Thiết kế nội thất là nghề đòi hỏi tính nghệ thuật và sáng tạo. Và để hiểu rõ hơn về lĩnh vực này các bạn hãy cùng tìm hiểu lịch sử ra đời của ngành này nhé.
Nguồn: http://niceinterior.vn/
Thiết kế nội thất là nghề đòi hỏi tính nghệ thuật và sáng tạo. Và để hiểu rõ hơn về lĩnh vực này các bạn hãy cùng tìm hiểu lịch sử ra đời của ngành này nhé.
Nguồn: http://niceinterior.vn/
The Imperial Citadel of Thang Long (Vietnamese: Hoàng thành Thăng Long) is the cultural complex comprising the royal enclosure first built during the Lý Dynasty and subsequently expanded by the Trần, Lê and finally the Nguyễn Dynasty. The ruins roughly coincide with the Hanoi Citadel today.
The royal palaces and most of the structures in Thang Long were in varying states of disrepair by the late 19th century with the upheaval of the French conquest of Hanoi. By the 20th century many of the remaining structures were torn down. Only in the 21st century are the ruin foundations of Thang Long Imperial City systematically excavated.
The central sector of the imperial citadel was listed in UNESCO's World Heritage Site on July 31, 2010 at its session in Brazil.
Thuvienxd.com nơi chia sẻ kiến thức xây dựng
Giáo trình cấu tạo kiến trúc là cuốn cẩm nang phục vụ nghiên cứu của sinh viên các ngành kiến trúc, xây dựng.
The Imperial Citadel of Thang Long (Vietnamese: Hoàng thành Thăng Long) is the cultural complex comprising the royal enclosure first built during the Lý Dynasty and subsequently expanded by the Trần, Lê and finally the Nguyễn Dynasty. The ruins roughly coincide with the Hanoi Citadel today.
The royal palaces and most of the structures in Thang Long were in varying states of disrepair by the late 19th century with the upheaval of the French conquest of Hanoi. By the 20th century many of the remaining structures were torn down. Only in the 21st century are the ruin foundations of Thang Long Imperial City systematically excavated.
The central sector of the imperial citadel was listed in UNESCO's World Heritage Site on July 31, 2010 at its session in Brazil.
Thuvienxd.com nơi chia sẻ kiến thức xây dựng
Giáo trình cấu tạo kiến trúc là cuốn cẩm nang phục vụ nghiên cứu của sinh viên các ngành kiến trúc, xây dựng.
Thông tin du lịch Ninh Bình: Tràng An - Bái ĐínhPYS Travel
Du lịch Ninh Bình có Chùa Bái Đính - Ngôi chùa lớn nhất, quy mô nhất Việt Nam nằm giữa những ngọn núi hùng vĩ. Du lịch Ninh Bình còn được biết đến với Tràng An vốn được mệnh danh là vịnh Hạ Long trên cạn.
Thông tin du lịch Tràng An - Bái Đính: http://pystravel.com/vi/tour-mien-bac/tour-ninh-binh/952-tour-tham-quan-chua-bai-dinh-trang-an.html
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdfBò Cạp Vàng
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An
Chùa Tôn Thạnh là một trong những địa danh linh thiêng nổi tiếng tại Long An. Ngôi chùa này có lịch sử lâu dài, đã tồn tại hơn 200 năm và vẫn giữ được nhiều tượng Phật có giá trị nghệ thuật và lịch sử đặc sắc. Trong đó, đáng chú ý là sự kết nối đặc biệt với nhà thơ yêu nước nổi tiếng thế kỷ 18, Nguyễn Đình Chiểu, làm nổi bật thêm vẻ quý báu và độc đáo của Chùa Tôn Thạnh.
Chùa cổ Tôn Thạnh có gì đặc biệt?
Chùa cổ Tôn Thạnh là một điểm độc đáo với nhiều đặc điểm nổi bật:
Lịch sử và Kiến Trúc:
Chùa được xây dựng vào năm 1808, đời vua Gia Long thứ 7, tại xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Ban đầu mang tên chùa Lan Nhã, sau đổi thành chùa Tăng Ngộ hay chùa Lão Ngộ để tưởng nhớ Thiền sư Viên Ngộ, người sáng lập chùa. Kiến trúc của chùa từ thời điểm ban đầu chủ yếu là gỗ, với rường cột tráng lệ vàng son huy hoàng. Tổng diện tích khuôn viên chùa lớn hơn 34.000m2, với diện tích xây dựng gần 1.000m2.
Tượng Phật và Tháp 3 Tầng:
Khuôn viên chùa giữ nguyên tháp 3 tầng thờ Tổ sư Viên Ngộ cao 4,5m, xây dựng theo hình lục giác. Tầng trên của tháp có chạm khắc dòng chữ "Nam mô A Di Đà Phật". Chùa lưu giữ nhiều pho tượng Phật cổ có niên đại hơn 200 năm, đặc biệt là pho tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát được làm bằng đồng, đúc ngay tại chùa.
Gắn Liền với Nguyễn Đình Chiểu:
Chùa Tôn Thạnh là nơi Nguyễn Đình Chiểu chọn để khám chữa bệnh, viết văn làm thơ từ năm 1861 đến 1861. Tại đây, ông sáng tác bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để tưởng nhớ những nghĩa sĩ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Pháp. Chùa giữ lại 2 tấm bia với thông tin về nhà thơ và bài thơ nổi tiếng này, là những dấu tích quý giá về lịch sử và văn hóa của địa phương.
Để biết thêm thông tin, hãy truy cập trang web sau:
https://bocapvang.net/chua-ton-thanh/
Địa chỉ: Ấp 3, Xã Phước Khánh, Huyện Nhơn Trạch, Tỉnh Đồng Nai, Việt Nam
Số điện thoại: 0868848189
Email: bocapvang2021@gmail.com
Website: https://bocapvang.net
#dulich #chuatonthanh #bocapvang
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hzXuân Tiến
Sự xuất hiện và tồn tại của tháp nhạn hơn 800 năm cùng mang những truyền thuyết về tháp nhạn của người việt đã phản ánh thời kỳ khai phá vùng đất phú yên của người việt trong thế kỷ xvi, về sự giao trâm văn hóa, tinh thần giữa 2 dân tộc việt - chăm trên vùng đất phú yên trong kí vãng và hiện nay.
Tháp nhạn ở phú yên, sở hữu rộng rãi câu chuyện cổ tục truyền. Sở hữu người nhắc rằng, xưa kia, sở hữu ngọc nữ thiên yana hạ giới để chỉ dạy về cấy cày, dệt vải, kéo sợi... Cho người dân nơi đây. Sau khi tiên nga quay về trời, để diễn đạt lòng thương nhớ và khắc ghi công ơn ngọc nữ đã khai sáng cho dân tộc mình, người chăm pa nơi đây đã vun đắp ngọn tháp ấy làm cho nơi thờ tự ngọc nữ. Còn về tên gọi tháp nhạn, nhiều người già ở phú yên giải thích rằng, do với gần như chim nhạn bay tới đây sinh sống, làm cho tổ trên ngọn tháp. Dần về sau, nơi đây cũng được đặt tên theo tên của loài chim này.
Kiến trúc tháp nhạn được vun đắp gồm với 3 phần: đế tháp, thân tháp và mái tháp. Mặt chân tháp và thân tháp được vun đắp theo hình vuông, ý nghĩa biểu trưng cho đất, tổng chiều cao cả ba phần vào khoảng 24m. Chân tháp được bề ngoài lớn hơn thân tháp, với chiều cao khoảng 3,3m. Các hàng gạch phía trên được xây dựng lùi vào so sở hữu hàng bên dưới theo 1 quy trình một mực, cứ như thế thu nhỏ dần rồi ôm ấp sát vào thân tháp. Chân tháp là 1 khối to vững chãi bám sâu vào trong lòng đất, giúp nâng đỡ thân và mái của tháp.
Thân tháp được ngoại hình dạng hình vuông, mỗi cạnh dài 10,5m, cao khoảng 9,3m, tường dày khoảng 3m. Tường vun đắp thẳng đứng, được bổ trụ ở 4 góc, tạo gờ lồi lõm ở 2 mặt bên và mặt sau của tường. Những biểu tượng chạm trổ, gờ chỉ trên thân tháp cực kỳ nhiều và phong phú. Nó ko chỉ biểu đạt nên ước muốn, hoài bão của con người, mà còn phản ảnh thế giới các vị thần.
#thapnhan52hz #thapnhanphuyen52hz #thapnhanvedem52hz #52hz #xuantien52hz
Xem Thêm: https://52hz.vn/thap-nhan/
15+ di tích lịch sử Quảng Bình nổi tiếng, linh thiêng cho du kháchthoitietquanhbinhhn
Không chỉ sở hữu danh hiệu “vương quốc hang động”, Quảng Bình còn được nhiều du khách lựa chọn khi sở hữu nhiều di tích lịch sử nổi tiếng. Di tích lịch sử Quảng Bình mang trong mình vẻ đẹp hoài cổ, linh thiêng. Cùng khám phá danh sách 15+ địa điểm du lịch Quảng Bình và di tích nổi nổi tiếng dưới đây.
Xem thêm: https://thoitiethomnay.vn/di-tich-lich-su-quang-binh
Cam Nang Chinh Phuc Chua Long Khanh Xuantien52hzXuân Tiến
Chùa Long Khánh được vun đắp nhằm mục đích dùng cho chỗ ở cho người Hoa nên kiến trúc của ngôi chùa sẽ với đậm văn hoá của dân tộc này. Nếu nhìn trong khoảng trên cao xuống ngôi chùa sẽ mang dạng hình giống như chữ “Khẩu”, bao gồm đa dạng khu vực khác nhau như thượng điện, hậu điện, đông phòng và tây phòng .
trước tiên lúc bước vào chùa bạn sẽ phải đặt chân qua cổng tam quan. Cổng được xây bằng đá xanh, mái lợp ngói âm dương chắc chắn. Chính giữa là tượng Bạch Ly Quan Thế m người tình Tát, trên cộng là những bức phù điêu uốn lượn được chạm khắc tinh xảo.
Phía trước cổng tam quan còn mang một lư hương được mạ vàng rất vượt trội. 2 Bên là hai bức tượng sư tử đá uy nghiêm, như để canh gác, bảo vệ cho chốn linh thiêng, yên ổn tĩnh này.
Bước qua cổng tam quan bạn sẽ bắt gặp một khoảng sân rộng, nơi đây sở hữu bức tượng phật A Di Đà cao 17m đang toạ trên một đoá sen hồng. Pho tượng khiến cho bằng đá xanh, những trục đường nét được chạm khắc kĩ càng. Phía trước với 1 hồ sen và xung quanh là các chậu cây xanh mướt. Mang đến cho nơi này không khí thiêng liêng và thanh u hơn.
Vào trong chánh điện sẽ là Công trình kiến trúc “Tiền tuyến đường hậu tẩm”. Đây là nơi sở hữu kiến trúc lớn nhất của chùa Long Khánh. Bao gồm những ngôi nhà nằm san sát nhau, mái đỏ uốn cong tít . Nền của ngôi chánh điện được xây khá cao, cách thức mặt đất một,5m. Quanh đó được là hệ thống hành lan vững chắc và an toàn.
Chính giữa là tiền trục đường dài hơn 8m, bao gồm rộng rãi tầng tạo thành 1 tòa tháp cao vút vượt bậc giữa bầu trời xanh. Những tuyến đường nét, hoa văn trên cột nhà, cửa hay mái ngói đều được chạm khắc tinh tế và tường tận đến từng chi tiết. Nên khi đến đây bạn sẽ được chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật kiến trúc đầy ấn tượng.
Để đi vào chính điện bạn sẽ phải bước lên các bậc thang cao được xây bằng bê tông cốt thép. Hai bên thành là hai con rồng đá dài uốn lượn rất đẹp mắt. Cảm giác như đang chuẩn bị bước vào nơi ở của vua chúa vậy. Bên trong chính điện sẽ nơi thờ tượng của 3 vị đức phật là Thích Ca, A Di và Quan m.
tiếp diễn chuyển di vào phía sau sẽ là khu vực hậu điện. Đây là nơi tọa lạc của bức tượng đồng Đức Thế Tôn cao 1,5m và nặng 1,2 tấn. Phía bên trái là lầu chuông, sở hữu treo một quả chuông nặng hơn 700kg. Quả chuông này được thiền sư Nguyễn Trinh Tường đúc vào năm 1805 dưới triều vua Gia Long thứ 4. Còn phía bên phải là lầu trống, số đông đều là những di vật cổ xưa được lưu giữ cho tới tận hiện giờ.
bên cạnh đó chùa Long Khách còn lưu giữ tấm dấu biểu trưng cho “Long Khánh Tự” được in vào năm 1813 dưới triều vua Gia Long. Tấm Long Khánh Tự này là hiện vật quý giá, miêu tả cho sự yêu mến của nhà vua đối có ngôi chùa này.
#chualongkhanh52hz #chualongkhanhquynhon52hz #chualongkhanhbinhdinh52hz #52hz #trekking52hz
Xem Thêm: https://52hz.vn/chua-long-khanh/
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfLngHu10
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về triết học nói chung,
những điều kiện ra đời của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, giúp sinh viên nhận thức được
thực chất cuộc cách mạng trong triết học do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và các giai đoạn hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin;
vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong thời đại ngày nay.
2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng tri thức đã học làm cơ sở cho việc nhận
thức những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin; biết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái phủ nhận sự hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin.
3. Về tư tưởng: Giúp sinh viên củng cố niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
B. NỘI DUNG
I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện
không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của
sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu
cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung
nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết
học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân
loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch
sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu
biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgích... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang
tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn
9
giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là
thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo
nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và có
tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến
bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn
trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCNGTRC3
Cháy, nổ trong công nghiệp không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, con người mà còn gây ra bất ổn, mất an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Vì vậy phòng chông cháy nổ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, của mổi công dân và của toàn thể xã hội. Để hạn chế các vụ tai nạn do cháy, nổ xảy ra thì chúng ta cần phải đi tìm hiểu nguyên nhân gây ra các vụ cháy nố là như thế nào cũng như phải hiểu rõ các kiến thức cơ bản về nó từ đó chúng ta mới đi tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống và sử lý sự cố cháy nổ.
Mục tiêu:
- Nêu rõ các nguy cơ xảy ra cháy, nổ trong công nghiệp và đời sống; nguyên nhân và các biện pháp đề phòng phòng;
- Sử dụng được vật liệu và phương tiện vào việc phòng cháy, chữa cháy;
- Thực hiện được việc cấp cứa khẩn cấp khi tai nạn xảy ra;
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực sáng tạo trong học tập.
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
3. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT:
Thuật kiến trúc thời lý phát triển mạnh ở 2 thể loại ,kiến trúc
tôn giáo và kiến trúc thế tục. Trên cơ sở" thức kiến trúc Đông
Sơn" đã hoàn chỉnh trong thời Bắc thuộc, nhân dân ta lại tiếp
thu Phật giáo và đi kèm với nó là việc xây dựng chùa tháp. Hẳn
trình độ xây dựng của thợ Việt có tay nghề cao, nên thái thú
Tôn Tú đã bắt hơn nghìn thợ thủ công Giao Chỉ đưa về Bắc
để giúp vua Ngô xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp. Ngay khi đất
nước giành được độc lập, công việc hàng đầu là phải " an cư“
và cũng để thể hiện diện mạo nhà nước, nên sau khi đã
định đô thì phải dựng đô. Nổi bật là kinh thành Thăng Long và
kiến trúc chùa tháp.
4. Kinh thành Thăng Long được khởi dựng từ mùa thu năm 1010
đến mùa xuân năm 1011 xong cơ bản, về sau được bổ xung
vào năm 1029 và 1203. Với dấu tích hiện còn bờ đê và những
đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành khép kín dài trên 20km,
xây dựng ở vị trí trung tâm của đất nước nơi giữa đồng bằng,
các núi sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả nước bằng
đường bộ hoặc bằng đường thuỷ, có thể tấn công hay phòng ngự
đều thuận lợi, từng được khai thác từ đầu thời đại đồ đồng và
đến thế kỷ X đã trở thành trung tâm kinh tế – văn hoá " muôn vật
cực kỳ giàu tịnh đông vui. Vòng thành đất đắp trên là giới hạn toàn
bộ kinh thành cũng là phòng thành chống lụt và ngăn địch từ xa
mới tới. Bốn phía có bốn ngôi đền thờ các vị thần bảo hộ cho
kinh thành : phía Nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương
là thần núi, phía Tây có đền Voi Phục thờ Linh Lang đại vương là
thần sông. Các thần núi, thần sông là linh khí đất nước, và do đó
Núi Sông chính là biểu hiện củaTổ Quốc.
5. Phía Đông có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa Trắng là biểu trưng
của mặt trời, được tiếp nhận từ văn hoá ấn Độ, phía Bắc có đền
Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trần Vũ có nguồn gốc từ văn hoá
Trung Hoa có tài trừ ma quỷ. Bên trong phòng thành chia làm hai
phần lồng nhau là Hoàng thành và khu dân cư ngăn cách bởi bức
tường xây gạch, mở bốn cựa về bốn phía mang các tên nhằm
cầu phúc cho dân tộc : cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quang
Phúc ở phía tây, cửa Đại Hưng ở phía nam và cửa Diệu Đức ở
phía bắc. Trong Hoàng thành, ngay lần mới xây dựng đầu đã có
trung tâm là điện Càn Nguyên làm nơi vua coi chầu, hai bên
phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng Võ là nơi làm việc của
vua. Phía sau dựng điện Long An và Long Thuỵ làm chố nhà
vua nghỉ ngơi, hai bên phải trái có điện Nguyệt Minh và điện
Nhật Quang.Phía sau là các cung Thuỷ Hoa và Long Thuỵ
để cung nữ ở.
6. Năm 1029 làm lại điện Càn Nguyệt và bị sét đánh, đổi tên là
điện Thiên An, hai bên phải trái có điện Diên Phúc và Tuyên
Đức, phía đông có điện Văn Minh và phía tây có điện QuảngVũ,
hai bên có gác chuông để dân kêu việc thì đánh. Trước thềm
rồng có lầu Chính Dương ở trên điện Phụng Thiên để báo giờ
giấc. Đằng sau xây điện Trường Xuân, bên trên có lầu Long
Đồ để ngắm cảnh. Giữa điện Thiên An và điện Trường Xuân
là dựng điện Thiên Khánh để vua nghe chính sự. Đợt xây dựng
năm 1203 xây một loạt cung điện ở phía tây tẩm điện, có cả ao
nuôi cá dưỡng ngư nước thông với dòng sông. Trong Hoàng
thành còn có chùa Vạn Tuế, chùa Chân Giáo ... và nhiều hồ ao,
vườn ngự để vừa tôn cảnh trí vừa điều hoà khí hậu, đảm bảo
môi trường xanh, đẹp.
7. Ngoài Hoàng thành là nơi sinh hoạt của đủ tầng lớp xã hội.
Phía bắc có hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây) là thắng cảnh nổi tiếng
với đền Đồng Cổ tổ chức hội Thề hàng năm, đền Quáng Thánh,
cung Từ Hoa để công chúa cùng các cung nữ trồng dâu nuôi
tằm, có các làng hoa Nhật Chiêu, Nghi Tàm, Quảng Bá cung
cấp hoa cho kinh thành. Phía nam có phủ đệ của các thái tử,
hoang tử và quan lại, doanh trại của quân đội, Văn miếu và
trường Quốc Tử Giám, chùa Thắng nghiêm với lầu Thiên Phật
và quả chuông 800 lạng bạc, đàn Xã Tắc để cầu được mưa
và đàn Hoàn Khâu để tế giáo, có trường bắn để đua ngựa,
bắn cung và tập võ. Phía Đông là nơi buôn bán nhộn nhịp, có
hồ Lục Thuỷ với tháp Báo Thiên là đài chiến thắng, sông Hồng
thường mở hội đua thuyền. Phía Tây là khu nông nghiệp, có
13 trại mới được khai thác, nhiều dinh thự trên những gò đồi,
các vua Lý thường tổ chức lễ mừng sinh nhật ở đây.
8. Kiến trúc tôn giáo:
Kiến trúc Phật giáo thời Lý được thư tịch nói đến nhiều và
một số nơi còn để lại dấu tích chùa tháp, mà tháp mới là
công trình trung tâm.
-Tháp phật:
Tháp thời Lý là đền thờ phật giáo, trong lòng có pho tượng
Phật như tháp phật Tích, tháp Chương Sơn, tháp Tường Long ...
Riêng tháp chùa Báo Thiên với tên Đại Thắng Tư Thiêm lại
mang tư cách đài chiến thắng báo công với trời
9. *Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao
tầng bình diện vuông, tầng dưới các cửa có tượng Kim Cương
đứng trấn giữ. Các tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần, theo
những hình tháp in trên gạch và tháp thời Trần thì chiều cao
tháp thường bằng chu vi chân tháp. Nền móng tháp phải vững
chắc, xây tường dầy và dất cấp, trong nền trộn đất sét với sỏi đá.
Các tháp thờ Phật thường có số tầng lẻ biểu thị sự phát triển,
dấu tích hiện vật và thư tịch cho biết thương là 5 – 7 – 9 thậm
chí 13 tầng, riêng tháp đài Chiến thắng có số tầng chắn
( 12 hay 30 tầng) lại biểu thị sự ổn định.
10. Vật liệu xây tháp rất phong phú: gạch, đá hoặc xem kẽ gạch
với đá, có cả đồng và gốm men. Những bộ phận nhô ra được
gắn tượng người chim, và kết thúc đỉnh tháp có tượng người
tiên bưng mâm ngọc. Những cây tháp này hoà vào thiên nhiên
mà vẫn nổi trội, là điểm tựa tâm linh của mọi người.
Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy tháp thời Lý
có quy mô lớn, được xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp
thắng cảnh ở danh lam tạo ra một tổng thể kiến trúc sơn
thuỷ hữu tình bố cục cấn đối, hoà nhập với môi trường
để hài hoà với tự nhiên và nâng quy mô lên nhiều lần.
Những công trình này gắn với quý tộc cũng gắn với
toàn dân, cầu chúc hoàng đồ củng cố và nhân dân an lạc.
11. Chùa:
Thời Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngồi nào còn đến nay,
một số ít chỉ để lại nền móng ( như các chùa phật Tích, Vĩnh
Phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh, chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa
Hương Lãng ở Hưng Yên, chùa Long Đọi ở Hà Nam... ), số
khác chỉ sót ít di vật (như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim
Hoàng và chùa Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh
ở Thanh Hoá), chùa Một Cột ( Hà Nội) đến thời Nguyễn đã làm
lại thu nhỏ rất nhiều, chỉ có thể biết qua thư tịch và ý đồ kiểu
thức kiến trúc. Dưới góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại:
12. *Chùa dựng trên một cột: Sử cũ cho hay Thăng Long có
" Lầu chuông một cột, sáu cạnh, hình hoa sen " trong điện
Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) có toà sen trồi lên
mặt nước, trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ".
Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên Hựu tự được bia và sử cũ miêu
tả: chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang bao quanh
và cầu cong đi vào, riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm
đủ ngàn cách sen.
13. *Chùa kiêm hành cung: loại chùa này gắn với hoàng gia,
thường được nhà vua ghé thăm, để lên chùa, tổ chức cùng
quân thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng cảnh, gần
với núi sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay
có tháp phật để trải rộng lại vươn cao. Hình điêu khắc ở những
chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn nước vừa tượng
trưng cho vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường long,
Long Đọi, Chương Sơn.
14. Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng: có thể dựng ở các
sườn núi ( như chùa Vĩnh Phúc, chùa Tĩnh Lự ở Bắc Ninh),
mặt bằng khá rộng, điều khắc không có hình rồng, thường
có tượng con sấu trên thành bậc cửa và sư tử đội toà sen
mà dân gian gọi là " ông Sấm" gắn liền với việc cầu đảo cần
cho nông nghiệp lúa nước.
Chùa làng: dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại
( như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng ở Hà Tây),
quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi, không được thư tịch
đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá. Đôi khi
có sự tham gia cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo.
15. Chùa Một Cột hay chùa Mật ( gọi theo Hán Việt là Nhất
Trụ Tháp ) còn có tên khác là Diên Hựu hoặc Liên Hoa Đài
( Đài hoa sen ) , là môt ngôi chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội .
Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam .
Chùa được khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười âm
lịch năm 1049. Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở
giữa Hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể
lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý thái
Tông (1028-1054) và theo gợi ý của nhà sư Thiền Tuệ .vào năm
1049 vua đã mơ thấy được Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen
dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại cho bày
tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa , dựng cột đá
như trong chiêm bao , làm tòa sen của Phật Bà Quan Âm đặt
trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng
xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang
tên Diên Hựu .
16.
17. Văn Miếu – Quốc Tử Giám(chữ Hán: –文廟 國子監 ) là quần
thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố
Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Hiện nay,
nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh
sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc
Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu –
Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu
-nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên
-của Việt Nam.
18. Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh,
phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác
nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch
có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa
phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng
Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn
700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất
nước. Nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của
du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen
tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng
năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các
sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi.
21. Kiến trúc thời Trần lúc đầu được kế thừa thành tựu kiến trúc
thời Lý do đó có nhiều điểm gần với kiến trúc thời Lý. Tuy vậy
từ năm 1262 trở đi, với kiến trúc chùa, tháp Phổ Minh, tháp
Bình Sơn, chùa Thái Lạc… cùng với các tác phẩm chạm khắc
trang trí trên các công trình đó đã bắt đầu bộc lộ phong cách
mĩ thuật của thời kỳ này. Đó là sự thay đổi về vị trí, kiểu dáng
các công trình kiến trúc, cách thể hiện các đề tài trang trí mang
tính hiện thực phóng khoáng và thoáng đạt hơn.
22. Tháp Phổ Minh nằm trong quần thể kiến trúc chùa Phổ Minh,
thuộc làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc
Vượng, huyện Mỹ Lộc, ngoại thành Nam Định, cách phía Bắc
thành phố gần 2 km). Chùa tháp Phổ Minh được xây dựng trên
một địa thế tách biệt với xóm làng, vốn tĩnh mịch, thâm nghiêm
và cũng rất đẹp, gần với cung Trùng Quang – nơi ngự của các
vua Trần khi nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng
Hoàng.
23. Tháp Bình Sơn còn gọi là tháp chùa Vĩnh Khánh hay Tháp Then, là một ngôi
tháp tương Về hình dáng, tháp Bình Sơn gần giống với tháp Phổ Minh. Cũng
là kiểu tháp cao nhiều tầng, bốn mặt, đáy vuông. Tháp Bình Sơn tương truyền
có 15 tầng. Trước đây trên nóc tháp còn có hình búp hoa sen chưa nở bằng
đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát vươn cao. Tháp hiện chỉ còn
11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp bị bể, có tổng độ cao là 16,5m.
Tháp cấu tạo theo mặt bằng hình vuông nhỏ dần phía ngọnTháp có kết cấu,
cách xây dựng khá độc đáo, trong lòng tháp là một khoảng rỗng nhỏ chạy
suốt chân tháp lên đến ngọn, vách tháp gồm hai lớp.
Đáng chú ý ở tháp Bình Sơn là vẻ đẹp về màu sắc và hình trang trí. Toàn
bộ mặt ngoài tháp được trang trí bằng hệ thống hoa văn phong phú như:
rồng, sư tử, cánh hoa sen, hoa cúc bố cục thành dây… Ngoài ra còn nhiều
hình vẽ tay trên gạch ốp ngoài tháp rất hồn nhiên, tạo hình đơn giản như
mặt người, hình voi… thể hiện thẩm mỹ dân gian rõ nét. Nét vẽ rất phóng
khoáng, thoải mái.
Ngày nay tháp Bình Sơn vẫn đứng một mình giữa vùng đồi càng làm tăng
vẻ đẹp trong các kiến trúc nhiều tầng của người Việt cổ.
24. Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền
thần Hồ Quý Ly chỉ huy. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng
vào mùa xuân tháng Giêng năm Đinh Sửu đời vua Thuận Tông
của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là
Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình
chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại
vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình.
Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các
xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm
kinh đô mới với tên Tây Đô, Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến
24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400-1407) và Tây Đô là
kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông
Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô
được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây
dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng.
25. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ
bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện cho đến năm 1402.
Thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự
quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây
thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao quanh, có núi non hiểm
trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu
thế giao thông thủy bộ.
Theo Đại Nam nhất thống chí cho biết: Thành Tây Đô mỗi mặt dài
120 trượng (1 trượng tương đương 4m), cao 1 trượng 2 thước và
trong thành nay là ruộng ước chừng hơn 300 mẫu.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí ghi: Thành rộng ước hơn
300 mẫu, đường đi lối ngang lối dọc đều lát đá hoa, móng thành
bốn mặt đều xây đá xanh, từ mặt đất trở lên xây gạch, vuông vắn
dày dặn rất bền...
26. Thực tế: Thành bao gồm thành nội và thành ngoại. Thành ngoại
được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên
trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng
gần tới 50m bao quanh. Bên trong thành ngoại là thành nội có
mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc - Nam dài 870,5m, chiều Đông
-Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng
đá khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0,70 m, mặt trong đắp
đất. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi
là các cổng tiền - hậu - tả - hữu (Cửa Tiền hay còn gọi là Cửa Nam
Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai), to
nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5m,rộng
15,17 m. Theo sử liệu, trên thành còn xây tường bằng gạch mà
khảo cổ học đã phát hiện khá nhiều, trên nhiều viên gạch còn khắc
tên đơn vị các làng xã được điều động về xây thành.
27. Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ, di
tích còn lại hiện nay là 4 cổng thành bằng đá cuốn vòm, tường
thành và đặc biệt là Di tích Đàn tế Nam Giao còn khá nguyên
vẹn. Trong các phế tích đáng chú ý có nền chính điện chạm
một đôi tượng rồng đá rất đẹp dài 3,62 m.
28. Ngoài ra còn nhiều kiến trúc khác, trong đó đàn Nam Giao
xây trên sườn phía Tây Nam núi Đốn Sơn bằng đá quy mô
khá lớn.
Trong các nghi lễ của các kinh đô phương Đông cổ truyền,
đàn Nam Giao và nghi thức tế lễ Nam Giao hàng năm của
các vương triều là một bộ phận văn hóa tinh thần quan trọng
vào bậc nhất nhằm cầu mong cho đất nước thịnh trị, vương
triều trường tồn.
Đàn tế được xây dựng ở phía Nam Thành Nhà Hồ, phía trong
La Thành, dựa theo sườn Tây Nam núi Đốn Sơn. Đàn được
chia làm nhiều tầng giật cấp cao dần lên, trong đó tầng đàn
trung tâm cao 21,70m so với mực nước biển, chân đàn có
độ cao khoảng 10,50m so với mực nước biển.
29. Hiện nay, bước đầu đã khai quật được khoảng 15.000m2 và phát
lộ được cấu trúc tổng thể của phần đàn trung tâm bao gồm 3 vòng
tường đàn bao bọc lẫn nhau.
+ Vòng đàn ngoài cùng đã xuất lộ một phần dài 145m, rộng 113m
có hai đầu lượn tròn.
+ Vòng đàn giữa gần hình vuông 65m x 65m.
+ Vòng đàn trong cùng hình đa giác (60,60m x 52m) có hai cạnh
trên vát chéo.
Nền đàn được đầm nện bằng các loại đá dăm núi,móng tường đàn
và tường đàn được xây dựng bằng các loại đá xanh và gạch ở hai
bên, ở giữa nhồi đất. Tường đàn cómái lợp các loại ngói mũi sen,
ngói mũi lá và ngói âm dương. Mặt nền đàn được lát bằng loại
gạch vuông cỡ lớn. Các đường đi trong đàn được lát đá.
30. Góc Đông Nam đã tìm thấy một giếng nước lớn có cấu trúc
2 phần: phần thành giếng được xây bằng các khối đá có mặt
bằng hình vuông có bậc đi xuống nhỏ giật vào trong lòng, phần
lòng giếng hình tròn, mặt cắt hình phễu, phần miệng tròn có
đường kính khoảng 6,50m.
Đó là thành bậc đá chạm sấu thần, tượng đầu chim phượng,
uyên ương, hệ thống lá đề, hệ thống gạch trang trí chạm rồng,
hoa cúc.
31. A/ Những công trình tiêu biểu:
Kiến trúc cung đình:
+ điện Kính Thiên: điện Cần Chánh là nơi thiết triều trong cung
cấm, xây dựng từ thời Lê Thái Tổ. Ngày nay phần lớn công trình
này bị phá hủy và vùi sâu, chỉ còn 4 bậc cửa bằng đá với dấu tích
điêu khắc đương thời.
+ Công trình Lam Kinh: được xây dựng sau khi Lê Thái Tổ qua
đời, bao gồm khu quần thể kiến trúc các cung điện và miếu, lăng
mộ các vua Lê. Là đất phát tích của vương triều, cái nôi của khởi
nghĩa Lam Sơn, là Tây Kinh - kinh đô thứ hai sau Đông Kinh –
Thăng Long, Lam Kinh đã hội tụ những giá trị tiêu biểu cho kiến
trúc và nghệ thuật điêu khắc thời Lê. Những công trình được xây
dựng ở khu Lam Kinh cho thấy rõ bước chuyển của nghệ thuật
điêu khắc đá từ kỷ Đông A Nhà Trần sang kỷ Nhà Lê. Ngày nay
khu vực này bị phá huỷ gần hết, chỉ còn lại một ít phế tích tượng
ngựa đá, voi đá, nghê đá, hổ đá và bia Vĩnh Lăng, bia Hựu Lăng,
bia Chiêu Lăng
32. *Kiến trúc tôn giáo:
+ Việc xây cất các chùa, quán mới bị hạn chế nhưng việc tu bổ các
chùa, quán sẵn có được coi trọng. Từ thời Lê Thái Tông đến
Lê Chiêu Tông, nhà Lê cho trùng tu nhiều chùa.
+Gác chuông Chùa Keo là một công trình kiến trúc bằng gỗ tiêu
biểu, có cách lắp ráp, kết cấu vưà chính xác, vừa đẹp về hình dáng,
xứng đáng là công trình kiến trúc nổi tiếng của nền nghệ thuật cổ
Việt Nam.
33. Kiến trúc đền miếu để phục vụ cho nhu cầu thờ thần, thánh
và các anh hùng dân tộc, nhà Lê đã ban hành sắc lệnh duy trì
đền miếu thờ xâydựng từ các thời kỳ truớc. Ngoài ra nhà Lê
còn cho xây dựng đền miếu nhiều nơi trong nước. Từ đền
miếu thờ, những người có công với đất nước như Ngô Quyền,
Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo.... Cho đến những tấm gương
trung quân ái quốc, các anh hùng liệt nữ cũng được xây dựng
miếu thờ cúng.
34. Kiến trúc lăng mộ
Lăng Lê Thái Tổ: được xây dựng đầu tiên và cũng là tiêu biểu
cho kiến trúc lăng mộ thời Lê. Là lăng mộ lớn nhất trong số các
lăng mộ ở Lam Kinh. đến thời Lê Sơ, lăng cũng còn rất đơn giản,
quan trọng nhất là ngôi mộ đất có xây bỏ móng xung quanh. Dọc
trên con đường dẫn vào mộ được sắp xếp hai dãy tượng đối
xứng qua trục thần đạo. kể từ trong ra ngoài, các tượng được
đặt theo thứ tự: quan hầu, lân, tê giác, ngựa và hổ ở ngoài cùng.
Phía bên phải lăng có nhà bia Vĩnh Lăng.
35. B/ Rồng thời Lê sơ
-Tiếp thu Rồng thời Trần, cơ bản vẫn giữ hình dáng thân uốn cứng cáp,
to khoẻ, mào và sừng ở đầu trông dữ hơn. Nổi bật hình tượng đôi Rồng
trên các thành bậc đá (như: điện Lam Kinh và điện Kính Thiên
Rồng đá thềm điện Kính Thiên còn sót lại sau khi thực dân Pháp phá
điện xây lô cốt
*Đôi Rồng uốn khúc bò từ trên nền thềm điện xuống (đặt lối lên chính
giữa). Đầu Rồng to, có hai nhánh sừng nhô cao, mắt lồi, bờm mượt cuộn
ra sau. Lưng Rồng nhô hình vây nhọn theo khúc uốn. Một tay Rồng cầm
lấy râu. Chân Rồng chạm 5 móng sắc nhọn, các hình xoắn trang trí bên
thân Rồng, kết hợp với mây đao lửa. Đó là mô típ trang trí điển hình
mang đặc trưng thời Lê Sơ. Hình tượng Rồng trang nghiêm, râu bờm
và sừng nổi cao dũng mãnh uy quyền.