1. Báo cáo ngành hàng Cao su
Quý II/06
I – Tình hình sản xuất trong nước
Theo Hiệp hội cao su Việt Nam, tính đến đầu năm 2006, tổng diện tích trồng
cây cao su của cả nước đạt 478.000 ha (trong đó có 170.000 ha cao su tiểu
điền), tập trung ở Đông Nam bộ 65%, Tây Nguyên 23% và Duyên hải Trung
bộ 12%. Trong kế hoạch từ nay đến năm 2020, Hiệp hội Cao su Việt Nam sẽ
phát triển thêm 180.000 ha cao su tiểu điền, đưa tổng diện tích cao su tiểu
điền của cả nước lên 350.000 ha (chiếm 50% tổng diện tích cao su của cả
nước).
Cả nước có trên 70 nhà máy sơ chế cao su có công suất từ 500 đến 20.000
tấn/năm. Riêng Tổng Công ty Cao su Việt Nam hiện có 37 nhà máy sơ chế
với công suất thiết kế trên 330.000 tấn chiếm 73% sản lượng cao su của cả
nước, trong đó có 14 nhà máy chế biến có công suất từ 10.000 đến 20.000
tấn/năm, 12 nhà máy chế biến đã được chứng nhận chất lượng cao.
Trong năm 2005, Tổng Công ty Cao su Việt Nam đã đạt sản lượng là
303.581 tấn, tăng hơn năm 2004 là 4,75% và chiếm khoảng 59,2 % tổng sản
lượng cao su cả nước. Kế hoạch năm 2006 của Tổng Công ty là đạt sản
lượng 300.000 tấn, năng suất 1.725 kg/ha. Cả nước dự kiến đạt sản lượng là
700.000 tấn vào năm 2010 và 1 triệu tấn vào năm 2011.
Bên cạnh đó, dự án trồng cao su ở nước Lào nhằm tăng diện tích cao su để
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của Trung Quốc và các bạn hàng khác vẫn
đang được thực hiện tốt. Hiện tại, Công ty Cao su Việt-Lào đã trồng mới
được 1.700 ha cao su và trong năm 2006 này sẽ trồng thêm 6.000ha nữa và
đến 2007, dự án trồng mới 10.000 ha cao su trên đất Lào sẽ hoàn thành. Đây
sẽ là động lực để các doanh nghiệp cao su Việt Nam tiến lên trên con đường
hội nhập.
II – Tình hình thị trường trong nước và thế giới
Thị trường trong nước
Tình trạng thiếu hụt nguyên liệu thô, trong khi nhu cầu tiếp tục gia tăng đã
đẩy giá cao su tự nhiên gần đây tăng tới mức cao kỷ lục và chưa có xu
2. hướng giảm. Các công ty trong nước không đáp ứng được đơn hàng của các
nhà nhập khẩu. Ngoài thị trường xuất khẩu cao su chính của Việt Nam là
Trung Quốc, hiện nay nhu cầu cao su Việt Nam tại các thị trường Đài Loan,
Đức, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc đang tăng mạnh. Ngoài ra, các nước khác
như Braxin và Achentina cũng đang tăng nhu cầu nhập khẩu cao su từ Việt
Nam.
Trong 4 tháng đầu năm nay, giá xuất khẩu trung bình các loại cao su tương
ứng là 1.541 - 1.640- 1.750 và 1800 USD/tấn. Chủng loại cao su xuất khẩu
nhiều nhất là SVR 3L (46 - 49%), với mức giá 1.672 - 1.828 USD/tấn. Tiếp
đến là cao su loại SVR 10, chiếm khoảng 17 - 18% và giá trung bình đạt
mức 1.539 - 1.598 USD/tấn. Chủng loại thứ ba là mủ cao su ly tâm (latex),
chiếm khoảng 13 - 17% với mức giá là 1.075 - 1.168 USD/tấn. Cao su hỗn
hợp CSR (compound) các loại chỉ chiếm khoảng 5%.
Đầu tháng 5, tình hình xuất khẩu cao su qua cửa khẩu Móng Cái, Quảng
Ninh diễn biến không ổn định cả về lượng và giá cả. Giá cao su khối SVR3L
tiếp tục tăng cao, đạt mức 20.700 NDT/tấn. Dự báo giá cao su sẽ còn tiếp tục
tăng do giá dầu thô thế giới liên tục thử thách các mức cao mới và nhu cầu
của Trung Quốc - nước tiêu thụ cao su hàng đầu thế giới sẽ không ngừng
tăng lên. Trong khi đó, nguồn hàng xuất khẩu cao su do đang thời kỳ giáp vụ
nên khan hiếm. Hiện, các doanh nghiệp Trung Quốc đang cố gắng hạn chế
hoạt động mua vào để kìm giá không tăng cao hơn nữa, đồng thời chuẩn bị
vốn chờ vụ khai thác mủ mới. Tuy vậy, vẫn có nhiều nhà sản xuất săm lốp
muốn có nguyên liệu để đảm bảo sản xuất liên tục và họ đã chấp nhận mua
vào với giá cao. Đây chính là nguyên nhân đẩy giá cao su xuất khẩu của Việt
Nam đã có ngày tăng lên trên 21.000 NDT/tấn vào những ngày đầu tháng 5.
Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm nay, cả nước đã xuất khẩu
được 278.000 tấn cao su, trị giá 486 triệu USD, tăng 43,4% về khối lượng và
tăng gấp hơn 2 lần về trị giá. Riêng tháng 6, khối lượng cao su xuất khẩu
45.000 tấn cao su, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất
khẩu cao su trong tháng 6 đạt 87 triệu USD, tăng gần gấp đôi so với tháng
6/05. Kim ngạch xuất khẩu cao su tăng mạnh là do giá cao su xuất khẩu tăng
liên tục, bình quân trong 6 tháng đầu năm đạt mức tăng khoảng 45% so với
cùng kỳ. Hầu như các thị trường xuất khẩu cao su truyền thống của Việt
Nam đều tăng mạnh so cùng kỳ năm trước, trừ Nga giảm 8%. Trung Quốc
vẫn là thị trường xuất khẩu cao su số 1 của Việt Nam, Hàn Quốc đứng thứ 2,
Đức thứ 3.
3. Dự báo, giá cao su Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Thị trường thế giới
Tính đến hết tháng 5/06, giá cao su tự nhiên tại Mỹ đã tăng cao kỷ lục so với
giá cao su tổng hợp. Điều này gây lo lắng cho các thị trường tiêu thụ, đặc
biệt là thị trường săm lốp - lĩnh vực sử dụng khoảng 70 % sản lượng cao su
tự nhiên trên thế giới. Theo Tập đoàn Nghiên cứu Cao su Quốc tế (IRSG),
nhiều khả năng là các nhà tiêu thụ cao su tự nhiên đã thay thế 5 - 10% sản
phẩm của họ bằng cao su tổng hợp do không thể chịu nổi mức giá quá cao
trong thời gian qua, đặc biệt là Trung Quốc. Tại Nhật Bản, Liên minh Châu
Âu và Mỹ, xu hướng chuyển sang cao su tổng hợp hầu như không đáng kể
do thực chất nhu cầu sử dụng để sản xuất không nhiều.
Bên cạnh đó, hầu hết tại các thị trường châu Á giá cao su đã tăng lên một
cách nhanh chóng. Nguyên nhân chính là tình hình mưa lớn kéo dài tại Thái
Lan – nhà sản xuất và xuất khẩu cao su lớn nhất thế giới đã làm gián đoạn
công tác khai thác mủ của nông dân và làm cho nguồn cung nguyên liệu thô
trên thị trường giảm, cộng thêm biến động không ổn định của thị trường dầu
mỏ thế giới. Giá cao su tại các thị trường lớn như Thái Lan, Malaysia,
Inđônêxia liên tục vượt mức 2 USD/kg. Tính đến giữa tháng 6, giá cao su
SIR 20 tại Inđônêxia là 2,27-2,28 USD/ kg. Giá cao su SMR 20 của
Malaysia là 2,4 – 2,41 USD/ kg. Giá cao su RSS3 của Thái Lan là 2,68
USD/ kg.
Giá cao su các loại trên thị trường TG,
quý II/06 (UScent/kg)
300
SMR20 Malaysia
200
STR20 Singapo
100
RSS1 Inđônêxia
0
Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6
Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê
4. Xuất khẩu cao su Indonexia năm 2006 dự báo sẽ đạt 2,4 tỷ USD nhờ nhu
cầu và giá đều tăng mạnh trên thị trường quốc tế. Tiêu thụ cao su tăng mạnh
tại Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ có thể đẩy nhu cầu cao su thế giới
tăng 3,2% lên 21,3 triệu tấn trong năm nay, và sẽ tiếp tục tăng tới 22,64 triệu
tấn năm tới. Xuất khẩu cao su tự nhiên Malaysia tháng 4/2006 đã tăng
12,9% so với cùng tháng năm ngoái, đạt 104.977 tấn.
Về nhập khẩu, Hiệp hội Cao su Trung Quốc dự báo nhập khẩu cao su tự
nhiên vào nước này năm 2006 sẽ tăng 8%, trong khi tiêu thụ sẽ tăng tới 2,1
triệu tấn. Tổng tiêu thụ cao su Trung Quốc năm 2006 dự báo đạt 4,5 triệu
tấn, tăng tới 5-5,5 triệu tấn vào năm 2010, trong đó cao su tự nhiên đạt 1,8
triệu tấn.
III – Kết luận và kiến nghị
Thị trường cao su quý 2-06 nhìn chung không có biến động lớn. Giá cao su
trong nước và xuất khẩu liên tục tăng cao do nhu cầu cao su nguyên liệu của
nhiều nước, trong đó có Mỹ và Trung Quốc rất lớn, trong khi tình hình thời
tiết tại các nước sản xuất cao su chính không thuận lợi dẫn đến nguồn cung
hạn chế. Nhu cầu tiêu thụ cao su của Trung Quốc dự báo sẽ không ngừng
tăng, ngay cả khi giá cao su tự nhiên đứng ở mức cao ngất ngưởng sẽ là
nhân tố chính giúp giá cao su duy trì mức vững trong thời gian tới.
Vấn đề lớn trong ngành cao su Việt Nam hiện nay là hướng phát triển cao su
tiểu điền. Theo Hiệp hội cao su Việt Nam (VRA), diện tích cao su tiểu điền
hiện chiếm khoảng 195.000 ha, bằng 40,7% tổng diện tích nhưng sản lượng
chỉ chiếm 13,9% tổng sản lượng cao su cả nước. Năng suất các vườn cao su
tiểu điền đã đi vào thu hoạch ước chỉ đạt bình quân 820 kg/ha trong khi các
vườn đại điền quốc doanh đạt hơn gấp đôi, bình quân 1.715 kg/ ha. Việc quy
hoạch và phát triển các vườn cao su tiểu điền nhằm huy động vốn trong dân
nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được hiệu quả sản xuất chung cũng như chất
lượng cao su đang là vấn đề được xem xét và nghiên cứu.
Nguyễn Lan Anh
Tài liệu tham khảo:
5. 1. Trung tâm Tin học & Thống kê, Bộ Nông nghiệp và PTNT.
2. Thông tấn xã Việt Nam
3. Báo Tuổi trẻ
4. Tin Reuters
5. Các Web-sites của FAO, USDA.