Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo pháp luật Việt Nam hiện nay, từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, cho các bạn làm luận văn tham khảo
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo pháp luật, HAY
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI NGỌC TÙNG
HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƢỢNG NHÀ Ở
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY,
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI NGỌC TÙNG
HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƢỢNG NHÀ Ở
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY,
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 8.38.01.07
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS LÊ THỊ BÍCH THỌ
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu của Luận văn là trung thực và không trùng lặp với các công trình
nghiên cứu có liên quan đã được công bố; các số liệu phục vụ cho việc phân tích, đánh
giá và một số thông tin trích dẫn đều đã được chú thích nguồn gốc rõ ràng, chính xác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Ngọc Tùng
4. LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận án xin được gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc Pgs.Ts Lê
Thị Bích Thọ - Người Thầy đã luôn tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong
suốt quá trình nghiên cứu.
Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Học viện Khoa học Xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác
giả được học tập và hoàn thành được công trình nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Ngọc Tùng
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
NHƢỢNG NHÀ Ở.......................................................................................6
1.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng chuyển nhượng nhà ở..........................6
1.1.1. Khái niệm hợp đồng.............................................................................6
1.1.2. Khái niệm hợp đồng chuyển nhượng nhà ở...........................................6
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở .....................................9
1.2. Phân loại hợp đồng chuyển nhượng nhà ở .............................................12
1.2.1. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở gắn với quyền sử dụng đất...............12
1.2.2. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở chung cư..........................................13
1.3. Pháp luật và vai trò của pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở ........14
1.3.1. Pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở..........................................14
1.3.2. Vai trò của pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở ...................17
1.4. Các nguyên tắc pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở................21
1.4.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng chuyển nhượng nhà ở..........................21
1.4.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở........................22
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
NHƢỢNG NHÀ Ở.....................................................................................26
2.1. thực Thực trạng pháp luật về chủ thể hợp đồng chuyển nhượng nhà ở...26
2.1.1. Chủ thể là cá nhân .............................................................................26
2.1.2. Chủ thể là pháp nhân .........................................................................34
2.2 Pháp luật về thủ tục chuyển nhượng nhà ở .............................................40
2.3. Thực trạng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng......................................43
2.3.1. Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng...............................................43
2.3.2. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu....47
2.4. Thực trạng pháp luật về nội dung hợp đồng chuyển nhượng nhà ở ........56
6. 2.4.1. Đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở ..................................56
2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên ..........................................................60
2.5. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở...............................................................................................64
2.5.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ.................64
2.5.2. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở...............................................................................................65
2.6. Thực trạng thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở từ thực tiễn tại
Quận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh.................................................................68
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƢỢNG NHÀ Ở............................................73
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở...................................................................................73
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở...................................................................................74
KẾT LUẬN ................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà ở là một nhu cầu và là quyền cơ bản của con người, trong thời gian
qua, cùng với sự phát triển của xã hội, sự tăng lên nhanh chóng của dân cư
khu vực đô thị bởi quá trình di cư đã tạo nên nhu cầu rất lớn về nhà ở, đặc biệt
ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ
Chí Minh là địa phương có quy mô dân số lớn nhất cả nước, Theo thống kê
của Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh, hiện quy mô dân số của Thành
phố gần 13 triệu người, trong đó có khoảng 3 triệu người nhập cư. Tốc độ
tăng dân số bình quân của thành phố là 3,5%/năm, trong đó tốc độ tăng dân số
cơ học là 2,3%/năm, gấp đôi mức tăng dân số tự nhiên. Trung bình mỗi năm
dân số thành phố tăng khoảng hơn 200.000 người, cứ mỗi 5 năm, thành phố
tăng dân số khoảng hơn 1 triệu người, tương đương dân số một quận. Hiện
nay, diện tích Thành phố là 2.095 km2 có 24 quận huyện, trong đó có 19 quận
và 5 huyện. Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, diện tích
7,73 km2 dân số là 193.632 người. Mặc dù diện tích không tăng và điều kiện
hạ tầng phục vụ phát triển nhà ở là rất khó khăn, nhưng quy mô dân số của
Quận vẫn đang tiếp tục tăng, trong đó chủ yếu là số dân nhập cư, do sự hạn
chế về quỹ đất, khó khăn trong giải phóng mặt bằng, tốc độ tăng giá các yếu
tố đầu vào đã đẩy giá nhà ở lên cao hơn rất nhiều so với thu nhập của người
dân. Chính vì vậy, nhiều biểu hiện tiêu cực, phức tạp trong lĩnh vực mua bán
nhà ở đã diễn ra trong thời gian qua, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của
người tiêu dùng và sự ổn định của xã hội. Đó là hiện tượng đầu cơ, làm lũng
đoạn thị trường gây ra những rào cản cho cơ hội tiếp cận nhà ở một cách công
bằng của người dân; thiếu minh bạch trong chính sách giá và công khai thông
tin dự án; hợp đồng không rõ ràng, không thực hiện đúng cam kết khi ký hợp
đồng...
Hợp đồng mua bán nhà ở có những đặc trưng rất riêng so với các loại
8. 2
hợp đồng khác, liên quan đến đời sống dân sự hàng ngày, tính mạng của cư
dân sống trong các công trình nhà ở; nhà ở là bất động sản gắn liền với đất. Vì
vậy, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng
như: Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động
sản, Luật Bảo vệ người tiêu dùng… và các văn bản dưới luật khác. Nhìn
chung, hệ thống pháp uật về chuyển nhượng nhà ở đã tương đối hoàn chỉnh và
đang có những tác động tích cực trong giải quyết các vấn đề từ thực tiễn.
Song, việc không tuân thủ các quy định pháp luật hợp đồng, sự thiếu hiểu biết
pháp luật trong giao kết hợp đồng; các quy định pháp luật về nhà ở và hợp
đồng mua bán nhà ở còn có những bất cập, thiếu đồng bộ, minh bạch đã và
đang là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp về hợp đồng mua
bán nhà ở ngày càng diễn ra phức tạp. Vì vậy, việc tác giả lựa chọn và thực
hiện đề tài luận văn thạc sĩ luật học: "Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo
pháp luật Việt Nam hiện nay, từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh"
nhằm chỉ ra các khoảng trống pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật sẽ có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện chế định pháp luật về
hợp đồng mua bán nhà ở, cũng như việc quản lý nhà nước với các hoạt động
diễn ra trong lĩnh vực này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học khác nhau nghiên cứu về hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở, trong đó có một số các nhóm công trình nghiên cứu như:
* Nhóm các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật
về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
- Trần Thị Thu Hà, "Về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm
quy định về hình thức", Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 2/2014.
- Hoàng Thị Thu Thủy (2014), Hợp đồng mua bán nhà ở theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Minh Phượng (2017), Hợp đồng mua bán nhà ở theo
9. 3
pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, HVKHXH Việt Nam.
- Đỗ Xuân Sơn (2017), Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp
luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học, HVKHXH Việt Nam.
* Các công trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở theo pháp luật
- Dương Anh Sơn, Lê Minh Hùng (2010), Hình thức văn bản, văn
bản có chứng thực là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 18, tr. 28-33.
- Nguyễn Thị Minh Phượng (2016), Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi hợp đồng mua bán nhà ở bị vô hiệu, Tạp chí Kiểm sát, số
12/2016
- Tác giả Trần Thị Huệ và Nguyễn Văn Hợi (2012), Một số bất cập
trong pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở, Tạp chí Luật học, số 12/2012, tr.
19-24.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả xác định các
nhiệm vụ cụ thể sau: Làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở, nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện
các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở, dựa trên các trường hợp
cụ thể từ số liệu tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, chỉ ra các điểm
hợp lý và chưa hợp lý trong các quy định pháp luật và cơ chế thực hiện pháp
luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở. Đề xuất các định hướng và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về nhà ở và hợp đồng mua bán nhà ở, cũng như cơ chế
quản lý nhà nước với các hoạt động chuyển nhượng nhà ở nhằm hướng đến sự
ổn định và phát triển lành mạnh thị trường bất động sản ở Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Kết quả nghiên cứu của đề tài là
nhằm đánh giá mức độ phù hợp và bất cập của các quy định pháp luật liên
10. 4
quan đến chuyển nhượng nhà ở qua việc nghiên cứu thực tiễn từ hoạt động
chuyển nhượng nhà ở tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của một luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu pháp luật hợp
đồng chuyển nhượng nhà ở theo nghĩa hẹp, nghĩa là dưới góc độ hoạt động
mua, bán nhà ở. Luận văn tập trung vào đối tượng nhà chung cư, nhà ở riêng
lẻ; phân tích một số quy định pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở ( xây
dựng, giao kết, thực hiện, hợp đồng, tranh chấp), tìm hiểu một số tranh chấp,
nguyên nhân tranh chấp thực tiễn tại địa bàn Quận 1 trong khoảng thời gian từ
năm 2015 đến năm 2018, qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện những
qui định pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở.
5. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước
về nhà ở và quyền có nhà ở của công dân, chính sách về xây dựng thị trường
nhà ở, quản lý hoạt động mua bán nhà ở trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ về những lý luận về hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở trên cơ sở thực tiễn các hoạt động chuyển nhượng nhà ở
trong các khu chung cư tại địa bàn Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh qua đó chỉ
ra những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong các quy định pháp luật để đưa ra
những đề xuất cũng như cơ chế quản lý nhà nước đối với những hoạt động
này, Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo phục vụ học tập cho sinh viên các ngành Luật, Khoa học xã hội và
nhân văn tại các trường đại hoc, cao đẳng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê và hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng
11. 5
hợp, nghiên cứu tình huống: Được sử dụng để gắn kết những vấn đề mang tính
lý luận ở Chương 1 với thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về chuyển
nhượng nhà ở trong Chương 2. Trên cơ sở các thực tiễn , phân tích và đánh giá
một số trường hợp tại Quận 1, tác giả đưa ra phương hướng và đề nghị một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng nhà ở trong Chương 3.
7. Những điểm mới của Luận văn
Đề tài được nghiên cứu và hoàn thiện trong bối cảnh áp dụng Bộ Luật
Dân sự năm 2015, Luật Nhà ở 2014, Luật Kinh doanh bất động sản 2013, một
số điểm mới đạt được so với các công trình nghiên cứu khác như:
- Luận văn đưa ra khái niệm riêng về Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở.
- Nghiên cứu một cách toàn diện Luật nhà ở năm 2014, Bộ Luật Dân sự
2015, các văn bản pháp luật có liên quan về Hợp đồng mua bán nhà ở.
- Sưu tầm được những tranh chấp thường gặp trong thời gian gần đay
và hợp đồng mua bán nhà ở.
- Chỉ ra hạn chế của pháp luật về hợp đồng mua bán nhà ở và đưa kiến
nghị hoàn thiện qui định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán nhà ở.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết thành 3 chương:Phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận
Trong đó, Phần Nội dung của Luận văn được kết cấu thành 03 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Chương 3: Định hường và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở
12. 6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
CHUYỂN NHƢỢNG NHÀ Ở
1.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng chuyển nhƣợng nhà ở
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Theo pháp luật Việt Nam, với tư cách là hình thức của giao dịch dân sự
theo nghĩa rộng (bao gồm cả những quan hệ về đầu tư, lao động, kinh doanh
thương mại, bảo hiểm…) Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 năm 2015 quy
định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Quy định khái niệm hợp đồng tại Điều
385 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã làm tăng tính khả thi, minh bạch trong
thực tiễn áp dụng, mở rộng phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2015
về hợp đồng trong các lĩnh vực khác; tránh được sự nhầm lẫn trong lĩnh vực
thương mại, lao động... Trong khái niệm trên, có thể thấy trước hết hợp đồng
phải là sự thỏa thuận, tức là luôn trên cơ sở tự do, tự nguyện của các bên khi
tham gia quan hệ hợp đồng, nhưng sự thỏa thuận đó vẫn phải phù hợp với các
quy định pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng là sự thỏa thuận nhưng
không phải mọi sự thỏa thuận là hợp đồng.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Theo từ điển Tiếng Việt: "Nhà ở là công trình xây dựng có mái, có
tường vách để ở hay dùng vào một việc nào đó" [41, Tr.900]. Dưới góc độ
pháp lý, nhà ở là "công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân" (Điều 3, Luật Nhà ở năm 2014).
Nhìn chung, nhà ở có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, nhà được tạo lập nhằm mục đích chính là để ở hoặc phục vụ
nhu cầu sinh hoạt của con người. Vì vậy, ngôi nhà gắn bó mật thiết, lâu dài
với mỗi cá nhân từ khi sinh ra, lớn lên và cho đến lúc qua đời.
Thứ hai, nhà ở là sản phẩm của quá trình lao động của con người nên
13. 7
nó thuộc sở hữu của người đã bỏ vốn đầu tư tạo lập (sở hữu nhà nước, sở hữu
cộng đồng, sở hữu tư nhân, sở hữu doanh nghiệp…). Nhà ở thuộc đối tượng
của các giao dịch dân sự .
Thứ ba, nhà ở cố định về mặt vị trí địa lý, có kết cấu bền vững, hệ
thống móng cố định tại vị trí đất xây dựng. Nhà ở bên cạnh một số yếu tố đặc
thù khu vực nó còn chứa đựng đầy đủ đặc điểm và tính chất của một loại bất
động sản đặc trưng. Nhà ở thường có giá trị lớn. Bên cạnh mục đích để ở, nhà
ở còn được con người sử dụng làm tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ
trong quan hệ vay, dùng để góp vốn, bảo lãnh…[13]
Luật Nhà ở năm 2014 phân loại nhà ở thành nhà ở riêng lẻ, nhà chung
cư, nhà ở công vụ, nhà ở để phục vụ tái định cư, nhà ở xã hội.
Giao dịch mua bán nhà ở nhằm đáp ứng nhu cầu về nhà ở của môi cá
nhân là hành vi pháp lý quan trọng. Nhà ở được xếp vào nhóm tài sản dưới
dạng bất động sản. Hiến pháp 2013 tại Điều 32 cũng quy định: “Mọi người có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác”. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là hợp đồng dân sự, cụ thể hóa
của của hợp đồng mua bán tài sản. Trong đó, đối tượng của hợp đồng là nhà ở
- tài sản có giá trị lớn. Không ít các nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề nghiên
cứu sự khác biệt giữa hợp đồng chuyển nhượng và hợp đồng mua bán. Điều
430, Bộ luật dân sự năm 2015 định nghĩa: "Hợp đồng mua bán tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho
bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán. Hợp đồng mua bán nhà ở, mua bán
nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật
này, Luật nhà ở và luật khác có liên quan". Trong hợp đồng mua bán tài sản,
hoạt động mua và bán gắn liền với nhau để tạo nên quan hệ pháp luật giữa hai
chủ thể là bên mua và bên bán. Trong đó hoạt động bán bao gồm hai thành
phần riêng rẽ và phân biệt với nhau. Thứ nhất, hợp đồng bán được coi là hoàn
14. 8
thành khi đề nghị giao kết được chấp nhận; thứ hai, việc chuyển giao quyền
sở hữu tài sản được diễn ra trước hoặc cùng đồng thời với khoản thanh toán
đã được các bên thống nhất [41, Tr.1504].
Trong tiếng Việt, cụm từ “chuyển nhượng” được hiểu là “chuyển quyền
sở hữu” [26, Tr.182]. "Nhượng" là nhường lại, chuyển giao lại cho người
khác (cái thuộc quyền sở hữu của mình hoặc quyền lợi mình đang được
hưởng). Nói cách khác chuyển nhượng là chuyển giao quyền với tài sản của
một chủ thể này sang một chủ thể khác. Thực chất, trong pháp luật Việt Nam
cách hiểu về "chuyển nhượng" còn có những điểm chưa thống nhất. Hiện
không có khái niệm hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, mà chỉ có khái niệm hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Cho dù sử dụng “chuyển nhượng”
hay “mua bán” thì bản chất của giao dịch vẫn là “chuyển quyền sở hữu”, tức
là giao dịch đó vẫn bao gồm các yếu tố: (i) Chuyển giao tài sản; (ii) Có đền
bù; (iii) Người chuyển giao không còn bất kỳ mối liên hệ nào với tài sản sau
khi đã chuyển giao và nhận đền bù [27, Tr.182].
Xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân với đất đai mà cá nhân, pháp nhân,
hộ gia đình, chủ thể khác chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng đất được xác lập
do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Quyền
sử dụng đất cũng được xác lập trên cơ sở hợp đồng chuyển quyền phù hợp với
quy định pháp luật về đất đai. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất
chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên
nhận chuyển nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng. Đối tượng của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đất đai là hàng hóa đặc biệt mà cá
nhân, pháp nhân hộ gia đình được xác lập quyền sử dụng theo quy định.
Xuất phát từ khái niệm hợp đồng, hợp đồng mua bán tài sản trong Bộ luật
dân sự năm 2015, khái niệm về nhà ở, đặt trong mối quan hệ với chuyển nhượng
15. 9
quyền sử dụng đất, dưới góc độ thuật ngữ luật học thì hợp đồng mua bán nhà ở
hay hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là: "Sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên
nhận chuyển nhượng nhà ở (bên mua) và bên chuyển nhượng nhà ở (bên bán).
Theo đó, bên bên chuyển nhượng có nghĩa vụ giao nhà ở và chuyển quyền sở
hữu nhà ở cho bên nhận chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng có nghĩa vụ
trả tiền cho bên chuyển nhượng theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng.
Bên nhận chuyển nhượng là chủ sở hữu nhà ở sau khi các bên đã thực hiện các
thủ tục theo quy định của pháp luật"
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Một là, hợp đồng chuyển nhượng nhà ở có đối tượng là nhà ở - loại bất
động sản có giá trị lớn.
Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai”. Nhà ở là một loại tài sản dưới dạng bất động sản được xác định
theo điểm b, khoản 1, Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015. Nhà ở có thể được
hiểu là nhà dùng để ở được xây dựng có kết cấu độc lập gọi là nhà riêng lẻ
hoặc có kết cấu chung gồm nhiều căn hộ hoặc nhà liên kế dùng cho con người
sinh hoạt, nghỉ ngơi được xác định bằng diện tích mặt bằng trong đó có, diện
tích sử dụng chung (nếu có), diện tích sử dụng riêng được xác định bằng ranh
giới về không gian. Nhà ở, đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, là
một loại tài sản buộc phải đăng ký quyền sở hữu, vì thế, các giao dịch mua
bán nhà ở đã được pháp luật quy định chặt chẽ.
Căn cứ vào thời điểm hình thành và thời điểm xác lập quyền sở hữu
cho chủ sở hữu, nhà ở có thể đang tồn tại hiện hữu và cũng có thể được coi là
một loại tài sản hình thành trong tương lai. Nhà ở có thể đang tồn tại hiện hữu
là tài sản vào thời điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở
hữu phải đáp ứng các điều kiện sau đây mới là đối tượng của hợp đồng mua
16. 10
bán nhà ở:
- Nhà ở là đối tượng của hợp đồng mua bán phải được xác định cụ thể, là
đối tượng của hợp đồng mua bán nhà bao gồm cả nhà và diện tích đất gắn liền
với ngôi nhà và chúng cần phải được chỉ r trong hợp đồng mua bán.
- Nhà phải có các loại hồ sơ phù hợp qui định pháp luật chứng tỏ quyền
sở hữu hợp pháp của chủ thể hiện đang quản lý, sử dụng nhà. Đó chính là cơ
sở pháp lý cơ bản về hình thức có thể đã được nhà nước xác nhận về nội dung
và là nguyên tắc để Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể và các chủ
sở hữu thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Không bị tranh chấp về quyền sở hữu đối với diện tích nhà đem bán.
- Không bị cấm lưu thông dân sự.
- Nếu nhà thuộc sở hữu chung theo phần hoặc hợp nhất phải tuân theo
quy chế pháp lý riêng đối với loại nhà thuộc sở hữu của nhiều người.
Hai là, hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là hợp đồng song vụ mang tính
đền bù tương đương.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với
nhau (Khoản 1, Điều 402 Bộ luật dân sự năm 2015). Trong quan hệ này, bên
chuyển nhượng (bên bán) có nghĩa vụ chuyển giao nhà và quyền sở hữu nhà
về phương diện pháp lý cho người nhận chuyển nhượng (bên mua). Bản chất
của việc chuyển nhượng nhà là chấm dứt quyền sở hữu nhà của chủ sở hữu,
đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu đối với nhà của người nhận chuyển
nhượng. Tính chất đền bù trong quan hệ này thể hiện trong việc người chuyển
nhượng nhà nhận một giá trị nhất định (thường là tiền) đã thỏa thuận thì bên
nhận chuyển nhượng phải được xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở. Người
nhận chuyển nhượng muốn được sở hữu nhà thì phải có nghĩa vụ trả tiền cho
bên chuyển nhượng nhà một giá trị tương xứng với nhà ở đó, đúng thời hạn,
địa điểm và phương thức theo thỏa thuận. Giá trị mà bên nhận chuyển nhượng
nhà phải trả cho bên bán nhà là khoản đền bù về việc mua bán nhà ở theo thoả
17. 11
thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tính chất đền bù trong hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở xuất phát từ nguyên tắc trong giao kết hợp đồng là trao
đổi ngang giá và tự do thỏa thuận. Đây là đặc điểm phân biệt giữa hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở với hợp đồng cho thế chấp, cho thuê hay hợp đồng ủy
quyền quản lý nhà ở. Việc chuyển giao nhà thể hiện ở nội dung như nghĩa vụ
của bên chuyển nhượng là giao nhà ở đúng tình trạng đã ghi trong hợp đồng,
vấn đề chuyển giao quyền sở hữu nhà thể hiện ở việc bàn giao sự chiếm hữu,
sử dụng thực sự với nhà ở và dịch chuyển về mặt pháp lý quyền sở hữu nhà
theo quy định của pháp luật.
Ba là, hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là hợp đồng ưng thuận
ng thuận là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng chuyển
nhượng tài sản nói chung và chuyển nhượng nhà ở nói riêng. Từ thời điểm các
bên thỏa thuận và thể hiện sự thống nhất ý chí với nhau và ký tên (hoặc điểm
chỉ) xác nhận về những nội dung cơ bản của hợp đồng thì hợp đồng đó được
coi là xác lập. Thời điểm xác lập của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là thời
điểm mà hợp đồng được công chứng, đây là thời điểm phát sinh quyền và
nghĩa vụ đối với nhau giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng
nhà ở, không phụ thuộc vào việc đã chuyển giao hay chưa chuyển nhà.
Bốn là, hình thức của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở nên lập thành
văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Đây là quy định có tính bắt buộc nhằm đảm bảo tính an toàn, ổn định
của giao dịch chuyển nhượng nhà ở, đồng thời cũng thực hiện chức năng quản
lý nhà nước với bất động sản nói chung và nhà ở nói riêng. Việc công chứng,
chứng thực hợp đồng là hành vi pháp lý quan trọng nhằm phát sinh hiệu lực
pháp lý của giao dịch chuyển nhượng nhà ở. Nếu các bên không thực hiện
nghĩa vụ công chứng, chứng thực hợp đồng tại tổ chức hành nghề công chứng
hoặc chứng thực tại UBND xã/phường/thị trấn nơi nhà ở tọa lạc thì hợp đồng
18. 12
có thể đương nhiên vô hiệu hoặc vô hiệu khi có yêu cầu tuyên vô hiệu của
một bên [28, Tr.30].
Năm là, hợp đồng chuyển nhượng nhà ở chịu sự ảnh hưởng của chính
sách về nhà ở của Nhà nước mỗi thời kỳ.
Việc chuyển nhượng nhà ở có sự tác động rất lớn đến tính ổn định phát
triển của xã hội. Do đó, chính sách về nhà ở với mỗi quốc gia nói chung và
Việt Nam nói riêng đều có sự điều chỉnh liên tục, phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội và nhu cầu quản lý nhà nước ở mỗi giai đoạn.
1.2. Phân loại hợp đồng chuyển nhƣợng nhà ở
Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng có thể phân thành:
1.2.1. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở gắn với quyền sử dụng đất
Đây là loại hợp đồng khá thông dụng dùng trong giao dịch nhà ở đã
được tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tự xây dựng trên diện tích đất được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhà ở trong hợp đồng chuyển nhượng
nhà ở gắn với quyền sử dụng đất có thể được xây dựng trên toàn bộ diện tích
đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân hoặc có thể được xây dựng một phần trên đất. Tuy nhiên, tính chất đặc
biệt của đối tượng hợp đồng này ở chỗ, hai bên không thực hiện giao dịch với
mục đích mua nhà ở đơn lẻ mà luôn gắn liền với việc chuyển nhượng quyền
sử dử dụng đất. Do đó, giá trị của hợp đồng không chỉ tính trên giá trị nhà ở,
mà còn tính trên giá trị của quyền sử dụng đất được chuyển nhượng.
Điều kiện để chuyển nhượng nhà ở gắn với quyền sử dụng đất là đối
tượng của hợp đồng là nhà ở và quyền sử dụng đất thỏa mãn điều kiện quy
định tại khoản 1, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013:
“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng
đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186
19. 13
và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.”
Nhìn chung, để chuyển nhượng nhà gắn liền với quyền sử dụng đất thì
phải phù hợp với điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định
của Luật Đất đai và các điều kiện khác của pháp luật.
Mục đích chuyển nhượng nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất khá đa
dạng, có thể mua để ở, có thể mua để bán lại.
1.2.2. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở chung cư
Đây là loại hợp đồng mà việc chuyển nhượng có đối tượng chính là nhà
ở dưới dạng căn hộ chung cư. Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014 : "Nhà chung cư
là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu thang chung, có
phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung…. ". Như vậy, thực chất chuyển
nhượng nhà chung cư sẽ có mục đích chủ yếu là chuyển quyền sở hữu phần
nhà ở thuộc sở hữu riêng. Phần nhà ở và các công trình sở hữu chung của khu
nhà chung cư sẽ là quyền phát sinh từ quyền sở hữu căn hộ trong khu nhà
chung cư. Song, do đặc tính của nhà chung cư nên đối với chung cư hình
thành trong tương lài thì hợp đồng chuyển nhượng nhà chung cư chủ yếu là
hợp đồng góp vốn. Chủ đầu tư thỏa thuận với các tổ chức, các nhân bằng văn
bản các văn bản ghi nhận góp vốn theo hình thức hợp đồng để đầu tư xây
dựng nhà chung cư. Theo hợp đồng này, bên góp vốn sẽ được nhận sản phẩm
là nhà ở hình thành trong tương lai trên cơ sở theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Do đặc thù của nhà chung cư là một loại tài sản cần số vốn đầu tư lớn
để có thể hoàn thiện nên chủ đầu tư dự án (chủ đầu tư cấp I) nếu có nhu cầu
huy động vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đối với phần diện tích xây
dựng nhà ở và đầu tư xây dựng nhà ở trong khu nhà ở, khu đô thị đó thì được
huy động vốn theo các hình thức được quy định tại Điều 19 Nghị định
20. 14
99/2015/NĐ-CP [30]. Hợp đồng chuyển nhượng nhà chung cư cũng có nhiều
dạng biến thể khác nhau, thời điểm ký hợp đồng cũng được quy định khác
nhau. Theo quy định tại Điều 119 Luật Nhà ở năm 2014, việc ký Hợp đồng
chỉ được diễn ra sau các thời điểm sau:
- Hợp đồng góp vốn, chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng sau khi đã có dự án
phát triển nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện khởi công xâydựng công trình nhà ở.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh thì chủ đầu tư chỉ được ký hợp đồng
hợp tác kinh doanh sau khi đã có dự án nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện
giải phóng mặt bằng, có biên bản bàn giao mốc giới của dự án.
- Hợp đồng mua bán nhà ở trong tương lai thì chỉ được ký sau khi đã có
thiết kế kỹ thuật nhà ở được phê duyệt, đã xây dựng xong phần móng của nhà
ở, đã hoàn thành thủ tục mua bán qua sàn giao dịch bất động sản theo đúng
quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.
Hợp đồng mua bán nhà chung cư là một dạng của Hợp đồng mua bán
nhà ở và nhưng hiện nay chưa có khái niệm riêng cho loại hợp đồng này. Do
nhà chung cư là tài sản có giá trị lớn và dễ xảy ra tranh chấp nên Bộ Xây
dựng quy định mẫu khá cụ thể tại Thông tư số 03 /2014/TT-BXD ngày
20/2/2014. Theo đó, hợp đồng phải nêu rõ thông tin về chủ đầu tư và các
quyết định liên quan đến quyền sử dụng đất như quyết định giao đất, cho thuê
đất, văn bản phê duyệt dự án đầu tư xây dựng nhà chung cư; và các văn bản
liên quan trực tiếp đến Dự án nhà chung cư như quy hoạch dự án nhà chung
cư. Trong hợp đồng phải ghi rõ phần diện tích thuộc quyền sở hữu chung,
riêng, phí bảo trì 2% trên tổng giá trị hợp đồng và cách tính diện tích căn hộ
mua bán.
1.3. Pháp luật và vai trò của pháp luật hợp đồng chuyển nhƣợng
nhà ở
1.3.1. Pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Khái niệm pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
21. 15
Để đáp ứng nhu cầu về nhà ở và chuyển nhượng nhà ở, các cá nhân và
tổ chức thực hiện giao dịch nhà ở dưới nhiều dạng khác nhau. Do tính chất
đặc biệt của đối tượng giao dịch là nhà ở, nên luôn đòi hỏi sự công khai, minh
bạch, an toàn cho các bên. Nhằm mục đích quản lý tốt thị trường bất động
sản, tất cả các quốc gia trên thế giới đều xây dựng hệ thống pháp luật điều
chỉnh các mối quan hệ của các chủ thể phát sinh trong các hoạt động chuyển
nhượng liên quan đến nhà ở. Đây là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu nhất,
chủ yếu nhất, bởi lẽ pháp luật mang những đặc trưng mà các biện pháp khác
không có được, đó là tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và
tính thích ứng [31]. Pháp luật về chuyển nhượng nhà ở là một lĩnh vực quan
trọng của pháp luật về bất động sản nói chung và pháp luật về nhà ở nói riêng.
Pháp luật về chuyển nhượng nhà ở là công cụ dùng để điều chỉnh quan hệ
phát sinh trong hoạt động giao dịch chuyển nhượng nhà ở, nhằm đảm bảo trật
tự trong lĩnh vực này; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, của Nhà
nước và xã hội. Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là một bộ phận
của pháp luật về chuyển nhượng nhà ở, không chỉ giới hạn ở việc quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, mà còn liên quan đến trình tự,
thủ tục, ràng buộc pháp lý giữa các bên khi giao kết, thực hiện hợp đồng và
các nghĩa vụ pháp lý với Nhà nước. Do đó, có thể hiểu, pháp luật về chuyển
nhượng nhà ở là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở.
Đặc điểm pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Với tích chất riêng có của mình trong lĩnh vực pháp luật bất động sản,
pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở có những đặc trưng sau:
- Pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là lĩnh vực pháp luật tư
nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với lĩnh vực pháp luật công.
Đặc trưng của các lĩnh vực pháp luật tư là liên quan đến quan hệ giữa
các cá nhân, hoặc cá nhân và nhà nước trong quan hệ bình đẳng, tự do thỏa
22. 16
thuận, tự do ý chí của các chủ thể. Hợp đồng là một trường hợp điển hình của
lĩnh vực luật tư. Do hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là một lĩnh vực hợp đồng
nói chung, do đó luôn được pháp luật điều chỉnh dựa trên nguyên tắc tự định
đoạt, tự do thỏa thuận; các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng luôn bình đẳng
về quyền, lợi ích và địa vị pháp lý. Điều này thể hiện ở việc các bên tự do lựa
chọn, thỏa thuận, giao kết hợp đồng.
Trong khi đó Luật công là tổng thể các quy phạm pháp lật điều chỉnh
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và giữa các cá nhân, tổ chức với nhà
nước. Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật công là mệnh lệnh hướng
tới các lợi ích công [28, Tr.44].
Mặc dù, đặc trưng của pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là luật
tư, nhưng do nhà ở là tài sản có giá trị lớn, gắn liền với đất đai - Tài sản thuộc
sở hữu toàn dân, Nhà nước là chủ thể đại diện sở hữu nên các chủ thể phải
tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; chịu sự
quản lý nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính về hình thức của hợp đồng
(phải công chứng, chứng thực), thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở,
quyền sử dụng đất ở gắn liền với nhà ở, các nghĩa vụ tài chính với nhà nước.
Đối với chủ thể kinh doanh cũng phải chịu sự quản lý nhà nước về điều kiện
kinh doanh (vốn). Với nhà ở xã hội, sự ràng buộc về thủ tục, điều kiện chuyển
nhượng, giá chuyển nhượng... Chính vì vậy, pháp luật về hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở luôn có mối quan hệ chặt chẽ giữa pháp luật tư và pháp luật
công.
- Pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở có mối liên hệ mật thiết với
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của các ngành luật khác.
Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở có nhiều được trưng khác biệt các loại
hợp đồng mua bán tài sản khác xuất phát từ vai trò của nhà ở, khác với các
loại hợp đồng mua bán tài sản khác, để nhà ở khi đưa vào kinh doanh đáp ứng
23. 17
các yêu cầu của nền kinh tế thị trường nhưng phải phù hợp với tình hình chế
độ chính trị và đáp ứng các tiêu chí về đạo đức xã hội [28, Tr.43]. Đó chính là
những yêu cầu và quy định đặc thù của chính sách, pháp luật về đất đai. Mặc
dù có tính độc lập nhất định, nhưng pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng
nhà ở có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực pháp luật khác như: Pháp luật dân
sự; Pháp luật đất đai; Pháp luật tài chính - ngân hàng; Pháp luật thuế; Pháp
luật xây dựng....
- Pháp luật hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là sự cụ thể hóa của các
chính sách về quản lý thị trường nhà ở và an sinh xã hội.
Nhà ở là vấn đề quan trọng của mỗi cá nhân, cùng với sự tăng trưởng
nóng của thị trường bất động sản, giá nhà ở cũng "bị đẩy lên cao" khiến cho khả
năng có nhà ở của người dân ngày càng trở lên khó khăn hơn. Chính vì vậy, Nhà
nước phải có các chính sách quản lý thị trường nhà ở để không tạo ra các "cơn
sốt", "bong bóng" thị trường, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, định hướng thị
trường lành mạnh. Các chính sách đó là liên quan mật thiết đến quản lý giao dịch
bất động sản, sàn bất động sản, tài chính ngân hàng, minh bạch về thị trường,
nhà ở xã hội dành cho người có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách... Các
chính sách này, được cụ thể hóa bằng hệ thống các quy định pháp luật về nhà ở,
trong đó có các quy định pháp luật về chuyển nhượng nhà ở với từng nhóm nhà
ở cụ thể.
1.3.2. Vai trò của pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Là công cụ để nhà nước quản lý hoạt động giao dịch nhà ở
Nhà ở là loại tài sản có giá trị lớn tăng dần theo thời gian có thể xem
như một kênh tích lũy vốn trong kinh doanh bên cạnh các việc đầu tư vào
vàng hoặc Đô la.. , do đó Nhà nước quản lý các hoạt động giao dịch chuyển
nhượng nhà ở bằng với công cụ qui định khung pháp lý để bảm đảm an toàn
cho các giao dịch dân sự. Nhà nước sẽ quản lý các hoạt động giao dịch như
24. 18
công chứng, chứng thực hợp đồng chuyển nhượng về nhà ở; đăng ký, cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng; quản lý khung giá; quản
lý biến động; quản lý chủ thể và mục đích sử dụng... Các giao dịch chuyển
nhượng nhà ở phải có sự giám sát của Nhà nước, đặc biệt trong khâu đăng ký
pháp lý. Sự tham gia của Nhà nước vào thị trường bất động sản trong đó có
giao dịch nhà ở bằng các công cụ, qui định khung pháp lý và các yếu tố pháp
luật sẽ làm cho thị trường bất động sản trở nên minh bạch về thông tin, ổn
định và an toàn hơn. Thông qua kiểm soát thị trường nhà ở, Nhà nước tăng
được nguồn thu ngân sách từ thuế đối với các giao dịch bất động sản
Là cơ sở pháp lý để các bên tham gia quan hệ giao dịch thực hiện
nguyên tắc tự do thỏa thuận
Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là một lĩnh vực cụ thể của hợp đồng,
do đó, tự do thỏa thuận là nguyên tắc quan trọng, chi phối toàn bộ quá trình
xây dựng hợp đồng.
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của
luật dân sự. Bằng nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi hội đủ các điều
kiện tư cách chủ thể đều có thể tham gia thực hiện quyền giao kết bất kỳ một
giao dịch hợp đồng dân sự nào phù hợp với nhu cầu và đáp ứng nguyện vọng
của mình. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công
nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của
nhà nước, lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự
công cộng. Vì vậy, sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư,
trong đó có việc kiểm soát sự tự do hợp đồng bằng những giới hạn pháp lý.
Sự kiểm soát nhằm bảo đảm lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội được thực
hiện thống qua quy định bởi pháp luật trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí
của các chủ thể khi tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
nhà ở trên thực tế.
25. 19
Là cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp và xử lý vi phạm
Trong quá trình các bên thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở và
phát sinh bất đồng quan điểm về điều khoản trong hợp đồng để đi đến thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở. Dựa trên khuôn khổ các quy định pháp
luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, các cơ quan chức năng có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp sẽ có cơ sở để xác định tính tuân thủ qui định,
tính phù hợp pháp luật hiện hành của hợp đồng, các hành vi vi phạm liên quan
trong quá trình thực hiện. Đồng thới, các quy định pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở cũng là cơ sở để xử lý hành vi vi phạm.
Bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
Khi hợp đồng chuyển nhượng nhà ở đã có hiệu lực thì sẽ làm phát sinh
các quyền, nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng và các quyền,
nghĩa vụ khác. Trong đó quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được
chuyển giao và quyền nhận giá trị thanh toán của bên chuyển nhượng là quan
trọng nhất. Thông qua các cơ quan chức năng, Nhà nuớc công nhận hợp đồng
và bảo đảm cho quyền sở hữu, quyền sử dụng được chuyển giao nhanh chóng.
Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở cũng là căn cứ pháp lý để các
bên tham gia giao dịch đối chiếu để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình,
kể cả trong trường hợp đồng bị xác định là vô hiệu. Cơ sở đó thể hiện ở việc,
các bên xác định được tính hợp pháp, an toàn của đối tượng hợp đồng cũng
như từng điều khoản của hợp đồng. Việc thực hiện đúng nghĩa vụ của hợp
đồng nhằm hướng đến bảo vệ quyền lợi của các bên. Khi một bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng thì khuôn khổ pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng, chủ
thể đó sẽ bị xử lý để khôi phục quyền lợi cho bên bị vi phạm.
Thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển
Các quy định pháp luật tạo ra sự ổn định cho các quan hệ xã hội về
chuyển nhượng nhà ở. Chính nhờ sự an toàn, ổn định này mà các chủ thể yên
26. 20
tâm tham giao kết hợp đồng. Nhờ vậy, khuyến khích các cá nhân, tổ chức
tham gia thị trường bất động sản. Nhờ vậy tạo nên sự minh bạch, phát triển
theo chiều hướng tích cực của thị trường nhà ở; loại bỏ những yếu tố tiêu cực
như: gian lận, thiếu minh bạch, đầu cơ....
Chỉ khi giá trị của nhà ở là phù hợp với giá cả; nhà ở là đáp ứng nhu
cầu thật sự của người dân, cơ sở pháp lý đảm bảo cho các giao dịch là phù
hợp thì thị trường bất động sản nói chung và thị trường nhà ở nói riêng mới
phát triển ổn định. Vì vậy, Nhà nước phải xây dựng được khuôn khổ pháp lý
phù hợp nhằm bảo vệ, thúc đẩy và lành mạnh hóa các quan hệ pháp lý về giao
dịch nhà ở.
Ổn định quan hệ sở hữu nhà ở, hạn chế rủi ro phát sinh
Pháp luật về chuyển nhượng nhà ở có vai trò quan trọng trong ổn định
quan hệ sở hữu nhà ở và hạn chế tối đa các rủi ro phát sinh khi các bên thực
hiện việc giao dịch. Tuy nhiên, vai trò này chỉ có thể đạt được nếu các quy
định pháp luật là hoàn chỉnh, phù hợp thực tiễn.
Nhờ các chế tài áp dụng với các bên tham gia vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng như: bị phạt cọc (nếu các bên có thỏa thuận), bồi thường thiệt hại, hủy
giao dịch... mà tạo ra sự ổn đinh, trật tự, ý thức tuân thủ pháp luật của các bên,
đồng thời khắc phục những thiệt hại cho bên bị vi phạm; bảo đảm công bằng
xã. Qua đó, góp phần ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản có giá trị lớn là
nhà ở.
Dựa trên khung pháp lý về hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, các chủ thể
biết rõ quyền, nghĩa vụ của mình cũng như những thủ tục cần thiết nhằm xác
lập quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Sự minh bạch hóa thông tin,
yêu cầu trong quản lý hợp đồng và giao dịch chuyển nhượng nhà ở tạo nên sự
vững chắc và an toàn cho quan hệ pháp lý này.
27. 21
1.4. Các nguyên tắc pháp luật về hợp đồng chuyển nhƣợng nhà ở
1.4.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 ưu tiên đề cao tự do ý chí trên cơ sở các
nguyên tắc chung điều chỉnh cho tất cả các giao dịch dân sự, bên cạnh đó có
các quy định của pháp luật chuyên ngành [9, Tr.11-15]. Khoản 2 Điều 3 Bộ
luật dân sự 2015 ghi nhận nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng: "Cá nhân,
pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên
cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối
với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng". Bộ luật Dân sự xác định
nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên
tham gia giao kết hợp đồng trên cơ sở các chủ thể thoả mãn nhu cầu thực tế
vật chất cũng như tinh thần. Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức
đáp ứng đủ điều kiện về chủ thể đều có quyền tự do thỏa thuận và ký kết hợp
đồng.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự đan xen phức
tạp giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, tự do ý chí dường như không giải
quyết ổn thỏa một số giao dịch mà đời sống thực tiễn đặt ra. Vì lẽ đó, tự do ý
chí bị hạn chế bởi công cụ pháp luật hay nói cách khác trong tự do ý chí có
giới hạn của tự do ý chí. Tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng không có nghĩa
là tự do tuyệt đối mà được giải thích phù hợp với hoàn cảnh. Lợi ích của cộng
đồng, của toàn xã hội hay nói đúng hơn chế độ điều hành của nhà nước là yếu
tố ràng buộc sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng ,
các yếu tố này được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội.
Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở là một dạng của hợp đồng dân sự, do
đó nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo
28. 22
đức xã hội. Nguyên tắc này sẽ chi phối mục đích, đối tượng và nội dung của
hợp đồng mà các bên thỏa thuận.
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Khoản 3 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 ghi nhận nguyên tắc: "Cá nhân,
pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình
một cách thiện chí, trung thực". Nguyên tắc này được đặt ra để nhằm bảo đảm
tính trung thực trong việc giao kết hợp đồng, các bên liên quan không ai bị
cưỡng ép , không thực hiện đúng với ý chí của mình; đồng thời nêu bật thực
chất của quan hệ pháp luật dân sự. Chính vì vậy, tùy theo trình độ phát triển xã
hội và sự điều hành của nhà nước mà pháp luật không thừa nhận những hợp
đồng chuyển nhượng được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của
một hoặc bất kỳ chủ thể nào liên quan trong hợp đồng chuyển nhượng. Tuy
nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một hợp đồng bảo đảm ý chí tự nguyện của
các bên liên quan là một công việc khá phức tạp bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Nhà ở luôn là tài sản quan trọng với mỗi cá nhân và gia đình, có giá trị
lớn nên trong thực tiễn không ít trường hợp các bên không trung thực trong
cung cấp thông tin, thậm chí có ý định lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản thông
qua giao dịch chuyển nhượng nhà ở. Việc này đã khiến cho các bên dễ gặp rủi
ro nếu một bên không thiện chí giải quyết các vấn đề phát sinh. Chính vì lẽ
đó, nguyên tắc này có tầm quan trọng đặc biệt để bảo đảm quyền lợi của các
bên, góp phần tạo sự ổn định, trật tự của các giao dịch chuyển nhượng nhà ở
trong thực tế.
1.4.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
- Thực hiện đúng, đầy đủ các thỏa thuận trong hợp đồng
Nguyên tắc chấp hành đúng đòi hỏi các bên phải thực hiện đúng và đầy
đủ tất cả các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng đều phải được thực hiện đầy đủ. Cụ
thể là thực hiện đúng đối tượng, đúng thời gian, đúng phương thức thanh toán
29. 23
và các thoả thuận khác trong hợp đồng.
+ Thực hiện đúng điều khoản về đối tượng của hợp đồng: đối tượng
của hợp đồng chuyển quyền là nhà ở. Do đó, nhà ở chuyển giao phải là nhà ở
thuộc quyền sở hữu của bên chuyển nhượng và đúng với mô tả cụ thể trong
hợp đồng về địa chỉ, diện tích, loại nhà, số tầng, số phòng, chất lượng...
+ Đúng thời gian: là việc thực hiện đúng trách nhiệm về thời gian thanh
toán, bàn giao quyền sở hữu nhà hoặc thực hiện các thủ tục khác nhằm
chuyển giao quyền sở hữu cho bên nhận chuyển nhượng. Việc chậm chễ trong
thời gian thực hiện hợp đồng bên vi phạm có thể phải chịu các biện pháp trách
nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng.
+ Đúng phương thức thanh toán: Thanh toán là nghĩa vụ trả tiền theo
phương thức và thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. Phương thức thanh
toán có thể bằng tiền mặt hoặc séc, uỷ nhiệm thu... Nếu bên có nghĩa vụ thanh
toán mà vi phạm điều khoản này thì bị phạt vi phạm hợp đồng theo mức lãi
suất đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc mức lãi suất tín dụng quá hạn của
ngân hàng Nhà nước kể từ ngày hết hạn thanh toán.
- Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và
các bên cùng đạt mục đích.
Trung thực, thiện chí là một trong những yếu tố nền tảng của việc ký kết
và thực hiện hợp đồng, được ghi nhận và qui định trong pháp luật hợp đồng của
Việt Nam. Pháp luật Việt Nam nói riêng và pháp luật đa số các nước nói chung
không thừa nhận những hợp đồng được giao kết mà thiếu các yếu tố trung thực
và thiện chí của một trong các bên chủ thể liên quan trong hợp đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, các bên có
thể cố ý không thực hiện một cách nghiêm túc các nghĩa vụ đã giao kết. Khi
phát sinh các vấn đề cần giải quyết, một bên không hỗ trợ bên còn lại để bảo
đảm quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất được chuyển giao nhanh
chóng, hợp pháp; khi có tranh chấp với bên thứ ba phát sinh, bên giao kết hợp
30. 24
đồng (thường là bên chuyển nhượng) không có thiện chí phối hợp giải quyết.
Việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong hợp đồng cũng phải trên cơ sở hài
hòa quyền lợi của cả hai bên.
Như vậy, nguyên tắc này có giá trị trong việc ràng buộc trách nhiệm
của các bên trong việc phải trung thực, thiện chí, hợp tác thực hiện trách
nhiệm thực hiện hợp đồng, nhằm tạo ra sự tin cậy lẫn nhau, ổn định và phát
triển thị trường bất động sản ở Việt Nam.
- Không được làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.
Nguyên tắc này đòi hỏi, khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở,
các bên không chỉ tính đến lợi ích của mình, mà còn phải tính đến lợi ích của
các chủ thể khác, lợi ích nhà nước. Nguyên tắc này cũng phù hợp với quy
định tại Khoản 2 Điều 160 Bộ Luật Dân sự năm 2015: "Chủ sở hữu được thực
hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái
với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia,
dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác".
Xuất phát từ nguyên tắc thực hiện hợp đồng không được làm thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
thể khác , trong chuyển nhượng nhà ở, nếu việc chuyển quyền sở hữu ảnh
hưởng đến cuộc sống của những người đang cư trú (chưa có chỗ ở mới) hoặc
chuyển nhượng nhà chưa được phép chuyển nhượng thì vi thực hiện hợp đồng
trái pháp luật sẽ được coi là vi phạm nguyên tắc này.
Kết luận chƣơng 1
Nhà ở là một loại hàng hóa đặc biệt, là đối tượng của hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở. Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở có vai trò, tầm quan trọng đặc
biệt trong đời sống xã hội và sự phát triển của thị trường bất động sản nói
chung, nền kinh tế đất nước nói chung. Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng
nhà ở là một hệ thống khá phức tạp, vừa bao gồm các quy định trực diện quy
31. 25
định về hợp đồng mua bán - chuyển nhượng vừa bao gồm các quy định về bất
động sản, kinh tế, hành chính... trong đó pháp luật dân sự giữ vai trò chủ đạo,
chi phối. Tùy thuộc vào từng loại nhà ở khác nhau mà nội dung hợp đồng
được điều đỉnh bởi các quy định riêng.
Khi giao kết, thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, các bên cần
tuân theo các nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc này vừa là nguyên tắc
chung của hợp đồng dân sự nhưng thể hiện cụ thể trong lĩnh vực nhà ở.
32. 26
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
CHUYỂN NHƢỢNG NHÀ Ở
2.1. Thực trạng pháp luật về chủ thể hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
Điều 7 Luật Nhà ở năm 2014 quy định đối tượng được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam cư trú
ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài. Như vậy, có thể xác định chủ thể
trong hợp đồng chuyển nhượng nhà ở được chia thành hai nhóm chính là cả
cá nhân và tổ chức và phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 về chủ thể.
2.1.1. Chủ thể là cá nhân
Việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng nhà ở được thực hiện giữa các
cá nhân, hộ gia đình, tổ chức. Tùy thuộc vào từng hợp đồng cụ thể mà chủ thể
này có sự khác nhau về điều kiện, vai trò. Vừa với tư cách là bên nhận chuyển
nhượng, nhưng cũng có thể với tư cách là bên chuyển nhượng, các cá nhân
tham gia khá đa dạng vào hợp đồng chuyển nhượng nhà ở. Do đó, đây là chủ
thể chủ yếu và thường xuyên nhất, tham gia vào giao dịch mua bán nhà ở.
Tuy nhiên, không phải bất cứ cá nhân nào cũng đủ điều kiện tham gia vào
quan hệ chuyển nhượng nhà ở. Theo quy định của pháp luật, để trở thành chủ
thể của hợp đồng chuyển nhượng nhà ở, trước hết cá nhân phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi giao kết hợp đồng.
Năng lực pháp luật của cá nhân
Khoản 1, Điều 16, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân như sau: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự". Năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân là khả năng, là yêu cầu đầu tiên, điều kiện cần thiết để
công dân có quyền, có nghĩa vụ; là thành phần không thể tách rời khởi quyền
33. 27
và nghĩa vụ của cá nhân với tư cách chủ thể trong mối quan hệ pháp luật dân
sự. Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật, không ai bị hạn chế, bị
phân biệt đối xử. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra,
không thay đổi với bất kỳ lý do gì, nó gắn liền với sự tồn tại của cá nhân đó
và cũng không tự mất đi, trừ trường hợp cá nhân đó chết hoặc bị Tòa án tuyên
bố chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố chết, mà người bị tuyên bố trở về
và có yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố chết thì vẫn có thể khôi phục
lại năng lực pháp luật. Tuy nhiên, cá nhân có thể bị hạn chế hay bị tước bỏ
một số quyền dân sự như: cấm đảm nhiệm chức vụ quyền hạn, cấm đi khỏi
nơi cư trú, bị quản chế… Nhưng trường hợp này chỉ phát sinh khi cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính và việc hạn chế hay tước
bỏ này chỉ thực hiện theo một thời gian cụ thể theo bản án, quyết định, khi hết
thời hạn đó thì năng lực pháp luật dân sự của các nhân đó vẫn được tiếp tục
thực hiện như các chủ thể khác và vẫn được pháp luật dân sự bảo vệ khi có
các chủ thể xâm phạm. Điều này được ghi nhận tại Điều 18, Bộ luật Dân sự
năm 2015: "năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác".
Trong quan hệ pháp luật chuyển nhượng nhà ở, cá nhân được coi là chủ
thể có quyền tham gia vào giao dịch chuyển nhượng nhà ở cả với tư cách là
bên nhận chuyển nhượng và bên chuyển nhượng. Nhìn chung, pháp luật Việt
Nam không giới hạn nhiều quyền chuyển nhượng nhà ở với tổ chức và cá
nhân. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng loại nhà ở cụ thể mà có thể bị giới hạn
quyền tham gia, chẳng hạn nhà ở xã hội. Đối với điều kiện giao dịch chung,
Khoản 1 Điều 119 Luật Nhà ở năm 2014 quy định về điều kiện của các bên
tham gia giao dịch về nhà ở: "Bên bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, chuyển
nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế
chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở phải có điều
34. 28
kiện sau đây:
a) Là chủ sở hữu nhà ở hoặc người được chủ sở hữu cho phép, ủy
quyền để thực hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật này và pháp
luật về dân sự; trường hợp chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương
mại thì phải là người đã mua nhà ở của chủ đầu tư hoặc người đã nhận
chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở". Như vậy, cá nhân chỉ có thể trở
thành chủ thể tham gia giao dịch chuyển nhượng nhà ở nếu là chủ sở hữu
hoặc người được chủ sở hữu cho phép, ủy quyền thực hiện giao dịch về nhà ở.
Khác với nhà ở thương mại, nhà ở xã hội chỉ dành cho một số đối
tượng nhất định. Theo Điều 51 của Luật Nhà ở năm 2014, đối tượng được
mua nhà ở xã hội là người chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá chật chội; có hộ
khẩu tại địa phương nơi có nhà ở, nếu chưa có hộ khẩu thì phải đăng ký tạm
trú từ 01 năm trở lên. Ngoài ra, các đối tượng nêu trên phải là người có thu
nhập thấp, tức không thuộc diện phải nộp thuế thu nhập cá nhân hoặc phải
thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo theo quy định. Bên cạnh đó, với tư cách là
người chuyển nhượng, cá nhân cũng bị hạn chế quyền chuyển nhượng nhà ở
xã hội. Điều 19 Nghị định 100/2015/NĐ-CP quy định người mua nhà ở xã hội
không được phép thế chấp (trừ trường hợp thế chấp với ngân hàng để mua
chính căn hộ đó) và không được chuyển nhượng nhà ở dưới mọi hình thức
trong tối thiểu 05 năm, tính từ khi trả hết tiền mua theo hợp đồng đã ký. Nếu
chưa đủ 05 năm, kể từ khi trả hết tiền mua, người mua có nhu cầu bán lại nhà
ở xã hội thì chỉ được bán lại cho Nhà nước, cho chủ đầu tư hoặc cho các đối
tượng thuộc diện được mua nhà ở xã hội như nêu trên.
Đối với người nước ngoài muốn tham gia hợp đồng chuyển nhượng nhà ở
tại Việt Nam thì cần thỏa mãn điều kiện nhất định quy định tại Luật Nhà ở năm
2014:
- Trường hợp người nước ngoài muốn thực hiện hợp đồng để mua nhà
ở tại Việt Nam. Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014 quy định đối tượng tổ chức,
35. 29
cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm: "Tổ chức, cá
nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam theo quy
định của Luật này và pháp luật có liên quan; Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ
đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam (sau đây gọi chung là tổ chức nước ngoài); Cá nhân nước ngoài được
phép nhập cảnh vào Việt Nam".
- Trường hợp người nước ngoài muốn thực hiện hợp đồng để bán nhà ở
tại Việt Nam. Theo điểm đ, khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014 quy định
trước khi hết hạn sở hữu nhà ở theo quy định chủ sở hữu có thể tặng cho hoặc
bán nhà ở này cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam;
nếu quá thời hạn được sở hữu nhà ở mà chủ sở hữu không thực hiện bán, tặng
cho thì nhà ở đó thuộc sở hữu nhà nước. Khoản 4, Điều 7 Nghị định số
99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Nhà ở năm 2014: "Trường hợp bán hoặc tặng cho nhà ở cho tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì bên mua,
bên nhận tặng cho được sở hữu nhà ở ổn định lâu dài; Trường hợp bán hoặc
tặng cho nhà ở cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà
ở tại Việt Nam thì bên mua, bên nhận tặng cho chỉ được sở hữu nhà ở trong
thời hạn còn lại; khi hết thời hạn sở hữu còn lại mà chủ sở hữu có nhu cầu
gia hạn thêm thì được Nhà nước xem xét, gia hạn thêm". Khoản 8, Điều 79
Nghị định số 99/2015/NĐ-CP: "Nghiêm cấm tổ chức, cá nhân nước ngoài
mua nhà ở để bán lại nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời". Như vậy, pháp
luật Việt Nam quy định khá chặt chẽ và có phần hạn chế quyền sở hữu nhà ở
của người nước ngoài tại Việt Nam. Họ chỉ được sở hữu nhà có thời hạn và
buộc phải chuyển nhượng lại nhà ở trước khi hết hạn sở hữu. Điểm c, khoản
2, Điều 161, Luật Nhà ở năm 2014 quy định: "Đối với cá nhân nước ngoài thì
36. 30
được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận trong các giao dịch hợp đồng mua bán,
thuê mua, tặng cho nhận thừa kế nhà ở nhưng tối đa không quá 50 năm, kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định
của Chính phủ nếu có nhu cầu; thời hạn sở hữu nhà ở phải được ghi rõ trong
Giấy chứng nhận". Mặc dù quy định về thời hạn sở hữu nhà ở, song, pháp luật
lại không cấm việc một cá nhân nước ngoài sau khi đã bán nhà ở cho tổ chức,
cá nhân trong nước (do hết thời hạn sở hữu), có được mua lại chính nhà ở đó
để được sử dụng thêm 50 năm nữa hay không. Như vậy, quy định về thời hạn
sở hữu cho người nước ngoài, số lần được gia hạn là rất hình thức, có giá trị
hạn chế về thực tế rất thấp. Đây chính là khoảng trống cần phải bổ sung để
đảm bảo quản lý tốt giao dịch chuyển nhượng nhà ở của người nước ngoài tại
Việt Nam góp phần minh bạch, rõ ràng hơn và tạo được niềm tin đối với các
tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Qua đó, thu hút
được nguồn đầu tư của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào lĩnh vực bất động
sản tại Việt Nam.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài, muốn sở hữu căn hộ chung cư thì
chỉ có 02 cách: 1) Đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam theo quy
định của Luật này và pháp luật có liên quan; 2) Mua, thuê mua, nhận tặng
cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng
lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an
ninh theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, tổ chức, cá nhân nước ngoài cần đáp ứng các điều kiện liên
quan để được thực hiện hợp đồng chuyển nhượng và sở hữu nhà ở tại Việt
Nam, cụ thể điều kiện như sau:
- Đối với Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự
án tại Việt Nam theo quy định của Luật nhà ở 2014 và pháp luật có liên quan
thì phải có Giấy chứng nhận đầu tư và có nhà ở được xây dựng trong dự án
37. 31
theo quy định và pháp luật có liên quan.
- Đối với doanh nghiệp có các yếu tố nước ngoài như: có vốn đầu tư
nước ngoài; chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ
đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam thì phải có Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ liên quan đến việc được
phép hoạt động tại Việt Nam do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam cấp.
- Đối với người có quốc tịch nước ngoài thì phải được các cơ quan
chức năng của nhà nước Việt Nam cho phép nhập cảnh vào Việt Nam và
không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo
quy định của pháp luật.
Mặc dù pháp luật quy định quyền được mua nhà, sở hữu nhà ở tại Việt
Nam, song trong thực tế, còn nhiều vướng mắc cần phải tháo gỡ. Cụ thể như
sau:
Thứ nhất, về quyền sử dụng đất của cá nhân nước ngoài.
Luật Nhà ở 2014 cho phép cá nhân có quốc tịch nước ngoài được sở
hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua việc “mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận
thừa kế”. Trong khi đó, Luật Kinh doanh Bất động sản 2014 quy định “việc
mua bán nhà, công trình xây dựng phải gắn với quyền sử dụng đất”. Tuy
nhiên, theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai 2013, thì người nước ngoài
không là đối tượng có quyền sử dụng đất tại Việt Nam. Sự mâu thuẫn và
không nhất quán trong ba văn bản luật nêu trên dẫn đến chưa xác định rõ
được cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam có quyền sử dụng đối với
diện tích đất được dùng để xây nhà ở đó hay không? Nếu không có quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 2013, thì khi bán nhà, làm thế nào để
cá nhân nước ngoài có thể bán nhà ở gắn với quyền sử dụng đất như được quy
định tại khoản 1, Điều 19 Luật Kinh doanh Bất động sản 2014.
38. 32
Thứ hai, về quyền mua nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Khoản 2, Điều 76, Nghị định 99/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nhà ở
2014, quy định: “Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở
tại Việt Nam chỉ được mua, thuê mua nhà ở của chủ đầu tư dự án xây dựng
nhà ở, mua nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại Điểm b
Khoản 4 Điều 7 của Nghị định này và chỉ được nhận thừa kế, nhận tặng cho
nhà ở của hộ gia đình, cá nhân hoặc nhận tặng cho nhà ở của tổ chức trong
số lượng nhà ở theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều này tại các dự án
đầu tư xây dựng nhà ở được phép sở hữu; trường hợp tổ chức, cá nhân nước
ngoài được tặng cho, được thừa kế nhà ở tại Việt Nam nhưng không thuộc
diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì giải quyết theo quy định tại Điều 78
của Nghị định này”.
Từ quy định trên, có thể hiểu, tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ có thể sở
hữu nhà ở tại Việt Nam tại các dự án đầu tư xây dựng nhà ở được phép sở
hữu, hay nói cách khác nhà ở mà tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn sở hữu
phải nằm trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, và không nằm trong
khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật Việt Nam,
và chỉ được phép sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ của một tòa nhà
chung cư, hoặc không quá 10% số lượng nhà ở riêng lẻ (tối đa là 250 căn).
Tuy nhiên, quy định này đặt ra các vấn đề như sau:
- Bộ Quốc phòng và Bộ Công an chưa có bất cứ văn bản nào hướng dẫn
cụ thể và công bố danh mục các khu vực cần bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Do vậy, các cơ quan quản lý chuyên ngành chưa có căn cứ và cơ sở pháp lý
để xác định khu vực nào tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở,
khu vực nào là khu vực cần bảo đảm an ninh và quốc phòng.
- Luật Nhà ở 2014 và Luật Kinh doanh Bất động sản 2014 không cho
phép tổ chức, cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở riêng lẻ ngoài các dự án đầu
39. 33
tư xây dựng nhà ở nhưng lại không quy định rõ việc tổ chức, cá nhân đó có
thể sở hữu nhà ở riêng lẻ ngoài các dự án đầu tư xây dựng nhà ở của các tổ
chức thông qua hình thức mua cổ phần/phần vốn góp hay không? Do vậy, nếu
không có sự liên thông và phối hợp tốt giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền như Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng và Sở Kế hoạch và
Đầu tư, thì tổ chức nước ngoài hoàn toàn có thể sở hữu ngoài dự án đầu tư
xây dựng nhà ở hoặc sở hữu nhiều hơn hạn mức nhà ở được phép sở hữu theo
quy định nêu trên, thông qua việc mua cổ phần/phần vốn góp của các tổ chức
kinh tế đang sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Năng lực hành vi của cá nhân
Cá nhân chỉ có tư cách chủ thể đầy đủ và độc lập khi có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật dân được pháp luật ấn định sẵn
khi cá nhân sinh ra. Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự". Nếu năng lực pháp luật dân sự là
tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả
năng chủ quan của chính chủ thể để thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp luật đã
quy định và tự chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Trong giao dịch chuyển nhượng nhà ở, điều kiện bắt buộc để trở thành
chủ thể với tư cách bên chuyển nhượng là cá nhân thì phải có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, nghĩa là phải từ đủ 18 tuổi trở lên, không thuộc các trường
hợp mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc là
người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Đối với trường hợp để
thực hiện quyền của người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
thì sẽ phải thông qua người đại diện. Để cụ thể hóa về năng lực hành vi
chuyển nhượng nhà ở, Điều 119 Luật Nhà ở năm 2014 quy định về điều kiện
40. 34
bên bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán
nhà ở thương mại, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn,
cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở phải có điều kiện sau đây:
- Nếu là cá nhân thì phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để thực
hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của pháp luật dân sự; nếu là tổ chức thì
phải có tư cách pháp nhân, trừ trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa,
nhà tình thương.
- Bên mua, thuê, thuê mua nhà ở, bên nhận nhà ở thương mại, nhận đổi,
nhận tặng cho, nhận thừa kế, mượn, ở nhờ, được ủy quyền quản lý nhà ở (các
bên liên quan trong việc thực hiện giao kết hợp đồng chuyển nhượng hợp
đồng mua bán nhà ở) là cá nhân thì phải có điều kiện sau đây:
+ Nếu là cá nhân trong nước thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự để
thực hiện các giao kết hợp đồng về nhà ở theo quy định của pháp luật dân sự
và không bắt buộc phải có đăng ký thường trú tại nơi có nhà ở được giao dịch;
+ Nếu là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao kết hợp đồng về nhà
ở theo quy định của pháp luật Việt Nam, phải thuộc đối tượng được sở hữu
nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật này và không bắt buộc phải có
đăng ký tạm trú hoặc đăng ký thường trú tại nơi có nhà ở được giao dịch.
Như vậy, pháp luật mới chỉ có giới hạn về điều kiện giao dịch với bên
bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở
thương mại, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở
nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở mà chưa có quy định về điều kiện tham gia giao
dịch với bên nhận chuyển nhượng nhà ở. Điều này sẽ khiến cho các quy định
về chủ thể trong hợp đồng mua bán nhà ở còn chung chung và chưa cụ thể.
2.1.2. Chủ thể là pháp nhân
Pháp nhân được công nhận là một chủ thể độc lập tham gia vào quan hệ
41. 35
pháp luật dân sự. Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 mô tả các dấu hiệu (điều
kiện) của một tổ chức có tư cách pháp nhân là:
+ Được thành lập theo quy định của pháp luật. Việc thành lập pháp
nhân có thể theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân (đăng ký thành lập, đăng
ký thay đổi và đăng ký khác theo quy định của pháp luật) hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền một cách công khai.
+ Có cơ cấu tổ chức gồm: cơ quan điều hành với tổ chức, nhiệm vụ và
quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ
của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; cơ quan khác theo
quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
+ Có tài sản riêng và không phụ thuộc với cá nhân, pháp nhân khác và
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình.
+ Nhân danh mình tham gia nhiều quan hệ pháp luật khác nhau một
cách độc lập.
Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ
pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa
vụ dân sự do pháp luật quy định phù hợp với điều lệ của pháp nhân. Pháp
nhân không nhân danh chủ thể khác mà phải nhân danh chính mình khi tham
gia quan hệ pháp luật dân sự. Pháp nhân có thể là bị đơn, nguyên đơn trước
toà án.
Hoạt động của pháp nhân phải thông qua hành vi những cá nhân -
người đại diện của pháp nhân. Hành vi của những cá nhân này không phải tạo
ra quyền và nghĩa vụ cho họ mà nhân danh pháp nhân tạo ra các quyền và
nghĩa vụ cho pháp nhân đó. Đại diện của pháp nhân được thực hiện dưới hai
hình thức:
+ Đại diện theo pháp luật (đại diện đương nhiên). Người đại diện của
pháp nhân có quyền nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì
42. 36
hoạt động của pháp nhân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ quy định (kí kết
các hợp đồng và thực hiện các giao dịch khác).
+ Đại diện theo uỷ quyền: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân
có thể uỷ quyền cho người khác thay mình, nhân danh pháp nhân thực hiện
các giao dịch; có thể uỷ quyền cho cá nhân là thành viên của pháp nhân hoặc
cá nhân khác; có thể uỷ quyền cho một pháp nhân khác giao kết, thực hiện các
giao dịch. Người được uỷ quyền thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm
quyền được xác lập theo văn bản uỷ quyền và chỉ được uỷ quyền lại nếu
người uỷ quyền đồng ý. Văn bản uỷ quyền phải xác định r thẩm quyền của
người được uỷ quyền, nội dung và thời hạn uỷ quyền. Việc ủy quyền có thể là
thường xuyên (người đứng đầu ủy quyền cho cấp phó của mình) hoặc theo vụ
việc.
Pháp nhân khi tham gia giao dịch chuyển nhượng nhà ở có thể với tư
cách là bên nhận chuyển nhượng, nhưng cũng có thể là với tư cách là bên
chuyển nhượng. Tuy nhiên, trong thực tế, pháp nhân tham gia giao dịch
chuyển nhượng nhà ở chủ yếu với tư cách bên bán. Trong thực tế pháp nhân
có chức năng kinh doanh bất động sản tham gia vào các giao dịch mua bán
nhà ở với tư cách là chủ thể kinh doanh. Các pháp nhân tham gia vào các dự
án nhà ở có từ các khâu như đấu thầu dự án, xây dựng căn hộ, nhà liền kề,
phục vụ nhu cầu để ở, làm văn phòng, kinh doanh thương mại, cho thuê, trao
đổi….
Theo quy định tại Điều 119 Luật Nhà ở năm 2014 thì bên bán, cho
thuê, cho thuê mua nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương
mại, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ
quyền quản lý nhà ở nếu là tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân, trừ trường
hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương. Bên mua, thuê, thuê
mua nhà ở, bên nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại,
nhận đổi, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận thế chấp, nhận góp vốn, được ủy
43. 37
quyền quản lý nhà ở là tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân và không phụ
thuộc vào nơi đăng ký kinh doanh, nơi thành lập; trường hợp là tổ chức nước
ngoài thì phải thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định;
nếu tổ chức được ủy quyền quản lý nhà ở thì phải có chức năng kinh doanh
dịch vụ bất động sản và đang hoạt động tại Việt Nam theo quy định của pháp
luật về kinh doanh bất động sản. Điều 10, Luật Kinh doanh bất động sản năm
2014 quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản thì:
Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc
hợp tác xã và có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng.
Như vậy, pháp nhân được coi là chủ thể của hợp đồng chuyển nhượng
nhà ở khi thỏa mãn quy định của pháp luật về năng lực pháp luật. Khi tham
gia giao dịch, pháp nhân phải thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc
người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền hợp pháp. Trong trường
hợp này, người đại diện theo pháp luật không phải là chủ thể của hợp đồng
chuyển nhượng nhà ở mà chỉ là người nhân danh pháp nhân, thay mặt pháp
nhân ký kết, thực hiện hợp đồng; pháp nhân là chủ thể chịu sự ràng buộc
nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.
Nói đến pháp nhân, không thể không nhắc đến pháp nhân đặc biệt
(pháp nhân công quyền) đó chính là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong quản lý lĩnh vực đất đai, nhà ở. Đối với hợp đồng chuyển nhượng nhà ở,
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đại diện cho nhà nước tham gia vào
hoạt động mua bán nhà ở nhằm thực hiện chính sách nhà ở theo chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước đó như mua bán nhà cho công nhân, viên
chức, cán bộ nhà nước để ở, phục vụ công tác như các khu nhà ở cho cán bộ,
công nhân viên chức, dự án nhà ở cho người thu nhập thấp. Đây là chủ thể
đặc biệt so với các chủ thể khác khi tham gia vào hợp đồng mua bán nhà ở.
Về thực tế Nhà nước thường có vai trò là bên bán nhà ở, đó là việc “hóa
giá” nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước cho người đang sử dụng thực tế nhà ở
44. 38
đó. Nhà ở đó phải đang được sử dụng, không có tranh chấp. Trong trường hợp
bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước thì bên bán phải là Giám đốc công ty kinh
doanh nhà ở thuộc ngành nhà đất cấp tỉnh, chủ tịch hoặc phó chủ tịch ủy ban
nhân dân cấp thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, huyện, hiện đang quản lý nhà
ở đó.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng nhà ở hình thành trong tương lai,
điều kiện chủ đầu tư được giao kết hợp đồng được quy định rất rõ tại Điểm b,
Khoản 2, Điều 19 Nghị định 99/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở,
theo đó trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của chủ
đầu tư, Sở Xây dựng phải kiểm tra hồ sơ; nếu hồ sơ có đủ giấy tờ theo quy
định tại điểm này thì Sở Xây dựng phải có văn bản thông báo nhà ở đủ điều
kiện được bán, cho thuê mua gửi chủ đầu tư; nếu hồ sơ chưa có đủ giấy tờ
theo quy định thì phải có văn bản nêu r lý do. Trường hợp chủ đầu tư đã gửi
hồ sơ nhưng quá thời hạn quy định tại điểm này mà Sở Xây dựng không có
văn bản thông báo và nhà ở đó đã đủ điều kiện được bán, cho thuê mua thì
chủ đầu tư được quyền ký hợp đồng mua bán, cho thuê mua nhà ở hình thành
trong tương lai nhưng phải chịu trách nhiệm về việc bán, cho thuê mua nhà ở
này; Sở Xây dựng phải chịu trách nhiệm về việc thông báo hoặc không có văn
bản thông báo nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua sau khi nhận được
hồ sơ đề nghị của chủ đầu tư.
Trên đây là những phân tích về điều kiện chủ thể của hợp đồng mua bán
nhà ở, mỗi chủ thể có những đặc điểm riêng biệt để tạo lên tính có hiệu lực của
hợp đồng. Mỗi chủ thể tham gia giao dịch mua bán phải đáp ứng được những
điều kiện ban đầu và cũng là kiên quyết đó để tạo ra tính pháp lý riêng cho mỗi
chủ thể.
Hình thức là một yếu tố pháp lý rất quan trọng của hợp đồng trong khi
thực hiện giao kết, có quan hệ biện chứng với các yếu tố khác như : bản chất,