SlideShare a Scribd company logo
1 of 82
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
2
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
STT Nội dung Chữ viết tắt
1 Bộ luật dân sự năm 2005 BLDS 2005
2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Luật HN&GĐ 2000
3 Bồi thường thiệt hại BTTH
4 Trách nhiệm dân sự TNDS
5 Bộ luật dân sự BLDS
6 Luật hôn nhân và gia đình Luật HN&GĐ
7 Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO VỢ CHỒNG THỰC HIỆN
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng
thực hiện
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.2. Căn cứ pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ
chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ CHỒNG TRONG BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong BTTH
ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại
2.1.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng bị thiệt hại về tài
sản
2.1.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt
hại về sức khỏe
2.1.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt
hại về tính mạng
2.1.4. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
4
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt
hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín
2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người gây thiệt
hại
2.2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng cùng là người gây
thiệt hại
2.2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên vợ hoặc chồng là
người gây thiệt hại
2.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người gây thiệt
hại; là người bị thiệt hại
2.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người gây thiệt
hại
2.3.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người bị thiệt
hại
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ
CHỒNG TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
5
3.2.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình cần hoàn thiện hơn một số quy
định có liên quan
3.2.2. Pháp luật dân sự cần hoàn thiện những quy định cụ thể các
trường hợp về BTTH ngoài hợp đồng
KẾT LUẬN
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại (BTTH) trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ
chồng thực hiện là một chế định hết sức quan trọng và được áp dụng rất sớm
trong pháp luật dân sự của các nước trên thế giới nói chung cũng như ở Việt
Nam nói riêng. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặt ra nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong những trường hợp có thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính
mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của người khác mà giữa người gây thiệt
hại và người bị thiệt hại không có việc giao kết hợp đồng hoặc có việc giao kết
hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp
đồng.Bồi thường thiệt hại mang đến sự công bằng trong xã hội thông qua việc
bắt buộc những người có hành vi gây thiệt hại phải bù đắp một khoản vật chất
cho người bị thiệt hại tương ứng với thiệt hại mà họ đã gây ra. Chế định pháp
luật này không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang giá trị thực tiễn
rất lớn trong việc khắc phục hành vi trái pháp luật, đảm bảo công bằng, xử phạt
răn đe người có hành vi gây thiệt hại, và giáo dục ý thức pháp luật trong cộng
đồng, ổn định nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là một vấn
đề có ý nghĩa lớn đối với xã hội. Bởi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà
vợ chồng là chủ thể không những ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong
quan hệ bồi thường thiệt hại. Quyền và lợi ích của riêng vợ, chồng là quyền lợi
cá nhân nhưng nó ảnh hưởng đến đời sống chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống của con cái. Quan hệ hôn nhân là quan hệ đặc biệt của xã
hội. Quan hệ này được hình thành, củng cố và duy trì bằng niềm tin, tình yêu
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
7
thương, chức phận của vợ chồng đối với nhau và đối với con cái. Do vậy, các
quan hệ mà vợ chồng tham gia trong đó có quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cũng có những nét đặc trưng riêng mang tính nhân văn sâu sắc. Mối
quan hệ mật thiết giữa vợ chồng, sự gánh vác trách nhiệm cùng nhau một cách
tự nguyện trong quan hệ hôn nhân kéo theo sự thống nhất, tự nguyện giữa vợ
chồng trong việc chịu trách nhiệm với người thứ ba. Điều này, trong quan hệ
BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện đảm bảo rằng thiệt hại sẽ được
bồi thường một cách nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ hơn so với những trường
hợp bồi thường thiệt hại khác. Nhưng nó không có nghĩa quan hệ hôn nhân làm
loại trừ tính độc lập của vợ, chồng trong việc tự mình tham gia các quan hệ xã
hội khác cũng như tự mình chịu trách nhiệm trong việc BTTH do chính mình
gây ra. Các quy định pháp luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình hiện tại chưa
có các quy định riêng áp dụng cho trường hợp BTTH ngoài hợp đồng do vợ
chồng thực hiện. BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện được áp dụng
thông qua các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Vấn
đề này liên quan đến các ngành luật khác nhau như: Luật dân sự, luật hôn nhân
và gia đình…Việc áp dụng pháp luật trong vấn đề này vì thế nhiều khi gặp
những khó khăn và trở ngại lớn bởi quan hệ hôn nhân không giống những quan
hệ xã hội bình thường khác. Để thấy rõ hơn sự khác biệt, tầm quan trọng của
BTTH ngoài hợp đồng để khắc phục những vướng mắc trong quy định của
pháp luật và giải quyết, hạn chế những khó khăn trong áp dụng pháp luật về
vấn đề này cần thiết phải có sự nghiên cứu, rà soát, đánh giá pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện lĩnh vực pháp luật về vấn
đề này. Vì vậy, em chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ
chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” làm Luận văn thạc sĩ luật
học.
2. Mục đích nghiên cứu
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
8
Tìm hiểu về vấn đề này, đề tài xác định những mục đích nghiên cứu cơ
bản sau đây:
- Tập hợp, hệ thống hóa và bổ sung, phát triển hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và
các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nói
riêng.
- Đánh giá các quy định và thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nhằm nhận diện
những thành tựu, kết quả và chỉ ra các khiếm khuyết, hạn chế cũng như nguyên
nhân của chúng. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra một số kiến nghị góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .
3. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do
vợ chồng thực hiện là lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến lợi ích của các
chủ thể khác nhau, bao gồm: Vợ, chồng, và người thứ ba khác. Việc giải quyết
hài hòa lợi ích của các chủ thể hút sự quan tâm tìm hiểu của giới luật học nước
ta. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu không phải bao giờ và ở bất kỳ đâu cũng
mang lại hiệu quả mong muốn. Các công trình đã được công bố mà tiêu biểu
phải kể đến những ấn phẩm chủ yếu sau đây:
1. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe, và tính
mạng - Sách chuyên khảo - TS. Phùng Trung Tập - Nhà xuất bản Hà Nội năm
2009.
2. Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - TS.Phùng
Trung Tập - Tạp chí Luật học số 10/2004.
3. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Nguyễn Văn Cương - Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư Pháp.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
9
4. Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực
tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Mã
số: LH-08-05/ĐHL, Hà Nội năm 2009.
5. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong quan hệ bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng - TS. Nguyễn Thị Lan...
Các công trình nghiên cứu trên đây đã tìm hiểu chế định BTTH ngoài
hợp đồng nói chung trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện
dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn hoặc đi sâu nghiên cứu một số nội dung của
chế định này như khái niệm và phân loại BTTH; yếu tố lỗi trong BTTH, quan
hệ tài sản vợ chồng trong những trường hợp nhất định.... Theo đó, dưới nhiều
góc nhìn khác nhau, BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng
do vợ chồng thực hiện được tìm hiểu sâu sắc hơn, trên cơ sở đó đưa ra một số
gợi mở cho quá trình hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này ở nước ta Tuy nhiên,
dường như vẫn còn thiếu một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, đầy
đủ và toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn của pháp luật về BTTH do vợ
chồng thực hiện. Bởi các công trình khoa học nêu trên, chủ yếu tìm hiểu về
BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là một phần khi nghiên cứu về
chế định BTTH và chủ yếu được đề cập một cách đơn thuần theo quy định của
pháp luật dân sự mà chưa đặt trọng tâm nghiên cứu quan hệ BTTH ngoài hợp
đồng mà chủ thể là vợ chồng. Vì thế, việc xác định nghĩa vụ và lợi ích mà vợ
chồng phải chịu cũng như được thụ hưởng trong quan hệ BTTH ngoài hợp
đồng. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu pháp luật về BTTH
ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện của các công trình khoa học đã được
công bố, Luận văn đi sâu tìm hiểu việc bảo vệ quyền, lợi ích của vợ chồng
trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện thông qua
việc nghiên cứu về mặt lý luận chuyên sâu từng khía cạnh, thực tiễn cũng như
đặt vấn đề này trong mối quan hệ suốt chiều dài lịch sử pháp luật của nước ta
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
10
và một số nước trên thế giới để từ đó gợi mở cái nhìn hệ thống hơn về vấn đề
này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của đề tài bao gồm:
- Các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ
chồng thực hiện qua các thời kỳ lịch sử.
- Các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ
chồng thực hiện ở một số nước trên thế giới.
- Các quy định hiện hành của pháp luật nước ta về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng
thực hiện nói riêng.
- Các báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong đó có bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực
hiện.
- Các vụ việc cụ thể về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng
thực hiện.
b. Phạm vi nghiên cứu
BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng
thực hiện là một chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự. BTTH ngoài hợp
đồng là một trong những vấn đề pháp lý lớn và phức tạp. Bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng là đề tài có phạm vi
nghiên cứu rộng liên quan đến nội dung của nhiều lĩnh vực pháp luật. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của một bản Luận văn thạc sĩ luật học, đề tài giới hạn
phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cơ bản sau đây:
- Luận văn không đi sâu nghiên cứu lịch sử pháp luật về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng mà giới hạn ở việc tập trung tìm hiểu sơ lược lịch sử các
quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có bồi thường thiệt
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
11
hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện ở nước ta và một số nước trên thế
giới.
- Nghiên cứu, đánh giá nội dung những quy định pháp luật hiện hành về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện.
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
đó có bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện, thông qua
một số việc nghiên cứu một số vụ việc cụ thể.
- Loại trừ việc xem xét quan hệ BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực
hiện có yếu tố nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu Luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
+ Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử
được sử dụng khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế định bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói chung và thực trạng các quy định pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện.
+ Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh luật học được sử dụng
trong nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện.
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi nghiên cứu định hướng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng
thực hiện.
6. Những đóng góp của Luận văn
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
12
Luận văn có một số đóng góp cho khoa học pháp lý ở nước ta, biểu hiện
ở những nội dung cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa học về cơ sở lý
luận của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông qua việc nghiên
cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
vợ chồng thực hiện.
- Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng của các quy
định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện, Luận văn
không chỉ đánh giá những kết quả và những hạn chế mà còn chỉ ra một số
nguyên nhân của bất cập, hạn chế trong các quy định hiện hành về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Đề xuất định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và các quy định về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nói riêng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh
mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu theo những nội dung sau:
- Chương 1.Khái quát chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
vợ chồng thực hiện
- Chương 2.Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
13
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO VỢ CHỒNG THỰC HIỆN
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong một xã hội, với bất kỳ một mối quan hệ nào thì quyền và trách
nhiệm luôn gắn liền với các bên chủ thể tham gia quan hệ đó. Mỗi người đều
phải tôn trọng các quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của cá nhân
mà xâm hại đến quyền và lợi ích của người khác. Người có hành vi gây thiệt
hại cho chủ thể khác thì phải bị xử lý nhằm ngăn ngừa và hạn chế vi phạm
pháp luật. Vì vậy, mỗi người đều phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi
phạm nghĩa vụ của mình gây ra bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác.
Trách nhiệm gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc nhân thân nói trên được
hiểu là BTTH. Tùy vào đối tượng điều chỉnh của mỗi ngành luật mà trách
nhiệm pháp lý được quy định trong một phạm vi và có những đặc điểm khác
nhau: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính. Như
vậy, BTTH là sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho
người khác.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không nêu rõ khái niệm BTTH mà chỉ đề
cập đến căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu
trách nhiệm, thời hạn bồi thường… Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm
pháp lý nên nó mang những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý như: được
áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, mang đến hậu quả bất lợi
cho người bị áp dụng, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng và được
đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…
Ngoài ra, trách nhiệm BTTH còn mang các đặc điểm riêng của nó để
giúp phân biệt với trách nhiệm dân sự khác.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
14
Trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy
định: có hành vi vi phạm, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi gây thiệt hại với hậu quả xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không
bắt buộc trong mọi trường hợp). Vấn đề đặt ra là lỗi của người gây thiệt hại
trong trách nhiệm BTTH được pháp luật quy định hay còn do suy đoán vì chỉ
khi làm rõ về vấn đề lỗi của người gây thiệt hại mới có sự thống nhất trong
nhận thức pháp luật để từ đó áp dụng chuẩn xác các quy định về trách nhiệm
BTTH. Điều 308 BLDS quy định về lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung
trong đó có trách nhiệm BTTH. Theo đó, lỗi và hình thức lỗi được xác định rõ
như sau: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự,
thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Khoản 2 của Điều 308
BLDS 2005 cụ thể hóa lỗi, hình thức lỗi, cơ sở xác định lỗi. Theo đó, lỗi “cố ý
gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra” và lỗi “vô ý gây thiệt hại là trường
hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
mặc dù phải biết hoặc có thể thấy trước hành vi của mình có khả năng gây
thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn
được”. Rõ ràng rằng, pháp luật đã quy định rõ lỗi là gì, hình thức của lỗi, căn
cứ để xác định lỗi. Do vậy, những quan điểm cho rằng, lỗi trong hành vi của
người gây thiệt hại còn do suy đoán là không chính xác về mặt lý luận và hoàn
toàn không cần thiết. Để quy trách nhiệm BTTH cho người gây thiệt hại cần
phải xác định chính xác yếu tố lỗi. Ngoài ra cần phải phân biệt trách nhiệm dân
sự của người trực tiếp có hành vi có lỗi gây thiệt hại với trách nhiệm dân sự
liên quan đến quan hệ dân sự và chủ thể đó.
Trách nhiệm BTTH mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây
ra thiệt hại. Người bị thiệt hại phải chứng minh có thiệt hại xảy ra và mức bồi
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
15
thường sẽ bằng mức thiệt hại, nhưng nguyên tắc này chỉ áp dụng được khi trách
nhiệm BTTH là vật chất. Đối với những tổn thất về tinh thần thì không thể
nhìn, không thể tính toán và cũng rất khó để chứng minh nhưng những tổn thất
này lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và chất lượng sống của người bị
thiệt hại. Vì vậy, mặc dù thiệt hại mà hành vi vi phạm gây ra có thể tính toán
được hoặc không nhưng đều được pháp luật quy định thành một đại lượng vật
chất nhất định để bù đắp cho người bị thiệt hại.
Về nguyên tắc, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH là người trực tiếp gây ra
thiệt hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp trách nhiệm BTTH có thể áp dụng
đối với người trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc người không trực tiếp gây ra thiệt
hại như: cha, mẹ người gây thiệt hại, người giám hộ của người được giám hộ,
pháp nhân đối với người của pháp nhân gây thiệt hại… Điều này đảm bảo rằng
tất cả các thiệt hại đều phải được bù đắp tổn thất, nhằm khôi phục tình trạng
của người bị thiệt hại, bảo đảm tính khả thi của quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm BTTH là một trong những chế định được áp dụng sớm nhất
của luật dân sự. Ngay từ thời La Mã (thế kỷ thứ VIII TCN đến thế kỷ thứ VII
SCN), đã có quy định “chế độ phục cừu” mang nguyên tắc trả thù ngang bằng
máu trả máu, mắt trả mắt, răng trả răng, mạng trả mạng… Những quy định của
pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng có lịch sử hình thành cùng với sự xuất hiện
của chế độ tư hữu và nhà nước. Do vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau, chế định
BTTH trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện có bản chất
và những biểu hiện hoàn toàn khác nhau. Vào thời của nhà nước La Mã cổ đại,
theo Luật XII bảng thì biện pháp áp dụng khi có hành vi vi phạm tư pháp
(delicta và mức bồi thường có thể thỏa thuận được. Theo đó người có hành vi
vi phạm tư pháp phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra khi người bị
thiệt hại có yêu cầu bồi thường) là biện pháp trừng trị vô cùng hà khắc (ví dụ:
bị giết tại nơi gây thiệt hại) và mang tính chất báo thù (talio). Về sau, các hình
thức trừng phạt về thể xác được thay thế bằng biện pháp phạt tiền.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
16
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền
nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí
nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san
định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra làm môn loại,
biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại để cho người
xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiều ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây,
phép xử án được bằng thằng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiệu là Minh đạo và
đúc tiền Minh Đạo” (Đại việt Sử Ký Toàn Thư - Nhà xuất bản khoa học xã hội,
Hà Nội , 1993, tập 1, trang 271 -272). Qua sử sách, bộ Hình Thư nói trên được
coi là bộ luật thành văn đầu tiên của lịch sử nước ta, được ban hành vào tháng
10 năm Nhâm Ngọ, đời Lý Thái Tông, niên hiệu Cần Phù Hữ Đạo năm thứ tư
(1402). Đến thời nhà Trần, nhà nước hết sức chú trọng đến pháp luật. Vua Trần
Thái Tông sau khi lên ngôi đã ban hành bộ luật mới. Theo sử sách ghi chép lại
thì mùa Xuân, tháng 3 năm Canh Dần, niên hiệu Kiến Trung thứ 5 (1230)
“khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc Triều Thông Chế và
sửa đổi hình luật lễ nghi gồm 20 quyền…”. Đến năm 1244, vua Trần Thái
Tông lại ban lệnh “định các cách thức về luật hình”. Tháng 8 năm Tân Tỵ niên
hiệu Thiệu Phong thứ nhất (1341) Trần Dụ Tông sai người biên soạn bộ Hoàng
Triều Đại Điển và khảo soạn bộ Hình Thư để ban hành. Đáng tiếc, cũng như bộ
Hình Thư thời nhà Lý, các bộ luật thời Trần đến nay đều bị thất truyền và chỉ
còn được nhắc trong sử sách mà thôi.
Dưới thời Lê, pháp luật rất được chú trọng phát triển. Trong sách Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí, sử gia Phan Huy Chú có nhận định: “Hình của
nhà Lý thì lỗi ở khoan rộng, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc” còn luật
pháp thời Lê: “Thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”.
Dưới thời Lê có thể kể đến các sách: Quốc Triều Hình Luật (còn gọi là Lê
Triều Hình Luật) gồm 6 quyển; Luật Thư gồm 6 quyển do Nguyễn Trãi soạn
(1440 - 1442); Quốc Triều Luật Lệ gồm 6 quyển do Phan Phu Tiên soạn (1440
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
17
– 1442); Quốc Triều Thư Khế Thể Thức (1468 - 1471); Sĩ Hoạn Châm Quy
(1470 - 1497); Quốc Triều Chiếu Lệnh Thiện Chínnhh (1619 - 1705); Quốc
Triều Điều Luật; Cảnh Hưng Điều Luật (1740 - 1786)… Trong các bộ sách nói
trên Quốc Triều Hình Luật được coi là bộ luật quan trọng nhất và chính thống
nhất của triều Lê và là bộ luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ đến nay. Kế
thừa và phát huy tư tưởng pháp luật của các thời đại trước, triều đại phong kiến
nhà Nguyễn đã xây dựng Hoàng Việt Luật Lê (tức Bộ Luật Gia Long) do Gia
Long biên soạn vào năm 1812.
Trong Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ thì chế định trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng còn sơ sài nhưng có những điểm tương đối rõ
ràng. Tuy trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chưa được phân biệt rõ
ràng nhưng cả hai bộ luật này đều đã quy định rõ hai vấn đề cơ bản của trách
nhiệm dân sự là yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt
hại. Điều 466 Quốc Triều Hình Luật quy định : “Sưng, phù thì phải đền thương
tích 3 tiền; chảy máu thì 1 quan; gãy một ngón tay , một răng thì đến 10 quan;
đâm chém bị thương thì 15 quan; dọa thai chưa hình thành thì 30 quan, đã
hình thành thì 50 quan; đứt lưỡi và hỏng âm, dương vật thì đến 100 quan; đối
với người quyền quý thì xử khác”. Như vậy, mức BTTH được pháp luật ấn định
trước trong các trường hợp cụ thể đã dự liệu mà không phụ thuộc vào mức độ
thiệt hại trên thực tế đã xảy ra.
Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ đều ghi nhận thiệt hại bao
gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại vật chất là những
tổn thất vật chất thực tế, xác định được bằng một khỏan tiền cụ thể đã được quy
định trong hầu hết các điều luật liên quan đến BTTH do có hành vi xâm phạm
đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác. Điều 29 Quốc Triều Hình
Luật quy định : “Tiền đền mạng – nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000
quan; nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 2.000
quan; lục phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất phẩm 500
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
18
quan; bát phẩm đến cửu phẩm 300 quan; thứ nhân trở xuống 150 quan”. Điều
391 Hoàng Việt Luật Lệ quy định: “Các tài sản ở kinh thành hay tỉnh, các nơi
cổng sảnh, thương khố, phòng xá hư hại, cần sửa chữa thì các quan cai quản
phải xin sửa sang. Nếu không sửa sang làm hư hại đến tài sản đó thì bị phạt và
phải bồi thường những vật bị hư hại”. Thiệt hại về tinh thần không được quy
định một cách cụ thể nhưng nội dung của nó có thể được thấy rằng thiệt hại về
tinh thần của người bị thiệt hại được bồi thường theo quy định ở một số điều
luật. Điều 31, quyển 3, chương Hộ hôn của Quốc Triều Hình Luật quy định:
“Người kết hôn mà không đủ sính lễ đền nhà cha mẹ (người con gái) nếu thấy
cha mẹ chết cả, thì đem đến nhà người trưởng họ, hay nhà người trưởng làng
để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và theo lệ
sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ cho cha mẹ (nếu cha mẹ đã chết cả thì nộp phạt
cho trưởng họ hay người trưởng lang, người con gái phải phạt 50 roi”). Điều
472 Quốc Triều Hình Luật quy định trong trường hợp người nào đánh các quan
chức bị thương, thì ngoài tiền bồi thường thương tích, người gây thiệt hại cũng
phải đền một khoản tiền gọi là tiền tạ. Điều 473 Quốc Triều Hình Luật nêu rõ
về trường hợp một người lăng mạ quan chức thì ngoài khoản tiền bồi thường,
người có hành vi lăng mạ đó còn phải chịu thêm một khoản tiền phạt… Trong
quan hệ hôn nhân, Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ cũng có
những quy định về BTTH vật chất, tinh thần. Theo đó, nếu cha mẹ cô gái đã
nhận sính lễ trong việc gả con gái, sau đó lại từ chối gả con thì phải bồi thường
thiệt hại về danh dự cho gia đình người con trai đã có sính lễ đó (Điều 315
Quốc Triều Hình Luật và Điều 94 Hoàng Việt Luật Lệ).
Một điều đáng nói là trong Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật
Lệ, các quy định về BTTH mang tính giai cấp sâu sắc. Điều này xuất phát từ
bản chất nhà nước phong kiến đầy sự bất công giữa các tầng lớp trong xã hội.
Quyền lợi của giai cấp thống trị (điển hình là vua, quan) được bảo vệ tuyệt đối
còn quyền lợi của người dân thường thì không được chú trọng. Điều 466 của
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
19
Quốc Triều Hình Luật quy định về bồi thường thiệt hại trong đó nêu rõ: “Đối
với người quyền quý thì lại xử khác”. Điều 472 và Điều 473 Quốc Triều Hình
Luật chỉ quy định về việc bồi thường một khoản tiền tạ cho quan chức bị lăng
mạ nhưng lại không hề đề cập đến việc áp dụng khảon tiền này đối với người bị
lăng mạ là thường dân.
Như vậy, pháp luật dưới thời phong kiến Việt Nam, trải qua các triều đại
nhà nước dù không được chi tiết nhưng BTTH đã được ghi nhận trong các bộ
luật. Đáng ghi nhận là việc xác định thiệt hại bao gồm cả thiệt hại vật chất và
thiệt hại tinh thần. Tuy nhiên, do hạn chế về bản chất giai cấp nên các quy định
về BTTH cũng chịu những ảnh hưởng nghiêm trọng của tính giai cấp, thể hiện
rõ nét sự bất công của xã hội phong kiến.
Năm 1884, thực dân Pháp chính thức hoàn tất xâm chiếm nước ta.
Trong thời thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự
Napoleon 1804, một số Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được ban hành:
- Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ được ban hành năm 1884 (Precis
de legislation civile). Bộ luật này gồm có 11 thiên quy định về các vấn đề nhân
thân, hộ tịch, giá thú, ly hôn, phụ hệ, con nuôi, giám hộ.
- Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban hành năm 1931. Bộ luật này còn
được gọi là Bộ luật Morché (Thống sứ Bắc Kỳ). Bộ luật này được chuẩn bị khá
công phu, tuy nhiên hoàn toàn theo tinh thần của người Pháp.
- Bộ luật Dân sự Trung Kỳ được ban hành năm 1936 (còn gọi là Hoàng
Việt Trung Kỳ hộ luật 1936). Bộ luật này gồm 5 Quyển, 1709 Điều (nhiều hơn
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 254 Điều). Các quy định về hợp đồng được xây dựng
giống với luật La Mã và được quy định khá chi tiết. Đó là các nguyên tắc cơ
bản về hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng thuê nhân công, hợp đồng công nghệ, hợp
đồng vận tải. Ngoài một số quy định mang tính đặc thù như phần khế ước được
quy định chi tiết và chặt chẽ hơn các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ và Bắc Kỳ, về cơ
bản, Bộ luật này giống Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
20
Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã nhận xét rằng, các bộ luật này thiên về tính
cách cá nhân, trong khi truyền thống của người Việt trọng về gia đình. Bộ luật
này chỉ chú trọng các vấn đề cá nhân, kết hôn, ly hôn…, trong khi đó các vấn
đề quan trọng như hợp đồng, chế độ tài sản của vợ chồng, thừa kế lại không
được quy định. Vì các bộ luật này có nhiều thiếu sót, nên khi cần thiết thường
phải áp dụng các quy định của Bộ luật Gia Long và Hồng Đức. Trách nhiệm
dân sự đã được Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy
định, đã tách bạch khỏi trách nhiệm hình sự nhưng trách nhiệm dân sự vẫn chỉ
được tiếp nhận một cách chung, khái quát, chưa được phân định thành trách
nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ trong hay ngoài khế ước, hợp đồng. Điều
712 Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 761 Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy
định: Người nào làm bất cứ việc gì gây thiệt hại cho người khác do lỗi của
mình đều phải bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại trong đó có bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng gây ra không được quy định thành chế
định pháp luật riêng mà áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại của Bộ
Luật Gia Long và Bộ Luật Hồng Đức. Do vậy, ở giai đọan này, pháp luật
không có điểm mới đáng kể nào trong các quy định về bồi thường thiệt hại.
Phải đến khi thông tư 173 - Ủy ban Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối
cao ngày 23/03/1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng ra đời thì mới
đánh dấu một bước phát triển trong lập pháp về bồi thường thiệt hại. Chế định
BTTH được giải thích một cách cụ thể và rõ ràng. Bước phát triển rõ ràng nhất
của thông tư 173 là việc ghi nhận trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Theo đó, những người cùng chung gây thiệt hại thì phải liên đới chịu trách
nhiệm BTTH khi giữa họ có sự thống nhất ý chí. Việc thống nhất ý chí được
hiểu là thống nhất với nhau về hành vi lẫn hậu quả, hoặc cùng nhau gây thiệt
hại mà chỉ thống nhất ý chí về hành vi hoặc chỉ thống nhất về hậu quả. Báo cáo
tổng kết hội nghị toàn ngành tòa án năm 1967 nêu rõ: đối với trách nhiệm liên
đới BTTH trong các vụ săn bắn vô ý làm chết hoặc bị thương người khác, có
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
21
thể thấy không thể dựa vào tập tục lợi cùng hưởng của các phường săn bắn để
bắt chịu trách nhiệm liên đới được. Như vậy, theo giải thích của báo cáo này thì
việc xác định trách nhiệm liên đới BTTH trong trường hợp chỉ có sự thống nhất
ý chí về hậu quả cần phải xét đến phong tục tập quán nơi hành vi thiệt hại xảy
ra cũng như những người có liên quan. Toà án khi xác định trách nhiệm liên
đới BTTH căn cứ vào thiệt hại xảy ra và mức độ lỗi của mỗi người để ấn định
mức bồi thường và phần bồi thường. Đến đây, vấn đề BTTH nói chung trong
đó có BTTH ngoài hợp đồng đã được nhìn nhận một cách biện chứng và thực
tiễn hơn cả về mặt lý luận cũng như cách thức áp dụng khi xem xét mức độ lỗi,
mức độ bồi thường căn cứ vào thiệt hại thực tế chứ không phải do pháp luật ấn
định, phần bồi thường của mỗi người có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt
hại…
Ngày 05/04/1983, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ban hành thông
tư số 03 - TATC hướng dẫn giải quyết một số vấn đề về BTTH trong tai nạn ô
tô. Sỡ dĩ có thông tư 03 này bởi trong thông tư 173 không thừa nhận việc áp
dụng trách nhiệm liên đới BTTH trong trường hợp nếu nhiều người cùng gây
thiệt hại nhưng không có sự thống nhất ý chí. Trong khi đó, xã hội phát triển,
phát sinh các quan hệ xã hội cần điều chỉnh trong đó có tai nạn ô tô như: hai
người lái ô tô cùng phòng nhanh, cùng có lỗi nên va chạm với nhau gây thiệt
hại cho người thứ ba đi đường. Thông tư 03 hướng dẫn: nếu lỗi của người thứ
ba và lỗi của phía ô tô đều là nguyên nhân gây tai nạn, thì người thứ ba và phía
ô tô phải liên đới bồi thường. Như vậy, thông tư 03 đã khắc phục thiếu sót của
thông tư 173 ở chỗ quy định trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại nhưng
giữa họ không có sự thống nhất ý chí về hành vi cũng như hậu quả thì họ phải
liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.
Ngày 28/10/1995 Bộ luật Dân sự của nhà nước thống nhất được ban
hành và có hiệu lực từ ngày1/7/1996. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được
chương V phần thứ ba tại Điều 609 của Bộ luật quy định: “Người nào do lỗi cố
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
22
ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường”. Theo quy định này, người có hành vi trái pháp luật dù cố ý
hay vô ý gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy
tín của ngời khác thì phải bồi thường theo các nguyên tắc được quy định tại
Điều 605 của Bộ luật này như sau:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường néu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”
Sau 10 năm có hiệu lực, nhiều quy định của Bộ luật này cần được bổ
sung và sửa đổi. Vì vậy Quốc hội khoá XI, tại Kỳ họp thứ VII, ngày 14/6/2005
đã thông qua Bộ luật Dân sự mới. Bộ luật Dân sự 2005 cũng có kết cấu gồm 7
phần như Bộ luật Dân sự 1995, tuy nhiên số lượng các điều được giảm bớt cho
gọn nhẹ hơn, chỉ còn 777 Điều (Bộ luật Dân sự 1995 có 838 Điều). Bộ luật
Dân sự 2005 được xây dựng trên tinh thần hội nhập quốc tế, tiếp thu nhiều tư
tưởng pháp luật lục địa châu Âu (Pháp, Đức) nhưng vẫn giữ được bản sắc văn
hoá truyền thống của đời sống dân sự Việt Nam. BLDS 2005 quy định căn cứ
phát sinh trách nhiệm BTTH tại Điều 604 và quy định nguyên tắc BTTH tại
Điều 605. Hai quy định này tương tự như những quy định của BLDS 1995.
Theo đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH khi một người có lỗi dù vô ý hay
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
23
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hai thì phải bồi thường. BLDS 2005
còn dành riêng một chương để quy định về các trường hợp cụ thể về BTTH
ngoài hợp đồng. Điều đáng nói là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong
BLDS 2005 được áp dụng ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không
có lỗi. Đây là điểm mới so với BLDS 1995, vì BLDS 1995 không có điều luật
nào quy định về mức độ lỗi mà chỉ quy định tại Điều 309 về hai hình thức lỗi
cố ý và lỗi vô ý. Đó là trách nhiệm trong trường hợp do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra, trách nhiệm của chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do tài
sản của mình gây ra, trách nhiệm bồi thường của người gây ô nhiễm môi
trường mà không có lỗi…
Như vậy, BLDS 2005 đã khắc phục những nhược điểm của BLDS 1995
về BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn chưa đưa ra khái
niệm cụ thể về BTTH ngoài hợp đồng mà chỉ xem xét nó dưới dạng một phần
của BTTH nói chung. Mặc dù vậy, BLDS 2005 lại dành toàn bộ chương XXI
để quy định về BTTH ngoài hợp đồng. Như vậy, trong quy định của Bộ luật đã
có sự phân biệt rõ ràng giữa trách nhiệm dân sự (TNDS) do vi phạm hợp đồng
và TNDS ngoài hợp đồng. Việc phân biệt này căn cứ vào nguồn gốc phát sinh
của trách nhiệm BTTH.
Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo
đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người
khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm
của mình gây ra. Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh
khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (thực hiện không đúng hoặc không
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng). Cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH trong hợp
đồng là hợp đồng có trước giữa các bên chủ thể (người gây thiệt hại và người
người được hưởng bồi thường). Hợp đồng có giữa các bên chủ thể nêu trên
phải đảm bảo về mặt thời gian là được xác lập trước khi có thiệt hại xảy ra.
Không có hợp đồng giao kết trước giữa các bên thì không có trách nhiệm bồi
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
24
thường thiệt hại trong hợp đồng. Thực tế cho thấy rằng, giữa các bên chủ thể có
giao kết hợp đồng trước khi có thiệt hại xảy ra nhưng trách nhiệm bồi thường
cũng không phải là trách nhiệm BTTH trong hợp đồng. Trường hợp giữa các
bên có ký kết hợp đồng trước khi thiệt hại xảy ra nhưng hợp đồng lại bị vô
hiệu, bị hủy bỏ thì hợp đồng đã ký giữa các bên coi như chưa được xác lập. Do
vậy, những thiệt hại (nếu có) phát sinh trong những trường hợp này là thiệt hại
ngòai hợp đồng và người có hành vi vi phạm không chịu trách nhiệm BTTH
trong hợp đồng. Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố
ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các
quyền nhân thân mà trước đó giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại
không có giao kết hợp đồng hoặc giữa họ tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành
vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Theo đó, cơ
sở phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng do pháp luật quy định, không
phải là thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng. Khác với trách nhiệm BTTH
trong hợp đồng chỉ áp dụng đối với các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng,
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không những áp dụng đối với người có
hành vi trái pháp luật mà còn áp dụng với người khác như: người giám hộ của
người được giám hộ, pháp nhân của người làm việc cho pháp nhân… Trách
nhiệm BTTH trong hợp đồng được xây dựng nên bởi các quy phạm điểu chỉnh
chế định hợp đồng. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng chỉ có khi tồn tại quan
hệ hợp đồng, chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra
thiệt hại; còn trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự khi
có hành vi vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác mà hành vi vi
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
25
phạm không phải là hành vi vi phạm hợp đồng có thể có giữa người gây thiệt
hại và người bị thiệt hại.
Như vậy, BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự mà theo
đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng
(vi phạm nghĩa vụ nào? Nếu dùng từ như vậy có thể dẫn đến hiểu lầm là
nghĩa vụ trong hợp đồng. Có thể nói ngắn gọn hơn là người có hành vi vi
phạm pháp luật… )phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình xâm phạm
đến quyền và lợi ích của người khác.
Có thể sửa lại như sau: BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm
dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm pháp luật ngoài hợp đồng xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín…của người khác thì
phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
BTTH ngoài hợp đồng là một dạng trách nhiệm pháp lý nên BTTH
ngoài hợp đồng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người
bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…
BTTH ngoài hợp đồng là một dạng của BTTH nên nó mang đầy đủ các
đặc điểm của trách nhiệm BTTH nói chung. Cụ thể như sau:
- Cơ sở pháp lý: BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự,
chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân Sự. Các quy định tại BLDS 2005 và các
văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 2005 được áp dụng để giải quyết các vấn đề
liên quan đến BTTH ngoài hợp đồng.
- Điều kiện phát sinh: BTTH ngoài hợp đồng cũng chỉ được đặt ra khi
đảm bảo đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH nói chung bao gồm:
+ Có thiệt hại xảy ra: Đây là tiền đề cơ bản nhất để xác định trách nhiệm
BTTH vì mục đích của BTTH là khôi phục tình trạng của người bị thiệt hại,
nếu không có thiệt hại xảy ra thì không cần thiết đặt ra vấn đề BTTH. Thiệt hại
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
26
theo quy định tại Điều 604 BLDS bao gồm: thiệt hại về tài sản (biểu hiện cụ
thể là mất, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay
thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản);
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe (bao gồm: chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm
sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe); thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại
(bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại); và tổn thất tinh
thần (bao gồm nhiều vấn đề không thể định lượng như: đau thương, mất mất,
mồ côi, góa bụa, sự mặc cảm…). Thiệt hại có thể nhìn thấy được, tính toán
được hoặc không nhìn thấy, không định lượng được nhưng đều được quy định
thành một đại lượng vật chất nhất định để bồi thường.
+ Có hành vi gây thiệt hại: Hành vi này là hành vi trái pháp luật, được
biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Thông thường hành vi
gây thiệt hại là hành vi được thể hiện dưới dạng hành động (chủ thể đã thực
hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện hành vi đó).
+ Có lỗi của người gây ra thiệt hại: Lỗi là thái độ tâm lý của người có
hành vi gây ra thiệt hại, được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Điều 604
BLDS khẳng định trách nhiệm BTTH được đặt ra ngay cả trong trường hợp
không có lỗi. Lỗi trong trách nhiệm BTTH là lỗi được pháp luật quy định chứ
không phải do suy đoán. Trường hợp người không có năng lực hành vi, bị mất
năng lực hành vi, không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì
không phải chịu trách nhiệm BTTH đối với thiệt hại đã gây ra. Trong trường
hợp này, cha, mẹ, người giám hộ, bệnh viện… phải chịu trách nhiệm bồi
thường là do có lỗi trong quản lý, chăm sóc, giáo dục người gây thiệt hại chứ
không phải được suy đoán là có lỗi đối với hành vi gây thiệt hại.
+ Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:
Theo đó, thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật. Nói cách khác,
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
27
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến có thiệt hại xảy ra. Việc xác định
mối quan hệ nhân quả nhiều khi rất khó khăn. Khi xem xét mối liên hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra cần xác định được về mặt
thời gian đảm bảo hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước khi có thiệt hại.
- Về hậu quả: BTTH luôn mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người
bị áp dụng.
- Chủ thể áp dụng: BTTH không chỉ áp dụng đối với người trực tiếp có
hành vi gây thiệt hại mà còn áp dụng với: cha, mẹ của người chưa thành niên,
pháp nhân đối với người của pháp nhân, người giám hộ của người được giám
hộ…
BTTH ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể hiện tại cũng được xem
xét dưới dạng một dạng của BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quan hệ hôn
nhân và gia đình mà đặc biệt là quan hệ vợ chồng là một loại quan hệ xã hội
đặc biệt nên khi xem xét BTTH ngoài hợp đồng trong trường hợp này vì thế
cần phải lưu ý một số vấn đề sau đây: (Nghị quyết số 03/2006/HĐTP -
TANDTC ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về
bồi thường thiệt hại):
+ Cần phải xác định trách nhiệm BTTH phát sinh là trách nhiệm BTTH
trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Để xác định vấn đề này cần căn cứ vào
nguồn gốc phát sinh của trách nhiệm BTTH là có hay không quan hệ hợp đồng
mà vợ chồng là một bên chủ thể tham gia vì BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra
khi hành vi gây thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý trách
nhiệm BTTH phát sinh trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, bị huỷ bỏ, bị chấm
dứt đề nghị giao kết hoặc trong trường hợp hành vi gây thiệt hại không phát
sinh từ nghĩa vụ hợp đồng thì vẫn được coi là trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng.
+ Cần phải xác định tài sản của vợ chồng trong quan hệ BTTH ngoài
hợp đồng (tài sản bị thiệt hại hoặc tài sản gây thiệt hại) là tài sản chung hay tài
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
28
sản riêng của vợ chồng. Điều này hết sức quan trọng vì nó giúp xác định ai là
người có trách nhiệm BTTH khi vợ chồng có tài sản gây thiệt hại (một bên vợ,
một bên chồng hoặc cả hai vợ chồng); xác đinh tài sản được BTTH sẽ thuộc
quyền sở hữu của ai khi vợ chồng là người có tài sản bị thiệt hại do hành vi vi
phạm pháp luật của người khác (tài sản riêng của vợ, tài sản riêng của chồng
hoặc tài sản chung của vợ chồng). Điều 163 BDS quy định, tài sản bao gồm:
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Vì thế, tài sản của vợ chồng cũng
bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 (HN&GĐ 2000), tài sản của vợ chồng bao gồm
tài sản chung và tài sản riêng, được xác định căn cứ vào nguồn gốc hình thành
tài sản và dấu hiệu pháp lý của thời kỳ hôn nhân. Theo đó, tài sản chung vợ
chồng là tài sản chung hợp nhất bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung,
hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung chứ không nhất thiết phải do hai vợ chồng cùng tạo ra (Điều 27 Luật
HN&GĐ 2000). Tài sản riêng của vợ, chồng là “tài sản mà mỗi bên có từ trước
khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29
và Điều 30 của luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân…” (Điều 32 Luật HN&GĐ
2000). Như vậy, việc xác định tài sản là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ
chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng cũng như bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại (trong trường hợp vợ
chồng là người gây thiệt hại).
+ Cần xác định tài sản gây thiệt hại (trong trường hợp vợ chồng là người
gây thiệt hại) là tài sản cụ thể nào, là cái gì. Việc làm này hết sức quan trọng
bởi BLDS 2005 đã quy định các trường hợp BTTH ngoài hợp đồng cụ thể tại
Chương XXI của bộ luật này như: BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
29
BTTH do súc vật gây ra, BTTH do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra;
BTTH do cây cối gây ra….
+ Cần xác định xem hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại nào, là thiệt
hại về tài sản, thiệt hại sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín hay
tổn thất tinh thần. Điều này giúp chúng ta xác định được thiệt hại thực tế đã xảy
ra, định lượng thiệt hại, do đó xác định được mức bồi thường. Dự liệu cho vấn
đề này, BLDS đã dành những điều luật khác nhau trong chương XXI để quy
định về BTTH trong các trường hợp cụ thể này.
Theo nguyên tắc, trách nhiệm BTTH khi được xác định là của một bên
vợ hoặc một bên chồng thì người đó có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ bồi
thường của mình. Việc người vợ, người chồng dùng tài sản riêng hay tài sản
chung để thực hiện trách nhiệm BTTH trong nhiều trường hợp chỉ mang tính
chất tương đối. Nói vậy bởi quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng được xác lập và
củng cố bằng tình yêu thương nhằm duy trì cuộc sống chung hạnh phúc. Việc
người vợ, chồng thỏa thuận với nhau dùng tài sản chung để thực hiện trách
nhiệm BTTH của một bên vợ, chồng hay việc một bên vợ, chồng tự nguyện
dùng tài sản riêng của mình để thực hiện trách nhiệm BTTH của người còn lại
là điều tất yếu xảy ra trong đời sống hôn nhân. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi
nó đảm bảo thiệt hại được bồi thường kịp thời; mặt khác còn thể hiện nét nhân
văn trong quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. Tương tự như thế, tài sản được
người khác bồi thường(trong trường hợp vợ chồng là người bị thiệt hại) sẽ
được xác định là tài sản chung vợ chồng hay tài sản riêng của một bên vợ,
chồng nhưng người đó tự nguyện gia nhập vào khối tài sản chung vợ chồng
cũng là điều hoàn toàn có thể chấp nhận được, miễn sao bảo đảm được quyền
và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng khi bị gây thiệt hại.
1.2. Căn cứ pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng
trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
30
Điều 163 BLDS năm 2005 quy định tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản. Theo đó, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Những tài sản đó có thể là động sản hoặc
bất động sản.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, tài sản của
chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng.
Ngoài tình yêu thương, chức phận vợ, chồng thì mỗi người khi kết hôn
đều không ngoài mục đích nương tựa vào nhau, cùng xây dựng gia đình ấm no,
hạnh phúc. Việc chung sức, chung lòng tạo dựng tài sản của vợ chồng sẽ đương
nhiên hình thành tài sản chung của vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định về tài sản chung vợ chồng tại Điều 27. Theo đó, tài sản chung
của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Xét về bản chất,
tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất. Mặc dù hôn nhân mang tính
chất “cộng đồng” nhưng tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải là tài
sản do hai vợ chồng cùng tạo ra mà chỉ cần một trong hai bên tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân cũng được coi là tài sản chung vợ chồng. Tính chất này của tài
sản chung vợ chồng cho thấy việc ghi nhận sự bình đẳng của vợ chồng về
quyền và nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm “tài sản mà mỗi bên có từ trước
khi kết hôn , tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 29
và Điều 30 của Luật này; đồ dùng tư trang cá nhân” (Điều 32 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000). Quy định về tài sản riêng trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 là một điều tất yếu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Xét về lý luận,
Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
31
Vợ, chồng khi tham gia các quan hệ đều được pháp luật xem xét là một chủ thể
với tư cách công dân. Với tư cách công dân của mình, quyền sở hữu tài sản
riêng của vợ, chồng được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Theo đó, quy định tại
Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thực ra là sự cụ thể hóa quy định
của Hiến pháp năm 1992.
Hôn nhân mang tính chất “cộng đồng”, nhưng hôn nhân không phải là
sự bó buộc, tước đoạt quyền tự do và cuộc sống riêng của cá nhân vợ, chồng.
Vợ, chồng ngoài mục đích chung sức chăm lo cuộc sống chung vợ chồng vẫn
còn có nhiều mối quan tâm khác rất riêng tư như: bố mẹ, anh chị em, bạn bè,
đồng nghiệp, quan hệ đầu tư sản xuất kinh doanh… Vì thế, về mặt thực tiễn,
việc quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là điều tất yếu. Khi đời sống
vợ chồng hạnh phúc, êm ả thì việc sử dụng tài sản riêng hay tài sản chung khi
giải quyết các nhu cầu riêng, nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng là điều bình
thường. Nhưng khi “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” thì việc sử dụng tài sản
chung không phải là việc dễ vì thường không nhận được sự đồng thuận của cả
vợ và chồng. Vô hình chung, điều đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
lợi của người thứ ba. Mặt khác, pháp luật quy định về tài sản riêng vợ, chồng
không những đảm bảo được quyền lợi công dân của vợ, chồng, của người thứ
ba, không hạn chế quyền sở hữu tài sản chung mà còn góp phần quan trọng
trong việc củng cố vững chắc hạnh phúc gia đình. Sở dĩ nói như thế vì quyền
sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng không phải là tuyệt đối. Vợ, chồng hoàn
toàn tự do quyết định sử dụng tài sản riêng của mình để thực hiện nghĩa vụ
chung hoặc nghĩa vụ riêng; tự do định đoạt có hay không gia nhập tài sản riêng
của mình vào khối tài sản chung vợ chồng.
Như vậy, việc phân định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng là
dựa vào nguồn gốc hình thành tài sản và dấu hiệu pháp lý về thời kỳ hôn nhân.
Việc phân định tài sản của vợ chồng thành tài sản chung hay tài sản riêng có ý
nghĩa vô cùng to to lớn khi giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản và trách
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
32
nhiệm của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại
trước pháp luật. Thời kỳ hôn nhân được tính từ khi vợ chồng đăng ký kết hôn
cho đến khi hôn nhân chấm dứt trong các trường hợp pháp luật quy định. Về
nguyên tắc những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn là tài sản riêng của
một bên vợ, chồng còn những tài sản mà vợ chồng có trong thời kỳ hôn nhân
được coi là tài sản chung vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã cụ
thể hóa bằng cách liệt kê các căn cứ pháp lý xác định tài sản được coi là tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
* Căn cứ pháp lý xác lập tài sản chung vợ chồng
- Do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của vợ chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân, một bên hoặc cả hai bên vợ chồng trực tiếp bỏ
ra công sức để tạo ra tài sản hoặc cùng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh tạo ra thu nhập thì thu nhập đó được xác định là tài sản chung vợ chồng.
Xuất phát từ nghề nghiệp của vợ, chồng mà tài sản chung của vợ chồng được
xác lập trong trường hợp này có thể là: tư liệu sinh hoạt trong gia đình, tư liệu
sản xuất, tiền lương, tiền công lao động, lợi nhuận kinh doanh, quyền sở hữu trí
tuệ của vợ chồng, thu nhập từ chăn nuôi, trồng trọt… Do căn cứ xác lập quyền
sở hữu rất đa dạng nên việc xác định chính xác các khoản thu nhập nói trên
cũng là khác nhau. Đối với tiền lương, tiền công lao động thông thường được
xác định dựa theo bảng lương của vợ, chồng khi tham gia quan hệ lao động.
Đối với thu nhập từ sản xuất nông lâm ngư nghiệp thì được xác định trên cơ sở
thu nhập thực tế. Với khoản thu nhập là lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh thì
được xác định dựa trên thuế giá trị gia tăng mà người sản xuất kinh doanh phải
nộp.
- Do vợ chồng được tặng cho hoặc được thừa kế chung
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tài sản mà vợ
chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế chung được coi là tài sản chung vợ
chồng. Việc xác định tài sản chung trong trường hợp này quan trọng là phải xác
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
33
định tính hợp pháp của giao dịch chuyển quyền sở hữu. Việc xác định giao dịch
chuyển quyền sở hữu hợp pháp hay không được xác định theo quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005. Theo đó, nếu tài sản được thừa kế chung thì căn cứ pháp
lý xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với phần di sản được nhận theo nội
dung di chúc.
Nếu tài sản được tặng cho chung là bất động sản thì hợp đồng tặng cho
phải lập thành văn bản được công chứng, chứng thực. Quyền sở hữu của vợ
chồng đối với bất động sản phải đăng ký được xác lập từ thời điểm đăng ký.
Nếu tài sản được tặng cho chung là động sản thì quyền sở hữu của vợ chồng
được xác lập từ thời điểm đăng ký (đối với động sản bắt buộc phải đăng ký)
hoặc từ thời điểm bên nhận tặng cho nhận tài sản (đối với động sản không phải
đăng ký).
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản của vợ chồng
Hoa lợi, lợi tức là các sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại hoặc các
khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
chung hoặc tài sản riêng vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài
sản chung vợ chồng.
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy
định của pháp luật
Các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:
tiền thưởng mà vợ, chồng nhận được khi tham gia quan hệ lao động; tiền trúng
xổ số; tài sản mà vợ chồng được thưởng do mua hàng khuyến mãi; tiền trợ cấp
thường xuyên hoặc bất thường như trợ cấp thai sản, trợ cấp nghề nghiệp, trợ
cấp thất nghiệp; tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo các căn
cứ của Bộ luật dân sự 2005; tiền bồi thường mà một hoặc hai bên được nhận từ
người khác theo quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (đối với
BTTH ngoài hợp đồng do tài sản riêng bị xâm phạm thì chỉ phần BTTH về lợi
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
34
ích gắn liền với việc sử dụng khai thác tài sản được xác định là tài sản chung
vợ chồng); tiền bảo hiểm mà vợ, chồng được hưởng trong thời kỳ hôn nhân.
- Do vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung vợ chồng.
Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung vợ chồng.(Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Vì vậy nếu
vợ, chồng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung thì tài sản đó được coi là tài
sản chung vợ chồng. Vấn đề là việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung
vợ chồng như thế nào mới được coi là hợp pháp. Nghị định 70/2001/NĐ – CP
ngày 03/10/2001 quy định: vợ hoặc chồng nhập tài sản riêng là nhà ở, quyền sử
dụng đất, và các tài sản khác có giá trị lớn vào khối tài sản chung của vợ chồng
phải thực hiện bằng văn bản có chữ ký của vợ chồng. Do đó, văn bản thỏa
thuận nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ, chồng được coi là căn
cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản đó.
* Căn cứ pháp lý xác lập tài sản riêng vợ, chồng
- Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của vợ
hoặc chồng trước khi kết hôn
Theo quy định của Hiến pháp, cá nhân có quyền sở hữu đối với thu nhập
hợp pháp của mình, trong đó có thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, khi cá nhân tham gia vào quan hệ hôn nhân, các lợi ích về
nhân thân và về tài sản của cá nhân đó bị chi phối bởi quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình. Theo pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành, những
thu nhập hợp pháp của cá nhân vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định
là tài sản chung hợp nhất vợ chồng. Chỉ những thu nhập hợp pháp của mỗi bên
từ trước khi kết hôn mới được xác định là tài sản riêng của họ. Như vậy, việc
xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng một mặt phải
dựa vào nguồn gốc tài sản, mặt khác phải căn cứ vào thời điểm phát sinh quan
hệ hôn nhân. Vợ, chồng chỉ được sở hữu riêng đối với những thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình từ trước thời điểm kết hôn.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
35
- Vợ, chồng được tặng cho, thừa kế riêng hoặc được thừa kế, tặng cho
trước khi kết hôn.
Tài sản mà vợ, chồng được tặng cho, thừa kế trước khi kết hôn được xác
định là tài sản riêng của vợ chồng. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi trong hợp
đồng tặng cho tài sản hoặc di chúc đã xác định đích danh chủ thể được chuyển
quyền sở hữu tài sản.
Tài sản vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ
hôn nhân cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng
việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong trường hợp này gặp không ít
khó khăn. Văn bản tặng cho (hợp đồng tặng cho) và di chúc là căn cứ pháp lý
xác lập tài sản riêng của người được nhận tặng cho, nhận thừa kế trong trường
hợp này. Đối với tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng là bất động
sản bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm đăng ký là thời điểm
chuyển giao quyền sở hữu. Nếu tài sản tặng cho riêng, thừa kế riêng là động
sản không bắt buộc phải đăng ký thì thời điểm người được tặng cho, người
được thừa kế nhận tài sản chính là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu. Trong
trường hợp này, việc xác định tài sản đó là tài sản của một bên là rất khó nếu
không được người vợ hoặc người chồng của họ công nhận.
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản được chia trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định của pháp luật, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được
chia trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp
vợ, chồng có thỏa thuận khác (Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và
khoản 1 Điều 8 Nghị định số 70/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính Phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, trong
thời kỳ hôn nhân, nếu vợ chồng không có thỏa thuận chia tài sản chung thì hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên vẫn được xác định là tài sản
chung của vợ, chồng. Nếu việc thỏa thuận chia tài sản chung xảy ra trong thời
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
36
kỳ hôn nhân thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản được chia được xác định là
tài sản riêng của mỗi bên trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
- Theo quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 32 và khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 thì tài sản vợ chồng được chia trong trong thời kỳ hôn nhân từ khối tài
sản chung vợ chồng được coi là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Khi quy định
chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định 70/NĐ-CP của
Chính phủ nêu rõ: khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà
không có thỏa thuận khác thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung
là tài sản riêng của vợ, chồng. Do vậy, trong trường hợp này, căn cứ phát sinh
quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng là sự kiện chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
* Đối với tài sản chung
Hôn nhân hợp pháp kéo theo việc xác lập quyền sở hữu tài sản chung
hợp nhất giữa vợ chồng. Vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung. Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nêu rõ:
“1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của
gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến
tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc
dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả
thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định
tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.”
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
37
Vợ chồng đến với hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, cùng nhau bỏ công
sức để tạo lập tài sản. Vì vậy việc vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung là điều tất yếu. Việc sử
dụng tài sản chung phải có sự thống nhất về mặt ý chí của vợ, chồng. Điều này
xuất phát từ bản chất của tài sản chung cũng như thực tiễn đời sống gia đình,
thể hiện rõ sự bình đẳng giữa vợ, chồng trong đời sống và pháp luật. Tài sản
chung vợ chồng hình thành khi hôn nhân được xác lập và chấm dứt theo quy
định của pháp luật.
Một trong những căn cứ làm chấm dứt sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng là việc pháp luật quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Quy định tại Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000
là một quy định mới và đặc biệt mà trước đó Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật
HN&GĐ năm 1986 không có. Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
quy định trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài
sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo đó vợ
chồng có thể chia toàn bộ khối chỉ thỏa thuận chia hoặc yêu cầu Tòa án chia
một phần tài sản hoặc một nhóm tài sản nhất định mà không thỏa thuận hoặc
yêu cầu chia tất cả khối tài sản chung. Trong một chừng mực nhất định điều
này phù hợp với thực tế có thể diễn ra trong thời kinh tế thị trường hiện nay là
vợ chồng có thể cùng kinh doanh hoặc hoặc vợ chồng thỏa thuận chia tài sản
chung hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng để tạo điều kiện
cho người vợ hoặc người chồng kinh doanh bằng vốn, tài sản riêng của mình.
* Đối với tài sản riêng
Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về việc vợ
chồng có quyền có tài sản riêng như sau:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
38
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều
30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài
sản chung.”
Ngoài ra, khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng
quy định: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng
của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 điều này”. Với tư cách là chủ sở
hữu tài sản của mình, vợ, chồng có toàn quyền sở hữu đối với tài sản riêng,
không phụ thuộc vào ý chí của người chồng, vợ của họ. Trường hợp vì lí do
công tác hoặc bệnh tật mà vợ, chồng không thể trực tiếp quản lí được tài sản
riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lí thì người kia có quyền
quản lí tài sản đó(khoản 2 điều 33). Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng
như Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đều có quy định vợ, chồng có quyền
“nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Do vậy việc quy
định vợ, chồng có tài sản riêng không làm ảnh hưởng tới tính chất của quan hệ
hôn nhân và cũng không làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Trong thực tế,
khi vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc thì họ có thể thỏa thuận để
người có tài sản riêng nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của
vợ chồng. Việc vợ chồng nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài
sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng phải
được lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được
công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Quy định này của
pháp luật là phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn khi giải quyết vấn đề tranh
chấp tài sản giữa vợ, chồng khi li hôn và cũng là để ngăn chặn những mục đích
không lành mạnh của vợ, chồng khi nhập tài sản riêng của mình vào khối tài
sản chung của vợ chồng, cũng là để bảo dảm quyền và lợi ích hợp pháp của
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
39
những người có liên quan. Khoản 2 điều 13 Nghi định số 70/2001/NĐ-CP còn
quy định: “Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ
chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô
hiệu theo quy định tại điều 11 của nghị định này”.
Theo khoản 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì nghĩa vụ riêng về
tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Nghĩa vụ
về tài sản của vợ chồng (còn gọi là nợ riêng của vợ, chồng) phát sinh từ các
khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân, mà
không vì lợi ích chung của gia đình; hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác do luật định( nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng, con
mà vợ, chồng phải thực hiện). Các quy định về nghĩa vụ của vợ chồng được
thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 đã được dự liệu cụ thể hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
trước đây. Những quy định này là cơ sở pháp lí cho việc xác định nghĩa vụ của
vợ,chồng được thực hiện bằng tài sản riêng do thỏa thuận trong thực tiễn.
Ngoài việc quy định về quyền quản lý, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với
tài sản riêng, khoản 5 điều 33 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đã quy định
một vấn đề mới, đó là hạn chế quyền sở hữu của vợ chồng với tài sản riêng vì
lợi ích chung của gia đình: “Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng
đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn
sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa
thuận của cả vợ chồng”.
Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ để đáp ứng các
nhu cầu thiết yếu của gia đình thì bên vợ, chồng có tài sản riêng phải đóng góp,
sử dụng tài sản riêng vì các nhu cầu thiết yếu đó.Mặt khác, tài sản riêng của vợ
hoặc chồng đã được đã được đưa vào sử dụng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản
riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó thì
Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa
luận
Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/
40
việc đinh đoạt tài sản riêng đó phải được sự đồng ý, thỏa thuận của cả hai vợ
chồng. Quy định này dựa trên truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, luôn
có sự đoàn kết, yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên
trong gia đình. Mặc dù theo luật định, vợ chồng có quyền có tài sản riêng,
nhưng trên thực tế cuộc sống chung của vợ chồng thường không phân biệt các
tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng, tài sản riêng của vợ, chồng nếu đã
được đưa vào sử dụng chung mà hoa lơi, lợi tức thu được từ tài sản đó là nguồn
sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải có sự thỏa
thuận, thống nhất giữa hai vợ chồng nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống chung
của vợ, chồng; nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ, chồng; nghĩa vụ nuôi
dưỡng, giáo dục các con. Như vậy cũng là bảo đảm lợi ích chung của toàn bộ
xã hội, vì gia đình là tế bào của xã hội gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Sự tồn tại
bền vững của gia đình là cơ sở tạo cho xã hội ổn định, phát triển.
Như vậy, xuất phát từ đặc thù của quan hệ BTTH ngoài hợp đồng và
quan hệ vợ chồng mà BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện có những
bản chất và biểu hiện khác với các quan hệ BTTH khác. BTTH ngoài hợp đồng
trong đó vợ, chồng là chủ thể không những ảnh hưởng đến quyền của người bị
thiệt hại mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của vợ, chồng, con cái.
Do vậy, việc tìm hiểu cơ sở pháp lý, khái niệm, đặc điểm của BTTH ngoài hợp
đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể là một yêu cầu
bức thiết, tạo tiền đề cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng
trong quan hệ này.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

More Related Content

Similar to Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Đề tài: Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...
Đề tài: Pháp luật về  bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...Đề tài: Pháp luật về  bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...
Đề tài: Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...
lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...
lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...nguyehieu1
 
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfHanaTiti
 
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (20)

Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAYĐề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...
Đề tài: Pháp luật về  bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...Đề tài: Pháp luật về  bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...
Đề tài: Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng ...
 
Luận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂM
Luận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂMLuận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂM
Luận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂM
 
lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...
lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...
lds_doan_viet_dung_don_phuong_cham_dut_thuc_hien_hop_dong_th_D2gMu9EYkAYrms_0...
 
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sựLuận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự
 
Luận văn: Hiêụ lực̣ ly hôn đối với vợ chồng theo quy điṇh của Luâṭ
Luận văn: Hiêụ lực̣ ly hôn đối với vợ chồng theo quy điṇh của Luâṭ Luận văn: Hiêụ lực̣ ly hôn đối với vợ chồng theo quy điṇh của Luâṭ
Luận văn: Hiêụ lực̣ ly hôn đối với vợ chồng theo quy điṇh của Luâṭ
 
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhânLuận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
 
Luận văn tranh chấp hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn tranh chấp hợp đồng, 9 ĐIỂMLuận văn tranh chấp hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn tranh chấp hợp đồng, 9 ĐIỂM
 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
 
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
 
Bồi thường do vi phạm hợp đồng là gì? Khái niệm, đặc điểm
Bồi thường do vi phạm hợp đồng là gì? Khái niệm, đặc điểmBồi thường do vi phạm hợp đồng là gì? Khái niệm, đặc điểm
Bồi thường do vi phạm hợp đồng là gì? Khái niệm, đặc điểm
 
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAYLuận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
 
Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAY
Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAYQuy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAY
Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAY
 
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia ĐìnhHủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
 
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAYĐề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
 
Bài Thu Hoạch Môn Học Pháp Luật Về Các Loại Hợp Đồng.doc
Bài Thu Hoạch Môn Học Pháp Luật Về Các Loại Hợp Đồng.docBài Thu Hoạch Môn Học Pháp Luật Về Các Loại Hợp Đồng.doc
Bài Thu Hoạch Môn Học Pháp Luật Về Các Loại Hợp Đồng.doc
 
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
So Sánh Chế Định Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng Theo Pháp Luật Việt Nam ...
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hônĐề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
 

More from lamluanvan.net Viết thuê luận văn

Hướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dục
Hướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dụcHướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dục
Hướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dụclamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Gợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàng
Gợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàngGợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàng
Gợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hànglamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx
13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx
13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docxlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...
Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...
Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng Long
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng LongLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng Long
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng Longlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần Softech
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần SoftechĐề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần Softech
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần Softechlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà NộiĐề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà Nộilamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...
Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...
Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

More from lamluanvan.net Viết thuê luận văn (20)

100 đề tài luận văn thạc sĩ kế toán quản trị
100 đề tài luận văn thạc sĩ kế toán quản trị100 đề tài luận văn thạc sĩ kế toán quản trị
100 đề tài luận văn thạc sĩ kế toán quản trị
 
Hướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dục
Hướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dụcHướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dục
Hướng dẫn viết và trình bày luận án theo quy định bộ giáo dục
 
99 đề tài luận văn thạc sĩ phát triển thị trường hay
99 đề tài luận văn thạc sĩ phát triển thị trường hay99 đề tài luận văn thạc sĩ phát triển thị trường hay
99 đề tài luận văn thạc sĩ phát triển thị trường hay
 
Gợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàng
Gợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàngGợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàng
Gợi ý 180 đề tài luận văn thạc sĩ cho vay ngành ngân hàng
 
Gợi ý 350 đề tài nâng cao năng lực cạnh tranh
Gợi ý 350 đề tài nâng cao năng lực cạnh tranhGợi ý 350 đề tài nâng cao năng lực cạnh tranh
Gợi ý 350 đề tài nâng cao năng lực cạnh tranh
 
13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx
13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx
13 đề tài khóa luận đánh giá hoạt động marketing và nhân sự.docx
 
8 đề tài khóa luận công tác kế toán thuế GTGT
8 đề tài khóa luận công tác kế toán thuế GTGT8 đề tài khóa luận công tác kế toán thuế GTGT
8 đề tài khóa luận công tác kế toán thuế GTGT
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...
Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại công ty TNHH Một thành viên 189-Bộ Q...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...
Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...Luận văn 2024  Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần xây dựng và kinh doa...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng Long
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng LongLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng Long
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Cổ phần vận tải Thăng Long
 
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần Softech
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần SoftechĐề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần Softech
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty cổ phần Softech
 
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà NộiĐề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội
Đề tài Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội
 
Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...
Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...
Đề tài luận văn 2024 Luận văn Tạo động lực lao động tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho nhân lực của Công ty Cổ phần H...
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên tại Bệnh viện ...
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên tại Công...
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực lao động bằng kích thích phi vật chất tại C...
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ ...
 
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...
Đề tài luận văn 2024 Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức tại Chi cục H...
 

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

  • 1. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 2 BẢNG TỪ VIẾT TẮT STT Nội dung Chữ viết tắt 1 Bộ luật dân sự năm 2005 BLDS 2005 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Luật HN&GĐ 2000 3 Bồi thường thiệt hại BTTH 4 Trách nhiệm dân sự TNDS 5 Bộ luật dân sự BLDS 6 Luật hôn nhân và gia đình Luật HN&GĐ 7 Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS
  • 2. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 3 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO VỢ CHỒNG THỰC HIỆN 1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện 1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.2. Căn cứ pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng 1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ CHỒNG TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại 2.1.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng bị thiệt hại về tài sản 2.1.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại về sức khỏe 2.1.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại về tính mạng 2.1.4. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
  • 3. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 4 bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín 2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người gây thiệt hại 2.2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng cùng là người gây thiệt hại 2.2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên vợ hoặc chồng là người gây thiệt hại 2.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người gây thiệt hại; là người bị thiệt hại 2.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người gây thiệt hại 2.3.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người bị thiệt hại Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ CHỒNG TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
  • 4. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 5 3.2.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình cần hoàn thiện hơn một số quy định có liên quan 3.2.2. Pháp luật dân sự cần hoàn thiện những quy định cụ thể các trường hợp về BTTH ngoài hợp đồng KẾT LUẬN
  • 5. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 6 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bồi thường thiệt hại (BTTH) trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là một chế định hết sức quan trọng và được áp dụng rất sớm trong pháp luật dân sự của các nước trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong những trường hợp có thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của người khác mà giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có việc giao kết hợp đồng hoặc có việc giao kết hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng.Bồi thường thiệt hại mang đến sự công bằng trong xã hội thông qua việc bắt buộc những người có hành vi gây thiệt hại phải bù đắp một khoản vật chất cho người bị thiệt hại tương ứng với thiệt hại mà họ đã gây ra. Chế định pháp luật này không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang giá trị thực tiễn rất lớn trong việc khắc phục hành vi trái pháp luật, đảm bảo công bằng, xử phạt răn đe người có hành vi gây thiệt hại, và giáo dục ý thức pháp luật trong cộng đồng, ổn định nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là một vấn đề có ý nghĩa lớn đối với xã hội. Bởi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể không những ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong quan hệ bồi thường thiệt hại. Quyền và lợi ích của riêng vợ, chồng là quyền lợi cá nhân nhưng nó ảnh hưởng đến đời sống chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con cái. Quan hệ hôn nhân là quan hệ đặc biệt của xã hội. Quan hệ này được hình thành, củng cố và duy trì bằng niềm tin, tình yêu
  • 6. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 7 thương, chức phận của vợ chồng đối với nhau và đối với con cái. Do vậy, các quan hệ mà vợ chồng tham gia trong đó có quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những nét đặc trưng riêng mang tính nhân văn sâu sắc. Mối quan hệ mật thiết giữa vợ chồng, sự gánh vác trách nhiệm cùng nhau một cách tự nguyện trong quan hệ hôn nhân kéo theo sự thống nhất, tự nguyện giữa vợ chồng trong việc chịu trách nhiệm với người thứ ba. Điều này, trong quan hệ BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện đảm bảo rằng thiệt hại sẽ được bồi thường một cách nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ hơn so với những trường hợp bồi thường thiệt hại khác. Nhưng nó không có nghĩa quan hệ hôn nhân làm loại trừ tính độc lập của vợ, chồng trong việc tự mình tham gia các quan hệ xã hội khác cũng như tự mình chịu trách nhiệm trong việc BTTH do chính mình gây ra. Các quy định pháp luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình hiện tại chưa có các quy định riêng áp dụng cho trường hợp BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện được áp dụng thông qua các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Vấn đề này liên quan đến các ngành luật khác nhau như: Luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình…Việc áp dụng pháp luật trong vấn đề này vì thế nhiều khi gặp những khó khăn và trở ngại lớn bởi quan hệ hôn nhân không giống những quan hệ xã hội bình thường khác. Để thấy rõ hơn sự khác biệt, tầm quan trọng của BTTH ngoài hợp đồng để khắc phục những vướng mắc trong quy định của pháp luật và giải quyết, hạn chế những khó khăn trong áp dụng pháp luật về vấn đề này cần thiết phải có sự nghiên cứu, rà soát, đánh giá pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. Trên cơ sở đó, đề xuất một số định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện lĩnh vực pháp luật về vấn đề này. Vì vậy, em chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” làm Luận văn thạc sĩ luật học. 2. Mục đích nghiên cứu
  • 7. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 8 Tìm hiểu về vấn đề này, đề tài xác định những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây: - Tập hợp, hệ thống hóa và bổ sung, phát triển hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nói riêng. - Đánh giá các quy định và thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nhằm nhận diện những thành tựu, kết quả và chỉ ra các khiếm khuyết, hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng . 3. Tình hình nghiên cứu Pháp luật BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể khác nhau, bao gồm: Vợ, chồng, và người thứ ba khác. Việc giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể hút sự quan tâm tìm hiểu của giới luật học nước ta. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu không phải bao giờ và ở bất kỳ đâu cũng mang lại hiệu quả mong muốn. Các công trình đã được công bố mà tiêu biểu phải kể đến những ấn phẩm chủ yếu sau đây: 1. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe, và tính mạng - Sách chuyên khảo - TS. Phùng Trung Tập - Nhà xuất bản Hà Nội năm 2009. 2. Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - TS.Phùng Trung Tập - Tạp chí Luật học số 10/2004. 3. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Nguyễn Văn Cương - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư Pháp.
  • 8. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 9 4. Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Mã số: LH-08-05/ĐHL, Hà Nội năm 2009. 5. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - TS. Nguyễn Thị Lan... Các công trình nghiên cứu trên đây đã tìm hiểu chế định BTTH ngoài hợp đồng nói chung trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn hoặc đi sâu nghiên cứu một số nội dung của chế định này như khái niệm và phân loại BTTH; yếu tố lỗi trong BTTH, quan hệ tài sản vợ chồng trong những trường hợp nhất định.... Theo đó, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện được tìm hiểu sâu sắc hơn, trên cơ sở đó đưa ra một số gợi mở cho quá trình hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này ở nước ta Tuy nhiên, dường như vẫn còn thiếu một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ và toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn của pháp luật về BTTH do vợ chồng thực hiện. Bởi các công trình khoa học nêu trên, chủ yếu tìm hiểu về BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là một phần khi nghiên cứu về chế định BTTH và chủ yếu được đề cập một cách đơn thuần theo quy định của pháp luật dân sự mà chưa đặt trọng tâm nghiên cứu quan hệ BTTH ngoài hợp đồng mà chủ thể là vợ chồng. Vì thế, việc xác định nghĩa vụ và lợi ích mà vợ chồng phải chịu cũng như được thụ hưởng trong quan hệ BTTH ngoài hợp đồng. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện của các công trình khoa học đã được công bố, Luận văn đi sâu tìm hiểu việc bảo vệ quyền, lợi ích của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện thông qua việc nghiên cứu về mặt lý luận chuyên sâu từng khía cạnh, thực tiễn cũng như đặt vấn đề này trong mối quan hệ suốt chiều dài lịch sử pháp luật của nước ta
  • 9. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 10 và một số nước trên thế giới để từ đó gợi mở cái nhìn hệ thống hơn về vấn đề này. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của đề tài bao gồm: - Các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện qua các thời kỳ lịch sử. - Các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện ở một số nước trên thế giới. - Các quy định hiện hành của pháp luật nước ta về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nói riêng. - Các báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. - Các vụ việc cụ thể về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. b. Phạm vi nghiên cứu BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện là một chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự. BTTH ngoài hợp đồng là một trong những vấn đề pháp lý lớn và phức tạp. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng liên quan đến nội dung của nhiều lĩnh vực pháp luật. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản Luận văn thạc sĩ luật học, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cơ bản sau đây: - Luận văn không đi sâu nghiên cứu lịch sử pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà giới hạn ở việc tập trung tìm hiểu sơ lược lịch sử các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có bồi thường thiệt
  • 10. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 11 hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện ở nước ta và một số nước trên thế giới. - Nghiên cứu, đánh giá nội dung những quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. - Tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện, thông qua một số việc nghiên cứu một số vụ việc cụ thể. - Loại trừ việc xem xét quan hệ BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện có yếu tố nước ngoài. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu Luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản đây: - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. - Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: + Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và thực trạng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. + Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh luật học được sử dụng trong nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. + Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. 6. Những đóng góp của Luận văn
  • 11. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 12 Luận văn có một số đóng góp cho khoa học pháp lý ở nước ta, biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: - Hệ thống hóa, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa học về cơ sở lý luận của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện. - Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng của các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện, Luận văn không chỉ đánh giá những kết quả và những hạn chế mà còn chỉ ra một số nguyên nhân của bất cập, hạn chế trong các quy định hiện hành về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. - Đề xuất định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện nói riêng. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu theo những nội dung sau: - Chương 1.Khái quát chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện - Chương 2.Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
  • 12. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 13 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO VỢ CHỒNG THỰC HIỆN 1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trong một xã hội, với bất kỳ một mối quan hệ nào thì quyền và trách nhiệm luôn gắn liền với các bên chủ thể tham gia quan hệ đó. Mỗi người đều phải tôn trọng các quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của cá nhân mà xâm hại đến quyền và lợi ích của người khác. Người có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác thì phải bị xử lý nhằm ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật. Vì vậy, mỗi người đều phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác. Trách nhiệm gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc nhân thân nói trên được hiểu là BTTH. Tùy vào đối tượng điều chỉnh của mỗi ngành luật mà trách nhiệm pháp lý được quy định trong một phạm vi và có những đặc điểm khác nhau: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính. Như vậy, BTTH là sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác. Pháp luật Việt Nam hiện hành không nêu rõ khái niệm BTTH mà chỉ đề cập đến căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn bồi thường… Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm pháp lý nên nó mang những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý như: được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước… Ngoài ra, trách nhiệm BTTH còn mang các đặc điểm riêng của nó để giúp phân biệt với trách nhiệm dân sự khác.
  • 13. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 14 Trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định: có hành vi vi phạm, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với hậu quả xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không bắt buộc trong mọi trường hợp). Vấn đề đặt ra là lỗi của người gây thiệt hại trong trách nhiệm BTTH được pháp luật quy định hay còn do suy đoán vì chỉ khi làm rõ về vấn đề lỗi của người gây thiệt hại mới có sự thống nhất trong nhận thức pháp luật để từ đó áp dụng chuẩn xác các quy định về trách nhiệm BTTH. Điều 308 BLDS quy định về lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung trong đó có trách nhiệm BTTH. Theo đó, lỗi và hình thức lỗi được xác định rõ như sau: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Khoản 2 của Điều 308 BLDS 2005 cụ thể hóa lỗi, hình thức lỗi, cơ sở xác định lỗi. Theo đó, lỗi “cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra” và lỗi “vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Rõ ràng rằng, pháp luật đã quy định rõ lỗi là gì, hình thức của lỗi, căn cứ để xác định lỗi. Do vậy, những quan điểm cho rằng, lỗi trong hành vi của người gây thiệt hại còn do suy đoán là không chính xác về mặt lý luận và hoàn toàn không cần thiết. Để quy trách nhiệm BTTH cho người gây thiệt hại cần phải xác định chính xác yếu tố lỗi. Ngoài ra cần phải phân biệt trách nhiệm dân sự của người trực tiếp có hành vi có lỗi gây thiệt hại với trách nhiệm dân sự liên quan đến quan hệ dân sự và chủ thể đó. Trách nhiệm BTTH mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây ra thiệt hại. Người bị thiệt hại phải chứng minh có thiệt hại xảy ra và mức bồi
  • 14. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 15 thường sẽ bằng mức thiệt hại, nhưng nguyên tắc này chỉ áp dụng được khi trách nhiệm BTTH là vật chất. Đối với những tổn thất về tinh thần thì không thể nhìn, không thể tính toán và cũng rất khó để chứng minh nhưng những tổn thất này lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và chất lượng sống của người bị thiệt hại. Vì vậy, mặc dù thiệt hại mà hành vi vi phạm gây ra có thể tính toán được hoặc không nhưng đều được pháp luật quy định thành một đại lượng vật chất nhất định để bù đắp cho người bị thiệt hại. Về nguyên tắc, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH là người trực tiếp gây ra thiệt hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp trách nhiệm BTTH có thể áp dụng đối với người trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc người không trực tiếp gây ra thiệt hại như: cha, mẹ người gây thiệt hại, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây thiệt hại… Điều này đảm bảo rằng tất cả các thiệt hại đều phải được bù đắp tổn thất, nhằm khôi phục tình trạng của người bị thiệt hại, bảo đảm tính khả thi của quy phạm pháp luật. Trách nhiệm BTTH là một trong những chế định được áp dụng sớm nhất của luật dân sự. Ngay từ thời La Mã (thế kỷ thứ VIII TCN đến thế kỷ thứ VII SCN), đã có quy định “chế độ phục cừu” mang nguyên tắc trả thù ngang bằng máu trả máu, mắt trả mắt, răng trả răng, mạng trả mạng… Những quy định của pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng có lịch sử hình thành cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu và nhà nước. Do vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau, chế định BTTH trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện có bản chất và những biểu hiện hoàn toàn khác nhau. Vào thời của nhà nước La Mã cổ đại, theo Luật XII bảng thì biện pháp áp dụng khi có hành vi vi phạm tư pháp (delicta và mức bồi thường có thể thỏa thuận được. Theo đó người có hành vi vi phạm tư pháp phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra khi người bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường) là biện pháp trừng trị vô cùng hà khắc (ví dụ: bị giết tại nơi gây thiệt hại) và mang tính chất báo thù (talio). Về sau, các hình thức trừng phạt về thể xác được thay thế bằng biện pháp phạt tiền.
  • 15. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 16 Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra làm môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiều ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án được bằng thằng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiệu là Minh đạo và đúc tiền Minh Đạo” (Đại việt Sử Ký Toàn Thư - Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội , 1993, tập 1, trang 271 -272). Qua sử sách, bộ Hình Thư nói trên được coi là bộ luật thành văn đầu tiên của lịch sử nước ta, được ban hành vào tháng 10 năm Nhâm Ngọ, đời Lý Thái Tông, niên hiệu Cần Phù Hữ Đạo năm thứ tư (1402). Đến thời nhà Trần, nhà nước hết sức chú trọng đến pháp luật. Vua Trần Thái Tông sau khi lên ngôi đã ban hành bộ luật mới. Theo sử sách ghi chép lại thì mùa Xuân, tháng 3 năm Canh Dần, niên hiệu Kiến Trung thứ 5 (1230) “khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc Triều Thông Chế và sửa đổi hình luật lễ nghi gồm 20 quyền…”. Đến năm 1244, vua Trần Thái Tông lại ban lệnh “định các cách thức về luật hình”. Tháng 8 năm Tân Tỵ niên hiệu Thiệu Phong thứ nhất (1341) Trần Dụ Tông sai người biên soạn bộ Hoàng Triều Đại Điển và khảo soạn bộ Hình Thư để ban hành. Đáng tiếc, cũng như bộ Hình Thư thời nhà Lý, các bộ luật thời Trần đến nay đều bị thất truyền và chỉ còn được nhắc trong sử sách mà thôi. Dưới thời Lê, pháp luật rất được chú trọng phát triển. Trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, sử gia Phan Huy Chú có nhận định: “Hình của nhà Lý thì lỗi ở khoan rộng, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc” còn luật pháp thời Lê: “Thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”. Dưới thời Lê có thể kể đến các sách: Quốc Triều Hình Luật (còn gọi là Lê Triều Hình Luật) gồm 6 quyển; Luật Thư gồm 6 quyển do Nguyễn Trãi soạn (1440 - 1442); Quốc Triều Luật Lệ gồm 6 quyển do Phan Phu Tiên soạn (1440
  • 16. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 17 – 1442); Quốc Triều Thư Khế Thể Thức (1468 - 1471); Sĩ Hoạn Châm Quy (1470 - 1497); Quốc Triều Chiếu Lệnh Thiện Chínnhh (1619 - 1705); Quốc Triều Điều Luật; Cảnh Hưng Điều Luật (1740 - 1786)… Trong các bộ sách nói trên Quốc Triều Hình Luật được coi là bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của triều Lê và là bộ luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ đến nay. Kế thừa và phát huy tư tưởng pháp luật của các thời đại trước, triều đại phong kiến nhà Nguyễn đã xây dựng Hoàng Việt Luật Lê (tức Bộ Luật Gia Long) do Gia Long biên soạn vào năm 1812. Trong Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ thì chế định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng còn sơ sài nhưng có những điểm tương đối rõ ràng. Tuy trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chưa được phân biệt rõ ràng nhưng cả hai bộ luật này đều đã quy định rõ hai vấn đề cơ bản của trách nhiệm dân sự là yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại. Điều 466 Quốc Triều Hình Luật quy định : “Sưng, phù thì phải đền thương tích 3 tiền; chảy máu thì 1 quan; gãy một ngón tay , một răng thì đến 10 quan; đâm chém bị thương thì 15 quan; dọa thai chưa hình thành thì 30 quan, đã hình thành thì 50 quan; đứt lưỡi và hỏng âm, dương vật thì đến 100 quan; đối với người quyền quý thì xử khác”. Như vậy, mức BTTH được pháp luật ấn định trước trong các trường hợp cụ thể đã dự liệu mà không phụ thuộc vào mức độ thiệt hại trên thực tế đã xảy ra. Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ đều ghi nhận thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại vật chất là những tổn thất vật chất thực tế, xác định được bằng một khỏan tiền cụ thể đã được quy định trong hầu hết các điều luật liên quan đến BTTH do có hành vi xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác. Điều 29 Quốc Triều Hình Luật quy định : “Tiền đền mạng – nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000 quan; nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 2.000 quan; lục phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất phẩm 500
  • 17. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 18 quan; bát phẩm đến cửu phẩm 300 quan; thứ nhân trở xuống 150 quan”. Điều 391 Hoàng Việt Luật Lệ quy định: “Các tài sản ở kinh thành hay tỉnh, các nơi cổng sảnh, thương khố, phòng xá hư hại, cần sửa chữa thì các quan cai quản phải xin sửa sang. Nếu không sửa sang làm hư hại đến tài sản đó thì bị phạt và phải bồi thường những vật bị hư hại”. Thiệt hại về tinh thần không được quy định một cách cụ thể nhưng nội dung của nó có thể được thấy rằng thiệt hại về tinh thần của người bị thiệt hại được bồi thường theo quy định ở một số điều luật. Điều 31, quyển 3, chương Hộ hôn của Quốc Triều Hình Luật quy định: “Người kết hôn mà không đủ sính lễ đền nhà cha mẹ (người con gái) nếu thấy cha mẹ chết cả, thì đem đến nhà người trưởng họ, hay nhà người trưởng làng để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ cho cha mẹ (nếu cha mẹ đã chết cả thì nộp phạt cho trưởng họ hay người trưởng lang, người con gái phải phạt 50 roi”). Điều 472 Quốc Triều Hình Luật quy định trong trường hợp người nào đánh các quan chức bị thương, thì ngoài tiền bồi thường thương tích, người gây thiệt hại cũng phải đền một khoản tiền gọi là tiền tạ. Điều 473 Quốc Triều Hình Luật nêu rõ về trường hợp một người lăng mạ quan chức thì ngoài khoản tiền bồi thường, người có hành vi lăng mạ đó còn phải chịu thêm một khoản tiền phạt… Trong quan hệ hôn nhân, Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ cũng có những quy định về BTTH vật chất, tinh thần. Theo đó, nếu cha mẹ cô gái đã nhận sính lễ trong việc gả con gái, sau đó lại từ chối gả con thì phải bồi thường thiệt hại về danh dự cho gia đình người con trai đã có sính lễ đó (Điều 315 Quốc Triều Hình Luật và Điều 94 Hoàng Việt Luật Lệ). Một điều đáng nói là trong Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ, các quy định về BTTH mang tính giai cấp sâu sắc. Điều này xuất phát từ bản chất nhà nước phong kiến đầy sự bất công giữa các tầng lớp trong xã hội. Quyền lợi của giai cấp thống trị (điển hình là vua, quan) được bảo vệ tuyệt đối còn quyền lợi của người dân thường thì không được chú trọng. Điều 466 của
  • 18. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 19 Quốc Triều Hình Luật quy định về bồi thường thiệt hại trong đó nêu rõ: “Đối với người quyền quý thì lại xử khác”. Điều 472 và Điều 473 Quốc Triều Hình Luật chỉ quy định về việc bồi thường một khoản tiền tạ cho quan chức bị lăng mạ nhưng lại không hề đề cập đến việc áp dụng khảon tiền này đối với người bị lăng mạ là thường dân. Như vậy, pháp luật dưới thời phong kiến Việt Nam, trải qua các triều đại nhà nước dù không được chi tiết nhưng BTTH đã được ghi nhận trong các bộ luật. Đáng ghi nhận là việc xác định thiệt hại bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Tuy nhiên, do hạn chế về bản chất giai cấp nên các quy định về BTTH cũng chịu những ảnh hưởng nghiêm trọng của tính giai cấp, thể hiện rõ nét sự bất công của xã hội phong kiến. Năm 1884, thực dân Pháp chính thức hoàn tất xâm chiếm nước ta. Trong thời thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon 1804, một số Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được ban hành: - Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ được ban hành năm 1884 (Precis de legislation civile). Bộ luật này gồm có 11 thiên quy định về các vấn đề nhân thân, hộ tịch, giá thú, ly hôn, phụ hệ, con nuôi, giám hộ. - Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban hành năm 1931. Bộ luật này còn được gọi là Bộ luật Morché (Thống sứ Bắc Kỳ). Bộ luật này được chuẩn bị khá công phu, tuy nhiên hoàn toàn theo tinh thần của người Pháp. - Bộ luật Dân sự Trung Kỳ được ban hành năm 1936 (còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật 1936). Bộ luật này gồm 5 Quyển, 1709 Điều (nhiều hơn Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 254 Điều). Các quy định về hợp đồng được xây dựng giống với luật La Mã và được quy định khá chi tiết. Đó là các nguyên tắc cơ bản về hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng thuê nhân công, hợp đồng công nghệ, hợp đồng vận tải. Ngoài một số quy định mang tính đặc thù như phần khế ước được quy định chi tiết và chặt chẽ hơn các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ và Bắc Kỳ, về cơ bản, Bộ luật này giống Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931.
  • 19. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 20 Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã nhận xét rằng, các bộ luật này thiên về tính cách cá nhân, trong khi truyền thống của người Việt trọng về gia đình. Bộ luật này chỉ chú trọng các vấn đề cá nhân, kết hôn, ly hôn…, trong khi đó các vấn đề quan trọng như hợp đồng, chế độ tài sản của vợ chồng, thừa kế lại không được quy định. Vì các bộ luật này có nhiều thiếu sót, nên khi cần thiết thường phải áp dụng các quy định của Bộ luật Gia Long và Hồng Đức. Trách nhiệm dân sự đã được Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy định, đã tách bạch khỏi trách nhiệm hình sự nhưng trách nhiệm dân sự vẫn chỉ được tiếp nhận một cách chung, khái quát, chưa được phân định thành trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ trong hay ngoài khế ước, hợp đồng. Điều 712 Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 761 Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy định: Người nào làm bất cứ việc gì gây thiệt hại cho người khác do lỗi của mình đều phải bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại trong đó có bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vợ chồng gây ra không được quy định thành chế định pháp luật riêng mà áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại của Bộ Luật Gia Long và Bộ Luật Hồng Đức. Do vậy, ở giai đọan này, pháp luật không có điểm mới đáng kể nào trong các quy định về bồi thường thiệt hại. Phải đến khi thông tư 173 - Ủy ban Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/03/1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng ra đời thì mới đánh dấu một bước phát triển trong lập pháp về bồi thường thiệt hại. Chế định BTTH được giải thích một cách cụ thể và rõ ràng. Bước phát triển rõ ràng nhất của thông tư 173 là việc ghi nhận trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Theo đó, những người cùng chung gây thiệt hại thì phải liên đới chịu trách nhiệm BTTH khi giữa họ có sự thống nhất ý chí. Việc thống nhất ý chí được hiểu là thống nhất với nhau về hành vi lẫn hậu quả, hoặc cùng nhau gây thiệt hại mà chỉ thống nhất ý chí về hành vi hoặc chỉ thống nhất về hậu quả. Báo cáo tổng kết hội nghị toàn ngành tòa án năm 1967 nêu rõ: đối với trách nhiệm liên đới BTTH trong các vụ săn bắn vô ý làm chết hoặc bị thương người khác, có
  • 20. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 21 thể thấy không thể dựa vào tập tục lợi cùng hưởng của các phường săn bắn để bắt chịu trách nhiệm liên đới được. Như vậy, theo giải thích của báo cáo này thì việc xác định trách nhiệm liên đới BTTH trong trường hợp chỉ có sự thống nhất ý chí về hậu quả cần phải xét đến phong tục tập quán nơi hành vi thiệt hại xảy ra cũng như những người có liên quan. Toà án khi xác định trách nhiệm liên đới BTTH căn cứ vào thiệt hại xảy ra và mức độ lỗi của mỗi người để ấn định mức bồi thường và phần bồi thường. Đến đây, vấn đề BTTH nói chung trong đó có BTTH ngoài hợp đồng đã được nhìn nhận một cách biện chứng và thực tiễn hơn cả về mặt lý luận cũng như cách thức áp dụng khi xem xét mức độ lỗi, mức độ bồi thường căn cứ vào thiệt hại thực tế chứ không phải do pháp luật ấn định, phần bồi thường của mỗi người có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại… Ngày 05/04/1983, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ban hành thông tư số 03 - TATC hướng dẫn giải quyết một số vấn đề về BTTH trong tai nạn ô tô. Sỡ dĩ có thông tư 03 này bởi trong thông tư 173 không thừa nhận việc áp dụng trách nhiệm liên đới BTTH trong trường hợp nếu nhiều người cùng gây thiệt hại nhưng không có sự thống nhất ý chí. Trong khi đó, xã hội phát triển, phát sinh các quan hệ xã hội cần điều chỉnh trong đó có tai nạn ô tô như: hai người lái ô tô cùng phòng nhanh, cùng có lỗi nên va chạm với nhau gây thiệt hại cho người thứ ba đi đường. Thông tư 03 hướng dẫn: nếu lỗi của người thứ ba và lỗi của phía ô tô đều là nguyên nhân gây tai nạn, thì người thứ ba và phía ô tô phải liên đới bồi thường. Như vậy, thông tư 03 đã khắc phục thiếu sót của thông tư 173 ở chỗ quy định trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại nhưng giữa họ không có sự thống nhất ý chí về hành vi cũng như hậu quả thì họ phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Ngày 28/10/1995 Bộ luật Dân sự của nhà nước thống nhất được ban hành và có hiệu lực từ ngày1/7/1996. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được chương V phần thứ ba tại Điều 609 của Bộ luật quy định: “Người nào do lỗi cố
  • 21. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 22 ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Theo quy định này, người có hành vi trái pháp luật dù cố ý hay vô ý gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín của ngời khác thì phải bồi thường theo các nguyên tắc được quy định tại Điều 605 của Bộ luật này như sau: “1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác 2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường néu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình 3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.” Sau 10 năm có hiệu lực, nhiều quy định của Bộ luật này cần được bổ sung và sửa đổi. Vì vậy Quốc hội khoá XI, tại Kỳ họp thứ VII, ngày 14/6/2005 đã thông qua Bộ luật Dân sự mới. Bộ luật Dân sự 2005 cũng có kết cấu gồm 7 phần như Bộ luật Dân sự 1995, tuy nhiên số lượng các điều được giảm bớt cho gọn nhẹ hơn, chỉ còn 777 Điều (Bộ luật Dân sự 1995 có 838 Điều). Bộ luật Dân sự 2005 được xây dựng trên tinh thần hội nhập quốc tế, tiếp thu nhiều tư tưởng pháp luật lục địa châu Âu (Pháp, Đức) nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá truyền thống của đời sống dân sự Việt Nam. BLDS 2005 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH tại Điều 604 và quy định nguyên tắc BTTH tại Điều 605. Hai quy định này tương tự như những quy định của BLDS 1995. Theo đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH khi một người có lỗi dù vô ý hay cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của
  • 22. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 23 pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hai thì phải bồi thường. BLDS 2005 còn dành riêng một chương để quy định về các trường hợp cụ thể về BTTH ngoài hợp đồng. Điều đáng nói là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong BLDS 2005 được áp dụng ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Đây là điểm mới so với BLDS 1995, vì BLDS 1995 không có điều luật nào quy định về mức độ lỗi mà chỉ quy định tại Điều 309 về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Đó là trách nhiệm trong trường hợp do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trách nhiệm của chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra, trách nhiệm bồi thường của người gây ô nhiễm môi trường mà không có lỗi… Như vậy, BLDS 2005 đã khắc phục những nhược điểm của BLDS 1995 về BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn chưa đưa ra khái niệm cụ thể về BTTH ngoài hợp đồng mà chỉ xem xét nó dưới dạng một phần của BTTH nói chung. Mặc dù vậy, BLDS 2005 lại dành toàn bộ chương XXI để quy định về BTTH ngoài hợp đồng. Như vậy, trong quy định của Bộ luật đã có sự phân biệt rõ ràng giữa trách nhiệm dân sự (TNDS) do vi phạm hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Việc phân biệt này căn cứ vào nguồn gốc phát sinh của trách nhiệm BTTH. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm của mình gây ra. Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng). Cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH trong hợp đồng là hợp đồng có trước giữa các bên chủ thể (người gây thiệt hại và người người được hưởng bồi thường). Hợp đồng có giữa các bên chủ thể nêu trên phải đảm bảo về mặt thời gian là được xác lập trước khi có thiệt hại xảy ra. Không có hợp đồng giao kết trước giữa các bên thì không có trách nhiệm bồi
  • 23. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 24 thường thiệt hại trong hợp đồng. Thực tế cho thấy rằng, giữa các bên chủ thể có giao kết hợp đồng trước khi có thiệt hại xảy ra nhưng trách nhiệm bồi thường cũng không phải là trách nhiệm BTTH trong hợp đồng. Trường hợp giữa các bên có ký kết hợp đồng trước khi thiệt hại xảy ra nhưng hợp đồng lại bị vô hiệu, bị hủy bỏ thì hợp đồng đã ký giữa các bên coi như chưa được xác lập. Do vậy, những thiệt hại (nếu có) phát sinh trong những trường hợp này là thiệt hại ngòai hợp đồng và người có hành vi vi phạm không chịu trách nhiệm BTTH trong hợp đồng. Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền nhân thân mà trước đó giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng hoặc giữa họ tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Theo đó, cơ sở phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng do pháp luật quy định, không phải là thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng. Khác với trách nhiệm BTTH trong hợp đồng chỉ áp dụng đối với các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không những áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật mà còn áp dụng với người khác như: người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân của người làm việc cho pháp nhân… Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng được xây dựng nên bởi các quy phạm điểu chỉnh chế định hợp đồng. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng chỉ có khi tồn tại quan hệ hợp đồng, chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra thiệt hại; còn trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác mà hành vi vi
  • 24. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 25 phạm không phải là hành vi vi phạm hợp đồng có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Như vậy, BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ nào? Nếu dùng từ như vậy có thể dẫn đến hiểu lầm là nghĩa vụ trong hợp đồng. Có thể nói ngắn gọn hơn là người có hành vi vi phạm pháp luật… )phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác. Có thể sửa lại như sau: BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm pháp luật ngoài hợp đồng xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín…của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra. 1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. BTTH ngoài hợp đồng là một dạng trách nhiệm pháp lý nên BTTH ngoài hợp đồng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước… BTTH ngoài hợp đồng là một dạng của BTTH nên nó mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm BTTH nói chung. Cụ thể như sau: - Cơ sở pháp lý: BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân Sự. Các quy định tại BLDS 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 2005 được áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến BTTH ngoài hợp đồng. - Điều kiện phát sinh: BTTH ngoài hợp đồng cũng chỉ được đặt ra khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH nói chung bao gồm: + Có thiệt hại xảy ra: Đây là tiền đề cơ bản nhất để xác định trách nhiệm BTTH vì mục đích của BTTH là khôi phục tình trạng của người bị thiệt hại, nếu không có thiệt hại xảy ra thì không cần thiết đặt ra vấn đề BTTH. Thiệt hại
  • 25. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 26 theo quy định tại Điều 604 BLDS bao gồm: thiệt hại về tài sản (biểu hiện cụ thể là mất, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản); thiệt hại về tính mạng, sức khỏe (bao gồm: chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe); thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại (bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại); và tổn thất tinh thần (bao gồm nhiều vấn đề không thể định lượng như: đau thương, mất mất, mồ côi, góa bụa, sự mặc cảm…). Thiệt hại có thể nhìn thấy được, tính toán được hoặc không nhìn thấy, không định lượng được nhưng đều được quy định thành một đại lượng vật chất nhất định để bồi thường. + Có hành vi gây thiệt hại: Hành vi này là hành vi trái pháp luật, được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Thông thường hành vi gây thiệt hại là hành vi được thể hiện dưới dạng hành động (chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện hành vi đó). + Có lỗi của người gây ra thiệt hại: Lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Điều 604 BLDS khẳng định trách nhiệm BTTH được đặt ra ngay cả trong trường hợp không có lỗi. Lỗi trong trách nhiệm BTTH là lỗi được pháp luật quy định chứ không phải do suy đoán. Trường hợp người không có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm BTTH đối với thiệt hại đã gây ra. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ, bệnh viện… phải chịu trách nhiệm bồi thường là do có lỗi trong quản lý, chăm sóc, giáo dục người gây thiệt hại chứ không phải được suy đoán là có lỗi đối với hành vi gây thiệt hại. + Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra: Theo đó, thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật. Nói cách khác,
  • 26. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 27 hành vi trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến có thiệt hại xảy ra. Việc xác định mối quan hệ nhân quả nhiều khi rất khó khăn. Khi xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra cần xác định được về mặt thời gian đảm bảo hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước khi có thiệt hại. - Về hậu quả: BTTH luôn mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người bị áp dụng. - Chủ thể áp dụng: BTTH không chỉ áp dụng đối với người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại mà còn áp dụng với: cha, mẹ của người chưa thành niên, pháp nhân đối với người của pháp nhân, người giám hộ của người được giám hộ… BTTH ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể hiện tại cũng được xem xét dưới dạng một dạng của BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân và gia đình mà đặc biệt là quan hệ vợ chồng là một loại quan hệ xã hội đặc biệt nên khi xem xét BTTH ngoài hợp đồng trong trường hợp này vì thế cần phải lưu ý một số vấn đề sau đây: (Nghị quyết số 03/2006/HĐTP - TANDTC ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại): + Cần phải xác định trách nhiệm BTTH phát sinh là trách nhiệm BTTH trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Để xác định vấn đề này cần căn cứ vào nguồn gốc phát sinh của trách nhiệm BTTH là có hay không quan hệ hợp đồng mà vợ chồng là một bên chủ thể tham gia vì BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi hành vi gây thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý trách nhiệm BTTH phát sinh trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, bị huỷ bỏ, bị chấm dứt đề nghị giao kết hoặc trong trường hợp hành vi gây thiệt hại không phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng thì vẫn được coi là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. + Cần phải xác định tài sản của vợ chồng trong quan hệ BTTH ngoài hợp đồng (tài sản bị thiệt hại hoặc tài sản gây thiệt hại) là tài sản chung hay tài
  • 27. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 28 sản riêng của vợ chồng. Điều này hết sức quan trọng vì nó giúp xác định ai là người có trách nhiệm BTTH khi vợ chồng có tài sản gây thiệt hại (một bên vợ, một bên chồng hoặc cả hai vợ chồng); xác đinh tài sản được BTTH sẽ thuộc quyền sở hữu của ai khi vợ chồng là người có tài sản bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác (tài sản riêng của vợ, tài sản riêng của chồng hoặc tài sản chung của vợ chồng). Điều 163 BDS quy định, tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Vì thế, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (HN&GĐ 2000), tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, được xác định căn cứ vào nguồn gốc hình thành tài sản và dấu hiệu pháp lý của thời kỳ hôn nhân. Theo đó, tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung chứ không nhất thiết phải do hai vợ chồng cùng tạo ra (Điều 27 Luật HN&GĐ 2000). Tài sản riêng của vợ, chồng là “tài sản mà mỗi bên có từ trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân…” (Điều 32 Luật HN&GĐ 2000). Như vậy, việc xác định tài sản là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng cũng như bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại (trong trường hợp vợ chồng là người gây thiệt hại). + Cần xác định tài sản gây thiệt hại (trong trường hợp vợ chồng là người gây thiệt hại) là tài sản cụ thể nào, là cái gì. Việc làm này hết sức quan trọng bởi BLDS 2005 đã quy định các trường hợp BTTH ngoài hợp đồng cụ thể tại Chương XXI của bộ luật này như: BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,
  • 28. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 29 BTTH do súc vật gây ra, BTTH do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra; BTTH do cây cối gây ra…. + Cần xác định xem hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại nào, là thiệt hại về tài sản, thiệt hại sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín hay tổn thất tinh thần. Điều này giúp chúng ta xác định được thiệt hại thực tế đã xảy ra, định lượng thiệt hại, do đó xác định được mức bồi thường. Dự liệu cho vấn đề này, BLDS đã dành những điều luật khác nhau trong chương XXI để quy định về BTTH trong các trường hợp cụ thể này. Theo nguyên tắc, trách nhiệm BTTH khi được xác định là của một bên vợ hoặc một bên chồng thì người đó có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ bồi thường của mình. Việc người vợ, người chồng dùng tài sản riêng hay tài sản chung để thực hiện trách nhiệm BTTH trong nhiều trường hợp chỉ mang tính chất tương đối. Nói vậy bởi quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng được xác lập và củng cố bằng tình yêu thương nhằm duy trì cuộc sống chung hạnh phúc. Việc người vợ, chồng thỏa thuận với nhau dùng tài sản chung để thực hiện trách nhiệm BTTH của một bên vợ, chồng hay việc một bên vợ, chồng tự nguyện dùng tài sản riêng của mình để thực hiện trách nhiệm BTTH của người còn lại là điều tất yếu xảy ra trong đời sống hôn nhân. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi nó đảm bảo thiệt hại được bồi thường kịp thời; mặt khác còn thể hiện nét nhân văn trong quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. Tương tự như thế, tài sản được người khác bồi thường(trong trường hợp vợ chồng là người bị thiệt hại) sẽ được xác định là tài sản chung vợ chồng hay tài sản riêng của một bên vợ, chồng nhưng người đó tự nguyện gia nhập vào khối tài sản chung vợ chồng cũng là điều hoàn toàn có thể chấp nhận được, miễn sao bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng khi bị gây thiệt hại. 1.2. Căn cứ pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
  • 29. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 30 Điều 163 BLDS năm 2005 quy định tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Theo đó, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Những tài sản đó có thể là động sản hoặc bất động sản. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, tài sản của chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Ngoài tình yêu thương, chức phận vợ, chồng thì mỗi người khi kết hôn đều không ngoài mục đích nương tựa vào nhau, cùng xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Việc chung sức, chung lòng tạo dựng tài sản của vợ chồng sẽ đương nhiên hình thành tài sản chung của vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về tài sản chung vợ chồng tại Điều 27. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Xét về bản chất, tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất. Mặc dù hôn nhân mang tính chất “cộng đồng” nhưng tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải là tài sản do hai vợ chồng cùng tạo ra mà chỉ cần một trong hai bên tạo ra trong thời kỳ hôn nhân cũng được coi là tài sản chung vợ chồng. Tính chất này của tài sản chung vợ chồng cho thấy việc ghi nhận sự bình đẳng của vợ chồng về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm “tài sản mà mỗi bên có từ trước khi kết hôn , tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng tư trang cá nhân” (Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Quy định về tài sản riêng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là một điều tất yếu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Xét về lý luận, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân.
  • 30. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 31 Vợ, chồng khi tham gia các quan hệ đều được pháp luật xem xét là một chủ thể với tư cách công dân. Với tư cách công dân của mình, quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Theo đó, quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thực ra là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992. Hôn nhân mang tính chất “cộng đồng”, nhưng hôn nhân không phải là sự bó buộc, tước đoạt quyền tự do và cuộc sống riêng của cá nhân vợ, chồng. Vợ, chồng ngoài mục đích chung sức chăm lo cuộc sống chung vợ chồng vẫn còn có nhiều mối quan tâm khác rất riêng tư như: bố mẹ, anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp, quan hệ đầu tư sản xuất kinh doanh… Vì thế, về mặt thực tiễn, việc quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là điều tất yếu. Khi đời sống vợ chồng hạnh phúc, êm ả thì việc sử dụng tài sản riêng hay tài sản chung khi giải quyết các nhu cầu riêng, nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng là điều bình thường. Nhưng khi “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” thì việc sử dụng tài sản chung không phải là việc dễ vì thường không nhận được sự đồng thuận của cả vợ và chồng. Vô hình chung, điều đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người thứ ba. Mặt khác, pháp luật quy định về tài sản riêng vợ, chồng không những đảm bảo được quyền lợi công dân của vợ, chồng, của người thứ ba, không hạn chế quyền sở hữu tài sản chung mà còn góp phần quan trọng trong việc củng cố vững chắc hạnh phúc gia đình. Sở dĩ nói như thế vì quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng không phải là tuyệt đối. Vợ, chồng hoàn toàn tự do quyết định sử dụng tài sản riêng của mình để thực hiện nghĩa vụ chung hoặc nghĩa vụ riêng; tự do định đoạt có hay không gia nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung vợ chồng. Như vậy, việc phân định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng là dựa vào nguồn gốc hình thành tài sản và dấu hiệu pháp lý về thời kỳ hôn nhân. Việc phân định tài sản của vợ chồng thành tài sản chung hay tài sản riêng có ý nghĩa vô cùng to to lớn khi giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản và trách
  • 31. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 32 nhiệm của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại trước pháp luật. Thời kỳ hôn nhân được tính từ khi vợ chồng đăng ký kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trong các trường hợp pháp luật quy định. Về nguyên tắc những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn là tài sản riêng của một bên vợ, chồng còn những tài sản mà vợ chồng có trong thời kỳ hôn nhân được coi là tài sản chung vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã cụ thể hóa bằng cách liệt kê các căn cứ pháp lý xác định tài sản được coi là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng như sau: * Căn cứ pháp lý xác lập tài sản chung vợ chồng - Do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân, một bên hoặc cả hai bên vợ chồng trực tiếp bỏ ra công sức để tạo ra tài sản hoặc cùng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra thu nhập thì thu nhập đó được xác định là tài sản chung vợ chồng. Xuất phát từ nghề nghiệp của vợ, chồng mà tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong trường hợp này có thể là: tư liệu sinh hoạt trong gia đình, tư liệu sản xuất, tiền lương, tiền công lao động, lợi nhuận kinh doanh, quyền sở hữu trí tuệ của vợ chồng, thu nhập từ chăn nuôi, trồng trọt… Do căn cứ xác lập quyền sở hữu rất đa dạng nên việc xác định chính xác các khoản thu nhập nói trên cũng là khác nhau. Đối với tiền lương, tiền công lao động thông thường được xác định dựa theo bảng lương của vợ, chồng khi tham gia quan hệ lao động. Đối với thu nhập từ sản xuất nông lâm ngư nghiệp thì được xác định trên cơ sở thu nhập thực tế. Với khoản thu nhập là lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh thì được xác định dựa trên thuế giá trị gia tăng mà người sản xuất kinh doanh phải nộp. - Do vợ chồng được tặng cho hoặc được thừa kế chung Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế chung được coi là tài sản chung vợ chồng. Việc xác định tài sản chung trong trường hợp này quan trọng là phải xác
  • 32. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 33 định tính hợp pháp của giao dịch chuyển quyền sở hữu. Việc xác định giao dịch chuyển quyền sở hữu hợp pháp hay không được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó, nếu tài sản được thừa kế chung thì căn cứ pháp lý xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với phần di sản được nhận theo nội dung di chúc. Nếu tài sản được tặng cho chung là bất động sản thì hợp đồng tặng cho phải lập thành văn bản được công chứng, chứng thực. Quyền sở hữu của vợ chồng đối với bất động sản phải đăng ký được xác lập từ thời điểm đăng ký. Nếu tài sản được tặng cho chung là động sản thì quyền sở hữu của vợ chồng được xác lập từ thời điểm đăng ký (đối với động sản bắt buộc phải đăng ký) hoặc từ thời điểm bên nhận tặng cho nhận tài sản (đối với động sản không phải đăng ký). - Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản của vợ chồng Hoa lợi, lợi tức là các sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại hoặc các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung hoặc tài sản riêng vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung vợ chồng. - Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của pháp luật Các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm: tiền thưởng mà vợ, chồng nhận được khi tham gia quan hệ lao động; tiền trúng xổ số; tài sản mà vợ chồng được thưởng do mua hàng khuyến mãi; tiền trợ cấp thường xuyên hoặc bất thường như trợ cấp thai sản, trợ cấp nghề nghiệp, trợ cấp thất nghiệp; tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo các căn cứ của Bộ luật dân sự 2005; tiền bồi thường mà một hoặc hai bên được nhận từ người khác theo quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (đối với BTTH ngoài hợp đồng do tài sản riêng bị xâm phạm thì chỉ phần BTTH về lợi
  • 33. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 34 ích gắn liền với việc sử dụng khai thác tài sản được xác định là tài sản chung vợ chồng); tiền bảo hiểm mà vợ, chồng được hưởng trong thời kỳ hôn nhân. - Do vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung vợ chồng. Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung vợ chồng.(Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Vì vậy nếu vợ, chồng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung thì tài sản đó được coi là tài sản chung vợ chồng. Vấn đề là việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung vợ chồng như thế nào mới được coi là hợp pháp. Nghị định 70/2001/NĐ – CP ngày 03/10/2001 quy định: vợ hoặc chồng nhập tài sản riêng là nhà ở, quyền sử dụng đất, và các tài sản khác có giá trị lớn vào khối tài sản chung của vợ chồng phải thực hiện bằng văn bản có chữ ký của vợ chồng. Do đó, văn bản thỏa thuận nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ, chồng được coi là căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản đó. * Căn cứ pháp lý xác lập tài sản riêng vợ, chồng - Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của vợ hoặc chồng trước khi kết hôn Theo quy định của Hiến pháp, cá nhân có quyền sở hữu đối với thu nhập hợp pháp của mình, trong đó có thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, khi cá nhân tham gia vào quan hệ hôn nhân, các lợi ích về nhân thân và về tài sản của cá nhân đó bị chi phối bởi quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành, những thu nhập hợp pháp của cá nhân vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung hợp nhất vợ chồng. Chỉ những thu nhập hợp pháp của mỗi bên từ trước khi kết hôn mới được xác định là tài sản riêng của họ. Như vậy, việc xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng một mặt phải dựa vào nguồn gốc tài sản, mặt khác phải căn cứ vào thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân. Vợ, chồng chỉ được sở hữu riêng đối với những thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình từ trước thời điểm kết hôn.
  • 34. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 35 - Vợ, chồng được tặng cho, thừa kế riêng hoặc được thừa kế, tặng cho trước khi kết hôn. Tài sản mà vợ, chồng được tặng cho, thừa kế trước khi kết hôn được xác định là tài sản riêng của vợ chồng. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi trong hợp đồng tặng cho tài sản hoặc di chúc đã xác định đích danh chủ thể được chuyển quyền sở hữu tài sản. Tài sản vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong trường hợp này gặp không ít khó khăn. Văn bản tặng cho (hợp đồng tặng cho) và di chúc là căn cứ pháp lý xác lập tài sản riêng của người được nhận tặng cho, nhận thừa kế trong trường hợp này. Đối với tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng là bất động sản bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm đăng ký là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu. Nếu tài sản tặng cho riêng, thừa kế riêng là động sản không bắt buộc phải đăng ký thì thời điểm người được tặng cho, người được thừa kế nhận tài sản chính là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu. Trong trường hợp này, việc xác định tài sản đó là tài sản của một bên là rất khó nếu không được người vợ hoặc người chồng của họ công nhận. - Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản được chia trong thời kỳ hôn nhân Theo quy định của pháp luật, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác (Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1 Điều 8 Nghị định số 70/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, trong thời kỳ hôn nhân, nếu vợ chồng không có thỏa thuận chia tài sản chung thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên vẫn được xác định là tài sản chung của vợ, chồng. Nếu việc thỏa thuận chia tài sản chung xảy ra trong thời
  • 35. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 36 kỳ hôn nhân thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản được chia được xác định là tài sản riêng của mỗi bên trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. - Theo quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 32 và khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản vợ chồng được chia trong trong thời kỳ hôn nhân từ khối tài sản chung vợ chồng được coi là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Khi quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định 70/NĐ-CP của Chính phủ nêu rõ: khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có thỏa thuận khác thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng. Do vậy, trong trường hợp này, căn cứ phát sinh quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng là sự kiện chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản * Đối với tài sản chung Hôn nhân hợp pháp kéo theo việc xác lập quyền sở hữu tài sản chung hợp nhất giữa vợ chồng. Vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nêu rõ: “1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. 3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.”
  • 36. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 37 Vợ chồng đến với hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, cùng nhau bỏ công sức để tạo lập tài sản. Vì vậy việc vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung là điều tất yếu. Việc sử dụng tài sản chung phải có sự thống nhất về mặt ý chí của vợ, chồng. Điều này xuất phát từ bản chất của tài sản chung cũng như thực tiễn đời sống gia đình, thể hiện rõ sự bình đẳng giữa vợ, chồng trong đời sống và pháp luật. Tài sản chung vợ chồng hình thành khi hôn nhân được xác lập và chấm dứt theo quy định của pháp luật. Một trong những căn cứ làm chấm dứt sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng là việc pháp luật quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Quy định tại Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 là một quy định mới và đặc biệt mà trước đó Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 không có. Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo đó vợ chồng có thể chia toàn bộ khối chỉ thỏa thuận chia hoặc yêu cầu Tòa án chia một phần tài sản hoặc một nhóm tài sản nhất định mà không thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tất cả khối tài sản chung. Trong một chừng mực nhất định điều này phù hợp với thực tế có thể diễn ra trong thời kinh tế thị trường hiện nay là vợ chồng có thể cùng kinh doanh hoặc hoặc vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng để tạo điều kiện cho người vợ hoặc người chồng kinh doanh bằng vốn, tài sản riêng của mình. * Đối với tài sản riêng Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về việc vợ chồng có quyền có tài sản riêng như sau: “1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
  • 37. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 38 Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. 2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.” Ngoài ra, khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 điều này”. Với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình, vợ, chồng có toàn quyền sở hữu đối với tài sản riêng, không phụ thuộc vào ý chí của người chồng, vợ của họ. Trường hợp vì lí do công tác hoặc bệnh tật mà vợ, chồng không thể trực tiếp quản lí được tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lí thì người kia có quyền quản lí tài sản đó(khoản 2 điều 33). Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng như Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đều có quy định vợ, chồng có quyền “nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Do vậy việc quy định vợ, chồng có tài sản riêng không làm ảnh hưởng tới tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng không làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Trong thực tế, khi vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc thì họ có thể thỏa thuận để người có tài sản riêng nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Việc vợ chồng nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Quy định này của pháp luật là phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn khi giải quyết vấn đề tranh chấp tài sản giữa vợ, chồng khi li hôn và cũng là để ngăn chặn những mục đích không lành mạnh của vợ, chồng khi nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng, cũng là để bảo dảm quyền và lợi ích hợp pháp của
  • 38. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 39 những người có liên quan. Khoản 2 điều 13 Nghi định số 70/2001/NĐ-CP còn quy định: “Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô hiệu theo quy định tại điều 11 của nghị định này”. Theo khoản 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng (còn gọi là nợ riêng của vợ, chồng) phát sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân, mà không vì lợi ích chung của gia đình; hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác do luật định( nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng, con mà vợ, chồng phải thực hiện). Các quy định về nghĩa vụ của vợ chồng được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được dự liệu cụ thể hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trước đây. Những quy định này là cơ sở pháp lí cho việc xác định nghĩa vụ của vợ,chồng được thực hiện bằng tài sản riêng do thỏa thuận trong thực tiễn. Ngoài việc quy định về quyền quản lý, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng, khoản 5 điều 33 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đã quy định một vấn đề mới, đó là hạn chế quyền sở hữu của vợ chồng với tài sản riêng vì lợi ích chung của gia đình: “Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng”. Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình thì bên vợ, chồng có tài sản riêng phải đóng góp, sử dụng tài sản riêng vì các nhu cầu thiết yếu đó.Mặt khác, tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đã được đưa vào sử dụng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó thì
  • 39. Dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,báo cáo thực tập, khóa luận Sdt/zalo 0967 538 624/0886 091 915 https://lamluanvan.net/ 40 việc đinh đoạt tài sản riêng đó phải được sự đồng ý, thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Quy định này dựa trên truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, luôn có sự đoàn kết, yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Mặc dù theo luật định, vợ chồng có quyền có tài sản riêng, nhưng trên thực tế cuộc sống chung của vợ chồng thường không phân biệt các tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng, tài sản riêng của vợ, chồng nếu đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lơi, lợi tức thu được từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải có sự thỏa thuận, thống nhất giữa hai vợ chồng nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống chung của vợ, chồng; nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ, chồng; nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con. Như vậy cũng là bảo đảm lợi ích chung của toàn bộ xã hội, vì gia đình là tế bào của xã hội gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Sự tồn tại bền vững của gia đình là cơ sở tạo cho xã hội ổn định, phát triển. Như vậy, xuất phát từ đặc thù của quan hệ BTTH ngoài hợp đồng và quan hệ vợ chồng mà BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng thực hiện có những bản chất và biểu hiện khác với các quan hệ BTTH khác. BTTH ngoài hợp đồng trong đó vợ, chồng là chủ thể không những ảnh hưởng đến quyền của người bị thiệt hại mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của vợ, chồng, con cái. Do vậy, việc tìm hiểu cơ sở pháp lý, khái niệm, đặc điểm của BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể là một yêu cầu bức thiết, tạo tiền đề cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ này.