Lớp 12: Tác gia Tố Hữu
(grade 12: To Huu)
Bài làm của chúng tôi dù còn thiếu sót nhưng mong mọi người xem và ủng hộ.
(our work may be flawed, but we desire you to read and comment. Thanks)
Lớp 12: Tác gia Tố Hữu
(grade 12: To Huu)
Bài làm của chúng tôi dù còn thiếu sót nhưng mong mọi người xem và ủng hộ.
(our work may be flawed, but we desire you to read and comment. Thanks)
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ với đề tài: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà
50000563
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ với đề tài: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000563
Bê trọc - Chuyện đời thường trong chiến tranhPhamVietLong1
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long, giải nhì Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Còn có tên gọi "Chuyện đời thường trong chiến tranh"
Bê trọc, còn gọi là Chuyện đời thường trong chiến tranh, là tác phẩm của Phạm Việt Long, do Nhà Xuất bản Thanh niên xuất bản vào đầu năm 1999.
Với gần 700 trang in, Bê trọc chứa đựng một dung lượng hiện thực khá lớn, với những chuyện đời thường có thật nhưng không tầm thường mà rất có ý nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nuóc của dân tộc ta.
Thông qua nhật ký chiến trường của một phóng viên Thông tấn xã giải phóng, cộng với thư từ, bài báo, ký sự, truyện ngắn được lồng ghép trong một kết cấu vững chắc, Bê trọc dựng lại cuộc sống hào hùng của dân tộc ta trong một giai đọan rất vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn sau tổng tấn công tết Mậu thân (1968) đến ngày đại thắng mùa xuân (1975).
Bê trọc gồm bốn chương:
- Chương một: Vượt Trường Sơn. Chương này miêu tả cuộc hành trình đi giải phóng miền Nam với bao nỗi nguy hiểm, nhọc nhằn của những cán bộ - trí thức trẻ. Họ đã vượt qua vùng đất lửa khu Bốn cũ trong vòng oanh tạc của máy bay Mỹ, hai lần vuợt qua đỉnh Trường Sơn để sang đất bạn Lào và trở lại Tổ quốc, xẻ dọc Trường sơn, vào tới vị trí chiến đấu ở ban Tuyên Huấn Khu Năm.
- Chương hai: Ở căn cứ. Chương này nói lên cuộc sống ở căn cứ vô cùng gian khổ, nguy hiểm nhưng cũng đậm đà tình nghĩa đồng chí, đồng bào. Tại đây, những trí thưc, nhà báo trẻ kiên trì gùi cõng, sản xuất, vượt qua những trận sốt rét rừng, qua thiên tai, địch họa để làm công tác chuyên môn, để chờ thời cơ xung trận bằng chính ngòi bút của mình
- Chương ba: Về đồng bằng. Chương này dựng lại không khí sôi nổi tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Trung Trung bộ những năm 1971 - 1972, trong đó đặc biệt sinh động là thế trận chiến tranh nhân dân ở tỉnh Bình Định. Bước chân phóng viên đã theo sát cuộc sống của nhân dân Bình Định, từ những ngày đồng bào bị địch kìm kẹp, cuộc sống ngẹt thở, cán bộ phải nằm hầm, bám dân làm công tác, tới những ngày chuẩn bị, rồi những ngày tấn công và nổi dậy cuốn băng đồn bốt địch, giải phóng quê hương.
- Chương bốn: Đi tới toàn thắng. Chương này phản ánh sức lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng báo chí giải phóng. Đội quân báo chí được tăng cường, tỏa đi khắp các chiến trường ở Trung Trung Bộ để viết tin, viết bài, chụp ảnh, góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc và cuối cùng đã cùng đồng bào, chiến sĩ Khu Năm đi tới toàn thắng.
Bê trọc là một bản hùng ca dung dị, đồng thời là một bản tình ca đằm thắm. Trên những trang sách, không chỉ có cuộc sống gian khổ, đói cơm, nhạt muối, cũng không chỉ có khí thế chiến đấu sôi nổi, hào hùng, mà còn có tình yêu đằm thắm - tình yêu đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi. Bằng những chi tiết sinh động, Bê trọc đã xây dựng nên hình tượng một Bê trọc giản dị mà hào hùng - đó là những cán bộ chiến sĩ chưa có gia đình riêng từ miền Bắc lên đường vào chiến trường B, những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở lại..
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hiến Hà Nam - Truyền thống và hiện đại” do tỉnh Hà Nam và Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp tổ chức.-Phần 2.
Đăng trên vanhien.vn
CẢM NHẬN Về những giá trị văn hóa - lịch sử trong tác phẩm của nhà văn Hoàng ...
40 nam nho lai
1. 40 NĂM - NHỚ LẠI…
Trần Thanh Phương
Đó là 12 giờ trưa ngày 21-12-1972, hệ thống loa phóng thanh công cộng
Hà Nội đang truyền đi bản nhạc du dương, bỗng ngừng đột ngột. Một hồi còi
báo động vang lên, kéo dài. Tiếng cô phát thanh viên dõng dạc: “Máy bay địch
cách Hà Nội… Máy bay địch cách Hà Nội… Những người tại khu tập thể báo
Nhân Dân gồm 15 hộ là nhà báo ở ngõ Lý Thường Kiệt, sau Đại sứ quán CuBa,
lần lượt xuống hầm. Hầm được xây khá kiên cố trong một căn phòng khoảng 20
mét vuông ở tầng trệt của gia đình nhà báo Đức Thi. Trong hầm thiếu ánh sáng,
không trông rõ mặt người, nhưng qua tiếng cười, tiếng nói chộn rộn, mọi người
đều biết có những ai.
Trên mặt đất yên lặng. Bỗng tiếng máy bay rít ầm ầm xẹt qua. Rồi lại yên
lặng bao trùm. Mọi người ngồi lâu mỏi định ra khỏi hầm thì tiếng cô phát thanh
viên dồn dập: “Máy bay địch đang bay trở lại Hà Nội…”. Tất cả yên lặng và tự
kiểm tra lại ai còn ở trên nhà, chưa xuống hầm. Bỗng một loạt tiếng nổ ầm! ầm!
ầm! căn hầm rung chuyển mù mịt cát bụi. Mọi người nín thở rồi như đồng thanh
thét lên: “Khu tập thể ta bị bom rồi!”.
Im lặng bao trùm. Rồi còi báo yên. Tiếng cô phát thanh viên thong thả:
“Máy bay địch đã bay xa!..”.
Chui ra khỏi hầm. Mọi người thảng thốt trước cảnh đổ nát ngổn ngang của
hai dãy nhà từ đầu đến cuối ngõ. Phía sau là khu nhà của Bộ Giao thông Vận tải
cũng bị bom. Ga Hàng Cỏ (ga tàu lửa Hà Nội) cách đó gần một cây số bị đánh
sập phần ga chính. Sau đó mươi phút, anh chị em trong đội tự vệ báo Nhân Dân
từ 71 phố Hàng Trồng, tay mang cuốc xẻng… chạy sang. Lúc này, chúng tôi
mới nhận ra sự tàn phá khủng khiếp của bom Mỹ. Nhà của nhà báo Quang Đạm
có tủ sách quý bị hất bay sang phố Dã Tượng, sau đó chỉ tìm được vài cuốn. Giá
sách và “kho” tư liệu của vợ chồng tôi bị gạch ngói vùi lấp. Nhà báo Lê Điền
(Sau này là Tổng Biên tập báo Đại Đoàn Kết), đêm hôm trước trực ở cơ quan
báo Nhân Dân, sáng vẫn tiếp tục làm việc, trưa tranh thủ về nhà nghỉ. Lúc báo
động ông chỉ kịp xuống hầm cá nhân ở gầm cầu thang nhà ông. Cái hầm kiên cố
đã cứu nhà báo Lê Điền, có cái đầu bạc trắng như cước. Đối diện là nhà ông
Nguyễn Thành Lê, người phát ngôn của Đoàn đại biểu Chính phủ ta tại hội nghị
Paris hư hại nặng. Các căn nhà của nhà báo Hà Đăng, Hà Hoa, Hùng Lý… bị
phá hủy hoàn toàn. Từ đầu ngõ, nhà nghệ sĩ cải lương Lệ Thanh và đạo diễn
Đức Dư, nhà ông Minh Đạo, phát thanh viên Đài tiếng nói Việt Nam và nhiều
nhà kiên cố khác đều bị bom đánh sập hoặc hư hại nặng. Nhưng tính mạng
những người có mặt hôm đó an toàn.
Ngày hôm sau, cơ quan báo Nhân Dân “bắt” tôi tạm đi sơ tán vài ngày tại
huyện Thạch Thất (Hà Tây cũ). Mấy hôm sau tôi nhận được thư của vợ tôi, thư
có đoạn: “Anh ơi, em báo anh việc này nhé: Sáng hôm qua, em đi dạy về nhìn
2. cái nền nhà đầy gạch vụn mà thắt ruột thắt gan. Em bới tìm được quyển sổ ghi
địa chỉ của người thân, bạn bè mình. Cái thau cũ cùng với cái áo của em nó nằm
đúng dưới gầm bàn mà chúng ta thường ngồi làm việc. còn mặc được. Chiều lại,
em bới tiếp bắt đầu từ cửa vào, thì được cả hai đôi guốc. Bới tiếp nữa, được hai
cái xoong (mấy ngày nay, em tưởng nó đã bay đi). Cả hai cái vẫn còn nguyên.
Em mừng quá! Chỉ cái nắp xoong con bị bẹp dúm lại, nhưng nó mềm em sửa
qua, dùng được. Em tiếp tục bới tìm được cái nắp ca, cái nắp ấm đun nước, cái
đèn dầu hỏa còn nguyên, chỉ vỡ bóng. Bới tiếp em nhặt được cái cắt móng tay.
Tiếp nữa, em tìm được chiếc gương soi, chân xếp lại và vẫn lành lặn. Nhưng
cảm động nhất là em bới được chiếc đồng hồ báo thức hiệu Slavơ của Liên Xô.
Chiếc đồng hồ chỉ bể mặt kính. Anh biết không, khi em chạm vào không hiểu
sao nó “reo” một hồi dài. Trời ơi, giữa đống gạch đổ nát, hầu như không có
bóng người ở chung quanh, vậy mà có một hồi chuông của chiếc đồng hồ quen
thuộc của vợ chồng mình, em không cầm được nước mắt…”.
Năm ngày sau, ngày 26-12-1972, từ nơi sơ tán, tôi về báo Nhân Dân làm
việc bình thường. Chúng tôi đang dùng bữa tối có tính “dã chiến” tại cơ quan thì
điện cúp. Tòa soạn nổi đèn dầu, tiếp tục lo bài vở cho số báo ngày mai. Đêm
hôm ấy, Hà Nội rét căm căm. Mặt hồ Hoàn Kiếm lờ mờ hơi nước, hơi sương.
Bỗng các loa phóng thanh thông báo: Máy bay địch cách Hà Nội 100 cây số, 80
cây số, rồi 60 cây số… loa phóng thanh lại truyền đi mệnh lệnh: “Địch có âm
mưu đánh phá ác liệt Thủ đô Hà Nội. Các lực lương vũ trang hãy sẵn sàng chiến
đấu, tiêu diệt địch. Các đồng chí công an, dân quân, tự vệ hãy kiên quyết làm
nhiệm vụ! Tất cả mọi người phải xuống hầm. Không ai được đi lại ngoài
phố…”. Rồi tiếng còi báo động vang lên. Tất cả cán bộ, phóng viên, công nhân
viên báo Nhân Dân làm việc đêm hôm ấy, xuống hầm. Hầm nơi tôi trú, nghe nói
là một hầm rượu của tướng Pháp Cô-nhi. Chính tại nơi đây, Cô-nhi đã điện cho
Đờ Cát ở Điện Biên Phủ “tùy nghi di tản”. Khi chúng thua ở Điện Biên Phủ năm
1954, thì sau đó báo Nhân Dân về Hà Nội, chọn nơi đây làm trụ sở của Bộ Biên
tập. Những năm Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, hầm rượu được xây thành
hầm trú ẩn khá kiên cố. Hầm nằm bên đường Lê Thái Tổ, chỉ cách mép nước Hồ
Gươm chừng vài bước chân. Bên cạnh cây đa cổ thụ còn có một căn hầm đào
sâu trong lòng đất dành để cho Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập và các cán bộ
biên tập làm việc, trình bày báo nếu chiến sự xảy ra ác liệt. Chính tại căn hầm
này, nhà báo Thép Mới đã viết một bài xã luật nổi tiếng đăng trên báo Nhân Dân
số ra ngày 26-12-1972 với nhan đề “Hà Nội, thủ đô của phẩm giá con người”.
Cả phố Khâm Thiên chạy dài từ ngã tư đường Nam Bộ (Nay là đường Lê
Duẩn) – Nguyễn Thượng Hiền đến Ô Chợ Dừa, gần Nhạc viện quốc gia, bỗng
rung lên bởi hàng loạt quả bom tạ từ máy bay B52 phóng xuống, ánh chớp lóe
lên, tiếng nổ kéo dài, những gì trên mặt đất đều có thể bốc lên, đổ sụp, tan nát.
Chúng ta có thể hình dung, những tấn bom B52 rải xuống dọc một dãy phố đông
dân vào đêm tối thì cảnh tượng ấy bị nhào lộn, hoang tàn đến nhường nào? Và
tất nhiên cho đến hôm nay, ai cũng hiểu rằng ở phố Khâm Thiên không hề có
một căn cứ quân sự nào.
3. Ngay sau trận bom, phóng viên báo Nhân Dân và nhiều báo, đài khác
phóng đến Khâm Thiên ngay lập tức. Tôi xin đi, các anh không cho. Vì có tin,
sau đó chúng có thể đánh tiếp dãy phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Chợ Đồng
Xuân, Cầu Long Biên… Hãy dành lực lượng cho các “mặt trận” khác.
Quãng đường rộng trước cửa nhà thờ lớn ở phố Nhà Chung tự dương
không biết cơ man nào xe tải, xe ôtô lớn nhỏ và người tập trung về nơi ấy.
Người ta đứng giữa trời lạnh, bàn chuyện chiến sự trong đêm và những ngày sắp
tới. Không mấy ai tỏ ra sợ hãi. Họ chỉ căm giận giặc Mỹ và mừng reo chiến
thắng vì ta liên tiếp hạ được nhiều pháo đài bay B52 của không lực Hoa Kỳ.
Vụ B52 ở Khâm Thiên có một câu chuyện thương tâm mà báo chí lúc bấy
giờ có nói tới, làm xúc động lòng người. Đó là bé Hà. Đêm ấy, những quả bom
dội xuống khối phố 41, đánh sập một ngôi nhà, gạch ngói đè lên căn hầm có bé
Hà. Cháu không ra được, ở trong đó cứ gọi: “Mẹ ơi, bế con ra với! Mẹ ơi!”. Chị
Liên, mẹ cháu Hà lao tới không làm sao lật được cái khối gạch nặng lớn ấy ra.
Bên trong, cháu vẫn gọi: “Mẹ ơi, bế con ra với!”. Những người chung quanh
nghe tiếng kêu của bé liền chạy lại. Tất cả lao vào cứu cháu. “Mẹ ơi, cứu con ra
với!”. Tiếng cháu Hà đuối dần, đuối dần. Người đào bới mang hết sức mình để
bật bằng được những khối gạch ngổn ngang kia. Khi moi được lên thì cháu Hà
đã tắt thở. Người mẹ đỡ xác con trên tay và òa khóc. Những người chung quanh
cắn chặt răng chịu đựng… Cho đến buổi chiều, ngõ Tô Tiền vẫn còn những xác
người được đào bới lên. Ôtô tải chở quan tài đến. Những dải khăn sô trên đầu
nhiều người đây đó bên đống gạch, bên mảng tường sụp đổ.
Tin Khâm Thiên bị máy bay B52 hủy diệt được truyền đi rất nhanh chóng
trong thành phố. Cả Hà Nội đêm đông ấy không ai ngủ. Hai giờ đêm, Đài phát
thanh Hà Nội truyền đi tin chiến thắng: Ta hạ máy bay B52, bắt sống giặc lái.
Bài hát Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi vang lên trong đêm khuya. Ai cũng
thức, cũng nghe, cũng tự hào. Chưa bao giờ Hà Nội được thức, được sống một
đêm hùng tráng như thế. Trước đây Hà Nội chỉ có mút-cơ-tông, có bom ba càng,
có lựu đạn chai. Hôm nay, Hà Nội đã đánh thắng quân xâm lược bằng tên lửa,
bằng pháo tầm cao và bằng máy bay Mích cánh én hiện đại. Hà Nội đã tỏ ra rất
xứng đáng với niềm tin yêu của Sài Gòn. Hà Nội rất xứng đáng với niềm tin yêu
của Huế. Hà Nội đã không hoảng loạn, không thành thành phố chết như bọn
xâm lược tưởng. Hà Nội vẫn nguyên thế đứng “rất Hà Nội” của mình. Hà Nội
tọa độ lửa của chúng ta là như vậy. Chúng nó cứ vào, Hà Nội đã chia ô bắn, đã
chia vùng trời cho các cỡ súng.
Năm 1973, nhà thơ Thu Bồn từ chiến trường miền Nam được đi nhận giải
thưởng quốc tế của Hội nhà văn Á-Phi, giải thưởng Lotus (giải Bông Sen) tặng
cho trường ca Bài ca chim Chơrao. Trong đêm trao giải, Thủ tướng Ấn Độ, bà
Ganđi gửi Thu Bồn một số máu khô của nhân dân Ấn Độ tặng các chiến sĩ và
đồng bào miền Nam. Còn nhà thơ Thu Bồn – tác giả trường ca Bài ca chim
Chơrao nổi tiếng đã nhờ nhà văn Tô Hoài mang 2.000 USD tiền thưởng của
mình tặng cho đồng bào phố Khâm Thiên bị bom B52 tàn phá đêm 26-12-
1972./.