1. Báo cáo Ngành hàng Cao su
Quý 2/07
I – Sản xuất trong nước và thế giới
Cây cao su du nhập vào Việt Nam đã tròn 110 năm (từ năm 1897) và một thế kỷ hình thành
những đồn điền kinh doanh cao su (từ năm 1907). Diện tích trồng cao su nước ta tăng rất nhanh,
từ 7.077 ha tập trung tại các tỉnh Đông Nam Bộ vào năm 1920 đã lên đến 480.200 ha trên cả
nước, với tổng sản lượng mủ khai thác đạt 468.600 tấn. Theo các chuyên gia ở Tập đoàn Cao
su Việt Nam, diện tích cao su có thể đạt mức 700.000 ha vào năm 2010, trong đó diện tích khai
thác từ 420.000 - 450.000 ha và cho sản lượng trên 600.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ
được ở mức trên 1 tỷ USD. Đến năm 2015, diện tích khai thác đạt 520.000 - 530.000 ha, sản
lượng ước đạt 750.000 - 800.000 tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,5 - 1,6 tỷ USD.
Vị thế của ngành cao su Việt Nam trên thế giới ngày càng được khẳng định. Trước năm 2005,
Việt Nam là nước sản xuất cao su thiên nhiên đứng thứ 6 trên thế giới, sau các nước Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, và Trung Quốc. Năm 2005, nhờ sản lượng tăng nhanh hơn Trung
Quốc, Việt Nam đã vươn lên hàng thứ 5. Riêng về xuất khẩu, từ nhiều năm qua Việt Nam đứng
hàng thứ 4, với sản lượng tăng dần qua các năm, từ 273.400 tấn (năm 2000), lên 308.100 tấn
(2001), 454.800 tấn (2002), 433.106 tấn (2003), 513.252 tấn (2004), 587.110 tấn (2005) và
690.000 tấn (năm 2006).
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao su của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006 bình quân đạt
17,66%/năm, cao nhất so với các nước Thái Lan (2,37%), Indonesia (5,27%), Malaysia (3,52%).
Năm 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu cao su đạt 804 triệu USD (xếp thứ 2 trong số các mặt hàng
nông sản xuất khẩu sau gạo); năm 2006 đã đạt 1,27 tỷ USD và là mức cao nhất từ trước tới nay.
Ngoài các tỉnh có diện tích trồng cao su lớn nhất nước như Bình Phước, Bình Dương, khu vực
Tây Nguyên…, cao su cũng là một trong những cây trồng chính tại các huyện miền núi Nghệ An.
Trong thời gian này, nông dân Nghệ An đang thu hoạch mủ cao su năm 2007. Năm nay cao su
được mùa và được giá. Nghệ An đã quy hoạch vùng trồng cao su với diện tích 7.000 ha, chủ yếu
tại các vùng đất đỏ bazan thuộc các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và Quỳ Hợp. Để phát triển cây
cao su hiệu quả, tỉnh đã thực hiện các giải pháp như tổ chức chỉ đạo, chăm sóc diện tích cao su
hiện có, áp dụng công nghệ mới trong thu hoạch, chế biến mủ cao su, thay thế các thiết bị và
công nghệ chế biến cũ.
Cùng với chăm sóc diện tích cao su hiện có, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đã phê
duyệt dự án đầu tư trồng mới cây cao su, tập trung ưu tiên ba chương trình lớn là: 2.000 tỷ đồng
để trồng mới 136.000 ha cao su ở các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung đến năm 2010;
đầu tư trồng mới 100.000 ha cao su ở Lào và trồng 100.000 ha cao su ở Campuchia, đặc biệt
tập trung các nguồn vốn, kỹ thuật và nhân lực để đầu tư nâng diện tích từ 480.000 ha hiện nay
lên 700.000 ha vào giai đoạn 2015-2020.
Riêng ở Tây Nguyên, Kon Tum sẽ trồng mới 37.000 ha cây cao su, Gia Lai 50.000 ha, Đắk Lắk
27.000 ha, Đắc Nông 22.000 ha. Tây Nguyên hiện là khu vực được đánh giá là có khả năng phát
triển diện tích cây cao su lớn thứ hai cả nước với 390.000 ha đất nằm trong vùng sinh thái phù
hợp. Tổng diện tích cao su của Tây Nguyên năm 2006 là 109.000 ha, đạt sản lượng trên 81.000
tấn, chiếm 22,7% về diện tích và 17,1% sản lượng của cả nước.
Từ nay đến năm 2010, Công ty Cao su Dầu Tiếng sẽ trồng tái canh hơn 6.000 ha, hoàn thành kế
hoạch trồng tái canh 10.000 ha do Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam giao giai đoạn 2003-
2. 2010 và nâng diện cây cao su lên gần 40.000 ha. Toàn tỉnh Bình Dương hiện có hơn 100.000ha
cây cao su và tỉnh chọn mặt hàng cao su là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Về tình hình sản xuất trên thế giới, sản lượng cao su Thái Lan – nước sản xuất cao su lớn nhất
thế giới - dự báo sẽ đạt 3,17 triệu tấn trong năm nay, so với 3,09 triệu tấn năm ngoái. Sản lượng
cao su thiên nhiên Malaysia năm 2007 dự báo sẽ tăng 5% lên 1,35 triệu tấn, nhờ thời tiết thuận
lợi và giá vững trên thị trường thế giới.
Inđônêxia có cơ hội vươn lên vị trí cao hơn trong sản xuất cao su thế giới, với sản lượng cao su
thiên nhiên năm nay ước tăng gần 5% so với năm 2006 đạt 2,765 triệu tấn và bởi Malaysia bắt
đầu chuyển sang tập trung vào cây cọ dầu, trong khi Thái Lan thiếu đất trồng cây cao su trầm
trọng. Sản lượng cao su Indonexia gần đây tăng trung bình 7% mỗi năm. Theo số liệu thống kê
của Bộ Nông nghiệp Inđônêxia, Inđônêxia đang hướng tới tốc độ tăng trưởng sản lượng
4,12%/năm nhằm nâng sản lượng cao su lên 3,072 triệu tấn vào năm 2010. Để đạt được mục
tiêu này, Chính phủ Inđônêxia có kế hoạch phục hồi 250.000 ha cao su tiểu điền đã cũ và trồng
mới 50.000 ha cao su tiểu điền cho đến năm 2010.
Bên cạnh đó, sản lượng cao su tự nhiên của Ấn Độ trong tài khoá 2007/08 dự báo sẽ đạt
847.000 tấn, tăng 2,5% so với năm 2006. Tiêu thụ cao su tự nhiên tại thị trường nội địa Ấn Độ
ước đạt 853.000 tấn, so với 820.000 tấn tài khoá trước đó. Ngành sản xuất lốp xe nước này
bùng nổ có thể sẽ thúc đẩy lượng cao su thiên nhiên nhập khẩu thêm 20% lên 100.000 tấn trong
tài khoá kết thúc vào tháng 3/2008.
Cơ quan Tình báo Kinh tế (EIU) dự báo sản lượng cao su thiên nhiên thế giới sẽ tăng 3% năm
2007 và 4,5% năm 2008, trong đó tăng trưởng của Thái Lan có thể sẽ đạt tương ứng 2,1% và
3,8%, Indonesia là 0,9% và 5,1% và Malaysia là 4,2% và 4%... Về sản lượng cao su tổng hợp,
châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực có mức tăng cao nhất 6,8% so với 4,4% của Bắc
Mỹ, 2,7% của Mỹ La tinh, 0,8% của EU, 2,1% của các nước châu Âu không thuộc EU trong khi
sản lượng của Nam Phi giảm 8%.
II – Thị trường trong nước và thế giới
1 – Tình hình thị trường trong nước
Trong ba tháng của quý 2/07, giá cao su trong nước biến động trái chiều, với xu hướng tăng tích
cực trong tháng 4 và giảm trong tháng 5 và 6. Thời điểm giữa tháng 4, giá xuất khẩu cao su khối
SVR3L đã tăng lên 17.600 NDT/tấn so với đầu tháng do nhu cầu tiêu thụ từ Trung Quốc ổn định.
Những ngày đầu tháng 5, lượng xuất khẩu cao su thiên nhiên của nước ta sang thị trường Trung
Quốc qua cửa khẩu Móng Cái giảm 30% so với giữa tháng 4, tạo nên sự chênh lệch cung lớn
hơn cầu. Đây là nguyên nhân khiến cho giá xuất khẩu cao su giảm xuống chỉ còn 16.800 -
17.100 NDT/tấn. Những ngày cuối tháng 5, lượng cao su xuất qua cửa khẩu Móng Cái chỉ đạt
trung bình 300 tấn/ngày, giảm so với 350 – 400 tấn/ngày. Trong tháng 6, giá cao su xuất khẩu
tiếp tục giảm. Giá xuất khẩu cao su khối SVR3L vào thời điểm cuối tháng 6 chỉ còn 16.500
NDT/tấn.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia thuộc Bộ Thương mại, giá xuất khẩu cao su thiên
nhiên chỉ giảm tạm thời và thông tin Trung Quốc hạn chế nhập khẩu có thể được tung ra để gây
sức ép giảm giá đối với cao su nhập khẩu từ Việt Nam. Giá và lượng cao su xuất khẩu sẽ phục
hồi sớm do nhu cầu từ phía Trung Quốc sẽ tăng trở lại. Nhu cầu mủ cao su latex ở khu vực thị
trường Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) đang tăng mạnh nhưng các nhà xuất khẩu Việt
Nam còn đáp ứng ở mức hạn chế.
3. Về tình hình xuất khẩu, ước xuất khẩu cao su trong quý 2/07 đạt 150.000 tấn, kim ngạch đạt 295
triệu USD. Ước lượng cao su xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt khoảng 291.000 tấn, kim
ngạch đạt 547 triệu USD, xấp xỉ về lượng so với cùng kỳ năm ngoái nhưng kim ngạch tăng 6%
nhờ giá cao su bình quân 6 tháng đầu năm nay cao hơn so với cùng kỳ năm trước 6%. Giá cao
su xuất khẩu bình quân hiện ở mức 2.022 USD/tấn.
Thị trường xuất khẩu cao su 6 tháng đầu năm tương đối ổn định. Lượng cao su xuất khẩu sang
Trung Quốc tuy giảm 13% so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn là nước nhập khẩu cao su Việt
Nam lớn nhất với thị phần 63%, tiếp theo là Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, với mức thị phần từ 4-
5%. Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, Việt Nam dự kiến xuất khẩu 780.000 tấn cao su, đạt kim
ngạch xuất khẩu khoảng 1,4 triệu USD.
Trên thị trường thế giới, giá cao su thiên nhiên biến động theo hai chiều hướng rõ rệt trong quý
2/07. Đúng như dự báo, nguồn cung khan hiếm và nhu cầu cao đẩy giá cao su thiên nhiên tăng
cao trong tháng 5. Giá dầu thô thế giới tăng vượt 70 USD/thùng cũng hỗ trợ giá cao su thiên
nhiên. Cao su RSS3 kỳ hạn tháng 7/07 của Thái Lan giá tăng 0,15 USD lên mức đỉnh điểm 2,45
USD/kg trong 3 ngày 22, 23 và 24/5, trong khi cao su SMR20 cùng kỳ hạn của Malaysia tăng
tương tự lên 2,33 USD/kg cũng trong những ngày này. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn cung ở
Đông Nam Á khan hiếm suốt các tuần cuối tháng 4, đầu tháng 5, sau khi mưa quá nhiều ở Thái
Lan và Malaysia, hai nước sản xuất lớn nhất và thứ 3 thế giới. Thời tiết nơi khô hạn nơi mưa quá
nhiều ở Indonexia cũng làm gián đoạn việc thu hoạch mủ cao su ở đó. Thái Lan và Malaysia gần
như không còn hàng. Sau mùa khô, cây cao su cần một thời gian mới hồi phục trở lại. (Hình 1)
Diễn biến giá cao su Châu Á quý 2-07
(Nguồn: Reuters)
2.40
2.35
2.30
2.25
USD/kg
2.20
2.15
2.10
RSS3 Thái Lan
2.05 SIR20 Inđônêxia
SMR20 Malaysia
2.00
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Tuần
Hình 1
Trong tháng 6, giá cao su thiên nhiên giảm nhanh khi nguồn cung tăng trở lại do mùa đông ở các
nước sản xuất chính qua đi, sản lượng mủ tăng dần lên. Tuy nhiên, nguồn cung lúc này vẫn
chưa dồi dào, và bất kỳ điều kiện thời tiết xấu nào, đặc biệt là mưa lớn, cũng có thể làm gián
đoạn sản xuất mủ cao su, và đẩy giá tăng trở lại.
Sau khi giảm tốc độ mua trong những tháng đầu năm nay, khi giá cao, Trung Quốc đang xuất
hiện trở lại trên thị trường cao su, và là nguyên nhân giữ cho giá không giảm quá nhiều dù sản
lượng tăng. Trung Quốc tìm mua cao su RSS3 của Thái Lan kỳ hạn tháng 7 và tháng 8, chấp
nhận giá khoảng 2,17-2,18 USD/kg.
4. Theo số liệu của hải quan Trung Quốc, nước này đã nhập 1,6 triệu tấn cao su thiên nhiên và 1,3
triệu tấn cao su tổng hợp trong năm 2006, tăng tương ứng 14,6% và 19,2% so với năm 2005.
Trong khi đó, theo thống kê từ hiệp hội, Trung Quốc đã tiêu thụ 3,5 triệu tấn cao su năm 2005 và
3,8 triệu tấn năm 2006. Dự báo tiêu thụ cao su ở Trung Quốc sẽ tăng 12% trong năm 2007 và
tiếp tục tốc độ đó ở 2008, song sẽ chậm lại còn 10% vào 2009 và 2010. Trung Quốc dự kiến sẽ
tiêu thụ 5,05 triệu tấn cao su trong năm 2007, bao gồm 2,35 triệu tấn cao su thiên nhiên và 2,7
triệu tấn cao su tổng hợp. Tiêu thụ cao su Trung Quốc có thể sẽ đạt 6,83 triệu tấn vào 2010, bao
gồm 3,18 triệu tấn cao su thiên nhiên và 3,65 triệu tấn cao su tổng hợp. Trong khi đó, theo thống
kê từ hiệp hội, Trung Quốc đã tiêu thụ 3,5 triệu tấn cao su năm 2005 và 3,8 triệu tấn năm 2006.
(Bảng 1)
Bảng 1: Thống kê và dự báo về tiêu thụ cao su Trung Quốc (triệu tấn):
Tiêu thụ 2006 2007 2008 2009 2010
Cao su thiên nhiên 2,1 2,35 2,63 2,89 3,18
Cao su tổng hợp 2,4 2,70 3,02 3,32 3,65
Tổng cộng 4,5 5,05 5,65 6,21 6,83
Nhập khẩu
Cao su thiên nhiên 1,61 1,75 1,90 2,0 2,1
Cao su tổng hợp 1,30 1,50 1,65 1,8 1,9
Tổng cộng 2,91 3,25 3,55 3,8 4,0
(Nguon: Vinanet)
III - Kết luận
Nhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới vẫn còn tăng cao trong những năm sắp tới. Do
vậy, Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm trong những năm
trước mắt và lâu dài là tăng diện tích, tăng sản luợng mủ và gỗ cao su. Tập đoàn sản xuất cùng
với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và chính quyền các tỉnh rà soát quỹ đất rừng có trữ
lượng gỗ thấp (dưới 70 m3/ha) và diện tích trồng cây công nghiệp hiệu quả thấp chuyển sang
trồng cao su, bên cạnh đẩy mạnh sản xuất cao su trên các đồn điền quốc doanh và diện tích cao
su tiểu điền hiện có.
Giá cao su trong quý 3-07 sẽ tiếp tục vững ở mức cao do nhu cầu của Trung Quốc còn lớn để
đáp ứng ngành công nghiệp sản xuất ô tô đang bùng nổ. Dự báo trong trung hạn, nguồn cung
cao su thế giới còn tiếp tục khan hiếm.
Trong kế hoạch xuất khẩu năm 2007, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cao su sẽ tăng
cường xuất khẩu cao su sang thị trường châu Âu, đồng thời giảm sản lượng cao su xuất khẩu
sang Trung Quốc. Chiến lược này nhằm đa dạng hoá thị trường, tránh nguy cơ rủi ro khi tập
trung sản lượng xuất khẩu phụ thuộc vào một thị trường. Cùng với việc mở rộng thị trường, trong
5. chiến lược phát triển đến năm 2010, ngành cao su Việt Nam định hướng ưu tiên phát triển sản
phẩm cao su chế biến có nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu lớn như săm lốp ô tô, băng tải.
Tài liệu tham khảo:
1. Trung tâm Tin học & Thống kê (ICARD)
2. Thông tấn xã Việt Nam, Vinanet, Vneconomy
3. Tin Reuters, Dow Jones
4. Các website của FAO, USDA