa
họ c
Sau khi đặt câu hỏi và “vấn đề” nghiên cứu
khoa học đã được xác định, công việc tiếp
theo cần biết là “vấn đề” đó thuộc loại câu
hỏi nào. Nhìn chung, “vấn đề” được thể hiện
trong 3 loại câu hỏi như sau:
a/ Câu hỏi thuộc loại thực nghiệm.
b/ Câu hỏi thuộc loại quan niệm hay nhận
thức.
c/ Câu hỏi thuộc loại đánh giá.
63. a/ Câu hỏ i thuộ c loạ i thự c nghiệ m
Câu hỏi thuộc loại thực nghiệm là những câu
hỏi có liên quan tới các sự kiện đã xảy ra hoặc
các quá trình có mối quan hệ nhân-quả về thế
giới của chúng ta. Để trả lời câu hỏi loại nầy,
chúng ta cần phải tiến hành quan sát hoặc
làm thí nghiệm; Hoặc hỏi các chuyên gia, hay
nhờ người làm chuyên môn giúp đở. Câu hỏi
thuộc loại nầy có trong các lãnh vực như sinh
học, vật lý, hóa học, kinh tế, lịch sử,…
64. • Thí dụ: Cây lúa cần bao nhiêu phân N để phát
triển tốt? Một số câu hỏi có thể không có câu
trả lời nếu như không tiến hành thực nghiệm.
Thí dụ, loài người có tiến hóa từ các động vật
khác hay không? Câu hỏi này có thể được trả lời
từ các NCKH nhưng phải hết sức cẩn thận, và
chúng ta không có đủ cơ sở và hiểu biết để trả
lời câu hỏi nầy. Tất cả các kết luận phải dựa trên
độ tin cậy của số liệu thu thập trong quan sát và
thí nghiệm. Những suy nghĩ đơn giản, nhận thức
không thể trả lời câu hỏi thuộc loại thực nghiệm
nầy mà chỉ trả lời cho các câu hỏi thuộc về loại
quan niệm.
65. b/ Câu hỏ i thuộ c loạ i quan niệ m hay nhậ n
thứ c
Loại câu hỏi này có thể được trả lời bằng
những nhận thức một cách logic, hoặc chỉ là
những suy nghĩ đơn giản cũng đủ để trả lời
mà không cần tiến hành thực nghiệm hay
quan sát. Thí dụ “Tại sao cây trồng cần ánh
sáng?”. Suy nghĩ đơn giản ở đây được hiểu là
có sự phân tích nhận thức và lý lẽ hay lý do,
nghĩa là sử dụng các nguyên tắc, qui luật,
pháp lý trong xã hội và những cơ sở khoa học
có trước. Cần chú ý sử dụng các qui luật, luật
lệ trong xã hội đã được áp dụng một cách ổn
định và phù hợp với “vấn đề” nghiên cứu.
66. c/ Câu hỏ i thuộ c loạ i đánh giá
Câu hỏi thuộc lọai đánh giá là câu hỏi thể hiện
giá trị và tiêu chuẩn. Câu hỏi này có liên quan
tới việc đánh giá các giá trị về đạo đức hoặc
giá trị thẩm mỹ. Để trả lời các câu hỏi loại
nầy, cần hiểu biết nét đặc trưng giữa giá trị
thực chất và giá trị sử dụng. Giá trị thực chất
là giá trị hiện hữu riêng của sự vật mà không
lệ thuộc vào cách sử dụng. Giá trị sử dụng là
sự vật chỉ có giá trị khi nó đáp ứng được nhu
cầu sử dụng và nó bị đánh giá không còn giá
trị khi nó không còn đáp ứng được nhu cầu sử
dụng nữa. Thí dụ: “Thế nào là hạt gạo có chất
lượng cao?”.
67. 3.2.3. Cách phát hiệ n “vấ n đề ” nghiên cứ u
khoa họ c
Các “vấn đề” nghiên cứu khoa học thường
được hình thành trong các tình huống sau:
* Quá trình nghiên cứu, đọc và thu thập tài
liệu nghiên cứu giúp cho nhà khoa học phát
hiện hoặc nhận ra các “vấn đề” và đặt ra
nhiều câu hỏi cần nghiên cứu (phát triển “vấn
đề” rộng hơn để nghiên cứu). Đôi khi người
nghiên cứu thấy một điều gì đó chưa rõ trong
những nghiên cứu trước và muốn chứng minh
lại. Đây là tình huống quan trọng nhất để xác
định “vấn đề” nghiên cứu.
68. * Trong các hội nghị chuyên đề, báo cáo khoa
học, kỹ thuật, … đôi khi có những bất đồng,
tranh cải và tranh luận khoa học đã giúp cho
các nhà khoa học nhận thấy được những mặt
yếu, mặt hạn chế của “vấn đề” tranh cải và
từ đó người nghiên cứu nhận định, phân tích
lại và chọn lọc rút ra “vấn đề” cần nghiên
cứu.
69. * Trong mối quan hệ giữa con người với con
người, con người với tự nhiên, qua hoạt động
thực tế lao động sản xuất, yêu cầu kỹ thuật,
mối quan hệ trong xã hội, cư xử, … làm cho
con người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra
những sản phẩm tốt hơn nhằm phục vụ cho
nhu cầu đời sống con người trong xã hội.
Những hoạt động thực tế này đã đặt ra cho
người nghiên cứu các câu hỏi hay người
nghiên cứu phát hiện ra các “vấn đề” cần
nghiên cứu.
70. * “Vấn đề” nghiên cứu cũng được hình thành qua
những thông tin bức xúc, lời nói phàn nàn nghe
được qua các cuộc nói chuyện từ những người
xung quanh mà chưa giải thích, giải quyết được
“vấn đề” nào đó.
* Các “vấn đề” hay các câu hỏi nghiên cứu chợt xu ất
hiện trong suy nghĩ của các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu qua tình cờ quan sát các hiện tượng của
tự nhiên, các hoạt động xảy ra trong xã hội hàng
ngày.
* Tính tò mò của nhà khoa học về điều gì đó cũng
đặt ra các câu hỏi hay “vấn đề”nghiên cứu.
71. Chươ ng III
TRÌNH TỰ LÔGIC
CỦ A NGHIÊN CỨ U KHOA HỌ C
72. 3.1. KHÁI NIỆ M CHUNG
3.1.1. Trình tự lôgic
Nghiên cứu khoa học, bất kể trong nghiên cứu khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội hoặc khoa học công nghệ đều tuân
theo một trật tự lôgic xác định, bao gồm các bước sau đây:
Lựa chọn chủ đề (topic) nghiên cứu và đặt tên đề tài.
Xác định mục tiêu (objective) nghiên cứu.
Đặt câu hỏi (question) nghiên cứu.
Đưa luận điểm, tức giả thuyết (hypothesis) nghiên cứu.
Đưa các luận cứ (evidence) để chứng minh giả thuyết.
Lựa chọn các phương pháp (methods) chứng minh giả
thuyết.
73. 3.1.2. LỰ A CHỌ N CHỦ ĐỀ VÀ ĐẶ T TÊN ĐỀ TÀI
Đề tài là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa
học, trong đó có một nhóm người (nhóm nghiên
cứu) cùng thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu có thể là một hoặc nhiều hơn
một người.
Đề tài được lựa chọn từ một sự kiện khoa học.
74. 3.1.3. Xác đị nh mụ c tiêu nghiên cứ u
Mục tiêu nghiên cứu là những nội dung cần được
xem xét và là rõ trong nghiên cứu. Mục tiêu trả lời
câu hỏi : Nghiên cứu cái gì ?
Trong một đề tài khoa học xã hội, nghiên cứu bao
giờ cũng có mục tiêu xuyên suốt, mang tính chủ
đạo, gọi là "Mục tiêu chung" ; còn các mục tiêu
khác là ‘Mục tiêu cụ thể’.
75. 3.1.4. Xác định nội dung nghiên cứu để thực
hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra.
76. 3.1. 5.Giớ i hạ n phạ m vi nghiên cứ u
Phạm vi nghiên cứu được xác định trong một giới hạn nhất
định. Có nhiều loại phạm vi được đặt ra để xem xét. Nhìn
chung, có 3 loại phạm vi cần quan tâm :
• Phạm vi về quy mô của mẫu khảo sát.
• Phạm vi về thời gian, không gian của tiến trình thực hiện.
• Phạm vi về nội dung của tiến trình thực hiện.
Khi người nghiên cứu xác định được một giới hạn hợp lý
phạm vi nghiên cứu thì sẽ tiết kiệm được các nguồn lực
phải đầu tư cho nghiên cứu, tiết kiệm thời gian dành cho
nghiên cứu. Đương nhiên, khi xác định giới hạn phạm vi
nghiên cứu phải đảm bảo rằng, kết quả nghiên cứu vẫn
trong khuôn khổ độ tin cậy cần thiết theo đúng yêu cầu
của nghiên cứu khoa học.
77. 3.2. Chứng minh luận điểm khoa học
• Muốn chứng minh một luận điểm khoa học,
người nghiên cứu phải có đầy đủ luận cứ
khoa học.
• Muốn tìm được các luận cứ và làm cho luận
cứ có sức thuyết phục người nghiên cứu phải
sử dụng những phương pháp nhất định.
Phương pháp ở đây bao gồm hai lọai : phương
pháp tìm kiếm và chứng minh luận cứ, tiếp đó
là phương pháp sắp xếp các luận cứ để chứng
minh luận điểm khoa học.
78. 3.2.1. Luậ n cứ
Để chứng minh luận điểm khoa học người nghiên
cứu cần có các luận cứ. Luận cứ là bằng chứng để
khẳng định giả thuyết của tác giả đặt ra là đúng.
Về mặt lôgic học, là phán đóan đã được chứng
minh trước khi được sử dụng để làm bằng chứng
chứng minh giả thuyết. Trong khoa học có hai lọai
luận cứ : luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tế.
79. Luận cứ lý thuyết là các luận điểm khoa học đã
được chứng minh, bao gồm các khái niệm, các
tiền đề, định lý, định luật hoặc các quy luật xã
hội, tức là các mối liên hệ đã được khoa học
chứng minh là đúng. Luận cứ lý thuyết được khai
thác từ các tài liệu, công trình khoa học của các
đồng nghiệp đi trước.
80. Việc sử dụng luận cứ lý thuyết sẽ giúp người
nghiên cứu tiết kiệm thời gian, không tốn kém
thời gian để tìm các sự kiện thực tế, chứng minh
lại những gì mà các đồng nghiệp đã chứng minh.
81. • Luận cứ thực tế được thu thập từ các sự kiện từ
trong thực tế bằng cách quan sát, thực nghiệm,
phỏng vấn, điều tra hoặc khai thác từ những báo
cáo về các công trình nghiên cứu của các đồng
nghiệp.
• Về mặt lôgic, luận cứ thực tế là các sự kiện thu
thập được từ quan sát hoặc thực nghiệm khoa
học. Toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học, là
quá trình tìm kiếm và chứng minh luận cứ.
82. 3.2.2. Phươ ng pháp tìm kiế m, chứ ng minh và sử
dụ ng luậ n cứ
Nhiệm vụ của người nghiên cứu phải làm ba việc :
tìm kiếm luận cứ, chứng minh tính đúng đắn của
bản thân luận cứ và sử dụng luận cứ để chứng
minh giả thuyết. Để là ba việc đó phải có phương
pháp. Phương pháp trả lời câu hỏi :’Chứng minh
bằng cách nào ?’
83. Trong quá trình tìm kiếm luận cứ, người nghiên cứu cần
những loại thông tin sau :
• Cơ sở lý thuyết liên quan đến nội dung nghiên cứu.
• Tài liệu thống kê và kết quả nghiên cứu của các đồng
nghiệp đi trước.
• Kết quả quan sát hoặc thực nghiệm của bản thân người
nghiên cứu.
Để có được những thông tin đó, người nghiên cứu phải
biết thu thập thông tin. Những lọai thông tin trên đây có
thể được thu thập qua các tác phẩm khoa học, sách giáo
khoa, tạp chí chuyên ngành, báo chí và các phương tiện
truyền thông, hiện vật, phỏng vấn chuyên gia trong và
ngoài ngành.
84. 3.3. XÂY DỰ NG LUẬ N ĐIỂ M KHOA HỌ C
• Luận điểm khoa học là một phán đóan đã được
chứng minh về bản chất sự vật.
• Quá trình xây dựng luận điểm khoa học bao gồm
các bước : Phát hiện vấn đề nghiên cứu ; đặt giả
thiết nghiên cứu. Giả thiết chính là luận điểm
cần chứng minh.
85. 3.3.1 Vấ n đề nghiên cứ u
Vấn đề nghiên cứu (tiếng Anh là Research Problem)
hoặc câu hỏi nghiên cứu (tiếng Anh là Research
Question) là câu hỏi được đặt ra khi người nghiên
cứu đứng trước mâu thuẫn giữa tính hạn chế của
tri thức khoa học trong lý thuyết hiện có với thực
tế mới phát sinh, đặt ra nhu cầu phát triển tri thức
đó ở trình độ cao hơn. Đặt được câu hỏi nghiên
cứu là giai đọan quan trọng trên bước đường phát
triển nhận thức.
86. Tuy nhiên, đặt câu hỏi nghiên cứu, tức là nêu vấn
đề nghiên cứu lại chính là công việc khó nhất đối
với người mới làm quen với công việc nghiên cứu.
Nhiều bạn sinh viên mới bắt đầu làm nghiên cứu
khoa học luôn phải đặt những với thầy cô như :
Nghiên cứu một đề tài khoa học nên bắt đầu từ
cái gì ? Câu trả lời trong các trường hợp này luôn
là : Hãy bắt đầu từ phát hiện vấn đề nghiên cứu,
nghĩa là đặt câu hỏi nghiên cứu.
87. • Trong nghiên cứu khoa học luôn tồn tại hai lọai
câu hỏi : Câu hỏi về bản chất sự vật cần tìm kiếm,
và câu hỏi về phương pháp nghiên cứu để làm
sáng tỏ lý thuyết và thực tiễn, để trả lời những
câu hỏi thuộc lớp thứ nhất.
• Trong nghiên cứu, câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là :
Cần chứng minh điều gì ? Như vậy, thực chất việc
phát hiện vấn đề khoa học chính là đưa ra được
những câu hỏi để làm cơ sở cho việc tìm kiếm câu
trả lời.
88. Có thể sử dụng những phương pháp sau đây để
đặt câu hỏi nghiên cứu :
• Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận
khoa học :
Khi hai đồng nghiệp bất đồng ý kiến, có thể là họ
đã nhận ra những mặt yếu của nhau. Đây là cơ
hội thuận lợi để người nghiên cứu nhận dạng
những vấn đề mà các đồng nghiệp đã phát hiện,
từ đó đặt câu hỏi nghiên cứu.
89. • Nghĩ ngược lại quan niệm thông thường
Người nghiên cứu phải luôn đặt những câu hỏi
ngược lại quan niệm thông thường.
Chẳng hạn, trong khi nhiều người cho rằng, trẻ
em suy dinh dưỡng là do các bà mẹ kém hiểu biết
về dinh dưỡng của trẻ, thì có người đã nêu câu hỏi
ngược lại : Các bà mẹ trí thức chắc chắn phải hiểu
biết về dinh dưỡng trẻ em hơn các bà mẹ nông
dân. Vậy tại sao tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong
nhóm con cái các bà mẹ tri thức lại cao hơn trong
nhóm các bà mẹ là nông dân ?
90. • Nhận dạng những vướng mắc trong họat động
thực tế :
Nhiều khó khăn nảy sinh trong họat động sản
xuất, họat động xã hội, không thể sử dụng
những biện pháp thông thường để xử lý. Thực tế
này đặt người nghiên cứu trước những câu hỏi
phải trả lời, tức là xuất hiện vấn đề, đòi hỏi
người nghiên cứu phải đề xuất những giải pháp
mới.
91. • Lắng nghe lời phàn nàn của những người
không am hiểu :
Đôi khi nhiều câu hỏi nghiên cứu xuất hiện
nhờ lời phàn nàn của người hoàn toàn không
am hiểu lĩnh vực mà người nghiên cứu quan
tâm.
Chẳng hạn, sáng chế xe điện của Edison chính
là kết quả bất ngờ sau khi ông nghe được lời
phàn nàn của một cụ già trong đêm khánh
thành mạng đèn điện chiếu sáng đầu tiên ở
một thị trấn ngọai ô của thành phố New York.
92. • Phát hiện mặt mạnh, mặt yếu trong nghiên cứu
của đồng nghiệp :
Mặt mạnh trong luận điểm, luận cứ, phương
pháp của đồng nghiệp sẽ được sử dụng làm luận
cứ hoặc phương pháp để chứng minh luận điểm
của mình ; còn mặt yếu được sử dụng để phát
hiện vấn đề (tức đặt câu hỏi nghiên cứu), từ đó
xây dựng luận điểm cho nghiên cứu của mình.
93. • Những câu hỏi bất chợt xuất hiện không phụ
thuộc lý do nào :
Đây là những câu hỏi xuất hiện ở nghiên cứu
do bất chợt quan sát được một sự kiện nào
đó, cũng có thể xuất hiện rất ngẫu nhiên,
không phụ thuộc bất cứ lý do, thời gian hoặc
không gian nào.
94. Chương IV. PHƯƠNG PHÁP KHOA HỌC
2.1. Thế nào là “khái niệ m”( concept)
-“Khái niệm” là quá trình nhận thức hay tư duy của con người
bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan sát sự vật
hiện thực tác động vào giác quan.
- Như vậy, “khái niệm” có thể hiểu là hình thức tư duy của
con người về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối
liên hệ của những đặc tính đó với nhau.
- Người NCKH hình thành các “khái niệm” để tìm hiểu mối
quan hệ giữa các khái niệm với nhau, để phân biệt sự vật này
với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự
vật hay hình thành khái niệm nhằm mục đích xây dựng cơ sở
lý luận.
95. 2.2. Phán đoán
- Trong nghiên cứu, người ta thường vận dụng
các khái niệm để phán đoán hay tiên đoán.
- Phán đoán là vận dụng các khái niệm để phân
biệt, so sánh những đặc tính, bản chất của sự
vật và tìm mối liên hệ giữa đặc tính chung và
đặc tính riêng của các sự vật đó.
96. 2.3. Suy luậ n
Có 2 cách suy luận: suy luận “suy diễn” và suy luận
“qui nạp"
2.3.1. Cách suy luậ n suy diễ n
• Theo Aristotle, kiến thức đạt được nhờ sự suy luận.
Muốn suy luận phải có tiền đề và tiền đề đó đã
được chấp nhận. Vì vậy, một tiền đề có mối quan hệ
với kết luận rất rõ ràng.
• Suy luận suy diễn theo Aristotle là suy luận đi từ cái
chung tới cái riêng, về mối quan hệ đặc biệt. Thí dụ
về suy luận suy diễn của Aristotle trong Bảng 2.1.
97.
98. 2.3.2. Suy luậ n qui nạ p
- Vào đầu những năm 1600s, Francis Bacon đã
đưa ra một phương pháp tiếp cận khác về
kiến thức, khác với Aristotle.
- Francis Bacon cho rằng, để đạt được kiến
thức mới phải đi từ thông tin riêng để đến kết
luận chung, phương pháp này gọi là phương
pháp qui nạp.
- Phương pháp qui nạp cho phép chúng ta dùng
những tiền đề riêng, là những kiến thức đã
được chấp nhận, như là phương tiện để đạt
được kiến thức mới. Thí dụ về suy luận qui
nạp trong Bảng 2.2.
99.
100. • Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã kết hợp hai
phương pháp trên hay còn gọi là “phương
pháp khoa học” (Bảng 2.3). Phương pháp
khoa học cần phải xác định tiền đề chính (gọi
là giả thuyết) và sau đó phân tích các kiến
thức có được (nghiên cứu riêng) một cách
logic để kết luận giả thuyết.
101.
102. 2.4. Cấ u trúc củ a phươ ng pháp luậ n nghiên
cứ u khoa họ c
Nghiên cứu khoa học phải sử dụng PPKH: -
Bao gồm chọn phương pháp thích hợp (luận
chứng) để chứng minh mối quan hệ giữa các
luận cứ và giữa toàn bộ luận cứ với luận đề.
- Cách đặt giả thuyết hay phán đoán sử dụng
các luận cứ và phương pháp thu thập thông
tin và xử lý thông tin (luận cứ) để xây dựng
luận đề.
103. 2.4.1. Luậ n đề
- Luận đề trả lời câu hỏi “cần chứng minh
điều gì?” trong nghiên cứu.
- Luận đề là một “phán đoán” hay một “giả
thuyết” cần được chứng minh.
- Thí dụ: Lúa được bón quá nhiều phân N sẽ bị
đỗ ngã.
104. 2.4.2. Luậ n cứ
• Để chứng minh một luận đề thì nhà khoa học cần
đưa ra các bằng chứng hay luận cứ khoa học. Luận
cứ bao gồm thu thập các thông tin, tài liệu tham
khảo; quan sát và thực nghiệm. Luận cứ trả lời câu
hỏi “Chứng minh bằng cái gì?”. Các nhà khoa học sử
dụng luận cứ làm cơ sở để chứng minh một luận đề.
Có hai loại luận cứ được sử dụng trong nghiên cứu
khoa học:
• Luận cứ lý thuyết: bao gồm các lý thuyết, luận điểm,
tiền đề, định lý, định luật, qui luật đã được khoa học
chứng minh và xác nhận là đúng. Luận cứ lý thuyết
cũng được xem là cơ sở lý luận.
• Luận cứ thực tiễn: dựa trên cơ sở số liệu thu thập,
quan sát và làm thí nghiệm.
105. 2.4.3. Luậ n chứ ng
• Để chứng minh một luận đề, nhà nghiên cứu khoa
học phải đưa ra phương pháp để xác định mối liên
hệ giữa các luận cứ và giữa luận cứ với luận đề.
Luận chứng trả lời câu hỏi “Chứng minh bằng cách
nào?”.
• Trong nghiên cứu khoa học, để chứng minh một
luận đề, một giả thuyết hay sự tiên đoán thì nhà
nghiên cứu sử dụng luận chứng, chẳng hạn kết hợp
các phép suy luận, giữa suy luận suy diễn, suy luận
qui nạp và loại suy.
• Một cách sử dụng luận chứng khác, đó là phương
pháp tiếp cận và thu thập thông tin làm luận cứ
khoa học, thu thập số liệu thống kê trong thực
nghiệm hay trong các loại nghiên cứu điều tra.
106. 2.5. Phươ ng pháp khoa họ c (PPKH)
- Những ngành khoa học khác nhau cũng có thể có những
PPKH khác nhau.
- Ngành khoa học tự nhiên như vật lý, hoá học, nông nghiệp
sử dụng PPKH thực nghiệm, như tiến hành bố trí thí
nghiệm để thu thập số liệu, để giải thích và kết luận.
- Còn ngành khoa học xã hội như nhân chủng học, kinh tế,
lịch sử… sử dụng PPKH thu thập thông tin từ sự quan sát,
phỏng vấn hay điều tra.
- Tuy nhiên, PPKH có những bước chung như: Quan sát sự
vật hay hiện tượng, đặt vấn đề và lập giả thuyết, thu thập
số liệu và dựa trên số lịệu để rút ra kết luận (Bảng 2.4).
Nhưng vẫn có sự khác nhau về quá trình thu thập số liệu,
xử lý và phân tích số liệu.
107.
108. Chương V.THU THẬ P TÀI LiỆ U VÀ ĐẶ T GiẢ
THUYẾ T
4.1. Tài liệ u
4.1.1. Mụ c đích thu thậ p tài liệ u
Thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan
trọng cần thiết cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu
khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa học luôn đọc
và tra cứu tài liệu có trước để làm nền tảng cho
NCKH. Đây là nguồn kiến thức quí giá được tích lũy
qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài.
109. Vì vậy, mục đích của việc thu thập và nghiên cứu tài
liệu nhằm:
- Giúp cho người nghiên cứu nắm được phương pháp
của các nghiên cứu đã thực hiện trước đây.
- Làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình.
- Giúp người nghiên cứu có phương pháp luận hay
luận cứ chặt chẻ hơn.
- Có thêm kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang
nghiên cứu.
- Tránh trùng lập với các nghiên cứu trước đây, vì v ậy
đở mất thời gian, công sức và tài chánh.
- Giúp người nghiên cứu xây dựng luận cứ (bằng
chứng) để chứng minh giả thuyết NCKH.
110. 4.1.2. Phân loạ i tài liệ u nghiên cứ u
Phân loại tài liệu để giúp cho người nghiên cứu
chọn lọc, đánh giá và sử dụng tài liệu đúng với
lãnh vực chuyên môn hay đối tượng muốn
nghiên cứu. Có thể chia ra 2 loại tài liệu: tài sơ
cấp (hay tài liệu liệu gốc) và tài liệu thứ cấp.
111. 4.1.2.1. Tài liệ u sơ cấ p
Tài liệu sơ cấp là tài liệu mà người nghiên cứu
tự thu thập, phỏng vấn trực tiếp, hoặc nguồn
tài liệu cơ bản, còn ít hoặc chưa được chú
giải. Một số vấn đề nghiên cứu có rất ít tài
liệu, vì vậy cần phải điều tra để tìm và khám
phá ra các nguồn tài liệu chưa được biết.
Người nghiên cứu cần phải tổ chức, thiết lập
phương pháp để ghi chép, thu thập số liệu
112. 4.1.2.2. Tài liệ u thứ cấ p
Loại tài liệu nầy có nguồn gốc từ tài liệu sơ
cấp đã được phân tích, giải thích và thảo
luận, diễn giải. Các nguồn tài liệu thứ cấp
như: Sách giáo khoa, báo chí, bài báo, tập san
chuyên đề, tạp chí, biên bản hội nghị, báo cáo
khoa học, internet, sách tham khảo, luận văn,
luận án, thông tin thống kê, hình ảnh, video,
băng cassette, tài liệu-văn thư, bản thảo viết
tay, …
113. 4.1.3. Nguồ n thu thậ p tài liệ u
Thông tin thu thập để làm nghiên cứu được
tìm thấy từ các nguồn tài liệu sau:
• Luận cứ khoa học, định lý, qui luật, định luật,
khái niệm,… có thể thu thập được từ sách
giáo khoa, tài liệu chuyên nghành, sách
chuyên khảo, ...
• Các số liệu, tài liệu đã công bố được tham
khảo từ các bài báo trong tạp chí khoa học,
tập san, báo cáo chuyên đề khoa học, ….
• Số liệu thống kê được thu thập từ các Niên
Giám Thống Kê: Chi cục thống kê, Tổng cục
thống kê, ….
114. • Tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản về
luật, chính sách, … thu thập từ các cơ quan
quản lý Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
• Thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo
chí, … mang tính đại chúng cũng được thu
thập, và được xử lý để làm luận cứ khoa học
chứng minh cho vấn đề khoa học.
115. 4.2. Giả thuyế t
4.2.1. Đị nh nghĩa giả thuyế t
Giả thuyết là câu trả lời ướm thử hoặc là sự
tiên đoán để trả lời cho câu hỏi hay “vấn đề”
nghiên cứu. Chú ý: giả thuyết không phải là
sự quan sát, mô tả hiện tượng sự vật, mà
phải được kiểm chứng bằng các cơ sở lý luận
hoặc thực nghiệm.
116. 4.2.2. Các đặ c tính củ a giả thuyế t
Giả thuyết có những đặc tính sau:
- Giả thuyết phải theo một nguyên lý chung và
không thay trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Giả thuyết phải phù hợp với điều kiện thực tế
và cơ sở lý thuyết.
- Giả thuyết càng đơn giản càng tốt.
- Giả thuyết có thể được kiểm nghiệm và mang
tính khả thi.
117. Một giả thuyết tốt phải thoả mãn các yêu cầu
sau:
- Phải có tham khảo tài liệu, thu thập thông tin.
- Phải có mối quan hệ nhân - quả.
- Có thể thực nghiệm để thu thập số liệu.
118. 4.2.3. Mố i quan hệ giữ a giả thuyế t và “vấ n
đề ” khoa họ c
Sau khi xác định câu hỏi hay “vấn đề” nghiên
cứu khoa học, người nghiên cứu hình thành ý
tưởng khoa học, tìm ra câu trả lời hoặc sự giải
thích tới vấn đề chưa biết (đặt giả thuyết). Ý
tưởng khoa học nầy còn gọi là sự tiên đoán
khoa học hay giả thuyết giúp cho người
nghiên cứu có động cơ, hướng đi đúng hay
tiếp cận tới mục tiêu cần nghiên cứu.
119. Trên cơ sở những quan sát bước đầu, những
tình huống đặt ra (câu hỏi hay vấn đề), những
cơ sở lý thuyết (tham khảo tài liệu, kiến thức
đã có,…), sự tiên đoán và những dự kiến tiến
hành thực nghiệm sẽ giúp cho người nghiên
cứu hình thành một cơ sở lý luận khoa học để
xây dựng giả thuyết khoa học.
120. • Thí dụ, khi quan sát thấy hiện tượng xoài rụng trái,
một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để giảm
hiện tượng rụng trái nầy (vấn đề nghiên cứu).
Người nghiên cứu sẽ xây dựng giả thuyết dựa trên
cơ sở các hiểu biết, nghiên cứu tài liệu, … như sau:
Nếu giả thuyết cho rằng NAA làm tăng sự đậu trái
xoài Cát Hòa Lộc. Bởi vì NAA giống như kích thích tố
Auxin nội sinh, là chất có vai trò sinh lý trong cây
giúp tăng sự đậu trái, làm giảm hàm lượng ABA hay
giảm sự tạo tầng rời. NAA đã làm tăng đậu trái trên
một số loài cây ăn trái như xoài Châu Hạng Võ,
nhãn …, vậy thì việc phun NAA sẽ giúp cây xoài Cát
Hòa Lộc đậu trái nhiều hơn so với cây không phun
NAA.
121. 4.2.4. Cấ u trúc củ a mộ t “giả thuyế t”
4.2.4.1. Cấ u trúc có mố i quan hệ “nhân-quả ”
• Cần phân biệt cấu trúc của một “giả thuyết” với
một số câu nói khác không phải là giả thuyết. Thí
dụ: khi nói: “Cây trồng thay đổi màu sắc khi gặp
lạnh” hoặc “Tia ánh sáng cực tím gây ra đột biến”,
câu này như là một câu kết luận, không phải là câu
giả thuyết.
• Đôi khi giả thuyết đặt ra không thể hiện mối quan
hệ ướm thử và không thể thực hiện thí nghiệm để
chứng minh. Thí dụ: “tôi chơi vé số, vậy thì tôi sẽ
giàu” hoặc “nếu tôi giữ ấm men bia, vậy thì nhiều
hơi gas sẽ sinh ra”.
122. • Cấu trúc của một giả thuyết có chứa quá
nhiều “biến quan sát” và chúng có mối quan
hệ với nhau. Khi làm thay đổi một biến nào
đó, kết quả sẽ làm thay đổi biến còn lại. Thí
dụ: Cây trồng quang hợp tốt sẽ cho năng suất
cao. Có quá nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng quang hợp của cây
• Một cấu trúc “giả thuyết” tốt phải chứa đựng
“mối quan hệ nhân-quả” và thường sử dụng
từ ướm thử “có thể”.
123. • Thí dụ: giả thuyết “Phân bón có thể làm gia
tăng sự sinh trưở ng hay năng
suấ t cây trồng”. Mối quan hệ trong giả thuyết
là ảnh hưởng quan hệ giữa phân bón và sự
sinh trưởng hoặc năng suất cây trồng, còn
nguyên nhân là phân bón và kết quả là sự sinh
trưởng hay năng suất cây trồng.
124. 4.2.4.2. Cấ u trúc “Nế u-vậ y thì”
Một cấu trúc khác của giả thuyết “Nếu-vậy thì” cũng
thường được sử dụng để đặt giả thuyết như sau:
“Nếu” (hệ quả hoặc nguyên nhân) … có liên quan tới
(nguyên nhân hoặc hệ quả) …, “Vậy thì” nguyên nhân đó
có thể hay ảnh hưởng đến hệ quả.
Thí dụ: “Nếu vỏ hạt đậu có liên quan tới sự nẩy mầm, vậy
thì hạt đậu có vỏ nhăn có thể không nẩy mầm”.
Một số nhà khoa học đặt cấu trúc này như là sự tiên đoán
và dựa trên đó để xây dựng thí nghiệm kiểm chứng giả
thuyết. Thí dụ: Nếu dưỡng chất N có ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng của lúa, vậy thì bón phân N có thể làm gia tăng
năng suất lúa.
125. 4.2.5. Cách đặ t giả thuyế t
Điều quan trọng trong cách đặt giả thuyết là phải đặt như
thế nào để có thể thực hiện thí nghiệm kiểm chứng
“đúng” hay “sai” giả thuyết đó. Vì vậy, trong việc xây dựng
một giả thuyết cần trả lời các câu hỏi sau:
1. Giả thuyết nầy có thể tiến hành thực nghiệm được
không?
2. Các biến hay các yếu tố nào cần được nghiên cứu?
3. Phương pháp thí nghiệm nào (trong phòng, khảo sát,
điều tra, bảng câu hỏi, phỏng vấn, …) được sử dụng trong
nghiên cứu?
4. Các chỉ tiêu nào cần đo đạt trong suốt thí nghiệm?
5. Phương pháp xử lý số liệu nào mà người nghiên cứu dùng
để bác bỏ hay chấp nhận giả thuyết?
126. Một giả thuyết hợp lý cần có các đặc điểm chính sau đây:
• Giả thuyết đặt ra phải phù hợp và dựa trên quan sát hay
cơ sở lý thuyết hiện tại (kiến thức vốn có, nguyên lý, kinh
nghiệm, kết quả nghiên cứu tương tự trước đây, hoặc dựa
vào nguồn tài liệu tham khảo), nhưng ý tưởng trong giả
thuyết là phần lý thuyết chưa được chấp nhận.
• Giả thuyết đặt ra có thể làm sự tiên đoán để thể hiện khả
năng đúng hay sai (thí dụ, một tỷ lệ cao những người hút
thuốc lá bị chết do ung thư phổi khi so sánh với những
người không hút thuốc lá. Điều này có thể tiên đoán qua
kiểm nghiệm).
• Giả thuyết đặt ra có thể làm thí nghiệm để thu thập số
liệu, để kiểm chứng hay chứng minh giả thuyết (đúng hay
sai).
127. • Tóm lại, giả thuyết đặt ra dựa trên sự quan
sát, kiến thức vốn có, các nguyên lý, kinh
nghiệm trước đây hoặc dựa vào nguồn tài
liệu tham khảo, kết quả nghiên cứu tương tự
trước đây để phát triển nguyên lý chung hay
bằng chứng để giải thích, chứng minh câu hỏi
nghiên cứu. Xét về bản chất logic, giả thuyết
được đặt ra từ việc xem xét bản chất riêng,
chung của sự vật và mối quan hệ của chúng
hay gọi là quá trình suy luận. Quá trình suy
luận là cơ sở hình thành giả thuyết khoa học
128. • Thí dụ: khi quan sát sự nẩy mầm của các hạt đậu
hoặc dựa trên các tài liệu nghiên cứu khoa học
người nghiên cứu nhận thấy ở hạt đậu bình
thường, hạt no, vỏ hạt bóng láng thì nẩy mầm tốt
và đều (đây là một kết quả được biết qua lý thuyết,
tài liệu nghiên cứu trước đây,…). Như vậy, người
nghiên cứu có thể suy luận để đặt ra câu hỏi đối
với các hạt đậu có vỏ bị nhăn nheo thì nẩy mầm
như thế nào? (Đây là câu hỏi). Giả thuyết được đặt
ra là “Nếu sự nẩy mầm của hạt đậu có liên quan
tới vỏ hạt, vậy thì hạt đậu có vỏ nhăn có thể không
nẩy mầm”. Đây là một giả thuyết mà có thể dễ
dàng làm thí nghiệm để kiểm chứng.
129. 4.2.6. Kiể m chứ ng giả thuyế t qua so sánh
giữ a tiên đoán vớ i kế t quả thí nghiệ m
Bên cạnh việc kiểm nghiệm, một yếu tố quan
trọng là đánh giá sự tiên đoán. Nếu như sự
tiên đoán được tìm thấy là không đúng (dựa
trên kết quả hay bằng chứng thí nghiệm),
người nghiên cứu kết luận rằng giả thuyết
(một phần giả thuyết) “sai” (nghĩa là bác bỏ
hay chứng minh giả thuyết sai). Khi sự tiên
đoán là đúng (dựa trên kết quả hay bằng
chứng thí nghiệm), kết luận giả thuyết là
“đúng”.
130. • Thường thì các nhà khoa học vận dụng kiến
thức để tiên đoán mối quan hệ giữa biến độc
lập và biến phụ thuộc. Thí dụ: giả thuyết đặt
ra trên sự tiên đoán là “Nếu gia tăng phân
bón, làm gia tăng năng suất, vậy thì các cây
đậu được bón phân nhiều hơn sẽ cho năng
suất cao hơn”. Nếu sự tiên đoán không dựa
vào kiến thức khoa học, tài liệu nghiên cứu đã
làm trước đây thì sự tiên đoán có thể vượt ra
ngoài kết quả mong muốn như thí dụ ở Hình
4.1: Đáp ứng của năng suất theo liều lượng
phân N cung cấp ở cây đậu.
131.
132. Rõ ràng trong thực tế cho thấy, năng suất chỉ
có thể gia tăng đến một mức độ cung cấp
phân N nào đó (Hình 4.2). Để xác định mức độ
phân N cung cấp cho năng
suất cao nhất (gần chính xác), thì nhà nghiên
cứu cần có hiểu biết về “qui luật cung cấp
dinh dưỡng” và một số tài liệu nghiên cứu
trước đây về phân bón,… từ đó sẽ đưa ra một
vài mức độ có thể để kiểm chứng.
133.
134. Chương V (tt). PHƯƠ NG PHÁP THU THẬ P SỐ LIỆ U
Thu thập số liệu thí nghiệm là một công việc quan trọng
trong NCKH. Mục đích của thu thập số liệu (từ các tài li ệu
nghiên cứu khoa học có trước, từ quan sát và thực hiện thí
nghiệm) là để làm cơ sơ lý luận khoa học hay luận cứ chứng
minh giả thuyết hay tìm ra vấn đề cần nghiên cứu.
Có 3 phương pháp thu thập số liệu:
a) Thu thập số liệu bằng cách tham khảo tài liệu.
b) Thu thập số liệu từ những thực nghiệm (các thí nghiệm
trong phòng, thí nghiệm ngoài đồng, …).
c) Thu thập số liệu phi thực nghiệm (lập bảng câu hỏi điều
tra).
135. Phương pháp nầy là dựa trên nguồn thông tin
sơ cấp và thứ cấp thu thập được từ những tài
liệu nghiên cứu trước đây để xây dựng cơ sở
luận cứ để chứng minh giả thuyết. Thí dụ, để
chứng minh giả thuyết “không thể loại bỏ cây
bạch đàn ra khỏi cơ cấu cây trồng rừng”,
người ta đã dựa vào những nghiên cứu có
trước như sau (Vũ Cao Đàm, 2003):
136. • Kết quả nghiên cứu tại Nga cho thấy, chỉ
trong 15 năm bạch đàn có sức tăng trưởng
chiều cao gấp 5 lần so với cây dẻ và 10 lần so
với cây sồi;
• •Sản lượng bạch đàn trên 1 ha hàng năm rất
cao, tới 20 đến 25 m3/ha/năm, trong khi cây
mỡ chỉ đạt 15-20 m3/ha/năm và cây bồ
đề là 10-15 m3/ha/năm;
• •Theo thống kê của FAO, từ năm 1.744 đến
1.975 đã có hơn 100 nước nhập khẩu bạch
đàn, trong đó có 78 nước đã trồng rừng bạch
đàn thành rừng kinh tế có sản lượng cao với
qui mô lớn.
137. 5.2. Phươ ng pháp thu thậ p số liệ u từ nhữ ng
thự c nghiệ m
5.2.1. Khái niệ m
• Trong phương pháp nầy, số liệu được thực hiện
bằng cách quan sát, theo dõi, đo đạc qua các thí
nghiệm. Các thí nghiệm trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên, vật lý, hóa học, kỹ thuật, nông nghiệp, kể cả
xã hội thường được thực hiện trong phòng thí
nghiệm, nhà lưới, ngoài đồng và cộng đồng xã hội.
Để thu thập số liệu, các nhà NCKH thường đặt ra
các biến để quan sát và đo đạc (thu thập số liệu).
Các nghiệm thức trong thí nghiệm (có những mức
độ khác nhau) thường được lặp lại để làm giảm sai
số trong thu thập số liệu.
138. • Ví dụ: Người nghiên cứu muốn xem xét những
mức độ phân bón (hay còn gọi nghiệm thức
phân bón) nào đó để làm tăng năng suất,
trong cách bố trí thí nghiệm thì mỗi mức độ
phân bón thường được lặp lại nhiều lần. Kết
quả thí nghiệm là các số liệu được đo từ các
chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất ở những
mức độ phân bón khác nhau.
• Phương pháp khoa học trong thực nghiệm
gồm các bước như: lập giả thuyết, xác định
biến, bố trí thí nghiệm, thu thập số liệu để
kiểm chứng giả thuyết.
139. 5.2.2. Đị nh nghĩa các loạ i biế n trong thí nghiệ m
Trong nghiên cứu thực nghiệm, có 2 loại biến thường gặp
trong thí nghiệm, đó là biến độc lập (independent
variable) và biến phụ thuộc (dependent variable).
• •Biế n độ c lậ p (còn gọ i là nghiệ m thứ c- Treatment): là
các yếu tố, điều kiện khi bị thay đổi trên đối tượng nghiên
cứu sẽ ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm. Như vậy, đối
tượng nghiên cứu chứa một hoặc nhiều yếu tố, điều kiện
thay đổi. Nói cách khác kết quả số liệu của biến phụ
thuộc thu thập được thay đổi theo biến độc lập.
Thí dụ:
• Biến độc lập có thể là liều lượng phân bón, loại phân bón,
lượng nước tưới, thời gian chiếu sáng khác nhau,… (hay
còn gọi là các nghiệm thức khác nhau).
140. • Trong biến độc lập, thường có một mức độ
đối chứng hay nghiệm thức đối chứng (chứa
các yếu tố, điều kiện ở mức độ thông thường)
hoặc nghiệm thức đã được xác định mà người
nghiên cứu không cần tiên đoán ảnh hưởng
của chúng. Các nghiệm thức còn lại sẽ được
so sánh với nghiệm thức đối chứng hoặc so
sánh giữa các cặp nghiệm thức với nhau .
141. • •Biế n phụ thuộ c (còn gọ i là chỉ tiêu thu
thậ p): là những chỉ tiêu đo đạc và bị ảnh
hưởng trong suốt quá trình thí nghiệm, hay có
thể nói kết quả đo đạc phụ thuộc vào sự thay
đổi của biến độc lập. Thí dụ: khi nghiên cứu
sự sinh trưởng của cây mía, các biến phụ
thuộc ở đây có thể bao gồm: chiều cao cây, số
lá, trọng lượng cây,… và kết quả đo đạc của
biến phụ thuộc ở các nghiệm thức khác nhau
có thể khác nhau.
142. Thí dụ:
• Đề tài: “Ảnh hưởng của liều lượng phân N trên năng
suất lúa Hè Thu” có các biến như sau:
+ Biến độc lập: liều lượng phân N bón cho lúa khác
nhau. Các nghiệm thức trong thí nghiệm có thể là 0,
20, 40, 60 và 80 kgN/ha. Trong đó nghiệm thức “đối
chứng” không bón phân N.
+ Biến phụ thuộc: có thể là số bông/m2, hạt chắt/bông,
trọng lượng hạt và năng suất hạt (t/ha).
143. 5.2.3. Xác đị nh các biế n trong thí nghiệ m dự a trên mố i
quan hệ “nhân- quả ” củ a giả thuyế t
Kết quả quan sát lệ thuộc vào nguyên nhân gây ảnh hưởng.
Dựa vào mối quan hệ trong giả thuyết đặt ra, người nghiên
cứu dễ dàng xác định được yếu tố nào ảnh hưởng đến sự
kiện quan sát.
Thí dụ, “Ảnh hưởng của nồng độ NAA trên sự đậu trái của
xoài Cát Hòa Lộc”. Ở đây, tỷ lệ đậu trái (kết quả) khác nhau
là do ảnh hưởng của các nồng độ NAA (nguyên nhân) khác
nhau. Như vậy, biến độc lập là biến mà người nghiên cứu
có ý định làm thay đổi (nồng độ NAA khác nhau) và biến
phụ thuộc ở đây là sự đậu trái hay tỷ lệ rụng trái ở các
nghiệm thức có nồng độ NAA khác nhau.
144. 5.2.4. Bố trí thí nghiệ m để thu thậ p số liệ u nghiên
cứ u
5.2.4.1. Đố i tượ ng khả o sát
Để chọn đối tượng khảo sát trong thí nghiệm, công
việc đầu tiên là phải xác định quần thể (population)
mà người nghiên cứu muốn đo đạc để thu thập kết
quả. Một quần thể bao gồm nhiều cá thể mang các
thành phần và đặc điểm khác nhau mà ta muốn
khảo sát. Đối tượng khảo sát thường được chia làm
hai nhóm:
a) Nhóm khảo sát: đối tượng được đặt ra trong giả
thuyết.
b) Nhóm đối chứng: so sánh với nhóm khảo sát.
145. 5.2.4.2. Khung mẫ u (sample frame)
• Để bố trí và thu thập số liệu thí nghiệm
nghiên cứu thì công việc trước tiên là thiết lập
khung mẫu. Khung mẫu cần xác định các cá
thể trong quần thể mục tiêu (target
population), cỡ mẫu và phương pháp lấy
mẫu.
• Trong trường hợp thiết lập khung mẫu sai thì
mẫu chọn sẽ không đại diện cho quần thể
mục tiêu và số liệu thu thập sẽ không đại
diện cho quần thể.
146. Có ba trường hợp tạo ra khung mẫu sai:
• •Khung mẫu chứa quá nhiều cá thể, mà trong
đó có cá thể không nằm trong quần thể mục
tiêu.
• •Khung mẫu chứa quá ít cá thể, mà trong đó
có cá thể nằm và không nằm trong quần thể
mục tiêu.
• •Khung mẫu chứa tập hợp các cá thể không
đúng hay khung mẫu không nằm trong quần
thể mục tiêu.
147. • Hai giai đoạ n tạ o khung mẫ u:
1. Xác định các cá thể trong quần thể mục tiêu
và cỡ mẫu. Thí dụ, cỡ mẫu của100 hộ gia đình
ở thành phố và 150 gia đình ở nông thôn.
2. Chọn phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên hoặc
không ngẫu nhiên. Thí dụ: trong nghiên cứu
điều tra, mẫu ngẫu nhiên thì vị trí chọn mẫu
có thể dựa vào bản đồ ranh giới giữa các
vùng, lập danh sách hộ gia đình theo số nhà,
danh bạ điện thoại nếu có, … sau đó chọn
phương pháp lấy mẫu.
148. 5.2.4.3. Phươ ng pháp lấ y mẫ u
Trước khi đi vào chi tiết về phương pháp lấy
mẫu, cần hiểu các định nghĩa có liên quan
đến phương pháp, trình bày trong Bảng 5.1.
149.
150. • Mục đích của tất cả các phương pháp lấy mẫu là
đạt được mẫu đại diện cho cả quần thể nghiên
cứu. Khi chọn phương pháp lấy mẫu thì cần hiểu rõ
các đặc tính của quần thể nghiên cứu để xác định
cỡ mẫu quan sát đại diện và để đánh giá tương đối
chính xác quần thể.
151. • Trong nghiên cứu, không thể quan sát hết
toàn bộ các cá thể trong quần thể, mà chỉ
chọn một số lượng đủ các cá thể đại diện hay
còn gọi là mẫu thí nghiệm. Phương pháp chọn
mẫu thí nghiệm rất quan trọng, bởi vì có liên
quan tới sự biến động hay độ đồng đều của
mẫu. Có hai phương pháp chọn mẫu: (1) Chọn
mẫu không xác suất (không chú ý tới độ đồng
đều) và (2) chọn mẫu xác suất (đề cập tới độ
đồng đều).
152. * Chọ n mẫ u không có xác suấ t
Phương pháp chọn mẫu không xác suất là cách lấy
mẫu trong đó các cá thể của mẫu được chọn không
ngẫu nhiên hay không có xác suất lựa chọn giống
nhau. Điều này thể hiện trong cách chọn mẫu như
sau:
• •Các đơn vị mẫu được tự lựa chọn mà không có
phương pháp.
• •Các đơn vị mẫu rất dễ dàng đạt được hoặc dễ
dàng tiếp cận. Thí dụ chọn những hộ trên những
con đường dễ đi.
• •Các đơn vị mẫu được chọn theo lý do kinh tế, thí
dụ trả tiền cho sự tham dự.
153. • Các đơn vị mẫu được quan tâm bởi người nghiên
cứu trong cách “điển hình”của quần thể mục tiêu.
Thí dụ người nghiên cứu chỉ quan tâm đến các
nhân vật điển hình trong quần thể nghiên cứu, để
so sánh với các nhân vật khác.
• •Các đơn vị mẫu được chọn mà không có sự thiết
kế rõ ràng (thí dụ: chọn 50 người đầu tiên đến buổi
sáng).
Phương pháp chọn mẫu không có xác suất thường
có độ tin cậy thấp. Mức độ chính xác của cách chọn
mẫu không xác suất tùy thuộc vào sự phán đoán,
cách nhìn, kinh nghiệm của người nghiên cứu, sự
may mắn hoặc dễ dàng và không có cơ sở thống kê
trong việc chọn mẫu.
154. * Chọ n mẫ u xác suấ t
Cơ bản của việc chọn mẫu xác suất là cách
lấy mẫu trong đó việc chọn các cá thể của
mẫu sao cho mỗi cá thể có cơ hội lựa chọn
như nhau, nếu như có một số cá thể có cơ hội
xuất hiện nhiều hơn thì sự lựa chọn không
phải là ngẫu nhiên. Để tối ưu hóa mức độ
chính xác, người nghiên cứu thường sử dụng
phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên.
155. * Các phươ ng pháp chọ n mẫ u ngẫ u nhiên
- Chọ n mẫ u ngẫ u nhiên đơ n giả n (simple random)
• Cách đơn giản nhất của việc chọn các cá thể của
mẫu trong cách chọn mẫu ngẫu nhiên là sử dụng
xác suất. Việc lựa chọn n các cá thể từ một quần
thể sao cho các cá thể có cơ hội bằng nhau hay một
xác suất bằng nhau trong phương pháp nầy.
156. • Thí dụ: Một trường học có 1.000 sinh viên, người
nghiên cứu muốn chọn ra 100 sinh viên để nghiên
cứu về tình trạng sức khỏe trong số 1.000 sinh
viên. Theo cách chọn mẫu đơn giản thì chỉ cần viết
tên 1.000 sinh viên vào trong mẫu giấy nhỏ, sau đó
bỏ tất cả vào trong một cái thùng và rồi rút ng ẫu
nhiên ra 100 mẫu giấy. Như vậy, mỗi sinh viên có
một cơ hội lựa chọn như nhau và xác suất chọn
ngẫu nhiên một sinh viên trên dễ dàng được tính.
Thí dụ trên ta có quần thể N = 1.000 sinh viên và cỡ
mẫu n = 100 sinh viên. Như vậy, sinh viên của
trường được chọn trong cách lấy mẫu ngẫu nhiên
sẽ có xác suất là n/(N x 100) hay 100/(1000 x 100) =
10%.
157. • Một cách chọn mẫu ngẫu nhiên khác là sử
dụng bảng số ngẫu nhiên trong sách thống kê
phép thí nghiệm hoặc cách chọn số ngẫu
nhiên bằng các chương trình thống kê trên
máy tính.
158.
159. - Chọ n mẫ u phân lớ p (stratified samples)
• Chọn mẫu phân lớp được thực hiện khi quần
thể mục tiêu được chia thành các nhóm hay
phân lớp. Trong phương pháp lấy mẫu phân
lớp, tổng quần thể (N) đầu tiên được chia ra
thành L lớp của các quần thể phụ N1, N2 … NL,
như vậy:
160. • Để áp dụng kỹ thuật chọn mẫu phân lớp thì trước
tiên người nghiên cứu cần nắm các thông tin và
các số liệu nghiên cứu trước đây có liên quan đến
cách lấy mẫu phân lớp. Sau đó, người nghiên cứu
sẽ xác định cỡ mẫu và chọn ngẫu nhiên các cá th ể
trong mỗi lớp.
Thí dụ: khi nghiên cứu về mức độ giàu nghèo của
một vùng nghiên cứu có 4 huyện (4 phân lớp), mỗi
huyện có số hộ gia đình khác nhau được biết trong
Bảng 5.2. Người nghiên cứu muốn thực hiện 200
cuộc phỏng vấn hộ gia đình trong vùng nghiên
cứu, như vậy cỡ mẫu của mỗi huyện sẽ được tính
theo tỷ lệ phần trăm trong Bảng 5.2 như sau:
161.
162. • Nếu như số hộ của 4 huyện gần như nhau, người nghiên
cứu chỉ cần chọn 50 cuộc phỏng vấn trong mỗi huyện và
sau đó chọn mẫu ngẫu nhiên trong mỗi lớp.
• Cũng trong nghiên cứu trên, nếu người nghiên cứu không
phân chia các huyện ra thành các lớp, thì phương pháp lấy
mẫu ngẫu nhiên phỏng vấn hộ gia đình trong vùng nghiên
cứu sẽ sai và số liệu thu thập sẽ không đại diện cho vùng
nghiên cứu, do mẫu có thể tập trung ở một huyện nào đó.
Một số nghiên cứu thường được chia lớp trong quần thể mục
tiêu gồm:
− Phân lớp quần thể mục tiêu là các thành phố, tỉnh, huyện;
− phân lớp theo vùng sinh thái khác nhau;
− phân lớp quần thể mục tiêu là các hộ gia đình theo mức độ
giàu nghèo, trình độ học vấn, …;
−…
163. • Trong phương pháp chọn mẫu phân lớp, các quần
thể phụ là các vùng chia phụ hay các lô được chia
trong Hình 5.2 khi đã xác định các yếu tố như loại
đất, dạng đời sống thực vật hoặc dạng địa hình, …
Các điểm được chọn ngẫu nhiên trong mỗi vùng
phụ được thể hiện trong Hình 5.2.
164.
165. VIẾ T CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨ U KHOA HỌ C
1. VIẾ T TÀI LIỆ U KHOA HỌ C
Các kết quả nghiên cứu khoa học cần được
viết ra dưới các dạng tài liệu khoa học khác nhau
để công bố (trừ những lĩnh vực phải giữ bí mật)
trên các xuất bản phẩm. Các tài liệu khoa học có
thể mang nhiều ý nghĩa: để trao đổi thông tin khoa
học; đón nhận những ý kiến bình luận, bổ sung,
phê phán của đồng nghiệp; đi tìm địa chỉ áp dụng;
khẳng định quyền tác giả đối với công trình…
Tài liệu khoa học để công bố có nhiều loại:
166. 1.1. Bài báo khoa họ c
Bài báo khoa học là một ấn phẩm mà nội dung có
chứa những thông tin mới (dựa trên kết quả quan
sát và thực nghiệm khoa học) có giá trị khoa học và
thực tiễn được đăng trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành với những mục đích khác nhau như:
công bố một ý tưởng khoa học; công bố từng kết
quả riêng biệt của một công trình nghiên cứu dài
hạn; công bố kết quả nghiên cứu toàn bộ công trình;
đề xướng một cuộc tranh luận hay tham gia tranh
luận trên các tạp chí khoa học hoặc hội nghị khoa
học.
167. • Thực chất của viết bài báo khoa học cũng là
xoay quanh việc nêu luận đề rồi tìm phương
pháp (luận chứng) cùng với việc đưa ra bằng
chứng (luận cứ) để chứng minh cho luận đề.
Vì thế, bài báo khoa học thường được viết
dưới dạng một tiểu luận: nêu lý do; trình bày
cơ sở lý thuyết; chỉ ra hiện trạng thực tế;
khẳng định những phát hiện mới; đề xuất
ứng dung và những khuyến nghị tiếp tục
nghiên cứu.
168. Bài báo khoa học có nhiều loại; mỗi loại có
một cấu trúc logic và bố cục nội dung riêng.
Chẳng hạn:
* Bài báo công bố ý tưởng khoa học: cần thiết
phải trình bày rõ vấn đề, luận đề; không cần
thiết phải trình bày luận cứ và luận chứng.
* Bài báo công bố kết quả nghiên cứu (riêng
biệt hay toàn bộ công trình) cũng có thể trình
bày vấn đề nghiên cứu, nhưng cần thiết phải
trình bày rõ luận đề, luận cứ và luận chứng.
169. * Bài báo đề xướng một cuộc tranh luận, bài
báo đề dẫn một hội nghị khoa học: cần thiết
phải trình bày rõ vấn đề; có thể trình bày luận
đề; không cần thiết phải trình bày luận cứ và
luận chứng.
* Bài báo tham gia tranh luận trên tạp chí, bài
báo tham luận một hội nghị khoa học: có thể
trình bày vấn đề, luận đề nhưng rất cần thiết
phải trình bày luận cứ, luận chứng.
170. Còn những bài báo để thông báo khoa học trên
các tạp chí hoặc thông báo trong các hội nghị
khoa học thì lại không nhất thiết phải có cấu
trúc logic như các bài báo nêu trên.
Bố cục nội dung khoa học của bài báo có thể
khác nhau tùy theo cách sắp xếp của mỗi tác giả,
song một bài báo cần nêu lên được những khối
nội dung hoàn chỉnh bao gồm: đặt vấn đề (mở
đầu), lịch sử nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương
pháp nghiên cứu; kết quả thu thập và xử lý
thông tin, phân tích kết quả, kết luận và khuyến
nghị.
171. Một bài báo khoa học thường viết không dài,
chỉ nên viết khoảng 2000 chữ đủ để đăng
thành một bài trên một số tạp chí; nếu phạm
vi rộng thì phải chia thành nhiều vấn đề nhỏ
và đăng trên nhiều số.