Shosha được ấn hành năm 1978, vào thời điểm Isaac Bashevis Singer nhận giải Nobel Văn học – giải thưởng, mà như Singer viết trong diễn từ, là “sự thừa nhận đối với ngôn ngữ Yiddish – một ngôn ngữ chịu cảnh tha hương, ngôn ngữ không có đất, không có biên cương…”.
Hơn cả một chuyện tình đẹp và khó lý giải, tác phẩm này chất chứa hoài niệm của tác giả dành cho Khu Do Thái (ghetto) trên đất Ba Lan: phố Krochmalna – Warszawa. Khu phố chìm khuất với những thân phận bé mọn và trôi nổi đặt trong tương quan cuộc ra đi và lần về mối dây gắn kết với văn hóa cộng đồng của những trí thức, nghệ sĩ Do Thái; làm sống dậy một bối cảnh ly tán, ngổn ngang…
Có thể xem Shosha là tác phẩm tiêu biểu của Isaac Bashevis Singer về chủ đề người Do Thái lưu vong.
“Phố Krochmalna giống như lớp sâu nhất của một di chỉ khảo cổ mà hẳn sẽ không bao giờ tôi còn lôi lên mặt đất. Nhưng tôi còn nhớ hết sức chuẩn xác từng ngôi nhà, từng cái sân, heder, các nhà học hassidim, cửa hàng – tôi còn nhớ từng đứa bé, từng kẻ rỗi việc, từng bà nội tướng, giọng nói của họ, động tác cử chỉ của họ, âm sắc của họ, các đường nét đặc biệt của họ.”
Cuốn tiểu thuyết này hoàn toàn không có ý định phác họa toàn bộ cộng đồng Do Thái Ba Lan vào thời kỳ trước Hitler. Đây là câu chuyện của vài nhân vật được xác định rõ ràng, trong những hoàn cảnh cũng được xác định rõ ràng. Tờ Jewish Daily Forward đã đăng nó nhiều kỳ trong năm 1974, dưới nhan đề Soul Expeditions. Joseph Singer, cháu tôi, đã dịch phần lớn các chương sang tiếng Anh. Tôi đã đọc những chương khác cho Alma vợ tôi và Dvorah Menashe thư ký của tôi chép lại. Tôi xin một lần nữa bày tỏ lòng biết ơn và tình trìu mến đối với họ.
I. B. S.
5. Cuốn tiểu thuyết này hoàn toàn không có ý định phác
họa toàn bộ cộng đồng Do Thái Ba Lan vào thời kỳ trước
Hitler. Đây là câu chuyện của vài nhân vật được xác định
rõ ràng, trong những hoàn cảnh cũng được xác định rõ
ràng. Tờ Jewish Daily Forward đã đăng nó nhiều kỳ trong
năm 1974, dưới nhan đề Soul Expeditions. Joseph Singer,
cháu tôi, đã dịch phần lớn các chương sang tiếng Anh. Tôi
đã đọc những chương khác cho Alma vợ tôi và Dvorah
Menashe thư ký của tôi chép lại. Tôi xin một lần nữa bày
tỏ lòng biết ơn và tình trìu mến đối với họ.
I. B. S.
9. Isaac Bashevis Singer 9
Chương I
1
T
ôi được dạy dỗ thông qua ba “tử ngữ”: tiếng Hebrew, tiếng
Aramaic và tiếng Yiddish (mà nhiều người từ chối coi là
một ngôn ngữ hoàn chỉnh), và trong một văn hóa đã hình
thành ở Babylon: Talmud1
. Heder2
nơi tôi đến học khi còn bé là một
căn phòng đơn sơ trong đó thầy giáo ăn và ngủ, cũng ở đó vợ ông nấu
nướng. Tại đó, tôi không học tính, địa dư, vật lý, hóa học hay lịch sử, mà
các luật ấn định cách ăn trứng ngày lễ, cùng những nghi lễ hiến sinh
từng được tiến hành trong một ngôi đền đã bị phá hủy từ trước đó hai
nghìn năm. Mặc dù tổ tiên tôi đã tới định cư ở Ba Lan sáu bảy trăm năm
trước khi tôi sinh, tôi chỉ biết vài từ tiếng Ba Lan. Chúng tôi sống tại
Vacsava, phố Krochmalna, trong cái mà hẳn người ta có thể gọi là một
ghetto. Thật ra, hồi người Nga chiếm đóng, dân Do Thái Ba Lan được
tự do thích sống ở đâu thì sống. Tôi là một nhân vật lệch thời xét theo
mọi khía cạnh, nhưng tôi không biết điều đó; cũng tương tự, tôi chẳng
hề biết tình bạn của tôi với Shosha, con gái cặp vợ chồng hàng xóm
1. Giáo luật (truyền miệng) của đạo Do Thái, gồm Mishna và Guemara (phần bình
luận Mishna).
2. Trường dành cho trẻ Do Thái tại Ba Lan trước đây.
10. 10 Shosha
nhà tôi, Bashele và Zelig chồng bà, có cái gì đó liên quan với tình yêu.
Những câu chuyện tình thì chỉ tồn tại nơi đám thanh niên thế tục, bọn
họ cạo râu và hút thuốc lá vào ngày Shabbat1
, và các cô gái thì mang áo
nịt ngắn tay và váy xẻ ngực. Những điều xuẩn ngốc như vậy không thể
nào có liên hệ gì với một đứa học trò bảy, tám tuổi xuất thân từ một gia
đình thuộc dòng Hasidic2
.
Tuy nhiên, tôi bị Shosha thu hút dữ dội, và hễ lúc nào có thể được
là tôi lại băng ngang cái sảnh tối dẫn từ căn hộ nhà chúng tôi sang nhà
Bashele. Shosha cũng tầm tuổi tôi, nhưng trong khi tôi được coi như
một đứa trẻ thần đồng, đã thuộc làu nhiều trang Guemara và nhiều
chương Mishna, viết được tiếng Yiddish và cả tiếng Hebrew, lại còn đã
bắt đầu suy tư về Chúa, Thiên Hựu, thời gian, không gian và sự vô tận,
thì Shosha bị tất tật hàng xóm của chúng tôi tại số 10 phố Krochmalna
coi là một con ngốc. Nó đã chín tuổi, nhưng khi nó nói năng người ta
sẽ bảo đó là một con nhóc mới lên sáu. Nó học chậm hai lớp tại trường
trong xóm nơi bố mẹ nó đăng ký cho nó. Shosha có mái tóc vàng rơi
xuống hai vai khi nó tháo mấy cái bím. Cặp mắt nó màu xanh lơ, mũi
thẳng, cổ dài: nó giống mẹ, hồi trẻ bà nổi tiếng đẹp. Em gái của Shosha,
kém nó hai tuổi, Yppe, thì tóc nâu giống bố. Nó phải mang nẹp chỉnh
hình ở chân trái và đi cà nhắc. Teibele, đứa út, vẫn còn là một đứa trẻ sơ
sinh khi tôi bắt đầu hay sang nhà họ. Chắc nó vừa được cai sữa và vẫn
ngủ trong nôi.
Một hôm, Shosha khóc lóc trở về nhà - thầy giáo của nó tống cổ nó
về, kèm một bức thư nói rằng nó chẳng học được gì ở trường. Nó mang
về hai quyển sách - một tiếng Nga, một tiếng Ba Lan - cùng vài quyển
vở, và một cái hộp đựng bút mực, bút chì. Nó đã chẳng học được từ
tiếng Nga nào, nhưng có thể đọc, rất khó nhọc, tiếng Ba Lan. Quyển
1. Ngày nghỉ ngơi hằng tuần; người Do Thái tuân thủ Sabbat đặc biệt nghiêm ngặt.
2. Singer có gia đình thuộc dòng Hasidic của Do Thái; đây là từ chỉ sự mộ đạo đặc
biệt; phong trào Hasidic phát triển từ khoảng giữa thế kỷ 18, tại Ba Lan; người theo
dòng Hasidic gọi là Hasid.
11. Isaac Bashevis Singer 11
sách tiếng Ba Lan có các hình minh họa vẽ một ngôi làng với một cái
nhà, một con bò, một con gà trống, một con mèo, một con chó, một
con thỏ và một cò mẹ đang mớm cho lũ con trong tổ. Shosha thuộc
lòng dăm bài thơ in trong sách.
Zelig, bố nó, làm việc tại một cửa hàng chuyên đồ da. Ông rời khỏi
nhà từ rất sớm, và tối thì về muộn. Bộ râu đen của ông lúc nào cũng tỉa
ngắn và gọn gàng, và các Hasidim1
khu nhà chúng tôi nói rằng ông tự
cắt râu - điều này là vi phạm các tập quán Hasidic. Ông mặc áo chùng
ngắn, có cổ cồn cứng, đeo cà vạt, đi giày da dê gá thêm miếng kếp. Thứ
Bảy, ông tới cầu nguyện tại một nhà thờ Do Thái nơi các lái buôn và
công nhân hay lai vãng.
Mặc dù đội một bộ tóc giả, Bashele không cạo đầu giống mẹ tôi,
vợ của rabbi2
Menahem Mendl Greidinger. Mẹ tôi hay nói với tôi rằng
thật không tốt khi một con trai nhà rabbi, đang học Guemara, lại là
bạn của một đứa con gái, thêm vào đó đứa bé đó lại còn xuất thân từ
một gia đình bình thường. Bà luôn luôn bảo tôi không được ăn gì bên
nhà Bashele, bởi vì bà ấy có thể cho tôi ăn thịt không tuyệt đối kosher3
.
Nhà Greidinger là rabbi từ bố đến con, đó là tác giả của các cuốn sách
thiêng, trong khi bố của Bashele là thợ da lông, còn Zelig từng phục
vụ trong quân đội Nga trước khi lấy vợ. Đám trẻ con tòa nhà chúng
tôi chế nhạo cách nói năng của Shosha. Thứ tiếng Yiddish của nó đầy
những lỗi ngớ ngẩn; nó mở đầu các câu, nhưng hiếm khi nào kết thúc
chúng. Những lúc đến chỗ hiệu thực phẩm mua đồ, nó đánh mất tiền
cầm theo. Hàng xóm của Bashele khuyên bà đưa Shosha đến khám ở
chỗ một bác sĩ, bởi vì dường như bộ não của nó không phát triển bình
thường, nhưng Bashele chẳng có thời gian lẫn tiền cho việc đó. Và xét
cho cùng thì đám bác sĩ có thể làm gì đây? Bản thân Bashele cũng ngây
1. Số nhiều của “Hasid”, chỉ người thuộc dòng Hasidic.
2. Giáo sĩ Do Thái.
3. Người Do Thái tuân thủ chặt chẽ giới luật về ăn uống (đặc biệt phức tạp): họ chỉ ăn
đồ “kosher” nghĩa là được công nhận đủ điều kiện về sạch sẽ theo quan điểm tôn giáo.
12. 12 Shosha
thơ như một đứa trẻ. Michael, ông thợ giày, nói rất dễ để làm bà tin là bà
có thể sinh ra một con mèo con, rồi thì một con bò cái có thể bay trên
mái nhà và đẻ những quả trứng bằng đồng.
Sao mà căn hộ của Bashele khác căn hộ của chúng tôi đến thế! Ở
nhà chúng tôi, gần như không có đồ đạc. Các bức tường xếp chồng chất
sách, từ sàn lên đến trần. Moishe, em trai tôi, và tôi không có món đồ
chơi nào. Chúng tôi chơi với những quyển sách của bố chúng tôi, với
một cây bút gãy, một lọ mực rỗng, hoặc các mẩu giấy. Trong phòng
khách nhà chúng tôi, không có trường kỷ, không có phô tơi nệm êm,
không tủ búp phê, chỉ có một cái tráp đựng các cuộn giấy thiêng viết
kinh, một cái bàn dài, và các ghế băng. Ngày Shabbat, người ta đến đây
để cầu nguyện. Hằng ngày, bố tôi ngồi trước cái bàn có nắp của ông
xem những quyển sách dày, ông để chúng mở ở đó, chồng lên nhau.
Ông viết những lời bình luận, trong đó ông cố gắng phản bác các mâu
thuẫn mà một nhà bình luận khác đã tìm thấy trong các tác phẩm của
một người thứ ba. Ông nhỏ người, mắt ông màu xanh lơ còn bộ râu
thì hung, và ông hút một cái tẩu dài. Xa xôi nhất mà tôi còn nhớ được,
tôi vẫn luôn luôn nghe ông nhắc đi nhắc lại: “Điều đó bị cấm”. Tất tật
những gì tôi từng muốn làm đều bị cấm. Tôi không được vẽ hoặc họa
các nhân vật, bởi vì điều đó vi phạm Lời Răn Thứ Hai. Tôi không thể
nói một câu nào chống lại một thằng bé khác - đó là tội vu khống. Tôi
không có quyền cười một ai đó - đó là sự chế giễu. Tôi không thể bịa
chuyện - đó là những lời dối trá.
Những ngày Shabbat, chúng tôi không được sờ vào các đĩa nến,
cũng như tiền, hay bất kỳ cái gì trong số những thứ chúng tôi vẫn quen
nghịch. Bố liên mồm nhắc chúng tôi rằng cuộc đời là một hành lang
trong đó người ta phải nghiên cứu Torah1
và làm các việc tốt, thành thử
chừng nào lên đường tới tòa cung điện tức là thế giới khác, các phần
thưởng đã sẵn sàng đợi chúng ta ở đó. Ông không ngừng nói: “Mà người
1. Hiểu đơn giản là học các giới luật.
13. Isaac Bashevis Singer 13
ta sống được bao lâu? Trước khi kịp trở người, mọi thứ đã kết thúc rồi.
Những lúc phạm tội lỗi, các tội lỗi ấy liền biến thành quỷ dữ, thành
quái, thành yêu. Sau cái chết, chúng sẽ truy lùng cái xác, lôi xềnh xệch
nó đi qua các khu rừng hẻo lánh, những sa mạc nơi chẳng ai đặt chân
và không loài vật nào dám bén mảng”.
Đôi khi, mẹ nổi giận với bố vì ông kể cho chúng tôi những chuyện
quá mức u ám, nhưng bản thân bà cũng có xu hướng thích răn dạy. Bà
gầy guộc, má hóp vào, cằm nhọn, bà có cặp mắt lớn màu ghi biểu lộ cả
một sự nghiêm khắc nhất định lẫn nỗi u hoài. Bố mẹ tôi đã mất ba đứa
con trước khi có tôi.
Những lúc sang nhà Bashele, trước cả khi mở cửa tôi đã ngửi thấy
mùi các món hầm, các món rô ti và các món tráng miệng của bà. Trong
căn bếp, có các dãy chảo và nồi bằng đồng, đĩa trang trí, viền vàng, một
cái cối, máy pha cà phê, đủ mọi loại tranh vẽ cùng những đồ lặt vặt. Lũ
trẻ con có cả một thùng đựng đầy búp bê, bóng, bút chì màu, màu vẽ.
Mấy cái giường phủ vải chần bông xinh đẹp. Những cái gối dựa thêu
chất đầy trên trường kỷ.
Yppe và Teibele còn quá nhỏ chưa chơi được cùng tôi, nhưng
Shosha thì tuổi vừa xoẳn. Cả hai chúng tôi đều không thích ra ngoài
sân, ở đó hoành hành bọn con trai dữ tợn tay cầm gậy. Chúng bắt nạt
mọi đứa bé hơn hoặc yếu hơn. Chúng nói những lời hạ tiện. Chúng để ý
đến tôi bởi vì tôi là con nhà rabbi, tôi lại mang áo chùng dài và đội một
cái mũ ca lô nhung. Chúng gọi tôi là “quần lót xinh”, “đồ nhóc rabbi”,
“chuột lột”. Khi nghe thấy tôi nói chuyện với Shosha, chúng chế nhạo
tôi, và gọi tôi là “đồ con gái”. Chúng trêu chọc tôi vì mái tóc màu hung
của tôi, cặp mắt xanh lơ của tôi và nước da đặc biệt trắng của tôi. Thỉnh
thoảng, chúng ném đá vào tôi, rồi các mẩu gỗ, nắm đất. Đôi khi chúng
ngáng chân tôi để làm tôi ngã sấp mặt xuống rãnh nước. Hoặc chúng
xùy con chó của người gác cổng vào tôi, vì chúng biết là tôi sợ nó.
14. 14 Shosha
Nhưng ở nhà Bashele, tôi chẳng hề vấp phải trò trêu chọc nào, sự
độc ác nào. Ngay lúc tôi tới đó, Bashele mời tôi một đĩa yến mạch, một
cốc xúp củ cải đỏ, một cái bánh ngọt. Shosha thì mang ra thùng đồ chơi
đựng búp bê, một bộ đồ bếp, bộ sưu tập hình người hoặc thú nhỏ xíu,
đống khuy óng ánh và các dải ruy băng sặc sỡ. Chúng tôi chơi tung que,
nghịch các mẩu xương nhỏ, trốn tìm, đóng giả bố mẹ. Tôi giả vờ đi nhà
thờ và khi tôi về đến nhà Shosha đang bận rộn nấu cho tôi ăn. Có lần,
tôi đóng vai một người mù và Shosha để cho tôi sờ vào trán nó, hai má
nó, miệng nó. Nó hôn lòng bàn tay tôi và thì thầm:
- Đừng nói với mẹ em nhé.
Tôi kể cho Shosha các câu chuyện mà tôi đã đọc hoặc nghe, do
bố hoặc mẹ tôi kể lại, biến hóa chúng theo đủ mọi cách. Tôi nói với
nó về những khu rừng hoang dã ở Siberia, về đám kẻ cướp Mexico, và
lũ ăn thịt người chén con của chúng. Đôi khi Bashele ngồi xuống gần
chỗ chúng tôi, nghe tôi hươu vượn. Tôi tự tán dương là đã nghiên cứu
Kabbalah1
, và biết những câu thiêng liêng đến nỗi có thể làm phun trào
rượu từ các bức tường, tạo ra lũ bồ câu còn sống nguyên và bay đi trên
trời đến tận Madagascar. Một trong những từ ấy, một hôm tôi nói, gồm
tận bảy mươi hai chữ cái, và nếu nói nó ra bầu trời sẽ đỏ rực lên, mặt
trăng chao đảo và rơi mất, thế giới sẽ bị hư vô hóa.
Cặp mắt Shosha biểu hiện một nỗi lo lắng lớn lao:
- Arele2
, nhất định không bao giờ được nói từ ấy nhé.
- Không, Shoshele3
, đừng sợ. Anh sẽ lo sao để em được sống mãi mãi.
1. Nhánh thần bí của đạo Do Thái.
2. Tên gọi thân mật của Aaron, nhân vật chính.
3. Tên gọi thân mật của Shosha.
15. Isaac Bashevis Singer 15
2
Tôi không chỉ có thể chơi cùng Shosha, tôi còn có thể nói với nó
những điều mà tôi không dám hé răng với bất kỳ ai khác. Tôi có thể
miêu tả cho nó mọi huyễn tưởng của tôi, mọi giấc mơ của tôi. Tôi ngấm
ngầm kể với nó là tôi đang viết một cuốn sách. Tôi vẫn rất hay nhìn thấy
cuốn sách đó trong mơ. Có hai người cùng viết nó, tôi và một viên thư
lại thời Cổ đại; nó được viết bằng một thứ tiếng cổ xưa, trên da dê. Tôi
hình dung mình đã viết nó trong một cuộc đời tiền kiếp. Bố tôi đã cấm
tôi tìm hiểu Kabbalah. Ông cảnh báo tôi rằng bất kỳ ai cả gan nghiên
cứu Kabbalah trước bốn mươi tuổi đều có nguy cơ rơi vào vòng tà đạo
hoặc phát điên. Nhưng tôi tin là tôi cũng hơi tà đạo và hơi điên. Trên
giá sách nhà chúng tôi có các tập sách Zohar1
, Cây đời, Sách Sáng thế,
Vườn lựu, cùng nhiều tác phẩm thuộc dòng Kabbalah khác. Trong số
chúng, tôi đã phát hiện một quyển almanach nơi liệt kê đủ mọi loại
sự kiện liên quan đến các ông vua, nguyên thủ quốc gia, triệu phú và
học giả. Mẹ tôi thường hay đọc Sách Liên Ước, một tuyển tập đầy các
thông tin khoa học. Trong đó, tôi học được đủ mọi điều về Archimedes,
Copernic, Newton, và các triết gia như Aristotle, Descartes, Leibniz. Tác
giả, reb2
Elijah ở Wilna, tranh cãi kịch liệt và lâu dài với những ai không
chịu tin là có Chúa: chính nhờ cách này mà tôi biết được tư tưởng của
những người kia. Tuy bị cấm sờ vào quyển sách ấy nhưng tôi không bỏ
lỡ dịp nào để xem nó. Có lần, tôi nghe thấy bố tôi nhắc tới Spinoza - cầu
cho tên ông ta bị xóa nhòa vĩnh viễn - và lý thuyết của ông theo đó Chúa
là thế giới và thế giới là Chúa. Những lời ấy tạo ra một nỗi bấn loạn sâu
sắc trong tâm trí tôi. Nếu thế giới là Chúa, vậy thì tôi, thằng bé Aaron, áo
chùng của tôi, cái mũ nhung của tôi, mái tóc hung của tôi, đôi giày của
tôi, tất tật đều là tạo vật của Chúa. Và Bashele nữa, và Shosha, và ngay
cả các suy nghĩ của tôi.
1. Tác phẩm chính yếu của Kabbalah.
2. Xưng hô tôn kính.