2. I.Giới thiệu:
1. Tác giả:
- Phan Bội Châu(1867-1940) tên là Phan
Văn San, hiệu là Sào Nam, quê ở thôn Đan
Nhiệm, huyện Nam Đàn, Nghệ An. Đỗ Giải
Nguyên năm 1900.
3. Maison Centrale - Nhà tù Hoả Lò- Nơi Phan Bội Châu từng bị giam giữ
- Ông là nhân vật kiệt xuất của lịch sử dân tộc
trong mấy chục năm đầu của TK XX, là nhà thơ,
nhà chí sĩ yêu nước Cách mạng. Ông đã sáng
lập và lãnh đạo nhiều tổ chức, nhiều phong trào
yêu nước: Hội Duy Tân, Đông Du, Việt Nam
quang phục hội…
4. - Về thơ văn: Ông xứng đáng là nhà thơ văn lớn với
nhiều tác phẩm nổi tiếng: Việt Nam vong quốc sử, Hải
ngoại huyết thư, Ngục trung thư, Trùng quang tâm
sử, Phan Bội Châu niên biểu, Sào Nam thi tập…→
Ông là “nhân vật vĩ đại”, là linh hồn của các phong trào
giải phóng dân tộc khoảng 20 năm đầu của TK XX.
5. 2. Hoàn cảnh sáng tác
- Hoàn cảnh chung: Bài thơ ra đời trong một hoàn
cảnh lịch sử có ý nghĩa: Phong trào Cần vương chống
Pháp thất bại, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu
nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo.
Tình hình chính trị hết sức đen tối. Thời cuộc thay đổi
đòi hỏi phong trào giải phóng dân tộc phải có một
hướng đi mới, một số nhà Nho – trong đó có Phan Bội
Châu đã nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước
mới theo lối dân chủ Tư sản đầu tiên ở nước ta. Muốn
thế, phải tìm đến những đất nước đã duy tân để học tập
và quốc gia mà họ hướng đến là Nhật Bản.
-Hoàn cảnh riêng: Phan Bội Châu sáng tác bài thơ này
sau khi quyết định lên đường sang Nhật Bản.
6. 3. Thể loại:
Viết bằng chữ Hán theo thể thơ Thất ngôn bát cú
Đường luật.
4. Đại ý:
Bài thơ là khúc ca hùng tráng, biểu lộ tư thế,
quyết tâm hăm hở và những ý nghĩ cao cả, mới
mẻ của nhà chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu
xuất dương cứu nước.
7. II. Tri thức đọc hiểu:
1. Hai câu đề: Lời tuyên ngôn về chí hướng, lẽ
sống cao cả:
“ Làm trai… chuyển dời”
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống
cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi
kì). Suy rộng ra là không thể sống tầm thường,
sống một cách thụ động( càn khôn) tự chuyển
dời một cách vô vị, nhạt nhẽo.
Câu thơ thể hiện tư thế, tâm thế rất đẹp về
chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của
mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay
chuyển trời đất.
8. 2. Hai câu thực: Tác giả tự khắng định vai trò
của mình trong XH và lịch sử:
“ Trong khoảng… há không ai”
- Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là có ta trong cuộc
đời một trăm năm( bách niên trung).
→ Câu thơ khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn
lao của kẻ sĩ trong hoàn cảnh nước mất nhà tan.
9. - Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của
đất nước và dân tộc há lại không có ai( để lại tên
tuổi) ư? Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò
của cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác
mọi trọng trách mà lịch sử giao phó.
- Nghệ thuật đối độc đáo: lấy cái phủ định để làm
nổi bật điều khẳng định, lấy cái hữu hạn( bách
niên) của một đời người đối với cái vô hạn( thiên
tải) của lịch sử dân tộc, PBC đã tạo nên một
giọng thơ đĩnh đạt, hào hùng biểu lộ một quyết
tâm và khát vọng trong buổi lên đường.
10. 3. Hai câu luận: Nói về lẽ sống chết, lẽ công
danh:
“ Non sông đã chết... học cũng hoài”
Câu thơ nói lên một thực tế của lịch sử nước
ta vào những năm đen tối dưới ách thống trị của
TDP: Khi non sông đã bị ngoại bang xâm chiếm,
giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa
trâu, có sống cũng nhơ nhuốc, nhục nhã.
Trong hoàn cảnh ấy, có nấu sử soi kinh, có
chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa
bởi sách vở của “thánh hiền” liệu có ích gì cho
sự nghiệp cứu nước cứu dân.
11. PBC đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
trên hết. Ông nhắc nhở mọi người phải đọan
tuyệt với lối học cử tử, không để đắm chìm
trong vòng hư danh, mà phải đi tìm lí tưởng
cao cả, mới mong làm được điều “lạ” ở trên
đời.
12. 4. Hai câu kết: Tư thế hăm hở ra đi tìm đường
cứu nước:
“ Muốn vượt... tiễn ra khơi”
Trường phong( ngọn gió dài), thiên trùng
bạch lãng( ngàn lớp sóng bạc) là hai hình
tượng kì vĩ, đầy chất lãng mạn.
Nếu hai thanh trắc cuối câu 7(Đông hải khứ)
làm cho âm điệu thắt lại thì hai thanh bằng cuối
câu 8( nhất tề phi) làm cho âm điệu bay lên
→ âm điệu bổng, trầm ấy góp phần thể hiện
quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của
PBC.
13.
14. Câu thơ cuối thể hiện rõ tâm trạng hồ hởi, phấn
khích của nhà thơ trước lúc lên đường: trước
mắt nhà thơ là vầng dương, là ánh sáng đang
chiếu rọi, là tương lai đang mời gọi, đang giục
giã. Chính vì vậy nhà thơ sẵn sàng đương đầu
với phong ba bão táp, đạp trên đầu ngọn sóng
mà “bay” ra khơi.
Đây cũng là hai câu thơ mạnh mẽ nhất,
tráng lệ nhất của bài thơ, nó nói lên nội lực,
bản lĩnh chiến đấu của người chí sĩ yêu nước,
tất cả có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất.
15. III. Kết luận:
- Bài thơ 8 câu nhưng chứa đựng một nội dung
tư tưởng vừa phong phú, vừa lớn lao: có chí làm
trai, có khát vọng xoay chuyển vũ trụ, có ý thức
trách nhiệm cao cả, có quan niệm vinh nhục ở
đời, có thái độ mới mẻ và táo bạo về sách vở của
thánh hiền, có tư thế hăm hở ra đi cứu nước...
- Nói đến thơ hay còn phải nói đến giọng điệu
riêng. Đó chính là lòng nhiệt tình cứu nước sục
sôi, tuôn trào, nhiệt huyết.