NGOẠI KHOA CƠ SỞ - Y HÀ NỘI
-----------------------------------------------------------------------
Ngoại khoa là một nhánh của y học có nhiệm vụ thực hiện những thao tác tay chân trên cơ thể người để chẩn đoán, ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh. Ambroise Paré, một phẫu thuật viên người Pháp ở thế kỷ 16 đã nêu 5 lý do để tiến hành 1 cuộc phẫu thuật là: “Để loại bỏ những thứ không cần thiết, gắn lại những thứ đã bị lệch khỏi chỗ cũ của nó, tách những thứ dính lại với nhau, nối những thứ bị tách ra và sữa chữa những khuyết tật bẩm sinh”.
Ngay từ lúc con người bắt đầu học cách tạo ra và sử dụng các công cụ, họ đã tìm cách sử dụng tài năng của mình để hoàn thiện các kỹ thuật ngoại khoa càng ngày càng tinh vi hơn. Tuy nhiên, cho đến khi cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra, các phẫu thuật viên vẫn không thể vượt qua được 3 trở ngại chính gây nguy hiểm cho nền y học ngay từ buổi đầu sơ khai, đó là chảy máu, đau và nhiễm trùng. Những tiến bộ trong các lĩnh vực trên đã biến ngoại khoa thành một “nghệ thuật” đầy nguy cơ trở thành một ngành khoa học có khả năng điều trị nhiều loại bệnh và bất thường khác nhau.
Ngoại khoa đã trải qua rất nhiều cuộc thăng trầm trong lịch sử. Thông thường, các phẫu thuật viên từng chỉ được xem là 1 kỹ thuật viên còn bác sĩ (có mối liên hệ lịch sử nhiều hơn với linh mục và các pháp sư) mới thật sự là người có khả năng chữa bệnh. Trong sự phát triển của y học hiện đại, cả hai bằng cấp này được dạy chung với nhau và học viên có thể thu thập đủ kiến thức để điều trị bệnh cũng như phẫu thuật sau khóa học.
Ngoại khoa cơ sở do tập thể giảng viên giàu kinh nghiệm và tâm huyết của Bộ Môn Ngoại, Trường Đại học Y Hà Nội biên soạn. Sách cung cấp các kiến thức cơ sở về triệu chứng học Ngoại khoa, chủ yếu làm tài liệu tham khảo cho sinh viên Đa khoa các năm đầu đi lâm sàng.
NGOẠI KHOA CƠ SỞ - Y HÀ NỘI
-----------------------------------------------------------------------
Ngoại khoa là một nhánh của y học có nhiệm vụ thực hiện những thao tác tay chân trên cơ thể người để chẩn đoán, ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh. Ambroise Paré, một phẫu thuật viên người Pháp ở thế kỷ 16 đã nêu 5 lý do để tiến hành 1 cuộc phẫu thuật là: “Để loại bỏ những thứ không cần thiết, gắn lại những thứ đã bị lệch khỏi chỗ cũ của nó, tách những thứ dính lại với nhau, nối những thứ bị tách ra và sữa chữa những khuyết tật bẩm sinh”.
Ngay từ lúc con người bắt đầu học cách tạo ra và sử dụng các công cụ, họ đã tìm cách sử dụng tài năng của mình để hoàn thiện các kỹ thuật ngoại khoa càng ngày càng tinh vi hơn. Tuy nhiên, cho đến khi cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra, các phẫu thuật viên vẫn không thể vượt qua được 3 trở ngại chính gây nguy hiểm cho nền y học ngay từ buổi đầu sơ khai, đó là chảy máu, đau và nhiễm trùng. Những tiến bộ trong các lĩnh vực trên đã biến ngoại khoa thành một “nghệ thuật” đầy nguy cơ trở thành một ngành khoa học có khả năng điều trị nhiều loại bệnh và bất thường khác nhau.
Ngoại khoa đã trải qua rất nhiều cuộc thăng trầm trong lịch sử. Thông thường, các phẫu thuật viên từng chỉ được xem là 1 kỹ thuật viên còn bác sĩ (có mối liên hệ lịch sử nhiều hơn với linh mục và các pháp sư) mới thật sự là người có khả năng chữa bệnh. Trong sự phát triển của y học hiện đại, cả hai bằng cấp này được dạy chung với nhau và học viên có thể thu thập đủ kiến thức để điều trị bệnh cũng như phẫu thuật sau khóa học.
Ngoại khoa cơ sở do tập thể giảng viên giàu kinh nghiệm và tâm huyết của Bộ Môn Ngoại, Trường Đại học Y Hà Nội biên soạn. Sách cung cấp các kiến thức cơ sở về triệu chứng học Ngoại khoa, chủ yếu làm tài liệu tham khảo cho sinh viên Đa khoa các năm đầu đi lâm sàng.
-Giun sán là những động vật đa bào, có các cơ quan riêng biệt. -Giun sán sống kí sinh ít hơn, do cấu tạo cơ thể đã có nhiều thay đổi thích nghi với đời sống kí sinh. -Đa số giun sán kí sinh ở ống tiêu hóa,bất thường có thể di chuyển lạc chỗ
Quy trình đánh giá đáp ứng “Thực hành tốt sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc” (GMP) đối với cơ sở không thuộc diện cấp chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG CHO BỆNH LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀN...TBFTTH
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG CHO BỆNH LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG 2020
Người dịch: BS Văn Viết Thắng
Tóm lược: Hiệp hội tiêu hóa Nhật Bản đã sửa đổi hướng dẫn lâm sàng lần 3 về bệnh loét dạ dày – tá tràng năm 2020 và tạo một phiên bản tiếng Anh. Hướng dẫn được sửa đổi gồm 9 nội dung: dịch tễ học, xuất huyết dạ dày và tá tràng do loét, liệu pháp không diệt trừ, loét do thuốc, không nhiễm H. Pylori, và loét do NSAID, loét trên dạ dày còn lại, điều trị bằng phẫu thuật và điều trị bảo tồn cho thủng và hẹp. phương pháp điều trị khác nhau dựa trên biến chứng của loét. Ở bệnh nhân loét do NSAID, các thuốc NSAID được ngưng và sử dụng thuốc chống loét. Nếu NSAID không thể ngưng sử dụng, loét sẽ được điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton. Vonoprazon và kháng sinh được khuyến cáo là lựa chọn hàng đầu cho diệt trừ HP, và PPIs hoặc Vonoprazan kết hợp kháng sinh được khuyến cáo là điều trị hàng thứ 2. Bệnh nhân không sử dụng NSAIDs và có Hp âm tính thì nghĩ đến loét dạ dày tá tràng tự phát. Chiến lược để dự phòng loét dạ dày tá tràng do NSAID và Aspirin liều thấp được trình bày trong hướng dẫn này. Cách thức điều trị khác nhau phụ thuộc vào việc đồng thời sử dụng NSAIDs hoặc Aspirin liều thấp với tiền sử loét hoặc xuất huyết tiêu hóa trước đây. Ở bệnh nhân có tiền sử loét có sử dụng NSAIDs, PPIs có hoặc không Celecoxib được khuyến cáo và sử dụng. Vonoprazon được đề nghị để dự phòng loét tái phát. Ở bệnh nhân có tiền sử loét có uống aspirin liều thấp, PPIs hoặc Vonoprazon được khuyến cáo và điều trị bằng kháng histamine H2 được đề nghị đề dự phòng loét tái phát.
Giới thiệu
Năm 2009, hiệp hội tiêu hóa Nhật Bản đã cho ra đời hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng về bệnh loét dạ dày tá tràng. Hướng dẫn này được sửa đổi vào năm 2015 và lần nữa vào năm 2020. Trong số 90 câu hỏi trong hướng dẫn trước đó, có những câu hỏi có kết luận rõ ràng, và có những câu hỏi phải phụ thuộc vào kết quả của những nghiên cứu trong tương lai, chúng được giải đáp và sửa đổi trong hướng dẫn này. Vì thế, hướng dẫn sửa đổi này bao gồm 9 nội dung (28 câu hỏi lâm sàng và 1 câu hỏi giải đáp trong nghiên cứu gần đây), bao gồm, cũng là lần đầu tiên về dịch tễ học và ổ loét dạ dày – tá tràng còn tổn tại. Cả dịch tễ học và phương pháp điều trị bảo tồn cho thủng và hẹp trong các câu hỏi nền tảng. Dự phòng xuất huyết do loét dạ dày – tá tràng ở bệnh nhân uống thuốc kháng tiểu cầu và điều trị loét tá tràng do thiếu máu cục bộ đã được them vào câu hỏi lâm sàng và câu hỏi cần trả lời trong tương lai.
Tìm kiếm tài liệu trên thư viện Medline và Cochrane đã được thực hiện về tài liệu liên quan đến các câu hỏi lâm sàng đăng tải từ năm 1983 đến tháng 10 năm 2018, và cơ sở dữ liệu Igaku Chuo Zasshi được tìm kiếm về dữ liệu đăng tải từ 1983 đến tháng 10 năm 2018. Hướng dẫn này được phát triển sử dụng hệ thống thẩm định, phát triển và đánh giá khuyến cáo (GRADE). Chất lượng bằng chứng được chia thành các mức A (cao), B (trung bình), C (thấp) và D (rất thấp). Độ mạnh khuyến cáo