2. MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU................................................................................................................................................................... 4
2.Ẩm thực Tết Nhật Bản........................................................................................5
II.NỘI DUNG CHÍNH.............................................................................................................................................. 6
1.Đồ cúng...............................................................................................................6
2.Tiệc Bonnenkai – Bữa tiệc giã từ năm cũ của người Nhật Bản.......................10
3.Đêm giao thừa:Thưởng thức Toshikoshi Soba trong đêm giao thừa................14
3.1.Nguồn gốc .................................................................................................14
3.2.Quá trình phát triển....................................................................................15
3.3.Cách thưởng thức mỳ Soba nói chung và mỳ Toshikoshi Soba nói riêng.16
3.4.Ý nghĩa của mì Toshikoki Soba ...............................................................17
4.Ngày Mùng 1 Tết..............................................................................................18
5.Osechi...............................................................................................................21
5.1.Nguồn gốc..................................................................................................21
5.2. Cách sắp xếp hộp Osechi..........................................................................22
6.Mùng 7 tết.........................................................................................................29
III.KẾT LUẬN......................................................................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................................... 34
2
3. Lời mở đầu
Ẩm thực đã từ lâu luôn là thứ tạo nên những nét văn hóa riêng biệt ở từng quốc
gia, từng vùng miền. Nó không chỉ là cơ sở nuôi dưỡng con người mà còn là một
trong những giá trị văn hóa tiêu biểu tạo nên cái hồn dân tộc, và ở Nhật Bản điều
này cũng không phải là một ngoại lệ. Đối với đất nước có nền văn hóa đa dạng và
phong phú như Nhật, ở mỗi giá trị văn hóa ta đều thấy một vẻ đẹp không chỉ toát
ra từ nét đẹp truyền thống mang hơi hướng Á Đông mà còn pha chút hiện đại tươi
mới của nền văn minh Phương Tây. Điều này được chứng minh tiêu biểu qua góc
nhìn về nghệ thuật ẩm thực.
3
4. Tuy chỉ là một góc nhìn về một mảng đề tài của văn hóa nhưng nó không hề hẹp
nghĩa chút nào, mà ngược lại trong nó bao hàm nhiều khía cạnh giá trị khác nhau.
Trong giới hạn bài làm của mình chúng em xin được chọn chủ đề về “ẩm thực
ngày tết Nhật Bản”, với mong muốn không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về
những món ăn đặc trưng của Nhật mà hơn nữa là những món ăn trong dịp đầu
năm, những ngày có ý nghĩa rất lớn đối với người Á Đông. Để phần nào thông
qua đây, ta thấy được bên cạnh những hoạt động truyền thống sôi nổi thì ẩm thực
cũng là một trong những thứ làm cho những ngày Tết của người Nhật thêm màu
sắc và giàu ý nghĩa.
I. MỞ ĐẦU
1. Sơ lược về Tết Nhật Bản
Ngày tết được gọi là ngày khởi đầu của mùa xuân, là thời điểm để mọi người
sum họp cùng gia đình.Đối với nước Nhật,ngày tết cũng giống như các nước
khác. Đó là một trong những lễ hội truyền thống lớn, là thời điểm giao mùa giữa
năm cũ và năm mới, có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Tuy nhiên, tết ở Nhật
Bản không giống như các nước láng giềng khác ở châu Á như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Việt Nam…ở điểm là Nhật Bản tổ chức đón năm mới theo dương lịch tức
là ngày 1-1 hằng năm và người Nhật gọi dịp này là “oshogatsu”-là dịp quan trọng
nhất trong năm để nghênh đón vị thần Toshigamisama đến thăm nhà.
4
5. 1.1. Nguồn gốc ngày Tết
Tết Nhật được coi là một trong những nghi lễ tồn tại lâu đời ngang với nghi lễ
Obon. Trước thời Minh Trị, năm mới của Nhật Bản dựa theo lịch Âm. Đến thời
Minh Trị thứ 6 (tức năm 1873), Tết được tổ chức theo dương lịch. Nguyên nhân
Nhật hoàng đưa ra quyết định như vậy là vì muốn chấm dứt thời kỳ học hỏi lâu
dài nền văn minh Trung Hoa đồng thời muốn học hỏi phương Tây không bị lạc
hậu, nghèo nàn.
Hiện nay, hầu hết các vùng ở Nhật đều theo tết dương lịch ngoại trừ quần đảo
Ryukyu -nơi có một nền văn hóa riêng biệt, năm mới vẫn đón chào theo Âm lịch..
1.2. Hoạt động ngày tết
Oshogatsu vốn là tên gọi riêng tháng giêng nhưng ngày nay nó được dùng để chỉ
khoảng thời gian từ mồng 1-4 của tháng đầu tiên trong năm. Vào ngày 8-12 chuẩn
bị đón năm mới, ngày 30 gia đình sum họp uống rượu Sake đón giao thừa.Vào
đêm giao thừa, ngay trước nửa đêm, ngôi chùa Phật giáo rung chuông 108
lần. Đây được xem là nghi lễ để quên đi năm cũ và mở ra năm mới. Ngoài ra, còn
có các hoạt động khác vào dịp tết giống như các nước châu Á như là đi chùa vào
năm mới “Hatsu Mohde", chơi trò chơi dân gian như trò thả diều takoage, đánh
cầu lông hanetsuki, lì xì đầu năm"otoshi-dama" , thắp hương cúng tổ tiên và các
vị thần... Ngoài ra, tết Nhật bản còn mang đậm nét tính cổ truyền với các phong
tục như treo shimenawa trước cửa nhà,đặt kadomatsu cạnh cửa, đặt wakazari
trong bếp…
2. Ẩm thực Tết Nhật Bản
Nhắc đến Tết Nhật Bản không thể không nói đến ẩm thực vào ngày tết. Như
chúng ta đã biết, các món ăn Nhật Bản có đặc trưng là thanh tao, nhẹ nhàng,
không lạm dụng quá nhiều gia vị và thường phù hợp với thiên nhiên từng mùa.
Món tết thực chất là món ăn ngọt, làm bằng các nguyên liệu thông thường đơn
giản nhưng giàu ý nghĩa tượng trưng Trên mâm cỗ của người Nhật, các món ăn
được bày trí khéo léo, tỉ mỉ và trông rất đẹp mắt.
Trước hết, phải kể đến Sashimi và Sushi là hai món ăn cá sống rất phổ biến và nổi
tiếng của Nhật Bản. Thứ hai, một món ăn không thể thiếu vào ngày tết là Osechi.
Điều thú vị ở Osechi là mỗi nguyên liệu cấu thành đều mang một ý nghĩa riêng
5
6. hàm chứa lời chúc một năm mới nhiều may mắn. Ngoài Osechi còn có một món
ăn khác, đó là món Zouni – món nướng thường gồm rau, cá, thịt gà cho vào nước
sốt cùng với bánh dày... Đặc biệt, nếu ăn bánh dầy vào ngày Tết nghĩa là thêm 1
tuổi, thêm sức sống vì bánh dày là món ăn do thần tặng. Bên cạnh đó, còn có
nhiều món ăn với ý nghĩa khác nhau như: món đậu phụ chúc mạnh khỏe, món
sushi cá tráp biển chúc sung túc thịnh vượng, món tempura chúc trường thọ, món
trứng cá tuyết nướng chúc gia đình đông vui….Ngoài một số món ăn truyền
thống cơ bản trên, tùy theo sở thích của từng gia đình Nhật, người ta có thể thêm
các món khác theo kiểu ẩm thực Trung Hoa, Hàn Quốc hoặc kể cả các món ăn
Âu, Mỹ. Về đồ uống, không thể thiếu rượu Sake-một loại rượu để trừ tà khí và
kéo dài tuổi thọ, ngoài ra còn có một vài loại bia có thương hiệu nổi tiếng của
Nhật như Ashahi, Sapporo hay Kirin. Từ đó cho ta thấy, mỗi món ăn của Nhật
được chế biến bằng phương pháp khác nhau nhưng đều có ý nghĩa riêng, hàm
chứa lời cầu chúc năm mới với nhiều may mắn,với niềm hy vọng vào một sự khởi
đầu mới.
Có thể thấy rằng tuy Tết Nhật Bản theo lịch Tây đã gần hơn một thế kỷ nhưng nó
vẫn bảo tồn những phong tục đặc sắc của xứ sở hoa anh đào mà đặc biệt điều đó
được thể hiện qua ẩm thực ngày Tết.
II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Đồ cúng
Đầu tiên nhắc đến các nghi lễ truyền thống ngày Tết không thể không nhắc đến
việc cúng đầu năm theo phong cách người Á Đông. Theo truyền thống, tương tự
như người Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, ở các gia đình Nhật Bản, người chủ
gia đình cũng đặt mâm cỗ trước bàn thờ và khấn mời tổ tiên về ăn Tết với con
cháu và tin tưởng rằng với khả năng thần bí và siêu nhiên tổ tiên của họ sẽ luôn
phù trợ cho con cháu của mình được hạnh phúc, may mắn trong năm mới.
Mâm lễ thường bao gồm rượu Sake, Omochi, quả hồng khô, hạt dẻ khô, hạt
thông, đậu đen, cá mòi, tôm, cá tráp, mực, Mochibana, quýt và nhiều thứ khác tùy
6
7. từng địa phương nhưng Omochi và rượu Sake là hai thứ không thể thiếu đối với
người Nhật.
Tại Nhật Bản, từ xa xưa, mọi người luôn lòng tôn trọng đối với hạt gạo - loại ngũ
cốc quý báu đã nuôi dưỡng họ bao đời. Bởi lẽ đó, bánh Mochi và rượu Sake làm
từ gạo không chỉ được dùng để ăn uống trong cuộc sống hàng ngày mà còn là vật
phẩm dâng lên thần linh và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống văn
hóa người Nhật.
Trước hết nói về rượu Sake, đối với họ, nó mang ý nghĩa tôn giáo – tâm linh vô
cùng sâu sắc. Bởi lẽ, việc làm ra rượu Sake được bắt đầu đồng thời với việc
người ta biết thờ phụng thần thánh. Bên cạnh đó, thần của rượu Sake chính là
thần của gieo trồng và thu hoạch lúa nên khi muốn cầu xin để gieo trồng thuận
lợi, mùa màng bội thu thì người ta luôn nghĩ tới thần rượu Sake. Vì vậy, loại rượu
này không chỉ là cầu nối tình cảm giữa con người với con người mà còn là cầu
nối giữa con người với thần linh. Do đó mà mặc cho sự du nhập của rất nhiều loại
rượu nổi tiếng thế giới người dân xứ Phù Tang vẫn giữ thói quen uống rượu Sake
trong những ngày lễ hội tôn giáo, những dịp quan trọng và đặc biệt là ngày tết.
Để làm rượu Sake người Nhật sử dụng nguyên liệu chủ yếu là gạo và nước. Tuy
nhiên, việc lựa chọn gạo rất cầu kỳ, không phải gạo nào cũng nấu được mà phải
là gạo Sakaima, hạt lớn, mềm, chỉ trồng được ở một số vùng nhất định, kỹ thuật
canh tác phức tạp. Nước cũng phải là nước ngầm, hàm lượng sắt và magie thấp,
không làm đổi màu rượu. Đôi khi để làm tăng thêm vị ngot dịu của rượu, người
ta dùng thêm nấm Koji để chuyển hóa cơm thành đường. Bình rượu hay tách
uống rượu cũng tùy theo từng thời điểm mà khác nhau, vào những ngày lễ hội
năm mới như thế này thì người ta thường dùng chén Sakazuki và bình Choshi với
màu đỏ và màu đen bóng. Bình đựng rượu để dâng cúng thần linh là loại bình
màu trắng tinh khiết tượng trưng cho sự thiên liêng của thánh thần.
7
8. Tiếp đến nói về bánh Mochi người nhật có quan niệm vô cùng độc đáo rằng: ngày
tết ăn bánh dày sẽ thêm 1 tuổi, họ cho rằng lúa có hồn và bánh dày có vía nên ăn
bánh dầy có nghĩa là tăng thêm sức sống. đặc biệt, bánh dầy ngày tết là do thần
tặng nên có sức sống mạnh hơn.
Bánh Mochi thường được bày trí ở bàn thờ Shinto của gia đình, hốc tường Toko
noma trang trọng trong phòng khách hoặc trong nhà bếp. Những chiếc bánh này
được gọi là Kagamimochi, tức bánh Mochi dâng lên thần linh.
Kagamimochi được tạo thành từ hai chiếc bánh Mochi hình tròn nhỏ và lớn
chồng lên nhau giống như cái hồ lô. Hình dạng tròn của chiếc bánh tượng trưng
cho cuộc sống gia đình sung túc, viên mãn, giống với hình dạng của chiếc gương
đồng thời xưa, nên mới có tên là Kagamimochi. Mà người Nhật xưa thì cho rằng:
Gương là nơi trú ngụ của các vị thần. Hình ảnh xếp chồng lên nhau thể hiện niềm
vui, may mắn “chồng chất” –“niềm vui nối tiếp niềm vui”, hai bánh Mochi khác
nhau tượng trưng cho năm cũ và năm mới, trái tim con người, "âm" và "dương",
hay mặt trăng và mặt trời. Trên đỉnh của Kagamimochi, người ta đặt một quả
cam với mong ước gia đình phồn thịnh và con cháu đầy đàn, gia đình được tiếp
nối từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi nó có phát âm là daidai giống như từ “đời
đời” (代々). Bánh ở trên một kệ được gọi là Sanpo, trên một tờ giấy gọi là
Shihobeni được cho là để ngăn lửa cháy nhà cho năm sau. Các tờ giấy gọi là
Gohei được gấp thành các hình tia sét giống như những gì nhìn thấy trên đai của
đô vật sumo cũng được đính kèm.
8
9. Ngoài ra, một số gia đình
còn có thể trang trí cầu kỳ
hơn bằng cách đặt thêm vào
1 con tôm hùm, vì tôm hùm
có hình dáng như cụ già
đang khom lưng nên gia chủ
mong muốn gia đình sẽ
sống lâu trăm tuổi và có
cuộc sống an khang thịnh
vượng.
Còn một phong tục thú vị về Kagamimochi trong ngày khai bánh đó là người ta
thường dùng búa hay dùng tay để đập vỡ bánh rồi ninh, kho, ăn nấu cùng với
ozoni; tuyệt đối không được dùng dao vì như thế sẽ mang ý nghĩa chia rẽ gia
đình.
Ngoài hình dáng hồ lô, bánh Mochi còn được người Nhật tạo hình theo nhiều
cách khác. Bánh Mochi hoa anh đào được gọi là mochi bana, bana là biến âm
của “hana”, cũng có nghĩa là hoa. Từ những khối bột gạo nếp được nhào với
nước, thêm sắc hồng hoặc xanh lá của màu thực phẩm, màu trắng tinh khôi, một
nhúm nhỏ nặn thành nụ anh đào tươi thắm ngày xuân. Những cành mochi bana
cũng được dùng để trưng bày ở Toko noma và gian thờ của căn bếp. Chúng
được đặt ở đó trong suốt mùa đông dài với hy vọng mang lại trí tuệ, sự sáng
suốt cho gia chủ. Dù phải tới tháng 4 mới là mùa của hoa đào nở rộ ở Nhật Bản
nhưng ngay từ đầu tháng 1, và thường kéo dài tới hết ngày 15. Thế là những
cành “hoa bánh” Mochibana đua nhau “nở” rộ ở các cửa hàng, cửa tiệm, hay
trong phòng khách mỗi gia đình luôn được xem là dấu hiệu cho một mùa xuân
tốt lành đang đến.
9
10. 2. Tiệc Bonnenkai – Bữa tiệc giã từ năm cũ của người Nhật Bản
Bonenkai (忘年会, dịch ngữ nghĩa ra là tiệc họp mặt quên đi năm cũ) là một
bữa tiệc nhậu được tổ chức vào cuối năm, thông thường chúng được diễn ra
giữa các nhóm đồng nghiệp và bạn bè. Mục đích của bữa tiệc, đúng như tên gọi
của nó, là để quên đi những điều buồn phiền và lo lắng của năm cũ, sẵn sàng
chào đón năm mới với tâm hồn tươi sáng. Đây cũng là dịp các nhân viên được
lĩnh tiền thưởng cả năm (bằng 5-6 tháng lương) vì thế họ có tiền ăn chơi xả
láng.
Bonenkai không diễn ra vào một ngày nhất định mà được rục rịch tổ chức từ
giữa tháng 12 cho đến hết năm, thường tổ chức vào ngày 28/12. Mang nghĩa là
tiệc gặp gỡ cuối năm, vì thế về cơ bản, Bonenkai là bữa nhậu với lượng bia,
rượu được tiêu thụ khá lớn.
Không gian được lựa chọn để tổ chức Bonenkai là nhà hàng, các quán ăn có
diện tích rộng, thoáng và phải mang phong cách truyền thống Nhật Bản với
những bàn dài để mọi người có thể ngồi quây quần tạo không khí ấm cúng. Bên
cạnh đó, nhiều công ty cũng chọn cách tổ chức trong những phòng hội thảo lớn,
nơi có sẵn những trang thiết bị cần thiết như: Nhạc cụ, dàn âm thanh, máy
chiếu… không khí khi đó sẽ trang trọng hơn, phù hợp với những công ty lớn.
Trong hầu hết các bữa tiệc thì đều có mặt của những món ăn mang linh hồn của
Nhật Bản như sushi và sashimi và trong Bonenkai cũng vậy. Ngoài ra trong bữa
tiệc Bonenkai thì lẩu là món ăn được yêu thích nhất. Lẩu gần như luôn có mặt
10
11. trong thực đơn của Bonenkai. Cũng dễ hiểu thôi, cùng nhau ăn một nồi lẩu nóng
hổi giữa tiết trời rét căm căm của tháng 12 quả là tuyệt vời, cảm giác như lúc đó
mọi người cũng xích lại gần nhau hơn.
Lẩu là món ăn được yêu thích trong mùa đông, được chế biến từ hải sản, thịt gà
hoặc thịt heo và rau quả. Đây là món ăn nấu trong nồi canh hầm để ngay trên
bàn. Thành phần được sắp xếp trên đĩa phẳng để cho mỗi người tự ăn món mình
thích. Loại lẩu thường gặp là mizutaki, yudofu, udonsaki, kanisuki, dotenabe,
shabushabu và sukiyaki. Hai món thông dụng là Mizutaki (lẩu với nước dùng
không béo, thịt gà, rau cải, cá) Yose nabe (thịt gà, hải sản, rau).
Yose nabe Mizutaki
Ăn cùng nhau là tính đặc trưng của lẩu, người châu Á nghĩ rằng ăn chung trong
một nồi như vậy sẽ làm tăng tính tập thể và làm cho mối quan hệ giữa con người
gần gũi với nhau hơn. Chính vì vậy người Nhật thường hay nói “鍋 を 囲む”,
tức là “ngồi quanh nồi” có ngụ ý rằng tạo mối quan hệ ấm áp giữa mọi người
khi ăn cùng nhau.
Tùy theo từng địa phương mà có những nồi lẩu khác nhau:
11
12. 12
Ishikari- nabe (Hokkaido) gồm có các
thành phần: cá hồi, củ cải Nhật, hành tây,
đậu hũ, bắp cải, tỏi tây, nấm shiitake.
Kiritanpo- nanbe (Quận Tohoku) gồm
có các thành phần kiritanpo, thịt gà,
cây ngưu bàng, rau mùi tây, tỏi tây.
Houtou- nabe(Huyện Kanto) gồm
có các thành phần: bí đỏ, cải bắp
Trung Quốc, cà rốt, khoai môn, mì
houtou.
13. Để kích thích khẩu vị khi ăn, người Nhật thường cho thêm nước sốt vào. Có rất
nhiều loại nước sốt, chẳng hạn như nước sốt mè được làm từ vừng, nước tương,
rượu sake, tảo bẹ và đường.
Trong bữa tiệc Bonekai dường như mọi người thân thiết hơn, mọi lễ nghĩa,
nguyên tắc trong công việc hàng ngày không còn quá coi trọng, thậm chí rất
nhiều các ông sếp còn khuyên nhân viên hãy thoải mái, thay đổi cách xưng hô
để mọi người bớt xa cách. Sau khi ăn uống no say là đến một tiết mục sở
trường của người Nhật – karaoke. Có thể nói đây là hình thức giải trí phổ biến
và rất hiệu quả ở Nhật. Người Nhật quan niệm rằng chỉ cần hát lên là mọi ưu
phiền sẽ tan biến hết. Và đây cũng chính là mục đích của bữa tiệc Bonenkai.
13
Momiji- nabe(các huyện trung du)
gồm các thành phần: thịt nai, cây ngưu
bàng, nấm shiitake, tỏi tây, đậu phụ,
rau xanh.
14. 3. Đêm giao thừa:Thưởng thức Toshikoshi Soba trong đêm giao thừa
Vào ngày 31/12 là đêm tất
niên (Oomisoka), là ngày
quan trọng trong truyền
thống của người Nhật vì
đây là ngày cuối cùng của
năm cũ. Sau khi hoàn tất
công việc dọn dẹp nhà cửa
trong ngày, vào đêm giao
thừa, người Nhật sẽ ăn
một bữa tối hoành tráng
nhất trong năm. Bữa tối
này thường diễn ra vào khoảng 10h hay 11h đêm tại nhà, mọi người quây quần
lần cuối cùng trong năm cũ, lúc này trên bàn ăn ở các gia đình Nhật Bản không
thể thiếu các loại mỳ Nhật làm từ kiều mạch (tiếng Nhật gọi là Toshikoshi
soba).
Tại Nhật, kiều mạch được trồng cách đây hàng ngàn năm và là nguồn thực
phẩm quan trọng chẳng kém gì hải sản. Từ xưa, gạo không phải là nguồn thực
phẩm dồi dào và duy nhất của người Nhật. Ở những vùng nông thôn miền núi,
người ta canh tác lúa rất ít vì điều kiện không thuận lợi. Kiều mạch trở thành
loại cây được trồng phổ biến và là nguyên liệu chính làm ra nhiều món ăn của
người dân miền núi.
Mỳ Toshikoshi Soba nói riêng và mỳ Soba nói chung là loại mỳ có sợi dai và
dài làm từ kiều mạch tượng trưng cho sự trường thọ và một năm tràn ngập niềm
vui. Theo quan niệm truyền thống của người Nhật, sợi mỳ càng dài thì họ càng
có nhiều may mắn trong năm mới, và việc ăn các món được làm từ kiều mạch,
gạo vào thời khắc đầu tiên của năm mới sẽ là nguồn gốc giúp con người thành
đạt.
Khi đón chờ thời khắc chuyển giao năm mới, cả gia đình sẽ quây quần bên
chiếc bàn sưởi Kotatsu và cùng thưởng thức Toshikoshi Soba.
3.1. Nguồn gốc
Phong tục này được duy trì từ thời Edo ( 1600-1868). Nguồn gốc của phong tục
này là khi một người thợ kim hoàn vào thời điểm quét dọn nhà cửa đón năm
14
15. mới đã thu thập các mạt vàng rơi vãi xung quanh nơi ông ta làm việc với bột
bánh soba, sau đó đốt cháy soba trong lò than và thu lại các vụn vàng. Bởi vậy
người ta cho rằng soba có thể thu thập được tiền và dần hình thành tập tục ăn
Soba vào đêm giao thừa. Tuy nhiên ngày nay bởi vì soba dài và mảnh vì vậy
người ta còn quan niệm nó có ý nghĩa trường thọ.
3.2. Quá trình phát triển
Giai đoạn đầu thời Edo, các khu vực xung quanh thành Edo, ngày nay là thủ đô
Tokyo, chưa được mở mang rộng rãi như bây giờ. Chính quyền Mạc phủ quyết
định tuyển mộ nhân công trên toàn quốc tham gia kế hoạch mở rộng vịnh Edo.
Một lượng lớn lao động chân tay, chủ yếu là các thanh niên và thợ thủ công, đã
tụ hội về thành Edo để đắp đê lấn biển và xây dựng lâu đài, cơ sở hạ tầng cho đô
thị. Dân số đông khiến nhu cầu ăn uống cũng tăng theo. Hàng quán bên đường
và nhà hàng nhanh chóng ra đời, trong đó có các cửa hàng phục vụ món mì kiều
mạch.
Ngoài thực đơn cao cấp dành cho giới quí tộc, võ sĩ và những thương nhân giàu
có, người dân Edo còn chú trọng phát triển các món ăn bình dân phục vụ cho
lượng lao động đông đúc. Cá và nguồn nông sản dồi dào từ vùng phụ cận đã tập
trung về Edo. Thêm vào đó, khu vực Shinshyu và phía Bắc Kanto nổi tiếng là
vùng sản xuất kiều mạch lớn nhất nước. Những yếu tố này đã giúp hình thành
món mì soba ngày nay.
Là món ăn rẻ tiền, đơn giản nhưng lại rất ngon miệng nên các đầu bếp ở Edo đã
nỗ lực cải tiến để món mì Soba ngày càng hoàn thiện và hấp dẫn hơn. Trước
đây, sau khi luộc chín và chế qua nước nóng, những sợi mì Soba đứt đoạn rời
rạc. Nhưng khi sử dụng phương pháp ủ kín sau khi chần nước nóng, sợi mì vẫn
giữ nguyên hình dáng.
Sợi mì lúc này có kích thước khá to. Giai đoạn giữa thời kì Edo, kỹ thuật làm mì
Soba tiếp tục được cải tiến. Người ta đã kết hợp bột kiều mạch với một ít bột mì
để tạo ra những sợi mì vừa thon vừa dài, khi nấu chín, nó vẫn không bị vỡ vụn.
Cách làm này vẫn được duy trì đến ngày nay. Sự thay đổi này khiến món mì
soba rất được ưa chuộng chẳng kém gì mì udon. Mì Soba trở nên rất thịnh hành
trong giới bình dân vì nó vừa ngon vừa tiện lợi.
Song song với sự phát triển của mì soba thì ngành chế biến nước tương cũng trở
nên hưng thịnh. Người ta phát hiện ra rằng, mì Soba ăn kèm với nước tương tạo
nên hương vị độc đáo. Món mì Soba dần trở nên hoàn thiện nhờ sự cải tiến về
15
16. sợi mì, nước dùng và cách sử dụng.
Sự nổi tiếng của mì Soba lúc bấy giờ đã được ghi nhận trong một số tài liệu.
Theo số liệu thống kê, vào thời điểm đó, trong kinh thành Edo có khoảng 3.600
quầy hàng và cửa hiệu phục vụ món mì nỲ. Đó là món ăn nhẹ tuyệt vời của
người dân lao động giữa hai bữa ăn chính trong ngày. Dần dần, mì soba phát
triển đa dạng, từ mì lạnh đến mì nóng với nhiều phụ liệu phong phú từ đậu hũ,
thịt động vật đến hải sản. Nó đã góp phần tạo nên giá trị văn hóa ẩm thực Nhật
Bản.
3.3. Cách thưởng thức mỳ Soba nói chung và mỳ Toshikoshi Soba nói
riêng.
Có một điểm rất thú vị trong cách ăn món mì nổi tiếng này. Nó được xem là nền
tảng và cũng là biểu tượng của mì soba. Điểm hấp dẫn của mì soba là sự cân
bằng vị giác giữa nước dùng và sợi mì. Đó là sự xuất hiện của âm thanh khá lớn.
Khi ăn mì soba, người Nhật có thói quen hút mạnh những sợi mì vào miệng để
tạo ra tiếng động lớn.
Không chỉ độc đáo ở cách ăn mì soba, cách sử dụng nước dùng cũng giữ một
vai trò rất quan trọng. Có một số người khi ăn mì Soba, những đũa mì đầu tiên
không chấm vào nước dùng. Mục đích của họ là muốn cảm nhận hết mùi thơm
và hương vị nguyên thủy của sợi mì. Những đũa mì tiếp theo sẽ được ăn cùng
với nước dùng. Khi đó, mùi thơm, vị đậm đà của nước dùng sẽ hòa quyện với
mùi vị đặc trưng của mì Soba khiến người ăn không thể nào ngừng cho đến khi
bụng họ không còn chứa được nữa. Điểm hấp dẫn của mì soba là sự cân bằng vị
giác giữa nước dùng và sợi mì. Đó là sự tương hổ luôn được chú trọng trong ẩm
thực của người Nhật.
16
17. 3.4. Ý nghĩa của mì Toshikoki Soba
Mì Toshikoshi Soba dài khiến người ta liên tưởng đến một cuộc sống lâu dài và
sung túc, vì thế Toshikoshi Soba cũng là biểu tượng cho một cuộc sống trường
thọ khỏe mạnh và tràn đầy sức sống trong năm tới.
Hơn nữa, mì Toshikoshi Soba cỏn giúp giữ của trong nhà và mang thêm vàng
bạc, tiền tài đến với chủ nhà như theo nguồn gốc.
17
18. Nhưng truyền thống này có một ý nghĩa thực tế hơn: cho phép người vợ nấu
một món ăn đơn giản để họ nghỉ ngơi sau một năm bận rộn nấu những món cầu
kỳ cho mọi người.
Người ta tin rằng nếu ăn còn chừa lại, dù chỉ là một sợi mì toshi-koshisoba thì
sẽ gặp điều xấu vào năm mới.
4. Ngày Mùng 1 Tết
Ngày được trông chờ nhất đó chính là buổi sáng đầu tiên của năm tức 1/1
Dương Lịch, được gọi là ngày "Thịnh Vượng", là ngày quan trọng nhất để khởi
đầu một năm mới. Vào ngày này cả gia đình sẽ cùng quây quần bên bàn ăn,
uống rượu Sake và ăn món súp Ozoni, món súp truyền thống gắn liền với ngày
Tết. Sáng 1/1 Tết, các gia đình ở Nhật đều làm lễ đón mừng năm mới nên việc
đầu tiên là họ sẽ uống rượu Sake mừng năm mới để trừ tà khí trong năm và để
kéo dài tuổi thọ vì theo người Nhật rượu Sake chính là thức uống trường thọ.
Tiếp đến là món canh bánh dày Ozoni được chế biến bằng cách sử dụng tất cả
các nguyên liệu như củ cải, khoai và bánh dày (omochi)… những thứ được bày
cúng trên bàn thờ tổ tiên trong đêm giao thừa. Người Nhật quan niệm rằng ăn
uống những thứ các vị thần hay tổ tiên đã ăn sẽ làm tăng thêm sức mạnh.
Ozoni hiểu theo nghĩa đen là nhiều nguyên liệu được nấu chung với nhau. Vì nó
quá phổ biến và dễ làm, nên hầu như rất khó có thể tìm ra một công thức chính
xác cho Ozoni. Mỗi gia đình có một cách chế biến riêng, tạo nên một hương vị
đặc biệt không thể trộn lẫn. Nhưng tất cả đều có một nguyên liệu chung không
gì thay thế được là Mochi. Có thể nói, Mochi chính là cái hồn của món ăn này.
18
19. Món canh ozoni đương nhiên không thể thiếu bánh dầy omochi.
Trong truyền thuyết cổ ngày xưa của Nhật Bản, vào ngày mùng 1 Tết, vị thần
Toshidon sẽ xuất hiện và ban tặng cho các em bé ngoan, vâng lời cha mẹ bánh
dầy Ozoni. Từ truyền thuyết này, với mong muốn được hưởng nhiều món quà
của các vị thần, người Nhật Bản thường ăn Ozono vào mùng 1 tết.
Một món ăn nữa không thể không nhắc đến trong ngày Tết đó là Osechi hay còn
19
20. được gọi là Honzonshoku (thức ăn được dự trữ), một phần vì quan niệm xa xưa
cho rằng nấu nướng trong ba ngày đầu năm mới không tốt cho vị thần bếp, phần
khác vì để giải phóng cho các bà nội trợ khỏi công việc nấu nướng bận rộn
trong mấy ngày năm mới nên người Nhật có tục lệ chuẩn bị sẵn đồ ăn nguội gọi
là Osechi trong một cái hộp lớn để cả nhà cùng ăn. Các siêu thị đều có bán các
hộp Osechi như vậy.
Vị của các món Osechi khá đặc biệt vì lẫn cả mặn, ngọt và thông thường là lạnh
nên người không quen lúc đầu thấy khó ăn. Thường thì đại gia đình tụ tập ăn
uống, cùng trò chuyện và cùng đọc các tấm Nengajou (thiếp chúc mừng năm
mới).
Ngày nay việc đón mừng năm mới của người Nhật không còn cầu kỳ, trang
trọng như trước, một số nghi lễ được bỏ qua, đặc biệt ở các đô thị. Tuy nhiên
còn nhiều phong tục vẫn được duy trì như đi chùa cầu an, khai bút đầu xuân,...
và hiển nhiên, trong các ngày tết, phụ nữ Nhật sẽ mặc Kimono truyền thống ,
các gia đình sẽ ăn những thức ngày ngày tết đặc trưng mà không kém phần cầu
kì và bổ dưỡng này.
20
21. 5. Osechi
Ngày đầu tiên trong năm mới của Nhật có tên gọi là “Gantan”, nhưng từ mồng 1
tới mồng 3 thì gọi chung là “Sanginichi”. Trong cả 3 ngày này cả gia đình sẽ
quây quần và cùng ăn một bữa cơm chung đã được chuẩn bị sẵn từ trước đêm
giao thừa gọi là “Osechi Ryori”.
5.1. Nguồn gốc
Phong tục này bắt đầu từ thời Heian (794 – 1185), đây là thời kì mà Nhật Bản
chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi đạo Khổng Tử của Trung Quốc. Và đến thời Edo(
1603 -1867) thì được phổ biến rộng rãi hơn. Osechi là món ăn được bắt nguồn
từ một bữa ăn đầu năm ở Sechie, bữa tiệc do hoàng cung tổ chức để chúc mừng
thời khắc giao mùa. Khi đó, hằng năm người ta tổ chức năm ngày lễ lớn gọi là
Gosekku, bao gồm Jinjitsu (ngày 7 tháng 1), Joushi (ngày 3 tháng 3), Tango no
sekku (ngày 5 thnags 5), Tanabata (ngày 7 tháng 7) và Chouyou no en (ngày 9
tháng 9). Trước khi Jinjitsu được ấn định vào ngày 7 tháng 1 dưới thời thiên
hoàng Meiji thì Osechi là những món ăn truyền thống trong bữa cơm trong suốt
7 ngày đầu năm.
Osechi Ryori ban đầu được làm để dâng lên Toshigami, vị thần được cho là sẽ
xuống hạ giới để đén thăm các gia đình mỗi năm một lần vào đầu năm mới. Các
món ăn trong thực đơn Osechi đều là đồ ăn nguội. Người ta tin rằng ăn Osechi
vào ngày đầu năm mới sẽ mang lại sức khỏe cho gia đình, hạnh phúc, thịnh
vượng trong cả năm đó.
Osechi là hozonshoku, hay nói cách khác là thức ăn được dự trữ .Về phương
diện lịch sử, nó được chuẩn bị trước để những người phụ nữ trong gia đình có
thể có được vài ngày nghỉ không cần nấu nướng, thức ăn được làm giống như
đồ ăn mà người Nhật từng ăn hàng thế kỉ trước. Ở Nhật, người ta tin rằng những
ngày đầu năm có vai trò vô cùng quan trọng. Nó tượng trưng cho cả một năm
mới vừa bắt đầu. Vì thế, trong những ngày này , mọi người luôn cố gắng để giữ
cho không khí luôn vui vẻ. Theo truyền thống thì suốt 3 ngày Tết không ai làm
gì mà chỉ tập trung vui chơi, mọi hoạt động nấu nướng, dọn dẹp,... đều bị ngưng
lại.
21
22. 5.2. Cách sắp xếp hộp Osechi.
Osechi-ryori gồm từ 20 đến 30 món ăn làm theo thực đơn ngày Tết rất cầu kỳ
bày trong một cái hộp nhiều tầng gọi là Jubako. Về cơ bản, thức ăn trong mỗi
hộp sẽ được sắp xếp theo quy tắc: hộp đầu tiên là các món hầm và luộc khai vị
cùng cá, hộp thứ hai gồm món ăn nhẹ hoặc hơi có vị chua và hộp cuối cùng là
các món ăn chính, món hầm nước hoặc kho.
Thứ tự trình bày các món ăn trong Jubako không tuân theo một quy luật nhất
định mà có nhiều khác biệt, tuỳ từng nơi và tuỳ theo số tầng của jubako, nhưng
mỗi ngăn sẽ chỉ bày các món ăn có cách chế biến tương tự nhau. Không chỉ có
tính chất trang trí, Jubako còn giúp bảo quản thức ăn chứa trong nó, giữ nguyên
mùi vị của osechi trong suốt ba ngày đầu
Cách xếp hộp món ăn ngày Tết Nhật: Chính thức thì món ăn ngày Tết Nhật
được xếp vào 5 hộp chồng lên nhau. Nhưng hiện nay loại xếp 3 hộp là phổ biến.
Đằng nào thì số hộp cũng là một số lẻ, điều này đã thành tục lệ từ xưa rồi. Nếu
là 5 hộp, thì xếp như sau:
Hộp 1: Món cá trang trí, chúc
mừng
Hộp 2: Các món chua
Hộp 3: Các món nướng
Hộp 4: Các món kho, nấu
Hộp 5: Các món nặng
22
23. Nếu là 3 hộp, thì xếp như sau:
Hộp 1: Món cá trang trí, chúc
mừng và món khai vị
Hộp 2: Các món chua
Hộp 3: Các món kho, nấu
Mỗi một hộp Osechi là một tập hợp các món ăn với sự kết hợp hài hòa giữa đặc
điểm từng vùng, từng địa phương của đất nước mặt trời mọc vào mùa xuân.
Sự hấp dẫn của Osechi chính là sự hòa quyện giữa linh hồn và tính thẩm mỹ trong
từng món ăn được thể hiện qua thị giác, khứu giác và vị giác. Nhìn vào đó ta dễ
dàng liên tưởng đến núi, đến biển, đến con người Nhật bản.
5.3. Phân loại Osechi
Osechi truyền thống:
Vào những thời kỳ xa xưa hơn, Osechi chỉ gồm có Nimono(các món luộc), rau
luộc trong nước tương, đường hoặc rượu ngọt mirin. Đó là cách nấu truyền thống
của Nhật Bản nhằm giữ nguyên mùi vị thuần khiết của món ăn.
Các món ăn Nhật Bản đều tuân theo quy tắc "tam ngũ": ngũ vị, ngũ sắc, ngũ
pháp. Ngũ vị bao gồm: ngọt, chua, cay, đắng, mặn. Ngũ sắc có: trắng, vàng, đỏ,
xanh, đen. Ngũ pháp là: sống, ninh, nướng, chiên và hấp.So với những nước khác,
cách nấu nướng của người Nhật hầu như không sử dụng đến gia vị. Thay vào đó,
người ta tập trung vào các hương vị tinh khiết của các thành phần món ăn: cá,
rong biển, rau, gạo và đậu nành.
23
24. Nhìn vào món ăn Osechi ta có thể cảm nhận một cách rõ nét nhất về triết lí món
ăn của người Nhật.
Trải qua nhiều đời, số lượng món ăn trong bữa osechi tăng dần lên. Ngày
nay, Osechi gồm bất cứ món ăn nào dành riêng cho ngày Tết .
Osechi Trung Hoa:
Các món ăn ngoại lai khi du nhập vào xứ sở hoa anh đào này lại được khóac một
chiếc áo mới của mùi, vị và đôi khi tạo nên những món ăn bản xứ. Đó cũng là đặc
trưng của văn hóa Nhật nói chung và văn hóa ẩm thực Nhật nói riêng trong việc
đồng hóa tạo ra những món ăn nước ngoài với hương vị Nhật (Japanese style
oversea dishes- Wafuu ryouri).
"Osechi Trung Hoa" (中華風お節 chūkafū osechi), người ta cho vào hộp osechi
món ăn như há cảo, bánh hoành thánh có xất xứ từ Trung Hoa.
Osechi phương Tây:
Từ tiếng Bồ Đào Nha “pao” đã đem lại từ pan (bánh mì) trong vốn từ vựng của
Nhật Bản.
Cũng chính người Bồ Đào Nha được cho là có công khi giới thiệu món Tempura
(xuất phát từ templo, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là đền thờ) nổi tiếng (món lăn
bột chiên). Chẳng bao lâu sau, Tempura được truyền khắp nước, đem lại món ăn
ưa thích vừa có nguồn gốc Trung Quốc, vừa có nguồn gốc Châu Âu.Sự giao
thương của Nhật Bản với các nước bên ngoài từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, cũng
đem đến cho Nhật Bản những ảnh hưởng mới. Vào thế kỷ 16, từ Campuchia,
những người Bồ Đào Nha đã đem văn hoá châu Âu vào Nhật Bản cùng những
loại rau khác từ Tân thế giới và những vùng khác từ châu Á như kabocha (bí đao).
Sau đó, các loại bắp, khoai tây, khoai lang, đậu tây được đưa vào Nhật Bản. Kỹ
thuật nấu ăn của người phương Tây thật sự đã đem lại sự hứng thú mới trong cách
nấu ăn của người Nhật.
Thời kỳ Meiji (1868 – 1912) đánh dấu sự giao thương mở cửa trở lại của Nhật
Bản với bên ngoài. Cuối thế kỷ 19, thịt bò được phép đưa trở vào thực đơn và đến
đầu thế kỷ 20, những gia vị nước ngoài như bơ, cà ri, kem, cà phê… bắt đầu được
thịnh hành tại Nhật Bản. Phong trào canh tân và Âu hoá tiếp theo cũng đem cải
bắp, củ hành, ngô, măng tây, cà chua từ châu Mỹ và châu Âu đến Nhật. Chẳng
24
25. bao lâu sau, Nhật Bản bắt đầu trồng những loại rau này trong nước, cùng với dưa,
dâu tây và các loại trái cây khác.
Suốt thời kỳ Edo (1603 – 1857), Nhật Bản đã trải qua 3 thế kỷ đóng cửa với thế
giới bên ngoài. Đây là thời gian Nhật Bản “tự nhìn lại chính mình”, chắt lọc
nghiêm túc tinh hoa thế giới, và các nhà thương nhân giàu có của Nhật Bản trở
nên sành điệu với những thị hiếu trong ẩm thực và nghệ thuật. Các nhà hàng Nhật
Bản sinh sôi nảy nở trong suốt thời gian này và nigiri – zushi (cơm bọc các loại
hản sản nướng) đã được ra đời.
Chính sự tiếp xúc với phương Tây, học hỏi tiếp thu đồng thời giữ lại bản sắc
truyền thống của dân tộc mà hình thành nên món ăn Osechi phương Tây với có ô
đựng thức ăn với nguyên liệu xuất phát từ phương Tây cũng như cách chế biến
theo kiểu phương Tây. Osechi phương Tây ngày càng phổ biến, và được ưa
chuộng bởi hương vị món ăn không chỉ thuần Nhật mà có sự kết hợp độc đáo với
cách chế biến phương Tây như cá nướng muối, thịt nướng kiểu Tây…
Nhưng dù đa dạng và nhiều món như thế nào thì một Osechi-ryori luôn phải có đủ
ba món cơ bản gọi là Mitsuzakana, bao gồm kazunoko, tazukuri, và kuromame.
Ở vùng Kanto (phía Tokyo) thì 3 món này thông thường bao gồm đậu đen, khô cá
mòi và trứng cá trích. Còn ở vùng Kansai (phía Osaka) thì 3 món này là rễ cây
ngưu bàng (ごぼう), trứng cá trích và khô cá mòi/đậu đen.
5.4. Ý nghĩa.
Mỗi món ăn trong bữa osechi đều có ý nghĩa đặc biệt để đón chào năm
mới.Osechi được tạo thành từ khá nhiều món khác nhau,xin được giới thiệu một
số thành phần phổ biến trong oschi:
Daidai (橙- Hán Việt: tranh- nghĩa là "cây/trái cam" ,cũng có nghĩa là "đắng"):
đây là món cam đắng Nhật Bản. Daidai có nghĩa là "từ thế hệ này đến thế hệ
khác" khi được viết bằng chữ kanji là 代々. Giống như món kazunoko dưới
đây, món này biểu trưng cho lời chúc tốt đẹp dành cho trẻ em vào năm mới.
Datemaki (伊達巻 hoặc 伊達巻き- y đạt
quyển, trong đó từ "quyển" có nghĩa là
"cuộn"), trứng cuộn vị
ngọt ,trộn với tương
25
26. cá ho c tôm nghi n. ặ ề Món này tượng trưng cho
lời chúc có được nhiều ngày tốt lành. Từ kanji
伊 (từ Hán Việt: "y") có nghĩa là "trang phục",
bắt nguồn từ trang phục lộng lẫy của
các samurai từ các thái ấp được sắc phong.
Vào ngày lành (晴れの日,hare-no-hi), theo
truyền thống, người Nhật mặc đồ đẹp để
thấy vui vẻ.
Kamaboko ( 蒲鉾): bánh cá nướng. Theo
truyền thống, các lát Kamaboko trắng đỏ sẽ
được xếp xen kẽ thành hàng hoặc xếp theo
một hoa văn nào đó. Màu sắc và hình dạng
của chúng gợi nhớ đến Nhật Bản với biệt
danh "đất nước mặt trời mọc"
Kazunoko ( 数の子): món trứng cá
trích. Kazu có nghĩa là "số" và "ko" nghĩa "đứa
trẻ". Món này tượng trưng cho lời chúc con
đàn cháu đống dịp năm mới.
Konbu (昆布) là một
loại tảo biển. Từ này
liên quan tới
từ yorokobu, nghĩa là
"vui vẻ".
26
27. Kuro-mame (黒豆), đậu đen. Mame nghĩa là
"khỏe mạnh", tượng trưng cho lời chúc sức
khỏe trong năm mới.
Kohaku-namasu (紅白なます), nghĩa là
"rau kuai đỏ trắng", làm từ cà rốt và củ cải
trắng xắt sợi, muối chua ngọt với giấm và
nước quýt yuzu (cây lai giữa quýt và chanh
Nghi Xương).
Tai ( 鯛), cá tráp biển đỏ. Tai liên quan đến từ medetai trong tiếng
Nhật tượng trưng cho những điều tốt lành.
Tazukuri (田作り): cá mòi khô sốt nước
tương. Viết bằng từ kanji, tên món ăn có
nghĩa đen là "khai khẩn ruộng lúa", vì trong
lịch sử, cá đã được sử dụng để làm giàu đất
ruộng. Với ý nghĩa này,tazukuri tượng
trưng cho vụ mùa bội thu.
27
28. Z ou ni (雑煮): món canh gạo viên (mochi)
nấu với nước dùng trong (ở miền đông Nhật
Bản) hoặc với nước súp miso (ở miền tây
Nhật Bản).
Ebi ( エビ), tôm rim với
rượu sake và nước tương.
Nishiki tamago ( 錦卵): trứng cuộn với
lòng trắng- lòng đỏ tách riêng, lòng đỏ
tượng trưng cho vàng còn lòng trắng
tượng trưng cho bạc.
Nishime: các loại rau củ kho với mirin, đường và soysauce, giống mấy món ăn
chay ở Việt nam mình nhưng ngọt hơn 1 tí vì người Nhật không nêm với muối mà
toàn nêm đường và mirin.
28
29. Kurikinton: 'Kuri' trong tiếng Nhật là
hạt dẻ, còn 'kinton' có nghĩa là khoai
lang. Kuri Kiton, làm từ hạt dẻ ngọt và
khoai lang nghiền, là một trong những
món ăn truyền thống của người Nhật
trong dịp Năm Mới bởi màu vàng của nó
tượng trưng cho sự thịnh vượng và giàu
sang.
6. Mùng 7 tết
Sau những ngày đầu năm xôm tụ và cầu kỳ với nhiều món ăn mang các ý nghĩa
khác nhau thì đến ngày Mùng Bảy tết các gia đình Nhật sẽ cùng ngồi lại quây
quần bên một món ăn thanh đạm nhưng cũng không kém phần dinh dưỡng đó là
món Nanakusa-gayu, một loại cháo được nấu bằng 7 loại rau củ và thảo mộc mọc
vào mùa xuân. Ngày này có tên gọi là Jinjitsu (Nhân Nhật) hay còn gọi là “tiết
bảy loại rau củ”- đây là một trong 5 ngày tiết điển hình của người Nhật.
Cả gia đình cùng quây quần bên nồi cháo Nanakusa-gayu
6.1. Nguồn gốc và ý nghĩa tên gọi.
29
30. Ý nghĩa tên gọi Nanakusa Gayu(七草の節句): Nana trong tiếng Nhật có nghĩa là
số 7, Kusa có nghĩa là lá cỏ, Gayu là cháo gạo đặc, ghép lại Nanakusa Gayu có
nghĩa là “cháo 7 loại rau”.
Về nguồn gốc của ngày lễ này trước hết bắt đầu từ phong tục tập quán: Đối với
người Nhật họ rất kiêng con số 4 và số 9 (vì cách phát âm của số 4 trùng với chữ
"tử", số 9 trùng với chữ "kurushii" (đau khổ). Nhưng ngược lại, số 7 lại rất được
coi trọng và họ coi đó là một con số đem lại nhiều điều may mắn. Vì thế ngày
Mùng 7 được diễn ra với mục đích là ngày lễ cầu mong cho sức khỏe và sự may
mắn của họ trong suốt 1 năm, cũng như là để xua trừ tà ma xung quanh.
Ngoài ra thói quen ăn cháo vào ngày này được truyền bá từ Trung Quốc sang từ
năm 912 (thời Heian). Theo đó, ở Trung Quốc người ta dựa vào truyền thuyết bà
Nữ Oa sáng tạo ra thế giới để gọi và kiêng cữ những ngày đầu năm như: ngày 1
tháng 1 là ngày con gà, ngày 2 là con chó, ngày 3 là con lợn, ngày 4 là con cừu,
ngày 5 là con bò, ngày 6 là con ngựa. Người ta sẽ không giết những động vật
tương ứng của ngày hôm đó. Còn ngày 7 là ngày con người. Dân chúng sẽ ăn
cháo và kiêng sát sinh trong ngày này.
6.2. Nguyên liệu
Theo truyền thống Nanakusa Gayu được nấu từ gạo trắng kết hợp với bảy loại rau
cỏ dễ kiếm vào mùa xuân như: 芹 : せり seri: một loại rau cần ta 薺 : なずな
nazuna: cây rau tề 御形 : ごぎょう gogyou: một loại cải cúc 繁縷 : はこべら
hakobera: một loại thuộc họ cây tinh thảo 仏の座 : ほとけのざ hotokenoza: một
loại cải cúc 菘 : すずな suzuna: củ cải tròn 蘿 : すずしろ suzushiro: củ cải
(Raphanus sativus).
Có nhiều sự khác nhau trong thành phần nguyên liệu, vài loại rau địa phương có
thể được dùng thay thế.
30
31. Bảy loại rau thường dùng để nấu Nakakusa-gayu
6.3. Cách nấu
Vì đây không chỉ là một món ăn đơn thuần mà nó còn mang nhiều yếu tố tâm linh
của người Nhật nên cách nấu cũng rất đặc biệt.
Vào đầu buổi sáng hoặc tối hôm trước, người ta chuẩn bị gạo, sau đó đặt rau củ,
chày cối và một dụng cụ gọi là shamoji (muỗng xúc cơm dẹt chứ không dùng dao
kim loại) lên trên thớt gỗ, đầu thớt hướng về một hướng may mắn. Sau đó tụng
câu: “Trước khi những cánh chim từ đại lục bay về Nhật Bản, hãy dùng
Nanakusa”, vừa tụng vừa thái nhỏ rau củ ra. Câu “thần chú ” này biến đối tùy
theo vùng miền và mỗi nhà chứ không cố định.
Nồi nấu cũng là loại nồi đất chứ không phải nồi kim loại. Khi thưởng thức cũng
phải cho vào bát gốm, thìa bằng gỗ hoặc gốm.
31
32. Nakakusa-gayu thường được đựng trong chén gốm
6.4. Ý nghĩa
Người ta tin rằng 7 loại rau này sẽ giúp con người ta tránh được tà ma và bệnh tật
trong năm tới. Ngoài ra, về mặt y học, vào những dịp lễ tết mọi người thường ăn
những thức ăn có quá nhiều chất béo vì vậy nên thay đổi khẩu vị bằng cách ăn
một bát cháo với nhiều loại rau giàu vitamin như vậy sẽ rất tốt cho sức khoẻ, đặc
biệt rau quả tươi sẽ có tác dụng tốt đối với dạ dày sau khi phải tiêu hoá những
món ăn ngày Tết và bổ sung những nguồn dinh dưỡng thiếu vì mùa đông ít rau.
Mỗi loại rau lại mang những giá trị dinh dưỡng riêng, ví dụ, “seri” có hiệu quả
huyết tăng lên, “hakobera” xúc tiến ra nước tiểu, “suzuna” và “suzushiro” bao
gồm yếu tố diastase có tác dụng xúc tiến tiêu hóa.
Vì vào thời điểm này, rất ít rau có thể mọc được, nên 7 loại rau non này đã mang
đến màu sắc cho bàn ăn và việc thưởng thức chúng vào dịp năm mới rất được
lòng thần linh.
Hơn nữa hình ảnh chén cháo thảo dược còn gợi cho ta hình ảnh tinh khiết thanh
cao của người Nhật: Màu trắng của hạt gạo nấu nhừ tượng trưng cho sự thanh
bạch tinh khiết trong tâm hồn, mà con người (Nhật Bản) muốn hướng đến.Màu
xanh tươi của cây cỏ (dù đã qua nhiệt độ cao) tượng trưng cho sự xanh tươi của
thiên nhiên đã là vị thuốc của trời rồi.Hai màu đặc trưng đó được cảm nhận bỡi
thị giác, cùng với hương thơm của thảo dược bốc lên mà thính giác, cộng với vị
mặn mòi của muối ấm nóng qua đầu môi … làm cho món ăn trở nên thanh tao và
32
33. quý như một vị thuốc tẩy sạch bụi trần cho mọi người trước khi bước vào một
năm mới; một mùa xuân mới… Rõ ràng đây là món ăn truyền thống mà mang dấu
ấn tâm linh của người Nhật.
Cháo chỉ nêm bằng muối hoặc xì dầu. Ăn thơm thơm, vị thanh, mát.
Một nồi cháo Nanakusa-gayu mang nhiều ý nghĩa
III. KẾT LUẬN
Văn hóa xã hội Nhật Bản là một sự dung hòa tuyệt vời giữa truyền thống và hiện
đại, trong đó các yếu tố hội nhập không những không bài trừ các nét đẹp văn hóa
33
34. cổ truyền mà cả hai cùng tồn tại đan xen, bổ sung và làm phong phú cho nhau, tạo
nên một nét đẹp văn hóa vừa trẻ trung tươi mới, lại vừa cổ kính và cũng đầy tính
nhân văn. Và ẩm thực ngày tết là một minh chứng tiêu biểu cho nền văn hóa đặc
sắc đó.
Các món ăn ngày tết ở Nhật Bản không chỉ phong phú, nhiều màu sắc mà trong
từng món còn mang những hương vị riêng, chứa đựng giá trị dinh dưỡng cao và
những ý nghĩa vật chất cũng như tâm linh tiêu biểu. Từ những món đồ cúng giỗ
mang đầy giá trị thiêng liêng, đến những món ăn nhiều màu sắc vô cùng hấp dẫn
như Osechi hay Omochi, hay chỉ đơn thuần là chén cháo với rau thanh đạm
Nanakusa-gayu. Mỗi thứ một vẻ nhưng tất cả đều toát lên vẻ đặc biệt riêng và đều
là những thứ không thể thiếu tạo nên nét đặc trưng của đất nước và con người
Nhật.
Qua đó ta còn được mở mang thêm một cái nhìn mới về đất nước và con người
Nhật. Những con người ham học hỏi luôn biết đón nhận và phát triển theo các yếu
tố tốt đẹp của thời đại, nhưng bên cạnh đó vẫn không ngừng gìn giữ và phát huy
các yếu tố truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tạo nên một cái hồn Nhật Bản rất
riêng mà không bị lẫn với bất cứ nơi nào trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Japanese Customs, Traditions & Annual Events của JohnMcDowel.
2. Sách Japanese, the Cycle of Life của Prince Takamado.
34