2. TƯ VẤN MỤC VỤ CG?
• Nhiều định nghĩa khác nhau tùy theo
cách nhìn và lối tiếp cận vấn đề.
• Theo Công giáo: Tư vấn Kito giáo là
“sự quan hệ giúp đỡ nhắm vào toàn
diện sự hoàn hảo hay sự thánh thiện
của người tín hữu, nói cách khác Kito
hữu hoàn toàn “chết cho tội và sống
cho Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô” .
Hiện thực các tiềm năng, đạt tới một
năng lực tâm linh và luân lí. Đạt đến
sự thánh thiện hay sự trưởng thành
trong Đức Ki-tô (PHN, p.192)
3. Tư Vấn Mục vụ
• NÉT ĐẶC BIỆT CỦA TV KTG
• Chấp nhận Kinh Thánh như quyền bính sau
cùng: con người là ai, từ đâu đến, và bản
chất con người là gì.
• Không chỉ dựa vào ý chí của con người,
nhưng còn tùy thuộc vào sự trợ giúp của TC
• Đưa ra cách thức hữu hiệu trong việc
đương đầu với quá khứ và hiện tại.
• Đặt nền tảng trên Tình yêu Thiên Chúa
• Xem con người là một tổng thể duy nhất
bao gồm Tâm lí, Thể lí, và Tâm linh
(PHN,pp. 15-17)
4. Tư vấn Mục vụ
• Theo Vaughan: Tư vấn Mục vụ là một loại
tư vấn đặc biệt, phân biệt hẳn với các loại
tư vấn khác xét về phương diện phương
pháp và sự định hướng.
• Định hướng: theo hệ thống niềm tin và các
gía trị Kitô-giáo.
• Các vấn đề được thảo luận trong bối cảnh
đức tin và trong sự dấn thân Kitô-giáo (vd:
vấn đề hôn nhân – li dị/li thân…)
• Dựa trên giả định người tư vấn (linh mục/tu
sĩ/giáo dân) là người có đức tin, đáng tín
nhiệm, có am hiểu và có kinh nghiệm trong
việc tư vấn. Có thể chia sẻ đức tin trực tiếp
hay gián tiếp trong quá trinh tư vấn.
5. Định nghĩa
• Phương pháp:
• Tư vấn mục vụ không phải là tiếp xúc và đối thoại mục vụ –
nó phải có tính cách riêng tư, chuyên nghiệp hơn, đi sâu
vào các vấn đề.
• Tư vấn Mục vụ không phải là Linh hướng: linh hướng
nhắm đến đời sống thiêng liêng, tương quan với Chúa; ít
nhắm đến các sự kiện cụ thể của đời sống hằng ngày.
• Tư vấn Mục vụ không phải là Tư vấn Tâm lí hay Tâm lí trị
liệu (thuộc lãnh vực chuyên môn) – TVMV nhằm giúp
những người “bình thường” sống đời sống Kito-hữu xứng
đáng, và giải quyết vấn đề trên cơ sở đức tin và các mối
ràng buộc Kitô-giáo.
• Không chỉ đưa ra lời khuyên – cần cẩn thận khi đưa ra lời
khuyên.
• Không duy chỉ là phân tích vấn đề. MVTV không phải là
công việc tri thức/phân tích.
• Như thế TVMV không có phương pháp rõ rệt, nhưng còn
phải tùy thuộc khả năng chuyên môn và định hướng làm
việc của người tư vấn trong tư cách là chuyên gia, người
giúp đỡ đầy quan tâm, hay người tạo điều kiện cho quá
trình giải quyết vấn đê.
6. Đi tìm một Định nghĩa chung cho
Kito-giáo
• Ngày nay, nhất là ở Mỹ, người ta muốn đi đến một định
nghĩa hay xác định lãnh vực có tính cách đại kết, và nếu có
thể được có thể các ứng sinh của các Giáo phái học chung
với nhau.
• Theo James E.Dittes, sau 45 năm dạy về TVMV, thì rất khó
tìm được một định nghĩa chính xác và đầy đủ để mọi người
có thể chấp nhận. Vấn đề là người tư vấn là ai, và người
được tư vấn là ai, và tương quan của họ xảy ra như thế
nào, có tạo được sự thay đổi nào không? Theo Dittes thì lí
do là vì (1) TVMV thường bị cải trang dưới lớp vỏ những
cuộc nói chuyện thông thường trong bối cảnh thường nhât.
(2) Các đề tài đa dạng về những sự việc, biến cố xảy ra
hàng ngày (cưới hỏi, chết, tang chế, tương quan vợ chồng,
vấn đề gia đình, con cái, hành vi khác thường…) tùy theo
cách thức và khả năng của thừa tác viên khi bàn về các
việc đó. (3) Có khi TVMV diễn ra trong cung cách “xưng
tội”, phó nộp mình, giải bày những thao thức, những vấn
đề khó nói. (4) TVMV không phải là một công việc riêng lẻ,
nhưng năm trong mối dây quan hệ chằng chịt đã có trước
đây – các tương quuan trước đó có khi lại là một cơ hội để
bày tỏ sau hơn. (5) LM. Mục sư như là một một mục tử biết
lắng nghe, chứng nhân để phản ánh đời sống của người
đươc tư vấn, và giúp họ tăng trưởng vầ làm chủ đời mình
7. Tư vấn KTG
• Cuối cùng Dittes định nghĩa tư vấn bằng “con đường phủ
nhận” (via negativa): tương quan tư vấn không phải là tương
quan bình thường trong cuộc sống hằng ngày – nó tạo nên
những cảm nghĩ đặc biệt, mà cả hai muốn trả về cái bình
thường! Người tư vấn vừa là chứng nhân cả cuộc đời đang
được tỏ bày ra với mình, vừa là sự hiện diện, vừa gần gủi,
vừa tách biệt để không bị lẫn lộn vào đó, để ơn Chúa và sự
soi sáng của Ngài có thể được tỏ lộ. Đó là giây phút của ân
sủng và sự soi sáng làm cho người được tư vấn được vững
mạnh và tìm ra cách giải quyết vấn đề của mình.
• Dittes định nghĩa tư vấn mục vụ theo Tiến trình tương quan:
TVMV không nhằm giải quyết các sự kiện và hoàn cảnh,
nhưng là những vết thương mà chúng tạo nên hay tỏ lộ.
TVMV đối phó với sự tấn công của hoàn cảnh hay sự kiện
lên chính cá nhân, tạo nên cảm giác khó chịu về sự bất lực,
không có khả năng đối phó, cảm giác vong thân. Trước
những hoàn cảnh đó, người tư vấn có thể cho một hướng để
có thể tạm thời chấp nhận tình trạng mập mờ rối rắm và chấp
nhận chưa giải quyết được.Mục tiêu của TVMV là: SỰ ỦY
QUYỀN HỢP PHÁP CHO ĐƯƠNG SỰ (the empowerment of
the person) = tăng cường sức mạnh và năng lực cho cá nhân
để đối phó với vấn đề (Không phải là giải quyết vấn đề thay
cho đương sự)
8. Tư vấn KTG
• “Tăng cường khả năng” đó là mục tiêu của TVMV: huy
động tiềm năng và tăng cường khả năng cho người thụ
vấn để có thể đối phó, để phân định và lãnh trách nhiệm,
để quyết định và tạo sự thay đổi và sửa chữa.
• TVMV nhắm đến việc tỏ bày cái ngã thâm sâu, chứ không
phải là đóng lại một vấn đề (Pastoral counseling aims at
the disclosure of self, not the closure of a problem).
• TVMV: Mục vụ ở đây có nghĩa là đưa đời sống của người
thụ vấn đến gần Chúa và cầu khấn sự hiện diện của Ngài
trong cuộc đời của người này. Tìm ý Chúa qua biến cố mà
người này đang gặp.
• MVTV không phải là giải quyết vấn đề, nhưng là cùng “bơi”
với người đâng có vấn đề, vấn đề không phải là cái bên
ngoài nhưng chính là cái mà người đó đang cảm nhận về
mình qua biến cố.
• MVTV nhắm đến “ý nghĩa” của vấn đề hay hoàn cảnh để
lại trên người thụ vấn hơn là giải quyết vấn đề.
• Theo Dittes thì “TVMV là một vấn đề của con tim hay linh
hồn hơn là vấn đề của cái đầu, là vấn đề của Đức tin hơn
là việc làm, là một thái độ và một cách nhìn hơn là kĩ thuật
hay kĩ năng”
9. Tư vấn KTG
• Wicks & Rodgerson nhìn TVMV rộng hơn, và xem TVMV như là
“đồng hành trong hi vọng”, cùng bước đi với người khác qua
những tối tăm, khó khăn của cuộc đời trong niềm hi vọng. Điều
quan trọng đó là thái độ quan tâm săn sóc.
• Clinebell (1984) định nghĩa các từ căn bản rõ ràng hơn:
• Chăm sóc và tư vấn mục vụ (Pastoral care and counseling): là sử
dụng tương quan giữa 2 người hay nhóm nhỏ để tăng cường
khả năng chữa lành và tăng trưởng của đương sự và phát triển
các tương quan.
• Chăm sóc mục vụ: là một từ mang nghĩa rộng hàm ý một sự
chữa lành qua lại trong cộng đoàn và trải qua suốt quá trình
cuộc sống.
• Tư vấn Mục vụ là một chiều kích của Chăm sóc Mục vụ, sử dụng
nhiều phương pháp chữa lành để giúp người ta đối phó và giải
quyết các vấn đề cũng như các khủng hoảng một cách tăng
trưởng, qua đó họ có thể cảm nghiệm được sự chữa lành những
đổ nát của đời mình. TVMV là một một phận vụ sửa chữa cần
thiết khi tiến trình tăng trưởng gặp nguy hiểm nghiêm trọng hay
bị chặn đứng bởi những khủng hoảng.
• Người ta cần chăm sóc mục vụ suốt cuộc đời, nhưng cần TVMV
trong những khủng hoảng nghiêm trọng, và có tính cách ngắn
hạn.
• Chữa trị Tâm lí Mục vụ: khi có những vấn đề nghiêm trọng, đòi
hỏi thời gian và chuyên môn.
10. So sánh TVMV & TVTL
• Tư vấn Mục vụ:
• Nền tảng: Kinh thánh,
Thần học, Nhân học Kito-
giáo, luân lí.
• Các quan niệm chính: Đời
sống tâm linh, các giá trị
Kito-giáo, Tương quan,
Đời sống cộng đoàn Kito-
hữu, Chăm sóc mục vụ,
sự sống viên mãn, ý
nghĩa cuộc đời, cách ứng
phó mang tính tôn giáo,
tăng trưởng đức tin, đức
cậy, đức mến, Các giá trị.
• Mục tiêu: sự viên mãn
tròn đầy của đời sống Ki-
tô hữu – làm chủ cuộc
sống theo tinh thần Ki-tô-
giáo, tăng trưởng về mọi
măt, giúp khả năng ứng
phó với những khủng
hoảng cuộc đời và đức tin
• Tham vấn Tâm lí
• Nền tảng: Triết lí của từng
trường phái tâm lí, quan
niệm về con người
• quan niệm chính: mỗi
trường Các phái tâm lí
đều có những quan niệm
chính để giúp thẩm định
tình trạng của thân chủ,
và vạch ra đường lối
chữa trị nhất quán với các
quan niệm của trường
phái. Tôn trọng hệ thống
giá trị riêng của thân chủ.
• Mục tiêu: giúp thân chủ
đủ khả năng đối phó với
vấn đề đang gặp. Thân
chủ và nhà tham vấn
cùng đặt mục tiêu chữa trị
tùy theo từng ca – Có
mục tiêu ngắn hạn và dài
hạn
11. So sánh TVMV & TVTL
• Tương quan tư vấn:
Lm/tu sĩ/mục sư với Giáo
dân. Có tính uy quyền và
tính khả tín do chức vụ.
Mục tử và đoàn chiên.
Không ngang hàng – bình
đẳng, cùng hướng đi,
cùng đức tin.
• Kĩ thuật – Kĩ năng: lắng
nghe, cảm thông, đồng
cảm, phân tích, hướng
dẫn, và các kĩ năng tùy
theo trình độ và kinh
nghiệm của người tư vấn
• Các vấn đề: các vấn đề
liên quan đến cuộc sống
hằng ngày của tín hữu,
các khủng hoảng mang
tính ý nghĩa và đức tin,
phong hóa – luân lí
• Thời gian – nơi chốn:
thường là ngắn hạn, nơi
chốn uyển chuyển,
thường là trong bối cảnh
thực tế
• Tương quan tham vấn: tùy
theo từng trường phái,
nhưng thường là tương quan
bình đẳng, tôn trọng tự do cá
nhân, không áp đặt. Không
dùng uy quyền, chỉ dựa trên
khả năng. Thầy thuốc-bệnh
nhân
• KT KN:Mỗi trường phái đều
có những kĩ thuật và kĩ năng
riêng qua huấn luyện và học
tập. Điểm chung: những kĩ
năng nền tảng và các kĩ
năng can thiệp-chữa trị
• Các vấn đề: nhiều vấn đề
khác nhau, nhất là các vấn
đề rối loạn tâm lí, hành vi,
các vấn đề có nguồn gốc sâu
trong quá khứ liên quan đến
nhiều lãnh vực.
• Thời gian – Nơi chốn:
thường là dài hạn, có tính
chất hợp đồng. Nơi chốn:
văn phòng rõ ràng, theo hẹn
12. Tương giao giữa TVMV - TVTL
• Sau một thời gian dài tranh chấp và xung khắc giữa Tâm lí
và Tâm linh, vì những lí do chủ quan và khách quan, ngày
nay Tâm lí và Tâm linh, Tôn giáo đã xích lại gần nhau và
hiểu nhau hơn, và có những đóng góp chung trong công
việc giúp đỡ những người đang gặp khó khăn về mặt tâm lí
và tinh thần.
• Các vị Linh hướng, các vị Mục tử phải có những kiến thức
về tâm lí nhất định, và có thể phân biệt được hai lãnh vực
Tâm lí và tâm linh để có thể giúp đỡ người khác có hiệu
quả hơn (vd. Van Kaam, Richard Rohr, Vaughan, Anthony
De Mello, về phía anh em Tin lành có rất nhiều chuyên gia
về cả 2 lãnh vực)
• Ngay từ những thời dầu sôi lửa bỏng trong cuộc tranh
chấp C.Jung, Roberto Assagioli, William James đã có
những nghiên cứu rất sâu sắc về ảnh hưởng của niềm tin
Tôn giáo trên sức khỏe tâm thần. Kể từ những năm 50, có
nhiều nhà Tâm lí vừa là Thần học gia như P.Tillich, R.May,
và ngay cả Carl Rogers vừa học thần học vừa học Tâm lí.
Ngày nay trong nhiều nhà Tâm lí trị liệu đã đem yếu tố Tâm
linh, tôn giáo vào trong thẩm định, thăm khám và chữa trị
các vấn đề TL (Xem: William Miller, Integrating Spirituality
into Treatment; P.Scott Richards, Allen E.Bergin,
Casebook for a Spiritual Strategy in Counseling and
Psychotherapy; Robert W. Firestone, Lisa A.Firestone,
Creating a Life of Meaning and Compassion..)