Siêu vi trùng bạch cầu T loại 1 ở người
(Human T-Lymphotropic Virus Type 1, viết
tắt HTLV -1) là một siêu vi trùng gây nhiễm
trùng các tế bào bạch huyết của người. Siêu
vi trùng có thể gây bệnh cho hệ thống thần
kinh hoặc gây ung thư bạch cầu.
Tóm tắt || Những thay đổi chính trong phân loại TNM phiên bản 8TRAN Bach
Những thay đổi chính trong phân loại giai đoạn bệnh ung thư TNM phiên bản thứ 8 của UICC/AJCC sẽ phát hành chính thức từ tháng 12/2017 và áp dụng trên thực hành lâm sàng từ tháng 1/2018.
Biên soạn bởi: Bác sỹ nội trú Trần Trung Bách
Dựa trên các tài liệu cập nhật từ website UICC
Siêu vi trùng gây bệnh liệt kháng ở người (Human Immunodeficiency
Virus, viết tắt HIV) là sự nhiễm trùng gây thiệt hại cho hệ thống miễn
dịch. Hệ miễn dịch là một phần của cơ thể để chống lại sự nhiễm trùng
và bệnh tật.
Nếu không chữa trị, HIV sẽ đưa đến một căn bệnh nghiêm trọng gọi là
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (Acquired Immunodeficiency
Syndrome, viết tắt AIDS).
---------------------------------------
Các vi rút suy giảm miễn dịch của con người ( HIV ) là một lentivirus (một phân nhóm của retrovirus ) gây nhiễm HIV và theo thời gian hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS). [1] [2] AIDS là một bệnh ở người, trong đó thất bại liên tục của hệ thống miễn dịch cho phép đe dọa tính mạng bệnh nhiễm trùng cơ hội và ung thư phát triển mạnh. Nếu không điều trị, thời gian sống trung bình sau khi nhiễm HIV ước tính là 9-11 năm, phụ thuộc vào loại HIV. [3] Nhiễm HIV xảy ra do việc truyền máu ,trước xuất tinh , tinh dịch , dịch âm đạo , hoặc sữa mẹ . Trong các chất lỏng trên cơ thể, HIV có mặt như là cả hai hạt virus và vi rút trong các tế bào miễn dịch bị nhiễm bệnh .
HIV lây nhiễm các tế bào quan trọng trong hệ thống miễn dịch của con người như các tế bào T hỗ trợ (cụ thể là CD4 + tế bào T), đại thực bào và tế bào đuôi gai . [4] nhiễm HIV dẫn đến nồng độ thấp của CD4 + tế bào T thông qua một số cơ chế, bao gồm pyroptosis của các tế bào T vô ích nhiễm, [5] apoptosis của tế bào người ngoài cuộc không bị nhiễm bệnh, [6] giết chết virus trực tiếp của các tế bào bị nhiễm, và giết hại nhiễm CD4 + tế bào T bằng cách CD8 tế bào lympho gây độc tế bào mà nhận ra các tế bào bị nhiễm. [7] Khi CD4 +Số lượng tế bào T giảm xuống dưới mức độ nghiêm trọng, sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị mất đi, và cơ thể sẽ dần dần dễ bị nhiễm trùng cơ hội hơn.
Siêu vi trùng gây bệnh liệt kháng ở người (Human Immunodeficiency
Virus, viết tắt HIV) là sự nhiễm trùng gây thiệt hại cho hệ thống miễn
dịch. Hệ miễn dịch là một phần của cơ thể để chống lại sự nhiễm trùng
và bệnh tật.
Tóm tắt || Những thay đổi chính trong phân loại TNM phiên bản 8TRAN Bach
Những thay đổi chính trong phân loại giai đoạn bệnh ung thư TNM phiên bản thứ 8 của UICC/AJCC sẽ phát hành chính thức từ tháng 12/2017 và áp dụng trên thực hành lâm sàng từ tháng 1/2018.
Biên soạn bởi: Bác sỹ nội trú Trần Trung Bách
Dựa trên các tài liệu cập nhật từ website UICC
Siêu vi trùng gây bệnh liệt kháng ở người (Human Immunodeficiency
Virus, viết tắt HIV) là sự nhiễm trùng gây thiệt hại cho hệ thống miễn
dịch. Hệ miễn dịch là một phần của cơ thể để chống lại sự nhiễm trùng
và bệnh tật.
Nếu không chữa trị, HIV sẽ đưa đến một căn bệnh nghiêm trọng gọi là
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (Acquired Immunodeficiency
Syndrome, viết tắt AIDS).
---------------------------------------
Các vi rút suy giảm miễn dịch của con người ( HIV ) là một lentivirus (một phân nhóm của retrovirus ) gây nhiễm HIV và theo thời gian hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS). [1] [2] AIDS là một bệnh ở người, trong đó thất bại liên tục của hệ thống miễn dịch cho phép đe dọa tính mạng bệnh nhiễm trùng cơ hội và ung thư phát triển mạnh. Nếu không điều trị, thời gian sống trung bình sau khi nhiễm HIV ước tính là 9-11 năm, phụ thuộc vào loại HIV. [3] Nhiễm HIV xảy ra do việc truyền máu ,trước xuất tinh , tinh dịch , dịch âm đạo , hoặc sữa mẹ . Trong các chất lỏng trên cơ thể, HIV có mặt như là cả hai hạt virus và vi rút trong các tế bào miễn dịch bị nhiễm bệnh .
HIV lây nhiễm các tế bào quan trọng trong hệ thống miễn dịch của con người như các tế bào T hỗ trợ (cụ thể là CD4 + tế bào T), đại thực bào và tế bào đuôi gai . [4] nhiễm HIV dẫn đến nồng độ thấp của CD4 + tế bào T thông qua một số cơ chế, bao gồm pyroptosis của các tế bào T vô ích nhiễm, [5] apoptosis của tế bào người ngoài cuộc không bị nhiễm bệnh, [6] giết chết virus trực tiếp của các tế bào bị nhiễm, và giết hại nhiễm CD4 + tế bào T bằng cách CD8 tế bào lympho gây độc tế bào mà nhận ra các tế bào bị nhiễm. [7] Khi CD4 +Số lượng tế bào T giảm xuống dưới mức độ nghiêm trọng, sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị mất đi, và cơ thể sẽ dần dần dễ bị nhiễm trùng cơ hội hơn.
Siêu vi trùng gây bệnh liệt kháng ở người (Human Immunodeficiency
Virus, viết tắt HIV) là sự nhiễm trùng gây thiệt hại cho hệ thống miễn
dịch. Hệ miễn dịch là một phần của cơ thể để chống lại sự nhiễm trùng
và bệnh tật.
Bệnh siêu vi trùng Ebola là một bệnh rất nghiêm trọng
gây tử vong do siêu vi trùng Ebola gây nên. Siêu vi
trùng Ebola truyền lây qua máu và các chất dịch cơ thể
của một người bị nhiễm bệnh. Sự nhiễm trùng có thể
bao gồm các triệu chứng giống như bị cúm và có thể
đưa đến việc các cơ quan nội tạng không còn hoạt
động
Bệnh lậu là một bệnh truyền nhiễm đường sinh dục do vi khuẩn gây ra. Ở phụ nữ, sự nhiễm trùng có thể xảy ra ở cổ dạ con, cũng còn được gọi là cổ tử cung, và ở các ống dẫn trứng. Ở cả nam lẫn nữ, sự nhiễm trùng có thể xảy ra tại trực tràng, cổ, và niệu đạo – ống dẫn nước tiểu từ bàng quang.
Chích ngừa là cách tốt nhất để bảo vệ con quý vị chống lại nhiều
chứng bệnh và các biến chứng của bệnh. Khi quý vị cho con mình
chủng ngừa, quý vị cũng giúp bảo vệ những người khác nữa.
Quai bị là bệnh gây nên bởi siêu vi trùng bệnh
quai bị. Bệnh quai bị là bệnh phổ biến ở tuổi thơ
trước khi chủng ngừa. Bệnh bây giờ phổ biến
hơn ở những người trưởng thành trẻ tuổi.
Chlamydia là một bệnh lây nhiễm đường sinh dục gây nên
bởi vi khuẩn. Ở phụ nữ, sự nhiễm trùng có thể xảy ra ở cổ tử
cung, cũng còn được gọi là dạ con, và ở các ống dẫn trứng.
Ở cả nam lẫn nữ, sự nhiễm trùng có thể xảy ra tại trực tràng,
cổ, và niệu đạo, tức ống dẫn nước tiểu từ bàng quang.
Ban sởi, cũng còn gọi là sởi đỏ, là một bệnh
nghiêm trọng gây nên bởi siêu vi trùng bệnh sởi.
Bệnh sởi có thể gây viêm óc, tức viêm não, có thể
đưa đến động kinh, bị điếc, hoặc bại não
Bệnh sởi (rubella), cũng còn gọi là sởi Đức, là một
bệnh do siêu vi trùng bệnh sởi gây nên.
Sởi Đức thường là bệnh nhẹ nhưng có thể rất nghiêm
trọng cho phụ nữ mang thai và cho thai nhi trong
bụng mẹ
Bài viết này sẽ giúp bạn có cái nhìn tổng quan về bệnh lý u xơ tuyến vú. Về triệu chứng, các loại u xơ tuyến vú cũng như nguyên nhân, chẩn đoán và cách điều trị
Trong những tháng tới, COVID Reference sẽ trình bày các cập nhật hàng tuần và tường thuật các dữ liệu khoa học một cách mạch lạc nhất có thể về dịch bệnh COVID-19.
Đây là cuốn sách do tổ chức HANS (Hãy giúp đỡ trẻ tự kỷ ngay bây giờ) biên soạn và do Trường Giáo dục chuyên biệt Khai Trí biên dịch. Cuốn sách là một cẩm nang với những minh họa ngắn gọn, dễ hiểu nhằm giúp người lớn nhận biết rõ hơn về hội chứng tự kỷ, các giai đoạn và triệu chứng của trẻ tự kỷ, từ đó có biện pháp can thiệp, trị liệu sớm để giúp trẻ sớm hòa nhập tốt vào cộng đồng.
Đây là loại vết thương dễ ngăn ngừa nhất nếu được phát hiện sớm. Tuy nhiên nếu vết loét nầy kết hợp với loét đái tháo đường và loét ung thư thì trở nên loại vết thương khó chữa trị nhất
Trong những tháng tới, COVID Reference sẽ trình bày các cập nhật hàng tuần và tường thuật các dữ liệu khoa học một cách mạch lạc nhất có thể về dịch bệnh COVID-19.
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG CHO BỆNH LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀN...TBFTTH
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG CHO BỆNH LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG 2020
Người dịch: BS Văn Viết Thắng
Tóm lược: Hiệp hội tiêu hóa Nhật Bản đã sửa đổi hướng dẫn lâm sàng lần 3 về bệnh loét dạ dày – tá tràng năm 2020 và tạo một phiên bản tiếng Anh. Hướng dẫn được sửa đổi gồm 9 nội dung: dịch tễ học, xuất huyết dạ dày và tá tràng do loét, liệu pháp không diệt trừ, loét do thuốc, không nhiễm H. Pylori, và loét do NSAID, loét trên dạ dày còn lại, điều trị bằng phẫu thuật và điều trị bảo tồn cho thủng và hẹp. phương pháp điều trị khác nhau dựa trên biến chứng của loét. Ở bệnh nhân loét do NSAID, các thuốc NSAID được ngưng và sử dụng thuốc chống loét. Nếu NSAID không thể ngưng sử dụng, loét sẽ được điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton. Vonoprazon và kháng sinh được khuyến cáo là lựa chọn hàng đầu cho diệt trừ HP, và PPIs hoặc Vonoprazan kết hợp kháng sinh được khuyến cáo là điều trị hàng thứ 2. Bệnh nhân không sử dụng NSAIDs và có Hp âm tính thì nghĩ đến loét dạ dày tá tràng tự phát. Chiến lược để dự phòng loét dạ dày tá tràng do NSAID và Aspirin liều thấp được trình bày trong hướng dẫn này. Cách thức điều trị khác nhau phụ thuộc vào việc đồng thời sử dụng NSAIDs hoặc Aspirin liều thấp với tiền sử loét hoặc xuất huyết tiêu hóa trước đây. Ở bệnh nhân có tiền sử loét có sử dụng NSAIDs, PPIs có hoặc không Celecoxib được khuyến cáo và sử dụng. Vonoprazon được đề nghị để dự phòng loét tái phát. Ở bệnh nhân có tiền sử loét có uống aspirin liều thấp, PPIs hoặc Vonoprazon được khuyến cáo và điều trị bằng kháng histamine H2 được đề nghị đề dự phòng loét tái phát.
Giới thiệu
Năm 2009, hiệp hội tiêu hóa Nhật Bản đã cho ra đời hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng về bệnh loét dạ dày tá tràng. Hướng dẫn này được sửa đổi vào năm 2015 và lần nữa vào năm 2020. Trong số 90 câu hỏi trong hướng dẫn trước đó, có những câu hỏi có kết luận rõ ràng, và có những câu hỏi phải phụ thuộc vào kết quả của những nghiên cứu trong tương lai, chúng được giải đáp và sửa đổi trong hướng dẫn này. Vì thế, hướng dẫn sửa đổi này bao gồm 9 nội dung (28 câu hỏi lâm sàng và 1 câu hỏi giải đáp trong nghiên cứu gần đây), bao gồm, cũng là lần đầu tiên về dịch tễ học và ổ loét dạ dày – tá tràng còn tổn tại. Cả dịch tễ học và phương pháp điều trị bảo tồn cho thủng và hẹp trong các câu hỏi nền tảng. Dự phòng xuất huyết do loét dạ dày – tá tràng ở bệnh nhân uống thuốc kháng tiểu cầu và điều trị loét tá tràng do thiếu máu cục bộ đã được them vào câu hỏi lâm sàng và câu hỏi cần trả lời trong tương lai.
Tìm kiếm tài liệu trên thư viện Medline và Cochrane đã được thực hiện về tài liệu liên quan đến các câu hỏi lâm sàng đăng tải từ năm 1983 đến tháng 10 năm 2018, và cơ sở dữ liệu Igaku Chuo Zasshi được tìm kiếm về dữ liệu đăng tải từ 1983 đến tháng 10 năm 2018. Hướng dẫn này được phát triển sử dụng hệ thống thẩm định, phát triển và đánh giá khuyến cáo (GRADE). Chất lượng bằng chứng được chia thành các mức A (cao), B (trung bình), C (thấp) và D (rất thấp). Độ mạnh khuyến cáo
1. Number 34
Vietnamese - April 2015
Siêu Vi Trùng HTLV-1
HTLV – 1 Virus
HTLV-1 là gì?
Siêu vi trùng bạch cầu T loại 1 ở người
(Human T-Lymphotropic Virus Type 1, viết
tắt HTLV -1) là một siêu vi trùng gây nhiễm
trùng các tế bào bạch huyết của người. Siêu
vi trùng có thể gây bệnh cho hệ thống thần
kinh hoặc gây ung thư bạch cầu.
Đây có phải là một bệnh mới có hay
không?
Không. Bệnh này được miêu tả lần đầu tiên
vào năm 1980 và đã được nhận dạng trên
toàn thế giới.
HTLV-1 phổ biến hơn ở Nhật Bản và các
quốc gia khác thuộc khu vực Tây Thái Bình
Dương, vùng Caribbean, Tây Phi và Nam
Mỹ. Khoảng 10 đến 20 triệu người bị nhiễm
bệnh trên toàn thế giới. Bệnh hiếm có tại
Canada, nhưng cũng có các ca bệnh đã được
tìm thấy tại British Columbia và Nunavut.
Làm thế nào để tôi biết mình có bị
HTLV-1 hay không?
Phần lớn những người có siêu vi trùng sẽ
không bị các triệu chứng hoặc bị bất cứ các
vấn đề sức khỏe nào từ siêu vi trùng này.
Khoảng 1 người trong số 20 người bị nhiễm
HTLV-1 cuối cùng sẽ bị một bệnh có liên hệ
đến HTLV-1 vào một lúc nào đó trong cuộc
đời của họ. Bệnh thường không xảy ra cho
tới vài thập kỷ sau khi bị nhiễm bệnh.
Những người bị bệnh có thể bị một dạng
ung thư máu hiếm có được gọi là ung thư tế
bào bạch huyết T ở người lớn (Adult T-cell
leukemia/lymphoma, viết tắt ATLL), hoặc
bị viêm tủy sống gây yếu sức ở chân, bị đau
lưng, mất khả năng kiểm soát việc tiểu tiện
và bị bón.
Để xác nhận quý vị có bị HTLV-1 hay
không, chuyên viên chăm sóc sức khỏe của
quý vị có thể gửi quý vị đi thử máu.
Siêu vi trùng lây lan như thế nào?
HTLV-1 lây từ người bị bệnh sang người
khác qua việc:
Xài chung kim chích, ống chích hoặc các
dụng cụ dùng để chích ma túy khác.
• Tiếp xúc tình dục. Bằng chứng cho thấy
siêu vi trùng lây lan một cách dễ dàng từ
nam sang nữ, hơn là từ nữ sang nam. Siêu
vi trùng cũng phổ biến ở những người từ
40 tuổi trở lên.
• Mẹ lây cho con. Khoảng một phần tư
những bà mẹ bị nhiễm HTLV-1 có thể lây
siêu vi trùng sang cho con của mình khi
họ sanh con hoặc khi họ cho con bú sữa
mẹ, nhất là khi cho con bú sữa mẹ từ 6
tháng trở lên.
Tôi có nên cho con bú sữa của mình
hay không nếu tôi bị HTLV-1?
Nếu quý vị bị nhiễm HTLV-1, quý vị không
nên cho con bú sữa mẹ. Nếu không bị thì
việc cho con bú sữa mẹ là điều rất được
khuyến khích. Để biết thêm thông tin về
việc cho con bú sữa mẹ, xin xem
HealthLinkBC File #70 Cho con bú sữa mẹ.
2. Làm thế nào tôi có thể bảo vệ mình
không bị nhiễm HTLV-1?
Quý vị có thể bảo vệ mình không bị nhiễm
HTLV-1 bằng cách:
• Không bao giờ dùng chung kim chích,
ống chích hoặc các dụng cụ dùng để chích
ma túy khác.
• Dùng bao cao su mỗi khi quý vị làm tình
qua âm đạo, hậu môn hoặc bằng miệng.
HTLV-1 không truyền lây qua sự tiếp xúc
thông thường hàng ngày trong gia đình chẳng
hạn như hôn hít, dùng chung bồn cầu hoặc khi
làm thức ăn. Để bệnh có thể truyền lây, phải có
sự tiếp xúc giữa máu với máu hoặc giao hợp
mà không có biện pháp bảo vệ.
Có bất cứ sự điều trị nào cho việc bị
nhiễm HTLV-1 hay không?
Không. Hiện không có sự điều trị nào để trị
dứt siêu vi trùng khi quý vị đã bị nhiễm, và
95 phần trăm những người bị nhiễm trùng
không bị bất cứ bệnh nào có liên hệ. Tuy
nhiên, có một số sự điều trị cho các bệnh
chẳng hạn như ATLL, mà có thể xảy ra do
kết quả của việc bị nhiễm HTLV-1.
Tôi có thể bị nhiễm HTLV-1 do truyền
máu hay không?
Kể từ tháng Tư năm 1990, cơ quan đặc trách
Các Dịch Vụ về Máu của Canada (Canadian
Blood Services, trước đây là Hội Chữ Thập
Đỏ Canada) đã kiểm tra sàng lọc tất cả các
máu hiến tặng xem có HTLV-1 hay không
và việc truyền lây HTLV-1 qua sự truyền
máu hầu như đã bị xóa hẳn tại Canada.
Tôi có nên làm xét nghiệm tìm bệnh
hay không?
Không, trừ khi quý vị có một bệnh có liên
hệ đến HTLV-1 mà chuyên viên chăm sóc
sức khỏe của quý vị nghĩ là cần phải làm xét
nghiệm, hoặc khi quý vị đã có tiếp xúc với
một ca bệnh được biết rõ.
Muốn biết thêm các đề tài của HealthLinkBC
vào www.HealthLinkBC.ca/healthfiles hoặc
đến phòng y tế công cộng tại địa phương
quý vị.
Bấm vào www.HealthLinkBC.ca hoặc gọi số
8-1-1 để biết chi tiết và các dịch vụ sức khỏe
không cấp thiết tại B.C.
Muốn tìm sự trợ giúp cho người điếc và
khiếm thính, gọi số 7-1-1 tại B.C.
Có dịch vụ dịch thuật với hơn 130 ngôn ngữ
khi có yêu cầu của quý vị.