SlideShare a Scribd company logo
1 of 81
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
Nhận Viết Thuê Luận Văn
Điểm Cao – Chất Lượng
Uy Tín – Đúng Hẹn
Zalo trao đổi : 0932.091.562
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ trung thực,
chính xác và tin cậy.
Trân trọng cảm ơn.
Tác giả luận văn
NGUYỄN VIẾT THÁI
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Văn Cừ - Giảng viên
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện khóa luận này.
Đồng cảm ơn các Thầy, Cô Trường Đại học Luật Hà Nội – những người đã
truyền đạt những kiến thức quý báu trong quá trình em học tập và rèn luyện tại
trường.
Cảm ơn gia đình và bạn bè luôn ủng hộ và động viên em.
Tác giả luận văn
NGUYỄN VIẾT THÁI
CHƯƠNG 2:
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn...................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..........................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài..............................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài..........................................................3
6. Kết cấu của luận văn.....................................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA
LY HÔN..............................................................................................................................5
1.1. Khái niệm ly hôn, một số quan điểm và bản chất pháp lý về ly hôn....................5
1.1.1. Khái niệm ly hôn và một số quan điểm về ly hôn................................................5
1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn..................................................................................6
1.2. Khái quát chung về hậu quả pháp lý của ly hôn.....................................................9
1.2.1. Khái niệm hậu quả pháp lý của ly hôn..................................................................9
1.2.2. Khái lược quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam.
................................................................................................................................... 10
1.2.2.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945. .....................................................................................................10
1.2.2.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm
1945 đến năm 1975..........................................................................................................13
1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình
của Nhà nước ta từ năm 1975 đến nay..........................................................................18
1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về hậu quả của ly hôn...........................19
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 ................................................................................21
2.1. Về quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân giữa vợ chồng sau khi ly hôn).........21
2.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn......................................................................22
2.2.1. Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.......................24
2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng .....................................................................26
2.2.3. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng......................................................................30
2.2.3.1. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng................................................................30
2.2.3.2. Chia tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn. ...................................................31
2.3. Một số trường hợp cụ thể........................................................................................33
2.3.1. Nhà ở; Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng...............................33
2.3.2. Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng..................................40
2.4. Giải quyết vấn đề cấp dưỡng vợ chồng khi ly hôn................................................41
2.4.1. Cơ sở của việc quy định về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi
ly hôn.................................................................................................................................41
2.4.2. Điều kiện cần và đủ để giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.........42
2.4.3. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn......................44
2.4.3.1. Mức cấp dưỡng...................................................................................................44
2.4.3.2. Về thời hạn cấp dưỡng.......................................................................................45
2.4.3.3. Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng..............................................46
2.4.3.4. Thay đổi vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn.............................47
2.4.3.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn.................47
2.5. Quan hệ giữa cha mẹ và con khi vợ chồng (với tư cách là cha mẹ của con) ly
hôn. ....................................................................................................................................48
2.5.1. Nguyên tắc chung để giải quyết hậu quả pháp lý đối với con khi cha mẹ (vợ
chồng) ly hôn theo Điều 92, 93, 94 Luật HN&GĐ năm 2000.....................................48
2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con......................................................................................................................49
2.5.3. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người không trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con.........................................................................................................51
2.5.4. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng khi ly hôn.............52
2.5.4.1. Về đối tượng (Con) được cấp dưỡng................................................................52
2.5.4.2. Về mức cấp dưỡng nuôi con, giáo dục con......................................................53
2.5.4.3. Về thời hạn và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con........54
2.5.4.4. Vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con (Điều 93 Luật
HN&GĐ năm 2000).........................................................................................................54
THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN .. 56
3.1. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về hậu quả pháp lý
của ly hôn..........................................................................................................................56
3.1.1. Nhận xét chung.......................................................................................................56
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIÉN NGHỊ NHẰM HOÀN
CHƯƠNG 3:
3.1.2. Một số trường hợp cụ thể.....................................................................................58
3.1.2.1. Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn............................................58
3.1.2.2. Về chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn. .......................................59
3.1.2.3. Về tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn........................................................61
3.1.2.4. Về cấp dưỡng giữa vợ chồng với nhau khi ly hôn..........................................63
3.1.2.5. Về quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn. .....................................................64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý
của ly hôn..........................................................................................................................66
3.2.1. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn (nếu có
tranh chấp )......................................................................................................................66
3.2.2. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn......................................................67
3.2.3. Vấn đề thời điểm cấp dưỡng và mức cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi vợ
chồng ly hôn......................................................................................................................68
3.2.4. Về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con khi ly hôn.........................................68
3.2.5. Giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn cần được xem xét trên cơ sở “lỗi” của
vợ, chồng...........................................................................................................................69
3.2.6. Công tác xét xử và tổng kết công tác xét xử của Tòa án...................................69
KẾT LUẬN.......................................................................................................................71
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
HN&GĐ................................................ Hôn nhân và gia đình.
BLDS.................................................... Bộ luật Dân sự.
TAND................................................... Tòa án nhân dân.
TANDTC.............................................. Tòa án nhân dân Tối cao.
XHCN................................................... Xã hội chủ nghĩa.
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.............. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03.10.2001 của Chính phủ về việc thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình Việt
nam năm 2000.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP....... Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23.12.2000 của TANDTC hướng
dẫn áp dụng một số quy định của luật
HN&GĐ Việt nam năm 2000.
Sắc lệnh số 97/SL................................. Sắc lệnh số 97/SL ngày 22.5.1950 của
Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng
hòa sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật.
Sắc lệnh số 159/SL............................... Sắc lệnh số 159/SL ngày 17.11.1950
của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ
cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn.
Nghị quyết số 35/2000/QH10-NQ........ Nghị quyết số 35/2000/QH10-NQ
ngày 09.6.2000 của Quốc hội về việc
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000.
Nghị quyết số 01/1988.......................... Nghị quyết số 01 ngày 20.01.1988 của
HĐTP/TANDTC- hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật HN&GĐ
năm 1986.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường
quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành
trang để họ hòa nhập với cuộc sống xã hội. Kết hôn là cơ sở, là tiền đề để xác lập quan
hệ vợ chồng và quan hệ gia đình theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng gia đình
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Ngược lại, ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ
chồng trước pháp luật. Hậu quả pháp lý của ly hôn làm chấm dứt quan hệ nhân thân
giữa vợ chồng trước pháp luật và hàng loạt vấn đề về thanh toán tài sản vợ chồng, nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng, chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Những vấn đề đó có
tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích của các bên trong gia đình cũng như sự ổn
định của xã hội. Vì vậy, cần phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật mà cụ thể là pháp luật
về hôn nhân và gia đình để có thể hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà ly hôn
mang lại.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ngày càng gia
tăng đã ảnh hưởng ít nhiều tới mục tiêu xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh
phúc và bền vững. Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao thì số vụ án ly
hôn ngày càng tăng cao. Mặc dù, Luật HN&GĐ hiện hành có quy định khá chi tiết về
vấn đề ly hôn để hạn chế thấp nhất những hậu quả đáng tiếc mà ly hôn để lại cho gia
đình và xã hội, đặc biệt là tình trạng nhiều thanh thiếu niên phạm tội do sinh ra và lớn
lên trong những gia đình bị ly tán; Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này vào thực
tiễn xét xử còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc… Vì vậy việc giải quyết tranh chấp
liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp về chia tài sản vợ chồng,
giải quyết vấn đề cấp dưỡng và chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đang trở thành một
vấn đề mà cả xã hội quan tâm.
Hậu quả pháp lý của ly hôn là vấn đề đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
nhưng cho đến nay thì vẫn luôn mang tính thời sự và thu hút sự quan tâm của toàn xã
hội. Đề tài “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000” được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ; với mong muốn đóng góp những
ý kiến của bản thân cho việc hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết những hậu quả pháp lý của ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của
2
pháp luật để giải quyết những tranh chấp sau ly hôn, góp phần ổn định chế độ hôn nhân
và gia đình xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu pháp luật về Hậu quả pháp lý của ly hôn là một mảng đề tài được khá
nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học Luật nói chung và
Luật HN&GĐ nói riêng, hậu quả pháp lý của ly hôn là một cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên liên quan khi ly hôn.
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác
nhau, đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hậu quả pháp lý của ly hôn như sau:
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình
luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia Đình Việt Nam, tập 1, NXB Trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh. Tưởng Duy Lượng (2001), Bình luận một số án Dân sự và Hôn nhân và gia
đình, NXB chính trị Quốc gia Hà nội. Đinh thị Mai Phương (2006) Bình luận khoa học
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Nguyễn Văn
Cừ và Ngô Thị Hường (2002) Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia
đình Việt nam, NXB Công an Nhân dân, Hà nội.
Ngoài ra còn một số Giáo trình và Bình luận khoa học về Luật HN&GĐ; Hầu hết
các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp
luật HN&GĐ về nhân thân hoặc về tài sản, về cấp dưỡng nói chung giữa vợ chồng sau
khi ly hôn, ít đề cập thực tiễn việc áp dụng và thi hành các quy định của pháp luật về
vấn đề trên.
Nhóm luận văn, luận án chuyên ngành Luật: Một số công trình nghiên cứu
khoa học tiêu biểu như: Chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật HN&GĐ Việt năm
2000, Luận án Tiến sĩ luật học, Nguyễn Văn Cừ (2004) Trường Đại học Luật Hà nội.
Luận án Thạc sỹ Luật học: Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo
Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000 của Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Luật Trường Đại học
Quốc gia năm 2008... Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp
của Hồ Thị Nga (2007)...
3
Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hậu quả
pháp lý của ly hôn nhưng các công trình đó hoặc chủ yếu tập trung về một mảng cụ thể
của mối quan hệ này như về nhân thân hoặc nghiên cứu dưới góc độ tranh chấp tài sản
hoặc về cấp dưỡng sau khi ly hôn. Chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện và
đầy đủ về các hậu quả pháp lý của ly hôn theo luật HN&GĐ Việt nam 2000.
Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu đầy đủ và toàn diện
về những “hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000” cho
luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Với đề tài “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000”, Luận văn được xây dựng nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn
- Tìm hiểu một cách có hệ thống và hoàn chỉnh những quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam mà trọng tâm chính là Luật HN&GĐ năm 2000 về hậu quả pháp lý của ly
hôn
- Trên cơ sở những tìm hiểu về lý luận và những quy định của pháp luật cũng như tìm
hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về ly hôn để giải quyết những hệ quả của ly hôn ở
Việt Nam, luận văn mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về hậu quả pháp lý của ly hôn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Trong giới hạn cho phép về dung lượng, đề tài tập trung đi vào làm rõ những vấn
đề lý luận trực tiếp về vấn đề ly hôn và những hậu quả pháp lý cũng như những quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của ly hôn; nêu và phân tích
được những điểm còn hạn chế của pháp luật, từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện
pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam (Phạm vi nghiên cứu không đề cập đến
ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn có yếu tố nước ngoài ).
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong đề tài bao gồm phương pháp phân tích
4
để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu; phương pháp so sánh, phương pháp
tổng hợp…nhằm đánh giá sự phù hợp của pháp luật Việt Nam để điều chỉnh vấn đề hậu
quả pháp lý của ly hôn; phương pháp thống kê, tổng hợp nhằm nhận định và đánh giá
thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn để giải quyết
vấn đề ly hôn trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam…
6. Kết cấu của luận văn.
Kết cấu luận văn ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia làm ba chương:
Chương 1. Khái quát chung về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn
Chương 2. Nội dung các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn.
Trong khuôn khổ đề tài luận văn tốt nghiệp với thời lượng nghiên cứu và trình
độ còn hạn hẹp, chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp đánh giá của thầy, cô giáo để luận văn của em được
hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN
1.1. Khái niệm ly hôn, một số quan điểm và bản chất pháp lý về ly hôn.
1.1.1. Khái niệm ly hôn và một số quan điểm về ly hôn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn
nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu của quan hệ hôn
nhân. Khi đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu
sắc, mục đích hôn nhân không đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng
cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình thoát khỏi những xung đột, bế
tắc trong đời sống chung. Vì khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất
quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì: “Tự do ly hôn không có nghĩa là
làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối liên hệ đó
trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong xã hội
văn minh”.
Vấn đề ly hôn, được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác
nhau. Một số nước cấm ly hôn như Anđôna, Manta, Paragoat,… có nước lại đặt ra các
quy định hết sức nghiêm ngặt như Achentina, Italia ... Nhưng việc cấm hay hạn chế ly
hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân, V. I Lênin đã khẳng định: “người ta
không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ không đòi
quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới
bị áp bức, đối với phụ nữ. Tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng
khi ta thừa nhận cho phụ nữ tự do bỏ chồng không có nghĩa là ta khuyên tất cả họ bỏ
chồng.” [41]
Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà chỉ có vợ, chồng
hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, quyền ly hôn của vợ,
chồng phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật nhằm hạn chế,
ngăn chặn những hiện tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu
cho gia đình và xã hội. Đứng trên lập trường quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, khoản
8 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) năm 2000 quy định: “ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ
hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng” [2]. Như vậy, ly hôn là kết quả của hành vi có ý
chí của hai vợ chồng và được công nhận bằng bản án, quyết định của Tòa án. Đảm bảo
6
quyền tự do ly hôn cho các bên vợ chồng chính là nội dung quan trọng của nguyên tắc
hôn nhân tiến bộ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 [1, Điều 64] và được cụ thể
hóa tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000 [2]. Nhưng tự do ly hôn không có nghĩa là ly
hôn một cách tùy tiện, theo ý chí nguyện vọng của vợ chồng mà phải dựa trên những
căn cứ luật định và trên cơ sở đó Tòa án mới xử cho ly hôn. Theo quy định tại khoản 1
Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 thì căn cứ ly hôn là khi quan hệ vợ chồng đã ở vào
“tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không
đạt được” thì Tòa án sẽ xem xét yêu cầu giải quyết cho ly hôn. Ngoài ra, trong trường
hợp đặc biệt“vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn” [2, khoản 2 Điều 89]. Tuy nhiên, ly hôn trong trường hợp này
chỉ là quyết định của một bên vợ, chồng trong hoàn cảnh đặc biệt mà không phát sinh
từ mâu thuẫn của vợ chồng trong đời sống thực tế. Như vậy, căn cứ ly hôn theo quy
định của Luật HN&GĐ năm 2000 vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng vừa
thể hiện tư tưởng phê phán của các nhà làm luật về việc ly hôn tùy tiện.
1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn.
Cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, hôn nhân trong đó có ly hôn
là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị, do đó với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử lại hình thành một hệ
thống pháp luật dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong xã hội. Với tư cách là
một trong những quan hệ chủ đạo trong xã hội, quan hệ HN&GĐ cũng chịu sự chi phối
sâu sắc của hệ tư tưởng đó.
Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ
quyền gia trưởng của người đàn ông, với quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô”. Theo đó, pháp luật và các tục lệ phong kiến ở Việt Nam có nhiều quy phạm mang
tính luân lý đặc biệt là các quy phạm về HN&GĐ phản ánh những đặc quyền của người
đàn ông, còn người phụ nữ phải sống theo thuyết “tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê và
những quy định nghiêm khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân
chân chính, khiến nó trở thành thứ xiềng xích trói buộc người phụ nữ trong những nghi
lễ bất bình đẳng. Ở đó, cuộc đời họ gắn liền với công việc gia đình, với chồng con và bị
chi phối bởi nguyên tắc “phu xướng phụ tùy” nên họ không có quyền quyết định bất kì
việc gì, ngay cả việc bảo toàn hạnh phúc riêng tư cũng không được đảm bảo.
7
Như vậy, pháp luật phong kiến, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo
vệ quyền lợi tối cao của người gia trưởng nên quyền tự do ly hôn của người phụ nữ
không được đảm bảo. Nhưng pháp luật lại trao cho đàn ông quyền được ly hôn khi vợ
phạm vào điều “nghĩa tuyệt” và chỉ khi thuộc trường hợp “tam bất khứ” thì quyền ly
hôn người vợ của người chồng mới bị hạn chế như: Vợ đã để tang nhà chồng ba năm,
trước khi cưới nghèo sau giàu,… Như vậy, những quy định đó đã không nói lên bản
chất thật sự của ly hôn mà nó chỉ là một thứ công cụ bảo vệ cho lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội.
Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, các quy định của pháp luật chịu ảnh hưởng sâu sắc
của tư tưởng cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng. Các luật gia tư sản cho rằng tự do ly
hôn phải được thừa nhận như một quyền pháp định và đưa ra các quy định nhằm đảm
bảo quyền tự do ly hôn. Song, trên thực tế đó chỉ là quy định mang tính hình thức, thực
chất khi ly hôn họ vẫn bị ràng buộc bởi các quy định ngăn cấm của nhà làm luật: “dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa quyền ly hôn cũng như tất cả các quyền dân chủ khác, không
loại trừ quyền nào đều không thể thực hiện một cách dễ dàng, nó lệ thuộc vào nhiều
điều kiện, bị giới hạn, bị thu hẹp và có tính chất hình thức”.
Quan hệ HN&GĐ trong xã hội tư sản thường được coi như là một khế ước, một
hợp đồng dân sự mà khi có bất kì hành vi nào vi phạm hợp đồng ấy thì bên đối tác có
thể đặt vấn đề chấm dứt hôn nhân. Theo đó, ly hôn thường căn cứ vào lỗi của một bên
đương sự nên không thể hiện được bản chất thực sự của ly hôn. Vì vậy, bản chất pháp
lý của ly hôn trong pháp luật HN&GĐ phong kiến và tư sản không được xem xét, đánh
giá một cách sâu sắc và toàn diện.
Đối lập với pháp luật phong kiến và tư sản, dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) pháp luật đã thể hiện tính ưu việt của nó ở mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề ly
hôn. Đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN
không coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự hay một khế ước dân sự mà coi hôn nhân là
sự tự nguyện của hai bên nam - nữ, là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Bởi nó
được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính của hai bên nam - nữ nhằm xây dựng gia
đình hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, tính chất suốt đời của hôn nhân cũng có trường
hợp ngoại lệ. Nghĩa là sau khi kết hôn, trong thời gian chung sống giữa vợ chồng phát
sinh mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy
trì cuộc sống chung thì pháp luật cho phép họ chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Như
8
vậy, bản chất của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật.
Pháp luật của nhà nước XHCN công nhận và tôn trọng quyền tự do ly hôn chính
đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự
do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi ý chí
của vợ chồng khi thực hiện quyền tự do ly hôn. Nhà nước bằng pháp luật không thể
cưỡng ép nam nữ yêu nhau và kết hôn với nhau thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng
sống phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó không còn, mục
đích của cuộc hôn nhân đã không đạt được. Khi ấy, ta không thể nhìn nhận ly hôn đơn
thuần chỉ là mặt tiêu cực, mà cần phải nhận thức được rằng nó là mặt trái nhưng là mặt
không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân. Vì cho phép các bên ly hôn là giải pháp
mở ra lối thoát cuối cùng, giải phóng cho vợ chồng, các con cũng như các thành viên
trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống chung. Bởi thực
chất “ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã
chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối”. Nếu như cuộc hôn nhân đã thực sự
tan vỡ và ly hôn đã trở thành mong muốn của vợ chồng thì việc ghi nhận quyền tự do ly
hôn là hoàn toàn chính đáng thể hiện tính chất dân chủ và nhân đạo của pháp luật
XHCN. Hõn nữa, cũng cần phải ghi nhận rằng, tự do ly hôn là một quyền cơ bản và
bình đẳng giữa vợ và chồng, bởi đây là quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mục đích của việc xác lập quan hệ hôn
nhân là xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, bền vững và hạnh phúc. Nhưng vì lí do
nào đó mà giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, khiến cho tình nghĩa vợ
chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài được nữa thì ly hôn là biện pháp
cần thiết để giải phóng cho họ. Khi xây dựng Luật HN&GĐ năm 1959, đồng chí Xuân
Thủy đã phân tích: “hôn nhân bao gồm hai mặt: tự do kết hôn và tự do ly hôn. Tự do ly
hôn không có nghĩa là ly hôn bừa bãi, ly hôn là biện pháp giải phóng một tình trạng
trầm trọng làm cho đôi vợ chồng không thể sống chung được nữa”.
Như vậy, bản chất pháp lý của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã
hết, mục đích của hôn nhân không đạt được. Luật HN&GĐ phong kiến và tư sản
thường quy định việc ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng, vấn đề xét xử ly hôn của
Tòa án là việc làm có tính thụ động, hoàn toàn do ý chí của các bên đương sự nên mới
9
chỉ dừng lại ở mặt hiện tượng mà chưa nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của vấn đề
ly hôn. Chỉ dưới chế độ XHCN, các nhà làm luật mới nhìn nhận ly hôn theo đúng thực
trạng và bản chất của cuộc hôn nhân để xem xét và quyết định hợp tình, hợp lý.
1.2. Khái quát chung về hậu quả pháp lý của ly hôn.
Việc Toà án nhân dân xét xử cho ly hôn do một bên yêu cầu hoặc công nhận
thuận tình ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định cho vợ chồng và con cái.
Do đó, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng tất yếu sẽ kéo theo nhiều vấn đề cần
giải quyết trong quá trình tiến hành xét xử, đó là:
- Quan hệ vợ chồng về nhân thân chấm dứt trước pháp luật.
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng chấm dứt và tài sản chung được chia cho mỗi
bên vợ, chồng sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người.
- Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn được đặt ra nếu một bên vợ hoặc
chồng túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng và có lý do chính đáng.
- Nếu vợ chồng đã có con chung thì phải giải quyết việc giao con cho ai trông
nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, đồng thời giải quyết vấn đề đóng góp
phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong Luật HN&GĐ không có điều nào quy định cụ thể về việc chấm dứt quan hệ
nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn. Nhưng thông thường khi ly hôn thì quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng không liên quan gì đến nhau, dù hai bên có thoả thuận hay
không thoả thuận thì Toà án cũng sẽ quyết định và việc chấm dứt quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng được tính từ khi bản án của Toà án có hiệu lực. Đồng thời luật cũng
không quy định hạn chế việc kết hôn xây dựng hạnh phúc mới của vợ chồng sau khi đã
ly hôn, mỗi bên đều có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên việc quyết định cho ly
hôn hoặc công nhận thuận tình ly hôn giữa hai vợ chồng không có nghĩa là giải phóng
họ khỏi các quyền và nghĩa vụ khác như: nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau và đặc biệt là
quyền và nghĩa vụ đối với con cái, đó chính là trách nhiệm và vinh dự của người làm
cha, làm mẹ, Toà án phải giải thích cho họ biết và thấy được những quyền và nghĩa vụ
của họ đối với con cái họ ngay cả khi đã ly hôn.
1.2.1. Khái niệm hậu quả pháp lý của ly hôn.
10
Là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, pháp luật không chỉ chịu sự ảnh hưởng
bởi cơ sở hạ tầng sinh ra nó mà các yếu tố như tâm lý xã hội, phong tục tập quán, bản
sắc dân tộc, … đều ảnh hưởng sâu sắc tới pháp luật và cũng chỉ đạt đến độ ấy pháp luật
mới thực sự là những quy phạm có sức sống. Luật HN&GĐ Việt Nam đặt dưới sự phát
triển của xã hội, ở mỗi thời kì lịch sử không những phản ánh đúng quy luật này mà nó
còn mang đậm bản sắc, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp đã nảy sinh từ rất sớm trong xã hội có
giai cấp. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến
hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến lợi ích của vợ chồng, các con và lợi ích xã hội.
Về mặt pháp lý, khi Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn dẫn tới các hậu quả
sau:
+ Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng: Quan hệ vợ chồng được chấm dứt.
+ Chia tài sản chung của vợ chồng.
+ Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi cha mẹ ly hôn.
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.
Như vậy, Hậu quả pháp lý của ly hôn là những nội dung sự việc mà Tòa án phải
giải quyết khi xét xử cho vợ chồng ly hôn, bao gồm: Chấm dứt quan hệ vợ chồng trước
pháp luật; chia tài sản chung của vợ chồng; giao con chưa thành niên cho một bên
nuôi dưỡng, giáo dục và quyết định mức cấp dưỡng nuôi con; giải quyết việc cấp
dưỡng giữa vợ chồng khi có yêu cầu.
1.2.2. Khái lược quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt
Nam.
1.2.2.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Cho đến giữa thế kỉ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc và được thể hiện rõ nét
qua hai Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ) và Bộ luật Gia Long ( BLGL). Năm 1858 thực dân
Pháp xâm lược nước ta và bắt đầu đặt nền móng cho sự đô hộ bằng việc ban hành các
bộ luật: Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm
11
1931 (DLBK) áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ năm 1936 (DLTK) áp dụng ở
Trung kỳ. Như vậy, có thể chia pháp luật HN&GĐ trước Cách mạng tháng Tám ra
thành hai thời ḱỳ:
- Thời kỳ phong kiến:
Dưới triều Lê, BLHĐ được coi như là thành tựu to lớn trong lịch sử lập pháp
Việt Nam, các quan hệ HN&GĐ được thiết lập trên nguyên tắc: Bảo đảm tôn ti, trật tự,
đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trọng nam khinh nữ,
xác lập tối cao quyền của người gia trưởng. Đến triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư
tưởng Nho giáo nên BLGL ra đời được coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật nhà
Thanh, các quan hệ HN&GĐ xây dựng theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc.
Theo đó, vai trò của người đàn ông trong gia đình được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị
trí của người phụ nữ. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của pháp luật thời kỳ
này, bao gồm:
Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, quan hệ vợ chồng hoàn toàn chấm dứt,
không bên nào có quyền và nghĩa vụ với bên nào, vợ chồng đă ly hôn có thể tái hôn với
người khác: “người chồng không được ngăn cản người khác lấy vợ cũ của mình” .
Về quan hệ tài sản: Theo quy định tại Điều 401 BLHĐ thì “khi ly hôn tài sản
riêng của ai vẫn thuộc sở hữu của người đó và họ có quyền mang theo” [12] trừ trường
hợp ly hôn do lỗi của người vợ hoặc khi người vợ có hành vi đánh chồng, chồng thưa
kiện lại muốn ly hôn thì vợ mất quyền về tài sản (BLGL) hay điền sản của vợ để lại cho
chồng. Đối với tài sản chung, trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài sản chung
được chia đôi mỗi người một nửa. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này.
Về con cái: Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn
không được pháp luật ghi nhận nên nếu có vướng mắc về vấn đề nuôi dưỡng, chăm sóc
con,… thì quan lại địa phương sẽ xem xét tùy từng trường hợp cụ thể. Đối với con cái
thì con mang họ cha nên sau khi ly hôn con sẽ sống với cha nhưng nếu muốn giữ con
thì người vợ có quyền yêu cầu “chia” một nửa số con.
Mặc dù, pháp luật thời kỳ này có những điểm tiến bộ thể hiện quyền bình đẳng
trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng triết học,
nho giáo, phật giáo, phong tục tập quán,… Do vậy về cơ bản, các quy định của hai bộ
luật này không thoát khỏi những hạn chế của thời đại, với tư tưởng trọng nam khinh nữ,
12
bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông nên quyền lợi của người phụ nữ và các con
không được đảm bảo.
Như vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời kỳ này mang sắc thái
Việt Nam thuần túy, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật hướng Nho và phong
tục tập quán, đạo đức đã đi sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen ứng xử của người dân
Việt Nam lúc bấy giờ.
- Thời kỳ Pháp thuộc:
Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các văn
bản pháp luật mới: DLBK 1931, DLTK 1936, Tập Dân luật Giản yếu 1883. Nên các
quan hệ HN&GĐ thời kỳ này cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung, những quy định
về HN&GĐ trong các bộ luật này vẫn duy trì sự bất bình đẳng nam - nữ với việc thừa
nhận quyền gia trưởng của người đàn ông, tước đi nhiều quyền lợi cơ bản của người
phụ nữ. Vì vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn cũng tuân thủ triệt để
nguyên tắc củng cố địa vị của người gia trưởng, có sự phân biệt đối xử giữa các con, coi
rẻ quyền lợi của con cái, chú trọng tới việc giải quyết hậu quả về tài sản khi vợ chồng ly
hôn, trong đó người vợ được bảo đảm một phần về tài sản ngay cả khi ly hôn do lỗi của
vợ…
Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, vợ chồng muốn đoàn tụ với nhau thì
“phải khai giá thú với hộ lại” nhưng sau khi đoàn tụ rồi mà lại xin ly hôn lần nữa thì
Tòa án không giải quyết.
Về quan hệ tài sản: Khi ly hôn vấn đề thanh toán tài sản giữa vợ, chồng được
đặt ra nhưng lại thiên về lỗi của người vợ để xem xét và quyết định phần dành cho
người vợ . Trường hợp vợ thứ ly hôn thì “không bao giờ được dự phần chung chỉ được
lấy lại tài sản riêng của mình. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 149 DLBK, Điều 147
DLTK, nếu ly hôn do lỗi của người vợ thì người vợ phải bồi thường lại những đồ vật,
sính lễ trước kia nhà chồng đã làm lễ đính ước trừ khi đồ vật đó đă tiêu dùng cho lễ
cưới.
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn cũng được đặt ra “án xử ly hôn sẽ xử cả
về tiền cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và về quyền lợi tài sản của
người vợ” . Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sẽ chấm dứt nếu người vợ tái giá hoặc ăn ở
tư tình với người khác hoặc vô hạnh.
13
Về con cái: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được pháp luật
ghi nhận nhưng “vấn đề nuôi nấng con cái được giao cho người cha” trừ trường hợp vì
lợi ích của đứa trẻ ấy mà Toà án giao cho người mẹ thì người cha có nghĩa vụ cấp
dưỡng tiền nuôi con.
Như vậy, các quy định của pháp luật thời kì này chủ yếu dựa vào các phong tục
tập quán lạc hậu và BLDS Pháp năm 1804 với những quy định thuần túy coi hôn nhân
là chế định do dân luật điều chỉnh và là công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
thống trị. Tuy vậy các chế định HN&GĐ trong các bộ luật này có sự tiến bộ quan trọng,
bước đầu chú ý tới việc bảo đảm quyền lợi của người vợ và các con khi ly hôn như:
việc chia tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với người vợ, nuôi
dưỡng con,... Nhưng vẫn duy trì sự bất bình đẳng giữa vợ, chồng, củng cố quyền của
người gia trưởng làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của gia đình và xã hội. Dù
chưa thật rõ ràng và công bằng, song các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời
kỳ này ít nhiều có những điểm tiến bộ mà khi xây dựng chế định ly hôn các đạo luật
HN&GĐ ở nước ta sau này đều ghi nhận và phát triển thêm như: vấn đề cấp dưỡng
nuôi con, sau khi ly hôn vợ chồng muốn quay trở về chung sống với nhau thì phải đăng
kí kết hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn,…
1.2.2.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm
1945 đến năm 1975.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở
ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Nhà nước mới ra đời đòi
hỏi phải có hệ thống pháp luật mới phù hợp với bản chất của nhà nước và là công cụ để
nhà nước thực hiện tốt chức năng kinh tế - xã hội của mình. Vì vậy, ngay từ khi ra đời,
Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có
Luật HN&GĐ. Có thể chia sự phát triển của Luật HN&GĐ sau cách mạng tháng Tám
đến nay theo các thời kỳ sau:
- Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954:
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Hiến pháp 1946 đã ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt tạo cơ sở pháp lý để nhà nước ta ban
hành các Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, từng bước xóa bỏ các hủ
tục lạc hậu của chế độ cũ. Sự ra đời của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-05-1950 (SL 97) và
14
Sắc lệnh số 159/SL ngày 17-11-1950 (SL 159) đánh dấu bước khởi điểm của Luật
HN&GĐ trong chế độ xã hội mới. SL 97 quy định thực hiện nam nữ bình đẳng trong
giai đoạn xã hội mới: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” [21,Điều
5], “Người đàn bà có chồng có toàn bộ năng lực về mặt hộ” [21,Điều 6] và ghi
nhận: “Người đàn bà ly dị chồng có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị
nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai” [21,Điều4]. Có thể nói,
việc thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình và xã hội là điểm tiến
bộ của Luật HN&GĐ Việt Nam.
Tuy nhiên, SL 97 mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình đẳng trong quan hệ vợ
chồng mà chưa đề cập tới vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn. Những hạn chế
này đã từng bước được khắc phục ở SL 159 với những quy định cụ thể thừa nhận
nguyên tắc tự do hôn nhân. Trong đó, có tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất
bình đẳng về duyên cớ ly hôn, bảo vệ người phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn, cũng
như quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn. Theo đó, vợ chồng có thể xin
thuận tình ly hôn hoặc có thể được Tòa án cho phép ly hôn nếu thuộc một trong các
trường hợp: ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc một
bệnh khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng, vợ
chồng tính tình không hợp nhau,… [22,Điều 2, Điều 3]; hay để bảo vệ quyền lợi của
con chưa thành niên: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn
định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng” [22,Điều 6]. Các quy định này, đánh
dấu thêm một điểm mới của pháp luật HN&GĐ đối với vấn đề ly hôn và hậu quả pháp
lý của ly hôn. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của nhà làm luật về bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và con chưa thành niên khi ly hôn nhưng chưa có quy định về việc bảo vệ quyền
lợi cho con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Đó là điểm hạn chế của
pháp luật thời kỳ này.
Có thể nói, các quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn giai đoạn này đã
góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự
ràng buộc khắt khe, không tôn trọng quyền lợi chính đáng của họ; bước đầu quyền bình
đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã hội được thực hiện; quyền lợi của người phụ nữ
và con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn được bảo vệ. Nhưng do ra đời trong hoàn
cảnh xã hội và điều kiện lịch sử lúc bấy giờ nên SL 97 và SL 159 vẫn còn những hạn
chế nhất định như: chưa xóa bỏ tận gốc chế độ HN&GĐ phong kiến, chưa ghi nhận chế
15
độ hôn nhân một vợ một chồng, duyên cớ ly hôn vẫn chưa dựa trên bản chất quan hệ
hôn nhân nên các quan hệ HN&GĐ phong kiến vẫn còn tồn tại.
- Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975:
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước ta tạm thời bị chia
cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ
xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) và là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam,
miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước.
Ở miền Bắc: Bước vào công cuộc xây dựng CNXH, xóa bỏ chế độ HN&GĐ
phong kiến, SL 97 và SL 159 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Mặc dù, có
những đóng góp lớn nhưng hai sắc lệnh này đã không đáp ứng được nhu cầu phát triển
của đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, “việc ban hành một đạo luật mới về HN&GĐ
đã trở thành đòi hỏi cấp bách của toàn xã hội. Đó là tất yếu khách quan thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta ” – Công báo số 1 năm 1960.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình [23,Điều 24] tạo cơ sở pháp lý cho việc ban
hành một đạo luật mới về HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 1959 ban hành ngày
29/12/1959 trên nguyên tắc hôn nhân tự do tiến bộ, một vợ một chồng; nguyên tắc nam
nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình và quyền lợi của con
cái nhằm xây dựng chế độ HN&GĐ mới theo tinh thần Hiến pháp năm 1959 và yêu cầu
của thực tiễn khách quan. Luật HN&GĐ năm 1959 dành một chương quy định về ly
hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn với những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia.
Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ 1959 là giải quyết quan hệ vợ
chồng, thanh toán tài sản, vấn đề cấp dưỡng cho một bên túng thiếu và mối quan hệ
giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
Về quan hệ nhân thân: Sau khi phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp
luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt trước pháp luật [24,Điều 25, Điều 26].
Về quan hệ tài sản: Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em, Luật đã ghi nhận: “khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn cứ vào công sức đóng góp
của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia
đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của
16
con và lợi ích của việc sản xuất” [24,Điều 29]. Khác với quy định của DLBK 1931,
DLTK 1936, đưa ra nguyên tắc chia mà phần của người vợ sẽ ảnh hưởng nếu ly hôn do
lỗi của người vợ.
Giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con: Ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi của con sau khi cha mẹ ly hôn, như: vợ chồng khi ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và
quyền lợi đối với con chung; việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục
con chưa thành niên phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con hay việc đóng góp phí
tổn nuôi con,… [24, Điều 31, 32, 33].
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng: Pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và
chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia
phải cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình” [24,Điều 30].
Như vậy, so với SL 97 và SL 159 thì những quy định về hậu quả pháp lý của ly
hôn theo Luật HN&GĐ năm 1959 đầy đủ và cụ thể hơn, thể hiện bước tiến rõ rệt nhưng
vẫn còn mang tính khái quát, chưa quy định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi của con đã
thành niên không có khả năng lao động, chưa có sự phân biệt giữa tài sản chung và tài
sản riêng của vợ, chồng. Có thể nói, đây là bước phát triển của pháp luật HN&GĐ, là
cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển ngành luật HN&GĐ trong hệ thống pháp luật
XHCN của Nhà nước ta.
Ở miền Nam: sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp nhảy vào xâm lược,
tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ HN&GĐ được áp dụng ở
miền Nam trong giai đoạn này thể hiện qua ba văn bản: Luật Gia đình (Luật số 1/59),
Sắc luật số 15/64, Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972. Mặc dù, ra đời vào các thời điểm
khác nhau, hình thức quy định cũng có nét riêng, song nhìn chung các văn bản này đều
quy định về vấn đề ly thân và ly hôn. Trong đó, việc giải quyết hậu quả của ly hôn chủ
yếu dựa trên yếu tố lỗi của các bên vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho
người kia hay người không có lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi,…
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền bình đẳng
của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê nhưng đạo luật này chỉ
quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn: “Cấm chỉ vợ chồng ruồng bỏ nhau và sự ly
hôn” [17,Điều 55], trừ trường hợp đặc biệt do Tổng thống quyết định. Do đó, không đặt
ra vấn đề hậu quả của ly hôn.
17
Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59 được thay thế
bằng Sắc luật số15/64. Sắc luật số 15/64 có quy định về vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng
cũng như giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Theo quy định của Sắc luật số15/64,
quan hệ vợ chồng chấm dứt bằng ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly
hôn được đặt ra nhưng người có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi;
hay việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cũng căn cứ trên cơ sở lỗi của hai
vợ chồng nên người không có lỗi sẽ đương nhiên có quyền nuôi con dưới 16 tuổi,
quyền thăm nom cấp dưỡng cho con thuộc về người kia. Ngoài ra, việc giải quyết tài
sản của vợ chồng sau khi ly hôn căn cứ vào lỗi của các bên, nếu người hôn phối có lỗi
thì họ “mất hết quyền tài sản do hôn ước”, ngược lại “người hôn phối vô tội sẽ được giữ
những quyền lợi này đã được ưng thuận với điều kiện hỗ tương” [18,Điều 92]. Nhìn
chung, Sắc luật số 15/64 đã xóa bỏ những quy định không hợp lý của Luật số 1/59
nhưng cũng chưa quy định một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên
hôn phối và của con cái.
Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho soạn thảo, sửa
đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã
hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. Bộ Dân luật năm 1972 ra đời đã thay
thế Sắc luật số 15/64. Bộ luật Dân sự năm 1972 coi ly hôn là một chế định do dân luật
điều chỉnh nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các quy định của Sắc luật số15/64. Theo đó, ly
hôn là chấm dứt mối liên hệ nhân thân giữa vợ chồng, chế độ hôn sản bị giải tán và
được thanh toán, mỗi người hôn phối sẽ lấy quyền quản trị và hưởng dụng đối với tài
sản riêng của mình, tài sản chung sẽ chia đôi, phần của người hôn phối có lỗi sẽ bị khấu
trừ số tiền cấp dưỡng…[19,Điều 201]; hay việc mất quyền lợi về tài sản của vợ chồng
khi ly hôn [19,Điều 200]. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng cũng được đặt ra nhưng có
sự phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người vô tội với tiền cấp
dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn:“ Tiền này là phần tiền cho
người vợ hay người chồng biệt cư, không phân biệt người này có lỗi hay không có lỗi”
[19,Điều 178], và “Tòa án có thể buộc người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn phải cấp
dưỡng cho người kia tùy theo tư lực của mình…” [19,Điều 197].
Tựu chung lại, pháp luật HN&GĐ áp dụng ở miền Nam thời kỳ này, ra đời trong
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, và
nó là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản động tay sai. Vì vậy, các văn bản pháp
18
luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ do chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này
đều bảo vệ quyền lợi của người gia trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ
chồng, có sự phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân, đi ngược
lại với lợi ích của nhân dân ta.
1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình
của Nhà nước ta từ năm 1975 đến nay.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước giành độc lập,
thống nhất và tiến lên CNXH. Việc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước đòi hỏi phải
có hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất chung trong cả nước. Trước yêu cầu đó, Hiến
pháp năm 1980 được ban hành ghi nhận các nguyên tắc về chế độ HN&GĐ [26, Điều
38, 47, 63 và Điều 64], trên cơ sở đó Nhà nước ta ban hành Luật NH&GĐ năm 1986.
Các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn của Luật NH&GĐ năm 1986 về cơ
bản vẫn dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ năm1959 như bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và con chưa thành niên, cấp dưỡng giữa vợ chồng … nhưng có bổ sung thêm
nhiều quy định mới như: “việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận và phải
được Tòa án công nhận, nhưng có xem xét một cách hợp lý tình hình tài sản và tình
trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên” [25,Điều 42], về cấp dưỡng
giữa vợ chồng “ khi hoàn cảnh thay đổi người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp
dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng” [25,Điều 43] và
lần đầu tiên đưa ra quy định bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng không có
khả năng lao động [25, Điều 20],…
Với những quy định này, Luật HN&GĐ năm 1986 đã góp phần vào việc xây
dựng và củng cố quan hệ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy các phong tục
tập quán, truyền thống tốt đẹp về HN&GĐ của dân tộc nhưng còn mang tính định
hướng, khái quát. Do vậy, việc áp dụng các quy định này vào giải quyết các tranh chấp
phát sinh trên thực tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung.
Trước những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội, sau hơn 10 năm thực hiện Luật
HN&GĐ năm 1986, kì họp thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua Luật HN&GĐ năm
2000. Kế thừa các quy định, nguyên tắc dân chủ, tiến bộ về HN&GĐ trong lịch sử,
Luật HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục những hạn chế của luật HN&GĐ năm 1986. Các
quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong Luật này đã thể hiện một bước phát triển
19
cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung tư tưởng góp phần vào việc xây dựng, củng cố chế
độ HN&GĐ XHCN, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao
nhận thức của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác xét xử của Tòa án.
1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về hậu quả của ly hôn.
Ly hôn là hiện tượng xã hội phức tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của
vợ chồng, lợi ích của gia đình và xã hội. Hiện nay, tình trạng ly hôn ở nước ta ngày
càng gia tăng với những nguyên nhân và lý do rất đa dạng, phức tạp. Việc quy định
bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn góp phần giải quyết ly hôn một cách
chính xác, đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng cũng như lợi ích của
gia đình và xã hội.
Quyết định ly hôn của vợ chồng được pháp luật thừa nhận là một quyền tự do
của công dân. Theo đó, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chấm dứt nhưng việc giải
quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con, các tranh chấp liên quan đến tài sản, cấp dưỡng
giữa vợ chồng khi ly hôn là vấn đề vô cùng phức tạp cần phải được pháp luật quy định
cụ thể để hạn chế một cách thấp nhất các tranh chấp xảy ra, đảm bảo quyền và lợi ích
chính đáng của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội. Hơn nữa, trách nhiệm chăm sóc,
nuôi dạy con cái không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ luật định của cha mẹ để ổn
định cuộc sống của con sau khi cha mẹ ly hôn. Các quy định về hậu quả pháp lý cuả ly
hôn trong Luật HN&GĐ thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới quyền lợi trẻ em khi
cha mẹ ly hôn. Bởi “trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là người
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Khi gia đình tan vỡ, hạnh phúc riêng tư
của cha mẹ không còn nhưng sợi dây tình cảm giữa cha mẹ và con cũng không vì thế
mất đi mà cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ, quyền nuôi dạy con cái. Ngược lại, con cái
cũng trở thành niềm động viên an ủi của cha mẹ và có bổn phận yêu thương, kính trọng,
chăm sóc, cấp dưỡng khi cha mẹ ốm đau già yếu.
Việc ghi nhận bằng pháp luật đối với hậu quả pháp lý của ly hôn là sự cụ thể hóa
nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đảm bảo sự bình giữa vợ và chồng ngay cả khi ly
hôn. Đồng thời, thể hiện tính chất công bằng, dân chủ và nhân đạo của pháp luật
XHCN. Có thể nói, kể từ khi pháp luật quy định giải quyết việc ly hôn phải dựa vào bản
chất, thực trạng của quan hệ hôn nhân cho đến việc chú trọng giải quyết hậu quả của ly
hôn. Pháp luật XHCN đã thật sự quan tâm tới vấn đề ly hôn và hạn chế tới mức tối đa
những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với gia đình, đặc biệt là con cái.
20
Xuất phát từ lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng, các
con cũng như các thành viên khác, sự ổn định của các quan hệ HN&GĐ.Việc quy định
bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn giúp Toà án nhân dân các cấp có đủ cơ sở
pháp lý để điều tra, tìm hiểu kĩ nguyên nhân dẫn tới những mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư
tình cảm của người trong cuộc, để có thể giải quyết ly hôn chính xác đảm bảo quyền lợi
của các bên, của gia đình và xã hội. Qua đó thể hiện sự quan tâm của các nhà làm luật
tới việc giải quyết các mối quan hệ liên quan tới vợ chồng và các thành viên khác trong
gia đình khi hôn nhân thực sự tan vỡ.
Như vậy, việc quy định trong pháp luật HN&GĐ về Hậu quả pháp lý của ly hôn
là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý; đồng thời cũng là cơ sở,
căn cứ để Tòa án áp dụng giải quyết chính xác các vấn đề về quan hệ nhân thân, tài sản
của vợ chồng; vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng và quyền lợi của các con khi vợ chồng
ly hôn.
21
Quan hệ pháp luật nhân thân giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân
CHƯƠNG 2
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
2.1. Về quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân giữa vợ chồng sau khi ly hôn).
Quan hệ giữa vợ và chồng được quy định tại Chương III Luật HN&GĐ 2000 đã
mang tính khái quát cao, bởi quan hệ vợ, chồng không chỉ là quyền và nghĩa vụ đối với
nhau mà nó còn là tình cảm cao đẹp. Chương này gồm có 16 điều từ Điều 18 đến Điều
33, nhiều hơn 7 điều so với Luật HN&GĐ năm 1986 là một số quy định mới về quyền
nhân thân và tài sản nhằm cụ thể hóa hơn quan hệ nhân thân cũng như quan hệ tài sản
giữa vợ chồng, qua đó khẳng định sự bình đẳng, bình quyền trong quan hệ giữa vợ và
phi tài sản (không mang nội dung kinh tế). Đó là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về
lao động và học tập, hoạt động nghề nghiệp, nó còn bao hàm cả tình yêu, sự chung
thủy, hòa thuận và kính trọng lẫn nhau, những cư xử đúng đắn và cùng nhau dạy bảo
con cái... dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ, các quy tắc tập quán của dân tộc
và đạo đức xã hội.
Luật HN&GĐ năm 1986 đã khẳng định quyền bình đẳng vợ chồng thể hiện ở
các quyền như: tự do lựa chọn chỗ ở, lựa chọn nghề nghiệp, nghĩa vụ chung thủy yêu
thương. Luật HN&GĐ 2000 một lần nữa khẳng định và mở rộng hơn các quyền đó như:
tôn trọng danh dự nhân phẩm, uy tín, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng,
vợ chồng giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển, quyền đại diện cho nhau cũng như
trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một bên thực
hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng mang yếu tố tình cảm là nét đặc trưng gắn liền
với bản thân họ mà không thể chuyển giao cho người khác được. Bởi các quan hệ này
phát sinh từ lợi ích tinh thần của mỗi cá nhân, gắn liền với một chủ thể nhất định và
không mang nội dung kinh tế như quan hệ tài sản. Nó chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống vợ chồng.
Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật,
quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật. Kể từ thời điểm này, người vợ, người
chồng.
22
chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác mà không chịu bất kỳ sự ràng buộc
nào từ phía bên kia. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và
chồng sẽ đương nhiên chấm dứt mà không phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên.
Nghĩa là các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn và
gắn bó trong suốt thời kỳ hôn nhân, như: nghĩa vụ yêu thương quý trọng, chăm sóc,
giúp đỡ nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng… sẽ đương nhiên mất đi.
Nhưng một số quyền về nhân thân khác mà vợ chồng với tư cách là công dân thì vẫn
không thay đổi dù họ đã ly hôn, như: họ tên, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp…
sẽ do các bên tự quyết định. Như vậy, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chỉ tồn tại và
được pháp luật bảo vệ khi họ là vợ chồng hợp pháp của nhau. Nên sau khi ly hôn, các
quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt.
Sau khi phán quyết ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vì lý do
hay động cơ nào đó, mà vợ chồng quay trở về chung sống với nhau thì họ vẫn phải
đăng ký kết hôn theo luật định. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp vợ chồng
đã ly hôn sau đó trở về chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, giữa họ lại
có con chung, tài sản chung và sau đó họ lại yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Theo
Điều 57 BLDS năm 2005, khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000: “vợ chồng đã ly
hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn”. Trong trường hợp này, nếu
có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ không giải quyết việc ly hôn nữa. Theo hướng dẫn tại
Nghị quyết 35/2000/QH ngày 9/6/2000 và Nghị quyết 02/2000/NQ - HĐTP thì: “nếu
có tranh chấp liên quan đến việc sống chung này, Tòa án tuyên bố không công nhận họ
là vợ chồng, nếu có tranh chấp liên quan đến tài sản và con thì giải quyết như trường
hợp hủy kết hôn trái pháp luật theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 17 Luật HN&GĐ”.
Việc không thừa nhận quan hệ hôn nhân trong trường hợp này là hợp lý, góp phần nâng
cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật về HN&GĐ nói riêng của người dân. Đồng
thời, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội.
2.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
+ Nhận xét chung:
Việc giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ căn cứ vào Điều 95:
“Việc chia tài sản do hai bên thoả thuận và phải được Toà án nhân dân công nhận.
Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định” [2]. Quy
định như vậy không có gì là mâu thuẫn với quyền tự định đoạt của công dân, bởi vì để
23
đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự nhất là phụ nữ và trẻ em khi ly hôn th́ ngay cả
trường hợp tự thoả thuận cũng phải được Toà án công nhận, nếu việc thoả thuận đó là
hợp pháp th́ không sao nhưng nếu không hợp pháp, quyền lợi của một trong hai bên bị
vi phạm thì Toà án cũng cần phải quyết định lại.
Về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn phải theo quy định: “Tài sản riêng của bên
nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Tài sản chung về nguyên tắc được chia đôi,
nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của
mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này...”.
Tài sản chung và riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Để chia tài sản
chung của vợ chồng cần phải xác định chính xác khối tài sản chung hiện có (gồm có cả
quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người khác...) khi chia phải căn cứ vào
tình hình tài sản tức là tài sản thực tế của vợ chồng hiện có kể cả những khoản cho vay,
mượn, tiền gửi tiết kiệm. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà chuyển sang một
dạng khác và sự chi dùng đó là bức thiết của gia đình thì phải coi tài sản đó là đang còn
để tính chia còn những thứ đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì không phải
thanh toán. Đồng thời khi chia cần phải xác định trong khối tài sản đó có những thứ gì
có thể chia bằng hiện vật, còn những cái gì không thể tách ra để chia được như: xe máy,
xe đạp, ti vi, tủ lạnh... thì để nguyên và người nào hưởng nếu có chênh lệch thì phải
thanh toán tiền chênh lệch cho người kia. Đối với tài sản bằng hiện vật thì phải kiểm kê,
định giá theo giá trị của thị trường một cách chính xác, công khai và đúng đắn. Đồng
thời còn phải xem xét đến tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi
bên. Có nghĩa là hiện tại vợ chồng, con cái sinh sống ở một nơi hay mỗi bên sinh hoạt ở
một chỗ khác nhau hoặc vẫn còn ở chung với gia đình, nắm sát tình trạng gia đình khi
vợ chồng ly hôn thì mới đảm bảo khi chia tài sản không bị sót, lọt. Thông thường thì tài
sản chung chia đôi, nhưng để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và hợp lý thì cần xét
đến công sức của mỗi bên bỏ ra để xây dựng khối tài sản chung đó. Công sức của mỗi
bên phải kể đến trách nhiệm thu vén, bảo vệ khối tài sản chung đó, bởi trong thực tế
không ít những gia đình tài sản chung chỉ có một bên bỏ sức lao động của mình để tạo
ra... Theo luật quy định, lao động trong gia đình được tính ngang với lao động sản xuất.
Tại Điều 95 quy định: “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên
hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình” [2]. Vì trong xã hội cũ, người phụ nữ và con
24
cái bị coi rẻ, họ không có quyền hành gì trong gia đình và nhất là đối với tài sản, họ
hoàn toàn bị phụ thuộc vào người cha, người chồng. Cho nên luật quy định như vậy là
nhằm mục đích xoá bỏ sự bất công trong xã hội cũ và trong cuộc sống bao giờ người
phụ nữ cũng gặp khó khăn hơn nam giới, đặc biệt khi ly hôn. Do đó, cần phải đảm bảo
cho người phụ nữ và con chưa thành niên có một cuộc sống bình thường để họ yên tâm
công tác, học tập ngay cả khi quan hệ gia đình bị tan vỡ. Đồng thời cũng chỉ dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa lợi ích của cá nhân mới được đảm bảo, lợi ích của cá nhân không
tách rời lợi ích của tập thể và của xã hội, các lợi ích đó phải kết hợp với nhau một cách
hài hoà. Cho nên, khi giải quyết ly hôn không chỉ đảm bảo quyền lợi của mỗi bên
đương sự và con cái; mà còn phải quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và
nghề nghiệp.
Đối với trường hợp vợ chồng vẫn còn chung sống với gia đình bên vợ (chồng)
thì luật cũng quy định tại Điều 96. Nếu tài sản của họ không thể xác định được thì vợ
chồng được chia một phần trong khối tài sản đó, căn cứ vào công sức đóng góp, vào
việc duy trì và phát triển khối tài sản chung đó. Lao động trong gia đình được coi là lao
động sản xuất. Quy định đó hoàn toàn phù hợp với thực tế và bảo đảm cho bên làm
công việc nội trợ (thường là người vợ) không bị thiệt thòi.
Nhìn chung, việc giải quyết các hậu quả pháp lý của ly hôn về vấn đề chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn là điều cần thiết bảo đảm điều kiện sống cho mỗi bên sau ly
hôn. Tuy nhiên, vấn đề này cũng là vấn đề phức tạp nhất, chứng kiến sự tan rã của các
vấn đề tinh thần, đạo đức, vật chất của một gia đình với chức năng là một tế bào cấu
thành nên xã hội.
2.2.1. Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Trên cơ sở xác định sở hữu chung, riêng của vợ chồng, việc chia tài sản chung
khi ly hôn phải đảm bảo theo pháp luật quy định: Luật, các văn bản dưới luật.
Cần quán triệt các nguyên tắc [2,Điều 95] và các căn cứ khi chia tài sản của vợ
chồng:
+ Nguyên tắc:
- Bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và các con chua thành niên.
25
Như vậy, về nguyên tắc khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.
+ Căn cứ:
- Tình hình tài sản; tình trạng cụ thể của gia đình; công sức đóng góp của mỗi bên.
Theo quy định của Điều 95, việc chia tài sản khi ly hôn theo nguyên tắc do các
bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Quy định này
thể hiện quyền tự định đoạt và tôn trọng nguyên tắc tự nguyện của vợ chồng. So với
Điều 42 Luật HN&GĐ năm 1986 “ việc chia tài sản do hai bên thỏa thuận và phải được
Tòa án nhân dân công nhận”, thì Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã đề cao hơn nữa ý
chí của các bên khi không cần sự công nhận của Tòa án. Điều này nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thi hành án, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cả vợ chồng.
Tuy nhiên, việc thỏa thuận của vợ chồng không được trái với nguyên tắc mà pháp luật
đã đề ra, với mục đích nhằm tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ tài sản với Nhà nước
hoặc bên thứ ba.
hữu của bên đó, tài sản chung sẽ được chia đôi nhưng có xem xét đến công sức đóng
góp và hoàn cảnh của mỗi bên cũng như việc đảm bảo quyền lợi của vợ và các con. Mặt
khác, khi chia tài sản cũng phải chú ý tới việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên
trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để họ có điều kiện để tiếp tục lao động tạo
thu nhập, tránh tình trạng làm mất hoặc giảm giá trị, công dụng của tài sản như phá
hỏng tài sản, nhà cửa, tư liệu sản xuất làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các
bên.
Nếu vợ chồng không thỏa thuận được do mâu thuẫn trầm trọng và thiếu sự hợp
tác, lúc đó Luật quy định: “ nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì yêu cầu
Tòa án giải quyết”. Tòa sẽ áp dụng Điều 95 của Luật HN&GĐ năm 2000 để chia, kết
hợp với từng trường hợp cụ thể được quy định tại các Điều 96, 97, 98 và 99 của Luật
HN&GĐ năm 2000 để bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của các bên. Khi ly hôn
tài sản của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, nếu có sự chênh
lệch thì người nào được chia tài sản có giá trị lớn hơn phần mà mình được hưởng phải
thanh toán cho bên kia khoản tiền tương ứng với phần chênh lệch. Giá trị tài sản được
xác định theo giá thị trường tại thời điểm chia. Trên thực tế, Tòa án thường gặp rất
nhiều vướng mắc khi giải quyết hậu quả pháp lý về tài sản giữa vợ chồng. Để đảm bảo
26
tài sản được chia công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên,
nâng cao hiệu quả việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản vợ chồng. Tòa án
phải xác định rõ các chứng cứ mà đương sự cung cấp, vận dụng đúng đắn, linh hoạt các
nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ, nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Qua đó, xác định rõ nguồn gốc, giá trị, số lượng tài sản, tình hình tài sản khi ly hôn,
tình trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên trong quá trình vợ chồng
chung sống như thế nào?… Có như thế mới có thể giải quyết vấn đề tài sản một cách
thấu tình đạt lý, bảo vệ được quyền lợi của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội.
2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng.
+ Xác định khối tài sản chung của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những vấn đề quan trọng của Luật
HN&GĐ. Nó góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bình đẳng,
góp phần bảo vệ những quyền lợi chính đáng của công dân. Tài sản của vợ chồng
không chỉ là vấn đề sở hữu của cải vật chất liên quan đến lợi ích riêng của vợ chồng.
Gắn với tài sản của vợ chồng là những quan hệ xã hội cần giải quyết trong đời sống gia
đình có liên quan đến lợi ích của các thành viên khác. Chính vì vậy tài sản của vợ
chồng được Nhà nước quy định trong pháp luật thành chế độ pháp lý tài sản của vợ
chồng, đó là một quy định cần thiết nhằm điều chỉnh những quan hệ tài sản trong đời
sống gia đình.
Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000
đều quy định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung. Song phạm vi tài sản
chung của vợ chồng quy định trong Luật HN&GĐ cụ thể và hoàn thiện như sau:
+ Tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
+ Thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác hoặc không chứng
minh được là tài sản riêng. .
+ Tài sản của vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung hoặc cả hai
thỏa thuận đó là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản sau:
+ Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, các thu nhập về sản xuất ở gia
đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt thu nhập của mỗi
bên.
27
+ Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên.
+ Tài sản mà vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế chung.
+ Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Để xác định chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân phải căn
cứ vào nguồn gốc phát sinh và thời điểm hình thành tài sản. Theo quy định tại khoản 1
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì tài sản chung vợ chồng bao gồm: “ Tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận” [2].
Ngoài ra, tài sản chung vợ chồng còn bao gồm các tài sản mà vợ chồng mua sắm
được bằng thu nhập nói trên, tiền tiết kiệm là tài sản chung vợ chồng gửi ở ngân hàng,
những khoản nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào đời sống chung cần phải trả,
những khoản nợ mà vợ chồng cho người khác vay có quyền đòi,…Các tài sản chung
của vợ chồng phải là tài sản đó phải hiện còn trong gia đình tại thời điểm Toà án giải
quyết cho vợ chồng ly hôn.
Riêng đối với các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy
định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận phải ghi tên sở hữu của cả
hai bên vợ chồng .Tài sản đó có thể là Quyền sử dụng đất (QSDĐ), ôtô, xe máy, tàu
biển, … Như vậy, đây là quy định mới, tiến bộ hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986.
Quy định này, giúp Toà án tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn khi giải quyết các
tranh chấp về tài sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên vợ chồng
khi ly hôn. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để vợ, chồng chứng minh đâu là tài sản
chung, đâu là tài sản riêng của mình.
Trong các loại tài sản trên thì Quyền sử dụng đất, nhà ở là loại tài sản mang nét
đặc thù riêng. Nó thường là tài sản có giá trị lớn hoặc đem lại thu nhập chính cho vợ
28
chồng nên khi ly hôn thường xảy ra tranh chấp. Vì vậy Toà án cần phải xác định rõ nó
là tài sản riêng hay tài sản chung vợ chồng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên.
+ Chia tài sản chung vợ chồng:
Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 27 Luật
HN&GĐ thì “tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất” Do vậy, tài
sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai bên cùng tạo ra một cách trực tiếp,
không phụ thuộc vào công sức đóng góp giữa vợ chồng nhiều hay ít… Mà do tính chất
đặc biệt của quan hệ hôn nhân nên pháp luật luôn ghi nhận công sức đóng góp để xác
định tài sản chung của vợ chồng là “ như nhau”, vợ chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản một cách bình đẳng. Vì vậy, khi ly hôn về nguyên tắc pháp
luật tôn trọng sự thoả thuận của các bên, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án
giải quyết. Quy định này, là điểm mới so với trước kia thể hiện sự tôn trọng và đề cao
quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung. Nhưng họ không được lạm dụng
quyền này nhằm “trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản” gây hậu quả xấu, xâm
phạm lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, về nguyên tắc: phần của
vợ chồng trong khối tài sản chung là bằng nhau, không phân biệt công sức đóng góp
nhiều hay ít của mỗi bên
Khi đã xác định rõ ràng về tài sản chung, Tòa án áp dụng Khoản 2 Điều 95 Luật
HN&GĐ năm 2000 để chia. Tại điểm a khoản 2 Điều 95 quy định: “ Tài sản chung của
vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình
trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài
sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”
[2]. Tòa án cũng xem xét nguyên tắc chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Điều 27
Luật HN&GĐ và Điều 233 Bộ luật Dân sự năm 2005 để chia. Để đảm bảo tính công
bằng, không phải trường hợp nào Tòa án cũng chia đôi tài sản vì còn phải xem xét vào
công sức đóng góp của mỗi bên. Có nghĩa là phải xem xét tài sản chung của vợ chồng
bao gồm những tài sản gì, nguồn gốc phát sinh tài sản, tài sản có thể chia đựơc bằng
hiện vật hay không? Vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau trong thời gian bao lâu?
Vợ chồng cùng cư trú hay cư trú ở những nơi khác nhau? Ai là người có công sức đóng
góp nhiều hơn, ai là lao động chủ yếu trong gia đình, tài sản có công sức đóng góp của
người thứ ba không? Xác định rõ các khoản nợ mà vợ chồng nợ người khác hoặc người
29
khác nợ vợ chồng, các nghĩa vụ tài sản chung mà vợ chồng cần phải thanh toán trước
khi ly hôn,…
Luật còn xem xét đến việc “ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa
thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Nguyên tắc này nhằm xóa bỏ triệt
để quan niệm của chế độ HN&GĐ phong kiến trước đây, coi rẻ quyền và lợi ích hợp
pháp của người vợ và con. Việc bảo vệ này cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật, không
tùy tiện. Ví dụ: Khi chia tài sản chung là nhà ở, xét thấy cả vợ và chồng đều có nhu cầu
cấp bách về nhà ở, người vợ lại được giao nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa
thành niên... thì có thể chia ngôi nhà cho người vợ sở hữu, người chồng sẽ được chia
những tài sản khác theo công sức đóng góp của họ.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn còn phải “ bảo vệ lợi ích chính
đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện
tiếp tục lao động có thu nhập”, vấn đề này được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 95.
Tùy theo tính chất nghề nghiệp chuyên môn của vợ chồng, khi chia tài sản của vợ
chồng phải bảo đảm được giá trị, công dụng của tài sản, phù hợp với nghề nghiệp của
họ nhằm phát huy tính năng của tài sản trong sản xuất kinh doanh. Cần tránh việc chia
tài sản của vợ chồng làm mất đi công dụng và giá trị của tài sản, ví dụ: Giết thịt trâu bò,
phá dỡ nhà cửa...
Tài sản chung của vợ chồng còn được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị. Bên nào
nhận được phần tài sản có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán
cho bên kia trị giá chênh lệch [2, điểm d khoản 2 Điều 95].
Ngoài ra trên thực tế, trong thời kỳ hôn nhân vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng vay nợ
người khác nhằm bảo đảm các nhu cầu thiết yếu cho gia đình (Điều 25, 27 ) thì được
xác định là nợ chung và khi ly hôn, tài sản chung của hai vợ chồng được bảo đảm để
thanh toán khoản nợ chung đó. Trên thực tế sau khi ly hôn, vợ chồng ly tán thường gây
khó khăn cho việc thanh toán các nghĩa vụ chung, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người thứ ba. Do vậy khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định khi ly hôn
vợ chồng thỏa thuận thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản, nếu không thỏa thuận được
thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là một quy định mới của Luật HN&HĐ năm 2000 so
với Luật HN&GĐ năm 1986. Điều này nhằm hạn chế những hậu quả tiêu cực do sự
kiện ly hôn gây ra nhằm bảo đảm quyền lợi của người thứ ba. Trường hợp vợ chồng
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

More Related Content

Similar to Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

Giao trinh luat to tung hinh su
Giao trinh luat to tung hinh suGiao trinh luat to tung hinh su
Giao trinh luat to tung hinh suHung Nguyen
 
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...hieu anh
 
Giao trinh luat hanh chinh 1
Giao trinh luat hanh chinh 1Giao trinh luat hanh chinh 1
Giao trinh luat hanh chinh 1liemphungthanh
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdfPhap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdfhuynhminhquan
 
Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...
Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...
Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...
Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...
Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...
Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...
Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...
Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...
Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...nataliej4
 

Similar to Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000 (20)

Luận văn: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam ...Luận văn: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam ...
 
Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đìnhHậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 
Giao trinh luat to tung hinh su
Giao trinh luat to tung hinh suGiao trinh luat to tung hinh su
Giao trinh luat to tung hinh su
 
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
 
Giao trinh luat hanh chinh 1
Giao trinh luat hanh chinh 1Giao trinh luat hanh chinh 1
Giao trinh luat hanh chinh 1
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Phân chia di sản thừa kế - Những vấn đề lý lu...
 
Luận án: Chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận án: Chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
20106117205359
2010611720535920106117205359
20106117205359
 
Đề tài: Quản lý về môi trường huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai, HAY
Đề tài: Quản lý về môi trường huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai, HAYĐề tài: Quản lý về môi trường huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai, HAY
Đề tài: Quản lý về môi trường huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai, HAY
 
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn lý luận và th...
 
Luận văn: Ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp của Việt Nam
Luận văn: Ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp của Việt NamLuận văn: Ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp của Việt Nam
Luận văn: Ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp của Việt Nam
 
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến phápLuận án: Đặc điểm ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ pháp luật trong các bản Hiến pháp
 
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdfPhap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
 
Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...
Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...
Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Di Chúc Miệng Theo Quy Định Của Bộ Luật Dân Sự Việt...
 
Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...
Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...
Cải Cách Thủ Tục Hành Chính Ở Ủy Ban Nhân Dân Xã, Thị Trấn Tại Huyện Quảng Xƣ...
 
Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...
Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...
Luận án tiến sĩ luật học thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật ...
 
Đề tài: Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật, HAY
 
Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...
Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...
Đánh Giá Công Tác Quy Hoạch Sử Dụng Đất Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh Giai Đ...
 
Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực tiễn tại TAND huyệ...
Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn -  thực tiễn tại TAND huyệ...Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn -  thực tiễn tại TAND huyệ...
Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực tiễn tại TAND huyệ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 

Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 Nhận Viết Thuê Luận Văn Điểm Cao – Chất Lượng Uy Tín – Đúng Hẹn Zalo trao đổi : 0932.091.562 Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ trung thực, chính xác và tin cậy. Trân trọng cảm ơn. Tác giả luận văn NGUYỄN VIẾT THÁI
  • 3. LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Văn Cừ - Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này. Đồng cảm ơn các Thầy, Cô Trường Đại học Luật Hà Nội – những người đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong quá trình em học tập và rèn luyện tại trường. Cảm ơn gia đình và bạn bè luôn ủng hộ và động viên em. Tác giả luận văn NGUYỄN VIẾT THÁI
  • 4. CHƯƠNG 2: MỤC LỤC MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn...................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................2 3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..........................................................................................3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài..............................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài..........................................................3 6. Kết cấu của luận văn.....................................................................................................4 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN..............................................................................................................................5 1.1. Khái niệm ly hôn, một số quan điểm và bản chất pháp lý về ly hôn....................5 1.1.1. Khái niệm ly hôn và một số quan điểm về ly hôn................................................5 1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn..................................................................................6 1.2. Khái quát chung về hậu quả pháp lý của ly hôn.....................................................9 1.2.1. Khái niệm hậu quả pháp lý của ly hôn..................................................................9 1.2.2. Khái lược quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam. ................................................................................................................................... 10 1.2.2.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. .....................................................................................................10 1.2.2.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm 1945 đến năm 1975..........................................................................................................13 1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1975 đến nay..........................................................................18 1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về hậu quả của ly hôn...........................19 HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 ................................................................................21 2.1. Về quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân giữa vợ chồng sau khi ly hôn).........21 2.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn......................................................................22 2.2.1. Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.......................24 2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng .....................................................................26 2.2.3. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng......................................................................30 2.2.3.1. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng................................................................30
  • 5. 2.2.3.2. Chia tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn. ...................................................31 2.3. Một số trường hợp cụ thể........................................................................................33 2.3.1. Nhà ở; Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng...............................33 2.3.2. Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng..................................40 2.4. Giải quyết vấn đề cấp dưỡng vợ chồng khi ly hôn................................................41 2.4.1. Cơ sở của việc quy định về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.................................................................................................................................41 2.4.2. Điều kiện cần và đủ để giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.........42 2.4.3. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn......................44 2.4.3.1. Mức cấp dưỡng...................................................................................................44 2.4.3.2. Về thời hạn cấp dưỡng.......................................................................................45 2.4.3.3. Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng..............................................46 2.4.3.4. Thay đổi vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn.............................47 2.4.3.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn.................47 2.5. Quan hệ giữa cha mẹ và con khi vợ chồng (với tư cách là cha mẹ của con) ly hôn. ....................................................................................................................................48 2.5.1. Nguyên tắc chung để giải quyết hậu quả pháp lý đối với con khi cha mẹ (vợ chồng) ly hôn theo Điều 92, 93, 94 Luật HN&GĐ năm 2000.....................................48 2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con......................................................................................................................49 2.5.3. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ là người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.........................................................................................................51 2.5.4. Các quy định cụ thể về cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng khi ly hôn.............52 2.5.4.1. Về đối tượng (Con) được cấp dưỡng................................................................52 2.5.4.2. Về mức cấp dưỡng nuôi con, giáo dục con......................................................53 2.5.4.3. Về thời hạn và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con........54 2.5.4.4. Vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con (Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2000).........................................................................................................54 THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN .. 56 3.1. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về hậu quả pháp lý của ly hôn..........................................................................................................................56 3.1.1. Nhận xét chung.......................................................................................................56 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIÉN NGHỊ NHẰM HOÀN CHƯƠNG 3:
  • 6. 3.1.2. Một số trường hợp cụ thể.....................................................................................58 3.1.2.1. Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn............................................58 3.1.2.2. Về chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn. .......................................59 3.1.2.3. Về tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn........................................................61 3.1.2.4. Về cấp dưỡng giữa vợ chồng với nhau khi ly hôn..........................................63 3.1.2.5. Về quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn. .....................................................64 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn..........................................................................................................................66 3.2.1. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn (nếu có tranh chấp )......................................................................................................................66 3.2.2. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn......................................................67 3.2.3. Vấn đề thời điểm cấp dưỡng và mức cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi vợ chồng ly hôn......................................................................................................................68 3.2.4. Về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con khi ly hôn.........................................68 3.2.5. Giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn cần được xem xét trên cơ sở “lỗi” của vợ, chồng...........................................................................................................................69 3.2.6. Công tác xét xử và tổng kết công tác xét xử của Tòa án...................................69 KẾT LUẬN.......................................................................................................................71
  • 7. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT HN&GĐ................................................ Hôn nhân và gia đình. BLDS.................................................... Bộ luật Dân sự. TAND................................................... Tòa án nhân dân. TANDTC.............................................. Tòa án nhân dân Tối cao. XHCN................................................... Xã hội chủ nghĩa. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.............. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03.10.2001 của Chính phủ về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình Việt nam năm 2000. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP....... Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23.12.2000 của TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật HN&GĐ Việt nam năm 2000. Sắc lệnh số 97/SL................................. Sắc lệnh số 97/SL ngày 22.5.1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh số 159/SL............................... Sắc lệnh số 159/SL ngày 17.11.1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn. Nghị quyết số 35/2000/QH10-NQ........ Nghị quyết số 35/2000/QH10-NQ ngày 09.6.2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Nghị quyết số 01/1988.......................... Nghị quyết số 01 ngày 20.01.1988 của HĐTP/TANDTC- hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986.
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang để họ hòa nhập với cuộc sống xã hội. Kết hôn là cơ sở, là tiền đề để xác lập quan hệ vợ chồng và quan hệ gia đình theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Ngược lại, ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Hậu quả pháp lý của ly hôn làm chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ chồng trước pháp luật và hàng loạt vấn đề về thanh toán tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng, chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Những vấn đề đó có tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích của các bên trong gia đình cũng như sự ổn định của xã hội. Vì vậy, cần phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật mà cụ thể là pháp luật về hôn nhân và gia đình để có thể hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà ly hôn mang lại. Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng đã ảnh hưởng ít nhiều tới mục tiêu xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao thì số vụ án ly hôn ngày càng tăng cao. Mặc dù, Luật HN&GĐ hiện hành có quy định khá chi tiết về vấn đề ly hôn để hạn chế thấp nhất những hậu quả đáng tiếc mà ly hôn để lại cho gia đình và xã hội, đặc biệt là tình trạng nhiều thanh thiếu niên phạm tội do sinh ra và lớn lên trong những gia đình bị ly tán; Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn xét xử còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc… Vì vậy việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp về chia tài sản vợ chồng, giải quyết vấn đề cấp dưỡng và chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đang trở thành một vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Hậu quả pháp lý của ly hôn là vấn đề đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ nhưng cho đến nay thì vẫn luôn mang tính thời sự và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Đề tài “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ; với mong muốn đóng góp những ý kiến của bản thân cho việc hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết những hậu quả pháp lý của ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của
  • 9. 2 pháp luật để giải quyết những tranh chấp sau ly hôn, góp phần ổn định chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Nghiên cứu pháp luật về Hậu quả pháp lý của ly hôn là một mảng đề tài được khá nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học Luật nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng, hậu quả pháp lý của ly hôn là một cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan khi ly hôn. Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác nhau, đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hậu quả pháp lý của ly hôn như sau: Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia Đình Việt Nam, tập 1, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Tưởng Duy Lượng (2001), Bình luận một số án Dân sự và Hôn nhân và gia đình, NXB chính trị Quốc gia Hà nội. Đinh thị Mai Phương (2006) Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình Việt nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường (2002) Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt nam, NXB Công an Nhân dân, Hà nội. Ngoài ra còn một số Giáo trình và Bình luận khoa học về Luật HN&GĐ; Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật HN&GĐ về nhân thân hoặc về tài sản, về cấp dưỡng nói chung giữa vợ chồng sau khi ly hôn, ít đề cập thực tiễn việc áp dụng và thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên. Nhóm luận văn, luận án chuyên ngành Luật: Một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như: Chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật HN&GĐ Việt năm 2000, Luận án Tiến sĩ luật học, Nguyễn Văn Cừ (2004) Trường Đại học Luật Hà nội. Luận án Thạc sỹ Luật học: Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000 của Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia năm 2008... Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp của Hồ Thị Nga (2007)...
  • 10. 3 Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hậu quả pháp lý của ly hôn nhưng các công trình đó hoặc chủ yếu tập trung về một mảng cụ thể của mối quan hệ này như về nhân thân hoặc nghiên cứu dưới góc độ tranh chấp tài sản hoặc về cấp dưỡng sau khi ly hôn. Chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về các hậu quả pháp lý của ly hôn theo luật HN&GĐ Việt nam 2000. Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về những “hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt nam năm 2000” cho luận văn thạc sỹ của mình. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài. Với đề tài “Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, Luận văn được xây dựng nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính sau: - Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn - Tìm hiểu một cách có hệ thống và hoàn chỉnh những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam mà trọng tâm chính là Luật HN&GĐ năm 2000 về hậu quả pháp lý của ly hôn - Trên cơ sở những tìm hiểu về lý luận và những quy định của pháp luật cũng như tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về ly hôn để giải quyết những hệ quả của ly hôn ở Việt Nam, luận văn mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của ly hôn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Trong giới hạn cho phép về dung lượng, đề tài tập trung đi vào làm rõ những vấn đề lý luận trực tiếp về vấn đề ly hôn và những hậu quả pháp lý cũng như những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của ly hôn; nêu và phân tích được những điểm còn hạn chế của pháp luật, từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam (Phạm vi nghiên cứu không đề cập đến ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn có yếu tố nước ngoài ). 5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài. Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong đề tài bao gồm phương pháp phân tích
  • 11. 4 để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu; phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp…nhằm đánh giá sự phù hợp của pháp luật Việt Nam để điều chỉnh vấn đề hậu quả pháp lý của ly hôn; phương pháp thống kê, tổng hợp nhằm nhận định và đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn để giải quyết vấn đề ly hôn trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam… 6. Kết cấu của luận văn. Kết cấu luận văn ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm ba chương: Chương 1. Khái quát chung về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn Chương 2. Nội dung các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn. Trong khuôn khổ đề tài luận văn tốt nghiệp với thời lượng nghiên cứu và trình độ còn hạn hẹp, chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp đánh giá của thầy, cô giáo để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn!
  • 12. 5 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN 1.1. Khái niệm ly hôn, một số quan điểm và bản chất pháp lý về ly hôn. 1.1.1. Khái niệm ly hôn và một số quan điểm về ly hôn. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu của quan hệ hôn nhân. Khi đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hôn nhân không đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình thoát khỏi những xung đột, bế tắc trong đời sống chung. Vì khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì: “Tự do ly hôn không có nghĩa là làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong xã hội văn minh”. Vấn đề ly hôn, được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Một số nước cấm ly hôn như Anđôna, Manta, Paragoat,… có nước lại đặt ra các quy định hết sức nghiêm ngặt như Achentina, Italia ... Nhưng việc cấm hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân, V. I Lênin đã khẳng định: “người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ. Tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ tự do bỏ chồng không có nghĩa là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng.” [41] Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, quyền ly hôn của vợ, chồng phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật nhằm hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Đứng trên lập trường quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, khoản 8 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) năm 2000 quy định: “ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng” [2]. Như vậy, ly hôn là kết quả của hành vi có ý chí của hai vợ chồng và được công nhận bằng bản án, quyết định của Tòa án. Đảm bảo
  • 13. 6 quyền tự do ly hôn cho các bên vợ chồng chính là nội dung quan trọng của nguyên tắc hôn nhân tiến bộ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 [1, Điều 64] và được cụ thể hóa tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000 [2]. Nhưng tự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn một cách tùy tiện, theo ý chí nguyện vọng của vợ chồng mà phải dựa trên những căn cứ luật định và trên cơ sở đó Tòa án mới xử cho ly hôn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 thì căn cứ ly hôn là khi quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” thì Tòa án sẽ xem xét yêu cầu giải quyết cho ly hôn. Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt“vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” [2, khoản 2 Điều 89]. Tuy nhiên, ly hôn trong trường hợp này chỉ là quyết định của một bên vợ, chồng trong hoàn cảnh đặc biệt mà không phát sinh từ mâu thuẫn của vợ chồng trong đời sống thực tế. Như vậy, căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng vừa thể hiện tư tưởng phê phán của các nhà làm luật về việc ly hôn tùy tiện. 1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn. Cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, hôn nhân trong đó có ly hôn là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do đó với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử lại hình thành một hệ thống pháp luật dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong xã hội. Với tư cách là một trong những quan hệ chủ đạo trong xã hội, quan hệ HN&GĐ cũng chịu sự chi phối sâu sắc của hệ tư tưởng đó. Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông, với quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Theo đó, pháp luật và các tục lệ phong kiến ở Việt Nam có nhiều quy phạm mang tính luân lý đặc biệt là các quy phạm về HN&GĐ phản ánh những đặc quyền của người đàn ông, còn người phụ nữ phải sống theo thuyết “tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê và những quy định nghiêm khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân chân chính, khiến nó trở thành thứ xiềng xích trói buộc người phụ nữ trong những nghi lễ bất bình đẳng. Ở đó, cuộc đời họ gắn liền với công việc gia đình, với chồng con và bị chi phối bởi nguyên tắc “phu xướng phụ tùy” nên họ không có quyền quyết định bất kì việc gì, ngay cả việc bảo toàn hạnh phúc riêng tư cũng không được đảm bảo.
  • 14. 7 Như vậy, pháp luật phong kiến, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo vệ quyền lợi tối cao của người gia trưởng nên quyền tự do ly hôn của người phụ nữ không được đảm bảo. Nhưng pháp luật lại trao cho đàn ông quyền được ly hôn khi vợ phạm vào điều “nghĩa tuyệt” và chỉ khi thuộc trường hợp “tam bất khứ” thì quyền ly hôn người vợ của người chồng mới bị hạn chế như: Vợ đã để tang nhà chồng ba năm, trước khi cưới nghèo sau giàu,… Như vậy, những quy định đó đã không nói lên bản chất thật sự của ly hôn mà nó chỉ là một thứ công cụ bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, các quy định của pháp luật chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng. Các luật gia tư sản cho rằng tự do ly hôn phải được thừa nhận như một quyền pháp định và đưa ra các quy định nhằm đảm bảo quyền tự do ly hôn. Song, trên thực tế đó chỉ là quy định mang tính hình thức, thực chất khi ly hôn họ vẫn bị ràng buộc bởi các quy định ngăn cấm của nhà làm luật: “dưới chế độ tư bản chủ nghĩa quyền ly hôn cũng như tất cả các quyền dân chủ khác, không loại trừ quyền nào đều không thể thực hiện một cách dễ dàng, nó lệ thuộc vào nhiều điều kiện, bị giới hạn, bị thu hẹp và có tính chất hình thức”. Quan hệ HN&GĐ trong xã hội tư sản thường được coi như là một khế ước, một hợp đồng dân sự mà khi có bất kì hành vi nào vi phạm hợp đồng ấy thì bên đối tác có thể đặt vấn đề chấm dứt hôn nhân. Theo đó, ly hôn thường căn cứ vào lỗi của một bên đương sự nên không thể hiện được bản chất thực sự của ly hôn. Vì vậy, bản chất pháp lý của ly hôn trong pháp luật HN&GĐ phong kiến và tư sản không được xem xét, đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện. Đối lập với pháp luật phong kiến và tư sản, dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa (XHCN) pháp luật đã thể hiện tính ưu việt của nó ở mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề ly hôn. Đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN không coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự hay một khế ước dân sự mà coi hôn nhân là sự tự nguyện của hai bên nam - nữ, là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Bởi nó được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính của hai bên nam - nữ nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, tính chất suốt đời của hôn nhân cũng có trường hợp ngoại lệ. Nghĩa là sau khi kết hôn, trong thời gian chung sống giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống chung thì pháp luật cho phép họ chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Như
  • 15. 8 vậy, bản chất của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Pháp luật của nhà nước XHCN công nhận và tôn trọng quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền tự do ly hôn. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam nữ yêu nhau và kết hôn với nhau thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng sống phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó không còn, mục đích của cuộc hôn nhân đã không đạt được. Khi ấy, ta không thể nhìn nhận ly hôn đơn thuần chỉ là mặt tiêu cực, mà cần phải nhận thức được rằng nó là mặt trái nhưng là mặt không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân. Vì cho phép các bên ly hôn là giải pháp mở ra lối thoát cuối cùng, giải phóng cho vợ chồng, các con cũng như các thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống chung. Bởi thực chất “ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối”. Nếu như cuộc hôn nhân đã thực sự tan vỡ và ly hôn đã trở thành mong muốn của vợ chồng thì việc ghi nhận quyền tự do ly hôn là hoàn toàn chính đáng thể hiện tính chất dân chủ và nhân đạo của pháp luật XHCN. Hõn nữa, cũng cần phải ghi nhận rằng, tự do ly hôn là một quyền cơ bản và bình đẳng giữa vợ và chồng, bởi đây là quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mục đích của việc xác lập quan hệ hôn nhân là xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, bền vững và hạnh phúc. Nhưng vì lí do nào đó mà giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, khiến cho tình nghĩa vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài được nữa thì ly hôn là biện pháp cần thiết để giải phóng cho họ. Khi xây dựng Luật HN&GĐ năm 1959, đồng chí Xuân Thủy đã phân tích: “hôn nhân bao gồm hai mặt: tự do kết hôn và tự do ly hôn. Tự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn bừa bãi, ly hôn là biện pháp giải phóng một tình trạng trầm trọng làm cho đôi vợ chồng không thể sống chung được nữa”. Như vậy, bản chất pháp lý của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã hết, mục đích của hôn nhân không đạt được. Luật HN&GĐ phong kiến và tư sản thường quy định việc ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng, vấn đề xét xử ly hôn của Tòa án là việc làm có tính thụ động, hoàn toàn do ý chí của các bên đương sự nên mới
  • 16. 9 chỉ dừng lại ở mặt hiện tượng mà chưa nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của vấn đề ly hôn. Chỉ dưới chế độ XHCN, các nhà làm luật mới nhìn nhận ly hôn theo đúng thực trạng và bản chất của cuộc hôn nhân để xem xét và quyết định hợp tình, hợp lý. 1.2. Khái quát chung về hậu quả pháp lý của ly hôn. Việc Toà án nhân dân xét xử cho ly hôn do một bên yêu cầu hoặc công nhận thuận tình ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định cho vợ chồng và con cái. Do đó, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng tất yếu sẽ kéo theo nhiều vấn đề cần giải quyết trong quá trình tiến hành xét xử, đó là: - Quan hệ vợ chồng về nhân thân chấm dứt trước pháp luật. - Chế độ tài sản chung của vợ chồng chấm dứt và tài sản chung được chia cho mỗi bên vợ, chồng sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người. - Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn được đặt ra nếu một bên vợ hoặc chồng túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng và có lý do chính đáng. - Nếu vợ chồng đã có con chung thì phải giải quyết việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, đồng thời giải quyết vấn đề đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong Luật HN&GĐ không có điều nào quy định cụ thể về việc chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn. Nhưng thông thường khi ly hôn thì quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng không liên quan gì đến nhau, dù hai bên có thoả thuận hay không thoả thuận thì Toà án cũng sẽ quyết định và việc chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng được tính từ khi bản án của Toà án có hiệu lực. Đồng thời luật cũng không quy định hạn chế việc kết hôn xây dựng hạnh phúc mới của vợ chồng sau khi đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên việc quyết định cho ly hôn hoặc công nhận thuận tình ly hôn giữa hai vợ chồng không có nghĩa là giải phóng họ khỏi các quyền và nghĩa vụ khác như: nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau và đặc biệt là quyền và nghĩa vụ đối với con cái, đó chính là trách nhiệm và vinh dự của người làm cha, làm mẹ, Toà án phải giải thích cho họ biết và thấy được những quyền và nghĩa vụ của họ đối với con cái họ ngay cả khi đã ly hôn. 1.2.1. Khái niệm hậu quả pháp lý của ly hôn.
  • 17. 10 Là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, pháp luật không chỉ chịu sự ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng sinh ra nó mà các yếu tố như tâm lý xã hội, phong tục tập quán, bản sắc dân tộc, … đều ảnh hưởng sâu sắc tới pháp luật và cũng chỉ đạt đến độ ấy pháp luật mới thực sự là những quy phạm có sức sống. Luật HN&GĐ Việt Nam đặt dưới sự phát triển của xã hội, ở mỗi thời kì lịch sử không những phản ánh đúng quy luật này mà nó còn mang đậm bản sắc, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp đã nảy sinh từ rất sớm trong xã hội có giai cấp. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến lợi ích của vợ chồng, các con và lợi ích xã hội. Về mặt pháp lý, khi Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn dẫn tới các hậu quả sau: + Về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng: Quan hệ vợ chồng được chấm dứt. + Chia tài sản chung của vợ chồng. + Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi cha mẹ ly hôn. + Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn. Như vậy, Hậu quả pháp lý của ly hôn là những nội dung sự việc mà Tòa án phải giải quyết khi xét xử cho vợ chồng ly hôn, bao gồm: Chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật; chia tài sản chung của vợ chồng; giao con chưa thành niên cho một bên nuôi dưỡng, giáo dục và quyết định mức cấp dưỡng nuôi con; giải quyết việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi có yêu cầu. 1.2.2. Khái lược quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam. 1.2.2.1. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cho đến giữa thế kỉ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc và được thể hiện rõ nét qua hai Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ) và Bộ luật Gia Long ( BLGL). Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta và bắt đầu đặt nền móng cho sự đô hộ bằng việc ban hành các bộ luật: Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm
  • 18. 11 1931 (DLBK) áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ năm 1936 (DLTK) áp dụng ở Trung kỳ. Như vậy, có thể chia pháp luật HN&GĐ trước Cách mạng tháng Tám ra thành hai thời ḱỳ: - Thời kỳ phong kiến: Dưới triều Lê, BLHĐ được coi như là thành tựu to lớn trong lịch sử lập pháp Việt Nam, các quan hệ HN&GĐ được thiết lập trên nguyên tắc: Bảo đảm tôn ti, trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trọng nam khinh nữ, xác lập tối cao quyền của người gia trưởng. Đến triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo nên BLGL ra đời được coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật nhà Thanh, các quan hệ HN&GĐ xây dựng theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc. Theo đó, vai trò của người đàn ông trong gia đình được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị trí của người phụ nữ. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của pháp luật thời kỳ này, bao gồm: Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, quan hệ vợ chồng hoàn toàn chấm dứt, không bên nào có quyền và nghĩa vụ với bên nào, vợ chồng đă ly hôn có thể tái hôn với người khác: “người chồng không được ngăn cản người khác lấy vợ cũ của mình” . Về quan hệ tài sản: Theo quy định tại Điều 401 BLHĐ thì “khi ly hôn tài sản riêng của ai vẫn thuộc sở hữu của người đó và họ có quyền mang theo” [12] trừ trường hợp ly hôn do lỗi của người vợ hoặc khi người vợ có hành vi đánh chồng, chồng thưa kiện lại muốn ly hôn thì vợ mất quyền về tài sản (BLGL) hay điền sản của vợ để lại cho chồng. Đối với tài sản chung, trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài sản chung được chia đôi mỗi người một nửa. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này. Về con cái: Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn không được pháp luật ghi nhận nên nếu có vướng mắc về vấn đề nuôi dưỡng, chăm sóc con,… thì quan lại địa phương sẽ xem xét tùy từng trường hợp cụ thể. Đối với con cái thì con mang họ cha nên sau khi ly hôn con sẽ sống với cha nhưng nếu muốn giữ con thì người vợ có quyền yêu cầu “chia” một nửa số con. Mặc dù, pháp luật thời kỳ này có những điểm tiến bộ thể hiện quyền bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng triết học, nho giáo, phật giáo, phong tục tập quán,… Do vậy về cơ bản, các quy định của hai bộ luật này không thoát khỏi những hạn chế của thời đại, với tư tưởng trọng nam khinh nữ,
  • 19. 12 bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông nên quyền lợi của người phụ nữ và các con không được đảm bảo. Như vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời kỳ này mang sắc thái Việt Nam thuần túy, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật hướng Nho và phong tục tập quán, đạo đức đã đi sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen ứng xử của người dân Việt Nam lúc bấy giờ. - Thời kỳ Pháp thuộc: Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các văn bản pháp luật mới: DLBK 1931, DLTK 1936, Tập Dân luật Giản yếu 1883. Nên các quan hệ HN&GĐ thời kỳ này cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung, những quy định về HN&GĐ trong các bộ luật này vẫn duy trì sự bất bình đẳng nam - nữ với việc thừa nhận quyền gia trưởng của người đàn ông, tước đi nhiều quyền lợi cơ bản của người phụ nữ. Vì vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn cũng tuân thủ triệt để nguyên tắc củng cố địa vị của người gia trưởng, có sự phân biệt đối xử giữa các con, coi rẻ quyền lợi của con cái, chú trọng tới việc giải quyết hậu quả về tài sản khi vợ chồng ly hôn, trong đó người vợ được bảo đảm một phần về tài sản ngay cả khi ly hôn do lỗi của vợ… Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, vợ chồng muốn đoàn tụ với nhau thì “phải khai giá thú với hộ lại” nhưng sau khi đoàn tụ rồi mà lại xin ly hôn lần nữa thì Tòa án không giải quyết. Về quan hệ tài sản: Khi ly hôn vấn đề thanh toán tài sản giữa vợ, chồng được đặt ra nhưng lại thiên về lỗi của người vợ để xem xét và quyết định phần dành cho người vợ . Trường hợp vợ thứ ly hôn thì “không bao giờ được dự phần chung chỉ được lấy lại tài sản riêng của mình. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 149 DLBK, Điều 147 DLTK, nếu ly hôn do lỗi của người vợ thì người vợ phải bồi thường lại những đồ vật, sính lễ trước kia nhà chồng đã làm lễ đính ước trừ khi đồ vật đó đă tiêu dùng cho lễ cưới. Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn cũng được đặt ra “án xử ly hôn sẽ xử cả về tiền cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và về quyền lợi tài sản của người vợ” . Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sẽ chấm dứt nếu người vợ tái giá hoặc ăn ở tư tình với người khác hoặc vô hạnh.
  • 20. 13 Về con cái: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được pháp luật ghi nhận nhưng “vấn đề nuôi nấng con cái được giao cho người cha” trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ ấy mà Toà án giao cho người mẹ thì người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con. Như vậy, các quy định của pháp luật thời kì này chủ yếu dựa vào các phong tục tập quán lạc hậu và BLDS Pháp năm 1804 với những quy định thuần túy coi hôn nhân là chế định do dân luật điều chỉnh và là công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Tuy vậy các chế định HN&GĐ trong các bộ luật này có sự tiến bộ quan trọng, bước đầu chú ý tới việc bảo đảm quyền lợi của người vợ và các con khi ly hôn như: việc chia tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với người vợ, nuôi dưỡng con,... Nhưng vẫn duy trì sự bất bình đẳng giữa vợ, chồng, củng cố quyền của người gia trưởng làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của gia đình và xã hội. Dù chưa thật rõ ràng và công bằng, song các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời kỳ này ít nhiều có những điểm tiến bộ mà khi xây dựng chế định ly hôn các đạo luật HN&GĐ ở nước ta sau này đều ghi nhận và phát triển thêm như: vấn đề cấp dưỡng nuôi con, sau khi ly hôn vợ chồng muốn quay trở về chung sống với nhau thì phải đăng kí kết hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn,… 1.2.2.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn trong pháp luật ở Miền Nam nước ta từ năm 1945 đến năm 1975. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Nhà nước mới ra đời đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật mới phù hợp với bản chất của nhà nước và là công cụ để nhà nước thực hiện tốt chức năng kinh tế - xã hội của mình. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có Luật HN&GĐ. Có thể chia sự phát triển của Luật HN&GĐ sau cách mạng tháng Tám đến nay theo các thời kỳ sau: - Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954: Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt tạo cơ sở pháp lý để nhà nước ta ban hành các Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của chế độ cũ. Sự ra đời của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-05-1950 (SL 97) và
  • 21. 14 Sắc lệnh số 159/SL ngày 17-11-1950 (SL 159) đánh dấu bước khởi điểm của Luật HN&GĐ trong chế độ xã hội mới. SL 97 quy định thực hiện nam nữ bình đẳng trong giai đoạn xã hội mới: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” [21,Điều 5], “Người đàn bà có chồng có toàn bộ năng lực về mặt hộ” [21,Điều 6] và ghi nhận: “Người đàn bà ly dị chồng có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai” [21,Điều4]. Có thể nói, việc thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình và xã hội là điểm tiến bộ của Luật HN&GĐ Việt Nam. Tuy nhiên, SL 97 mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình đẳng trong quan hệ vợ chồng mà chưa đề cập tới vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn. Những hạn chế này đã từng bước được khắc phục ở SL 159 với những quy định cụ thể thừa nhận nguyên tắc tự do hôn nhân. Trong đó, có tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất bình đẳng về duyên cớ ly hôn, bảo vệ người phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn, cũng như quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn. Theo đó, vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn hoặc có thể được Tòa án cho phép ly hôn nếu thuộc một trong các trường hợp: ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng, vợ chồng tính tình không hợp nhau,… [22,Điều 2, Điều 3]; hay để bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng” [22,Điều 6]. Các quy định này, đánh dấu thêm một điểm mới của pháp luật HN&GĐ đối với vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của nhà làm luật về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên khi ly hôn nhưng chưa có quy định về việc bảo vệ quyền lợi cho con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Đó là điểm hạn chế của pháp luật thời kỳ này. Có thể nói, các quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn giai đoạn này đã góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự ràng buộc khắt khe, không tôn trọng quyền lợi chính đáng của họ; bước đầu quyền bình đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã hội được thực hiện; quyền lợi của người phụ nữ và con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn được bảo vệ. Nhưng do ra đời trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện lịch sử lúc bấy giờ nên SL 97 và SL 159 vẫn còn những hạn chế nhất định như: chưa xóa bỏ tận gốc chế độ HN&GĐ phong kiến, chưa ghi nhận chế
  • 22. 15 độ hôn nhân một vợ một chồng, duyên cớ ly hôn vẫn chưa dựa trên bản chất quan hệ hôn nhân nên các quan hệ HN&GĐ phong kiến vẫn còn tồn tại. - Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975: Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) và là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam, miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Ở miền Bắc: Bước vào công cuộc xây dựng CNXH, xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến, SL 97 và SL 159 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Mặc dù, có những đóng góp lớn nhưng hai sắc lệnh này đã không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, “việc ban hành một đạo luật mới về HN&GĐ đã trở thành đòi hỏi cấp bách của toàn xã hội. Đó là tất yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta ” – Công báo số 1 năm 1960. Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình [23,Điều 24] tạo cơ sở pháp lý cho việc ban hành một đạo luật mới về HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 1959 ban hành ngày 29/12/1959 trên nguyên tắc hôn nhân tự do tiến bộ, một vợ một chồng; nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình và quyền lợi của con cái nhằm xây dựng chế độ HN&GĐ mới theo tinh thần Hiến pháp năm 1959 và yêu cầu của thực tiễn khách quan. Luật HN&GĐ năm 1959 dành một chương quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn với những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ 1959 là giải quyết quan hệ vợ chồng, thanh toán tài sản, vấn đề cấp dưỡng cho một bên túng thiếu và mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn. Về quan hệ nhân thân: Sau khi phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt trước pháp luật [24,Điều 25, Điều 26]. Về quan hệ tài sản: Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, Luật đã ghi nhận: “khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của
  • 23. 16 con và lợi ích của việc sản xuất” [24,Điều 29]. Khác với quy định của DLBK 1931, DLTK 1936, đưa ra nguyên tắc chia mà phần của người vợ sẽ ảnh hưởng nếu ly hôn do lỗi của người vợ. Giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con: Ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con sau khi cha mẹ ly hôn, như: vợ chồng khi ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con chung; việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con hay việc đóng góp phí tổn nuôi con,… [24, Điều 31, 32, 33]. Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng: Pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình” [24,Điều 30]. Như vậy, so với SL 97 và SL 159 thì những quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1959 đầy đủ và cụ thể hơn, thể hiện bước tiến rõ rệt nhưng vẫn còn mang tính khái quát, chưa quy định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên không có khả năng lao động, chưa có sự phân biệt giữa tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Có thể nói, đây là bước phát triển của pháp luật HN&GĐ, là cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển ngành luật HN&GĐ trong hệ thống pháp luật XHCN của Nhà nước ta. Ở miền Nam: sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp nhảy vào xâm lược, tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ HN&GĐ được áp dụng ở miền Nam trong giai đoạn này thể hiện qua ba văn bản: Luật Gia đình (Luật số 1/59), Sắc luật số 15/64, Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972. Mặc dù, ra đời vào các thời điểm khác nhau, hình thức quy định cũng có nét riêng, song nhìn chung các văn bản này đều quy định về vấn đề ly thân và ly hôn. Trong đó, việc giải quyết hậu quả của ly hôn chủ yếu dựa trên yếu tố lỗi của các bên vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho người kia hay người không có lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi,… Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền bình đẳng của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê nhưng đạo luật này chỉ quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn: “Cấm chỉ vợ chồng ruồng bỏ nhau và sự ly hôn” [17,Điều 55], trừ trường hợp đặc biệt do Tổng thống quyết định. Do đó, không đặt ra vấn đề hậu quả của ly hôn.
  • 24. 17 Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59 được thay thế bằng Sắc luật số15/64. Sắc luật số 15/64 có quy định về vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng cũng như giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Theo quy định của Sắc luật số15/64, quan hệ vợ chồng chấm dứt bằng ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn được đặt ra nhưng người có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi; hay việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cũng căn cứ trên cơ sở lỗi của hai vợ chồng nên người không có lỗi sẽ đương nhiên có quyền nuôi con dưới 16 tuổi, quyền thăm nom cấp dưỡng cho con thuộc về người kia. Ngoài ra, việc giải quyết tài sản của vợ chồng sau khi ly hôn căn cứ vào lỗi của các bên, nếu người hôn phối có lỗi thì họ “mất hết quyền tài sản do hôn ước”, ngược lại “người hôn phối vô tội sẽ được giữ những quyền lợi này đã được ưng thuận với điều kiện hỗ tương” [18,Điều 92]. Nhìn chung, Sắc luật số 15/64 đã xóa bỏ những quy định không hợp lý của Luật số 1/59 nhưng cũng chưa quy định một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên hôn phối và của con cái. Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho soạn thảo, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. Bộ Dân luật năm 1972 ra đời đã thay thế Sắc luật số 15/64. Bộ luật Dân sự năm 1972 coi ly hôn là một chế định do dân luật điều chỉnh nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các quy định của Sắc luật số15/64. Theo đó, ly hôn là chấm dứt mối liên hệ nhân thân giữa vợ chồng, chế độ hôn sản bị giải tán và được thanh toán, mỗi người hôn phối sẽ lấy quyền quản trị và hưởng dụng đối với tài sản riêng của mình, tài sản chung sẽ chia đôi, phần của người hôn phối có lỗi sẽ bị khấu trừ số tiền cấp dưỡng…[19,Điều 201]; hay việc mất quyền lợi về tài sản của vợ chồng khi ly hôn [19,Điều 200]. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng cũng được đặt ra nhưng có sự phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người vô tội với tiền cấp dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn:“ Tiền này là phần tiền cho người vợ hay người chồng biệt cư, không phân biệt người này có lỗi hay không có lỗi” [19,Điều 178], và “Tòa án có thể buộc người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn phải cấp dưỡng cho người kia tùy theo tư lực của mình…” [19,Điều 197]. Tựu chung lại, pháp luật HN&GĐ áp dụng ở miền Nam thời kỳ này, ra đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, và nó là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản động tay sai. Vì vậy, các văn bản pháp
  • 25. 18 luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ do chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này đều bảo vệ quyền lợi của người gia trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, có sự phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân ta. 1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1975 đến nay. Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước giành độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Việc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất chung trong cả nước. Trước yêu cầu đó, Hiến pháp năm 1980 được ban hành ghi nhận các nguyên tắc về chế độ HN&GĐ [26, Điều 38, 47, 63 và Điều 64], trên cơ sở đó Nhà nước ta ban hành Luật NH&GĐ năm 1986. Các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn của Luật NH&GĐ năm 1986 về cơ bản vẫn dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ năm1959 như bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên, cấp dưỡng giữa vợ chồng … nhưng có bổ sung thêm nhiều quy định mới như: “việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận và phải được Tòa án công nhận, nhưng có xem xét một cách hợp lý tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên” [25,Điều 42], về cấp dưỡng giữa vợ chồng “ khi hoàn cảnh thay đổi người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng” [25,Điều 43] và lần đầu tiên đưa ra quy định bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động [25, Điều 20],… Với những quy định này, Luật HN&GĐ năm 1986 đã góp phần vào việc xây dựng và củng cố quan hệ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp về HN&GĐ của dân tộc nhưng còn mang tính định hướng, khái quát. Do vậy, việc áp dụng các quy định này vào giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung. Trước những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội, sau hơn 10 năm thực hiện Luật HN&GĐ năm 1986, kì họp thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2000. Kế thừa các quy định, nguyên tắc dân chủ, tiến bộ về HN&GĐ trong lịch sử, Luật HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục những hạn chế của luật HN&GĐ năm 1986. Các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong Luật này đã thể hiện một bước phát triển
  • 26. 19 cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung tư tưởng góp phần vào việc xây dựng, củng cố chế độ HN&GĐ XHCN, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao nhận thức của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác xét xử của Tòa án. 1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về hậu quả của ly hôn. Ly hôn là hiện tượng xã hội phức tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của vợ chồng, lợi ích của gia đình và xã hội. Hiện nay, tình trạng ly hôn ở nước ta ngày càng gia tăng với những nguyên nhân và lý do rất đa dạng, phức tạp. Việc quy định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn góp phần giải quyết ly hôn một cách chính xác, đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng cũng như lợi ích của gia đình và xã hội. Quyết định ly hôn của vợ chồng được pháp luật thừa nhận là một quyền tự do của công dân. Theo đó, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chấm dứt nhưng việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con, các tranh chấp liên quan đến tài sản, cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn là vấn đề vô cùng phức tạp cần phải được pháp luật quy định cụ thể để hạn chế một cách thấp nhất các tranh chấp xảy ra, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội. Hơn nữa, trách nhiệm chăm sóc, nuôi dạy con cái không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ luật định của cha mẹ để ổn định cuộc sống của con sau khi cha mẹ ly hôn. Các quy định về hậu quả pháp lý cuả ly hôn trong Luật HN&GĐ thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới quyền lợi trẻ em khi cha mẹ ly hôn. Bởi “trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Khi gia đình tan vỡ, hạnh phúc riêng tư của cha mẹ không còn nhưng sợi dây tình cảm giữa cha mẹ và con cũng không vì thế mất đi mà cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ, quyền nuôi dạy con cái. Ngược lại, con cái cũng trở thành niềm động viên an ủi của cha mẹ và có bổn phận yêu thương, kính trọng, chăm sóc, cấp dưỡng khi cha mẹ ốm đau già yếu. Việc ghi nhận bằng pháp luật đối với hậu quả pháp lý của ly hôn là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đảm bảo sự bình giữa vợ và chồng ngay cả khi ly hôn. Đồng thời, thể hiện tính chất công bằng, dân chủ và nhân đạo của pháp luật XHCN. Có thể nói, kể từ khi pháp luật quy định giải quyết việc ly hôn phải dựa vào bản chất, thực trạng của quan hệ hôn nhân cho đến việc chú trọng giải quyết hậu quả của ly hôn. Pháp luật XHCN đã thật sự quan tâm tới vấn đề ly hôn và hạn chế tới mức tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với gia đình, đặc biệt là con cái.
  • 27. 20 Xuất phát từ lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng, các con cũng như các thành viên khác, sự ổn định của các quan hệ HN&GĐ.Việc quy định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn giúp Toà án nhân dân các cấp có đủ cơ sở pháp lý để điều tra, tìm hiểu kĩ nguyên nhân dẫn tới những mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư tình cảm của người trong cuộc, để có thể giải quyết ly hôn chính xác đảm bảo quyền lợi của các bên, của gia đình và xã hội. Qua đó thể hiện sự quan tâm của các nhà làm luật tới việc giải quyết các mối quan hệ liên quan tới vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình khi hôn nhân thực sự tan vỡ. Như vậy, việc quy định trong pháp luật HN&GĐ về Hậu quả pháp lý của ly hôn là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý; đồng thời cũng là cơ sở, căn cứ để Tòa án áp dụng giải quyết chính xác các vấn đề về quan hệ nhân thân, tài sản của vợ chồng; vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng và quyền lợi của các con khi vợ chồng ly hôn.
  • 28. 21 Quan hệ pháp luật nhân thân giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân CHƯƠNG 2 HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 2.1. Về quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân giữa vợ chồng sau khi ly hôn). Quan hệ giữa vợ và chồng được quy định tại Chương III Luật HN&GĐ 2000 đã mang tính khái quát cao, bởi quan hệ vợ, chồng không chỉ là quyền và nghĩa vụ đối với nhau mà nó còn là tình cảm cao đẹp. Chương này gồm có 16 điều từ Điều 18 đến Điều 33, nhiều hơn 7 điều so với Luật HN&GĐ năm 1986 là một số quy định mới về quyền nhân thân và tài sản nhằm cụ thể hóa hơn quan hệ nhân thân cũng như quan hệ tài sản giữa vợ chồng, qua đó khẳng định sự bình đẳng, bình quyền trong quan hệ giữa vợ và phi tài sản (không mang nội dung kinh tế). Đó là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về lao động và học tập, hoạt động nghề nghiệp, nó còn bao hàm cả tình yêu, sự chung thủy, hòa thuận và kính trọng lẫn nhau, những cư xử đúng đắn và cùng nhau dạy bảo con cái... dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ, các quy tắc tập quán của dân tộc và đạo đức xã hội. Luật HN&GĐ năm 1986 đã khẳng định quyền bình đẳng vợ chồng thể hiện ở các quyền như: tự do lựa chọn chỗ ở, lựa chọn nghề nghiệp, nghĩa vụ chung thủy yêu thương. Luật HN&GĐ 2000 một lần nữa khẳng định và mở rộng hơn các quyền đó như: tôn trọng danh dự nhân phẩm, uy tín, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng, vợ chồng giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển, quyền đại diện cho nhau cũng như trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một bên thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng mang yếu tố tình cảm là nét đặc trưng gắn liền với bản thân họ mà không thể chuyển giao cho người khác được. Bởi các quan hệ này phát sinh từ lợi ích tinh thần của mỗi cá nhân, gắn liền với một chủ thể nhất định và không mang nội dung kinh tế như quan hệ tài sản. Nó chiếm vị trí quan trọng trong đời sống vợ chồng. Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật. Kể từ thời điểm này, người vợ, người chồng.
  • 29. 22 chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác mà không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào từ phía bên kia. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sẽ đương nhiên chấm dứt mà không phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Nghĩa là các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn và gắn bó trong suốt thời kỳ hôn nhân, như: nghĩa vụ yêu thương quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng… sẽ đương nhiên mất đi. Nhưng một số quyền về nhân thân khác mà vợ chồng với tư cách là công dân thì vẫn không thay đổi dù họ đã ly hôn, như: họ tên, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp… sẽ do các bên tự quyết định. Như vậy, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chỉ tồn tại và được pháp luật bảo vệ khi họ là vợ chồng hợp pháp của nhau. Nên sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt. Sau khi phán quyết ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vì lý do hay động cơ nào đó, mà vợ chồng quay trở về chung sống với nhau thì họ vẫn phải đăng ký kết hôn theo luật định. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp vợ chồng đã ly hôn sau đó trở về chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, giữa họ lại có con chung, tài sản chung và sau đó họ lại yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Theo Điều 57 BLDS năm 2005, khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000: “vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn”. Trong trường hợp này, nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ không giải quyết việc ly hôn nữa. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 35/2000/QH ngày 9/6/2000 và Nghị quyết 02/2000/NQ - HĐTP thì: “nếu có tranh chấp liên quan đến việc sống chung này, Tòa án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng, nếu có tranh chấp liên quan đến tài sản và con thì giải quyết như trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 17 Luật HN&GĐ”. Việc không thừa nhận quan hệ hôn nhân trong trường hợp này là hợp lý, góp phần nâng cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật về HN&GĐ nói riêng của người dân. Đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội. 2.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. + Nhận xét chung: Việc giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ căn cứ vào Điều 95: “Việc chia tài sản do hai bên thoả thuận và phải được Toà án nhân dân công nhận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định” [2]. Quy định như vậy không có gì là mâu thuẫn với quyền tự định đoạt của công dân, bởi vì để
  • 30. 23 đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự nhất là phụ nữ và trẻ em khi ly hôn th́ ngay cả trường hợp tự thoả thuận cũng phải được Toà án công nhận, nếu việc thoả thuận đó là hợp pháp th́ không sao nhưng nếu không hợp pháp, quyền lợi của một trong hai bên bị vi phạm thì Toà án cũng cần phải quyết định lại. Về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn phải theo quy định: “Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Tài sản chung về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này...”. Tài sản chung và riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Để chia tài sản chung của vợ chồng cần phải xác định chính xác khối tài sản chung hiện có (gồm có cả quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người khác...) khi chia phải căn cứ vào tình hình tài sản tức là tài sản thực tế của vợ chồng hiện có kể cả những khoản cho vay, mượn, tiền gửi tiết kiệm. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà chuyển sang một dạng khác và sự chi dùng đó là bức thiết của gia đình thì phải coi tài sản đó là đang còn để tính chia còn những thứ đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì không phải thanh toán. Đồng thời khi chia cần phải xác định trong khối tài sản đó có những thứ gì có thể chia bằng hiện vật, còn những cái gì không thể tách ra để chia được như: xe máy, xe đạp, ti vi, tủ lạnh... thì để nguyên và người nào hưởng nếu có chênh lệch thì phải thanh toán tiền chênh lệch cho người kia. Đối với tài sản bằng hiện vật thì phải kiểm kê, định giá theo giá trị của thị trường một cách chính xác, công khai và đúng đắn. Đồng thời còn phải xem xét đến tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên. Có nghĩa là hiện tại vợ chồng, con cái sinh sống ở một nơi hay mỗi bên sinh hoạt ở một chỗ khác nhau hoặc vẫn còn ở chung với gia đình, nắm sát tình trạng gia đình khi vợ chồng ly hôn thì mới đảm bảo khi chia tài sản không bị sót, lọt. Thông thường thì tài sản chung chia đôi, nhưng để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và hợp lý thì cần xét đến công sức của mỗi bên bỏ ra để xây dựng khối tài sản chung đó. Công sức của mỗi bên phải kể đến trách nhiệm thu vén, bảo vệ khối tài sản chung đó, bởi trong thực tế không ít những gia đình tài sản chung chỉ có một bên bỏ sức lao động của mình để tạo ra... Theo luật quy định, lao động trong gia đình được tính ngang với lao động sản xuất. Tại Điều 95 quy định: “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” [2]. Vì trong xã hội cũ, người phụ nữ và con
  • 31. 24 cái bị coi rẻ, họ không có quyền hành gì trong gia đình và nhất là đối với tài sản, họ hoàn toàn bị phụ thuộc vào người cha, người chồng. Cho nên luật quy định như vậy là nhằm mục đích xoá bỏ sự bất công trong xã hội cũ và trong cuộc sống bao giờ người phụ nữ cũng gặp khó khăn hơn nam giới, đặc biệt khi ly hôn. Do đó, cần phải đảm bảo cho người phụ nữ và con chưa thành niên có một cuộc sống bình thường để họ yên tâm công tác, học tập ngay cả khi quan hệ gia đình bị tan vỡ. Đồng thời cũng chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích của cá nhân mới được đảm bảo, lợi ích của cá nhân không tách rời lợi ích của tập thể và của xã hội, các lợi ích đó phải kết hợp với nhau một cách hài hoà. Cho nên, khi giải quyết ly hôn không chỉ đảm bảo quyền lợi của mỗi bên đương sự và con cái; mà còn phải quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp. Đối với trường hợp vợ chồng vẫn còn chung sống với gia đình bên vợ (chồng) thì luật cũng quy định tại Điều 96. Nếu tài sản của họ không thể xác định được thì vợ chồng được chia một phần trong khối tài sản đó, căn cứ vào công sức đóng góp, vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung đó. Lao động trong gia đình được coi là lao động sản xuất. Quy định đó hoàn toàn phù hợp với thực tế và bảo đảm cho bên làm công việc nội trợ (thường là người vợ) không bị thiệt thòi. Nhìn chung, việc giải quyết các hậu quả pháp lý của ly hôn về vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là điều cần thiết bảo đảm điều kiện sống cho mỗi bên sau ly hôn. Tuy nhiên, vấn đề này cũng là vấn đề phức tạp nhất, chứng kiến sự tan rã của các vấn đề tinh thần, đạo đức, vật chất của một gia đình với chức năng là một tế bào cấu thành nên xã hội. 2.2.1. Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Trên cơ sở xác định sở hữu chung, riêng của vợ chồng, việc chia tài sản chung khi ly hôn phải đảm bảo theo pháp luật quy định: Luật, các văn bản dưới luật. Cần quán triệt các nguyên tắc [2,Điều 95] và các căn cứ khi chia tài sản của vợ chồng: + Nguyên tắc: - Bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt. - Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và các con chua thành niên.
  • 32. 25 Như vậy, về nguyên tắc khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở - Bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp. + Căn cứ: - Tình hình tài sản; tình trạng cụ thể của gia đình; công sức đóng góp của mỗi bên. Theo quy định của Điều 95, việc chia tài sản khi ly hôn theo nguyên tắc do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Quy định này thể hiện quyền tự định đoạt và tôn trọng nguyên tắc tự nguyện của vợ chồng. So với Điều 42 Luật HN&GĐ năm 1986 “ việc chia tài sản do hai bên thỏa thuận và phải được Tòa án nhân dân công nhận”, thì Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã đề cao hơn nữa ý chí của các bên khi không cần sự công nhận của Tòa án. Điều này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cả vợ chồng. Tuy nhiên, việc thỏa thuận của vợ chồng không được trái với nguyên tắc mà pháp luật đã đề ra, với mục đích nhằm tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ tài sản với Nhà nước hoặc bên thứ ba. hữu của bên đó, tài sản chung sẽ được chia đôi nhưng có xem xét đến công sức đóng góp và hoàn cảnh của mỗi bên cũng như việc đảm bảo quyền lợi của vợ và các con. Mặt khác, khi chia tài sản cũng phải chú ý tới việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để họ có điều kiện để tiếp tục lao động tạo thu nhập, tránh tình trạng làm mất hoặc giảm giá trị, công dụng của tài sản như phá hỏng tài sản, nhà cửa, tư liệu sản xuất làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các bên. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được do mâu thuẫn trầm trọng và thiếu sự hợp tác, lúc đó Luật quy định: “ nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Tòa sẽ áp dụng Điều 95 của Luật HN&GĐ năm 2000 để chia, kết hợp với từng trường hợp cụ thể được quy định tại các Điều 96, 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ năm 2000 để bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của các bên. Khi ly hôn tài sản của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, nếu có sự chênh lệch thì người nào được chia tài sản có giá trị lớn hơn phần mà mình được hưởng phải thanh toán cho bên kia khoản tiền tương ứng với phần chênh lệch. Giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm chia. Trên thực tế, Tòa án thường gặp rất nhiều vướng mắc khi giải quyết hậu quả pháp lý về tài sản giữa vợ chồng. Để đảm bảo
  • 33. 26 tài sản được chia công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên, nâng cao hiệu quả việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản vợ chồng. Tòa án phải xác định rõ các chứng cứ mà đương sự cung cấp, vận dụng đúng đắn, linh hoạt các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ, nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Qua đó, xác định rõ nguồn gốc, giá trị, số lượng tài sản, tình hình tài sản khi ly hôn, tình trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên trong quá trình vợ chồng chung sống như thế nào?… Có như thế mới có thể giải quyết vấn đề tài sản một cách thấu tình đạt lý, bảo vệ được quyền lợi của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội. 2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng. + Xác định khối tài sản chung của vợ chồng Chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những vấn đề quan trọng của Luật HN&GĐ. Nó góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bình đẳng, góp phần bảo vệ những quyền lợi chính đáng của công dân. Tài sản của vợ chồng không chỉ là vấn đề sở hữu của cải vật chất liên quan đến lợi ích riêng của vợ chồng. Gắn với tài sản của vợ chồng là những quan hệ xã hội cần giải quyết trong đời sống gia đình có liên quan đến lợi ích của các thành viên khác. Chính vì vậy tài sản của vợ chồng được Nhà nước quy định trong pháp luật thành chế độ pháp lý tài sản của vợ chồng, đó là một quy định cần thiết nhằm điều chỉnh những quan hệ tài sản trong đời sống gia đình. Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 đều quy định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung. Song phạm vi tài sản chung của vợ chồng quy định trong Luật HN&GĐ cụ thể và hoàn thiện như sau: + Tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. + Thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác hoặc không chứng minh được là tài sản riêng. . + Tài sản của vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung hoặc cả hai thỏa thuận đó là tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản sau: + Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, các thu nhập về sản xuất ở gia đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt thu nhập của mỗi bên.
  • 34. 27 + Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên. + Tài sản mà vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế chung. + Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Để xác định chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân phải căn cứ vào nguồn gốc phát sinh và thời điểm hình thành tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì tài sản chung vợ chồng bao gồm: “ Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận” [2]. Ngoài ra, tài sản chung vợ chồng còn bao gồm các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên, tiền tiết kiệm là tài sản chung vợ chồng gửi ở ngân hàng, những khoản nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào đời sống chung cần phải trả, những khoản nợ mà vợ chồng cho người khác vay có quyền đòi,…Các tài sản chung của vợ chồng phải là tài sản đó phải hiện còn trong gia đình tại thời điểm Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn. Riêng đối với các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận phải ghi tên sở hữu của cả hai bên vợ chồng .Tài sản đó có thể là Quyền sử dụng đất (QSDĐ), ôtô, xe máy, tàu biển, … Như vậy, đây là quy định mới, tiến bộ hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986. Quy định này, giúp Toà án tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn khi giải quyết các tranh chấp về tài sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên vợ chồng khi ly hôn. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để vợ, chồng chứng minh đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của mình. Trong các loại tài sản trên thì Quyền sử dụng đất, nhà ở là loại tài sản mang nét đặc thù riêng. Nó thường là tài sản có giá trị lớn hoặc đem lại thu nhập chính cho vợ
  • 35. 28 chồng nên khi ly hôn thường xảy ra tranh chấp. Vì vậy Toà án cần phải xác định rõ nó là tài sản riêng hay tài sản chung vợ chồng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. + Chia tài sản chung vợ chồng: Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ thì “tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất” Do vậy, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai bên cùng tạo ra một cách trực tiếp, không phụ thuộc vào công sức đóng góp giữa vợ chồng nhiều hay ít… Mà do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân nên pháp luật luôn ghi nhận công sức đóng góp để xác định tài sản chung của vợ chồng là “ như nhau”, vợ chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản một cách bình đẳng. Vì vậy, khi ly hôn về nguyên tắc pháp luật tôn trọng sự thoả thuận của các bên, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Quy định này, là điểm mới so với trước kia thể hiện sự tôn trọng và đề cao quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung. Nhưng họ không được lạm dụng quyền này nhằm “trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản” gây hậu quả xấu, xâm phạm lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, về nguyên tắc: phần của vợ chồng trong khối tài sản chung là bằng nhau, không phân biệt công sức đóng góp nhiều hay ít của mỗi bên Khi đã xác định rõ ràng về tài sản chung, Tòa án áp dụng Khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 để chia. Tại điểm a khoản 2 Điều 95 quy định: “ Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” [2]. Tòa án cũng xem xét nguyên tắc chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Điều 27 Luật HN&GĐ và Điều 233 Bộ luật Dân sự năm 2005 để chia. Để đảm bảo tính công bằng, không phải trường hợp nào Tòa án cũng chia đôi tài sản vì còn phải xem xét vào công sức đóng góp của mỗi bên. Có nghĩa là phải xem xét tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản gì, nguồn gốc phát sinh tài sản, tài sản có thể chia đựơc bằng hiện vật hay không? Vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau trong thời gian bao lâu? Vợ chồng cùng cư trú hay cư trú ở những nơi khác nhau? Ai là người có công sức đóng góp nhiều hơn, ai là lao động chủ yếu trong gia đình, tài sản có công sức đóng góp của người thứ ba không? Xác định rõ các khoản nợ mà vợ chồng nợ người khác hoặc người
  • 36. 29 khác nợ vợ chồng, các nghĩa vụ tài sản chung mà vợ chồng cần phải thanh toán trước khi ly hôn,… Luật còn xem xét đến việc “ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Nguyên tắc này nhằm xóa bỏ triệt để quan niệm của chế độ HN&GĐ phong kiến trước đây, coi rẻ quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ và con. Việc bảo vệ này cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật, không tùy tiện. Ví dụ: Khi chia tài sản chung là nhà ở, xét thấy cả vợ và chồng đều có nhu cầu cấp bách về nhà ở, người vợ lại được giao nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên... thì có thể chia ngôi nhà cho người vợ sở hữu, người chồng sẽ được chia những tài sản khác theo công sức đóng góp của họ. Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn còn phải “ bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động có thu nhập”, vấn đề này được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 95. Tùy theo tính chất nghề nghiệp chuyên môn của vợ chồng, khi chia tài sản của vợ chồng phải bảo đảm được giá trị, công dụng của tài sản, phù hợp với nghề nghiệp của họ nhằm phát huy tính năng của tài sản trong sản xuất kinh doanh. Cần tránh việc chia tài sản của vợ chồng làm mất đi công dụng và giá trị của tài sản, ví dụ: Giết thịt trâu bò, phá dỡ nhà cửa... Tài sản chung của vợ chồng còn được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị. Bên nào nhận được phần tài sản có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia trị giá chênh lệch [2, điểm d khoản 2 Điều 95]. Ngoài ra trên thực tế, trong thời kỳ hôn nhân vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng vay nợ người khác nhằm bảo đảm các nhu cầu thiết yếu cho gia đình (Điều 25, 27 ) thì được xác định là nợ chung và khi ly hôn, tài sản chung của hai vợ chồng được bảo đảm để thanh toán khoản nợ chung đó. Trên thực tế sau khi ly hôn, vợ chồng ly tán thường gây khó khăn cho việc thanh toán các nghĩa vụ chung, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba. Do vậy khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định khi ly hôn vợ chồng thỏa thuận thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là một quy định mới của Luật HN&HĐ năm 2000 so với Luật HN&GĐ năm 1986. Điều này nhằm hạn chế những hậu quả tiêu cực do sự kiện ly hôn gây ra nhằm bảo đảm quyền lợi của người thứ ba. Trường hợp vợ chồng