Một trong những xu hướng làm thay đổi toàn bộ đáng kể cục diện thế giới trong suốt hơn nhiều thập kỷ vừa qua chính là tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục của kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế được hiểu là việc ra các quyết định đầu tư trong sản xuất hoặc trao đổi, mua bán và cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên phạm vi vượt qua biên giới của một quốc gia, trên thị trường khu vực và thị trường toàn cầu.
Một trong những xu hướng làm thay đổi toàn bộ đáng kể cục diện thế giới trong suốt hơn nhiều thập kỷ vừa qua chính là tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục của kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế được hiểu là việc ra các quyết định đầu tư trong sản xuất hoặc trao đổi, mua bán và cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên phạm vi vượt qua biên giới của một quốc gia, trên thị trường khu vực và thị trường toàn cầu.
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN TS. BÙI QUANG XUÂNBùi Quang Xuân
Các đối tượng hữu quan là những đối tượng hay nhóm đối tượng có ảnh hưởng quan trọng đến sự sống còn và sự thành công của một hoạt động kinh doanh. Họ là người có những quyền lợi cần được bảo vệ và có những quyền hạn nhất định để đòi hỏi công ty làm theo ý muốn của họ. Đối tượng hữu quan bao gồm cả những người bên trong và bên ngoài công ty. Những người bên trong là các cổ đông (người góp vốn) hoặc cáccông nhân viên chức kể cả ban giám đốc và các uỷ viên trong hội đồng quản trị. Những người bên ngoài công ty là các cá nhân hay tập thể khác gây ảnh hưởng lên các hoạt động của công ty như khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan nhà nước, nghiệp đoàn, đối thủ cạnh tranh, cộng đồng địa phương vàcông chúng nói riêng. Quan điểm, mối quan tâm và lợi ích của họ có thể rất khác nhau.
TS. BÙI QUANG XUÂN
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN TS. BÙI QUANG XUÂNBùi Quang Xuân
Các đối tượng hữu quan là những đối tượng hay nhóm đối tượng có ảnh hưởng quan trọng đến sự sống còn và sự thành công của một hoạt động kinh doanh. Họ là người có những quyền lợi cần được bảo vệ và có những quyền hạn nhất định để đòi hỏi công ty làm theo ý muốn của họ. Đối tượng hữu quan bao gồm cả những người bên trong và bên ngoài công ty. Những người bên trong là các cổ đông (người góp vốn) hoặc cáccông nhân viên chức kể cả ban giám đốc và các uỷ viên trong hội đồng quản trị. Những người bên ngoài công ty là các cá nhân hay tập thể khác gây ảnh hưởng lên các hoạt động của công ty như khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan nhà nước, nghiệp đoàn, đối thủ cạnh tranh, cộng đồng địa phương vàcông chúng nói riêng. Quan điểm, mối quan tâm và lợi ích của họ có thể rất khác nhau.
TS. BÙI QUANG XUÂN
A Novel Technology for Fracking Wastewater TreatmentGwen Jordaan
MGP Biotechnologies is a company focused on developing a water remediation technology that selectively removes heavy metal from water. We are currently exploring applications of the technology to the fracking industry. In particular, we believe our technology can be used to remove heavy metal from the flowback water. Our technology is a highly efficient, cost effective and sustainable approach to solving the problem of toxic heavy metal contamination.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển thương mại. Ở Lào, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã hội và trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, song cho đến nay, vẫn có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về khái niệm thương mại. Về mặt thuật ngữ, thương mại tiếng Anh là “Trade”, vừa có nghĩa là kinh doanh, vừa có nghĩa là trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ nữa là “Business” hoặc “Commerce” với nghĩa buôn bán hàng hóa, kinh doanh hàng hóa hay mậu dịch. Tiếng Pháp cũng có từ “Commerce” với nghĩa là sự buôn bán, mậu dịch hàng hóa dịch vụ. Tiếng Latinh từ “thương mại” là “Commercium” vừa có nghĩa là mua bán hàng hóa, vừa có nghĩa là hoạt động kinh doanh. Theo từ điển Nga - Việt xuất bản năm 1977 thì thương mại (TOPGOBLA) cũng được hiểu là mua bán, kinh doanh hàng hóa... Như vậy, khái niệm thương mại cần được hiểu theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. [15].
MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG M...vietlod.com
Nhằm thực hiện các chương trình hành động, các chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình hành động riêng của ngành
ngân hàng. Hội nhập một mặt đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đem lại cho Hệ thống NHTM nước ta bước vào sân chơi lớn với nhiều âu lo vì Hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn non trẻ so với Hệ Thống NHTM ở các nước khác đã có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu đời. Để chuẩn bị cho Hệ thống NHTM nước ta có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam mở cửa thị trường thì các NHTM phải tự thay đổi mình như: nâng cao năng lực tài chính, mở rộng thị trường hoạt động ra nước ngoài, chuyển sang mô hình kinh doanh đa năng, chú trọng mô hình đa dạng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường nhưng cũng vẫn phải đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả.
http://nckh.vietlod.com/
Download luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: Mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ của các Ngân hàng Thương mại Cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO
Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển thương mại bền vững. Thương mại là ngành có lịch sử lâu đời và hiện là một trong những hoạt động kinh tế quan trọng hàng đầu của khu vực dịch vụ. Cho đến này, có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước về thương mại. Trong các công trình nghiên cứu đó, các tác giả đã cố gắng đưa ra những khái niệm về thương mại từ những góc độ nghiên cứu khác nhau. Tựu chung lại trong các khái niệm đó đều hàm chứa ý nghĩa: thương mại là hoạt động trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa bên mua và bên bán.
Bộ đề thi trắc nghiệm (có đáp án) môn Luật Kinh tế. Nội dung bao gồm 500 câu hỏi trắc nghiệm (kèm đáp án) được phân thành 7 phần như sau:
Phần 1: 113 câu
Phần 2: 71 câu
Phần 3: 34 câu
Phần 4: 62 câu
Phần 5: 80 câu
Phần 6: 62 câu
Phần 7: 72 câu
Đây là nội dung phần 7 gồm 72 câu hỏi + đáp án
Nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ kinh tế đối ngoại và quản trị kinh doanh thương mại quốc tế phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bộ môn Kinh tế Ngoại thương biên soạn giáo trình này nhằm giới thiệu một số kiến thức cơ bản thiết yếu nhất liên quan đến kinh tế và chính sách ngoại thương. Những kiến thức này rất cần thiết để hiểu được những vấn đề kinh tế và chính sách cụ thể đang diễn ra trong hoạt động ngoại thương nước ta cũng như chính sách ngoại thương của Nhà nước.
Đối tượng phục vụ chủ yếu của giáo trình Kinh tế Ngoại thương là sinh viên ngành kinh tế ngoại thương và quản trị kinh doanh quốc tế thuộc các hệ tập trung và tại chức. Ngoài ra giáo trình cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn đọc quan tâm đến vấn đề kinh tế và chính sách thương mại.
Giáo trình Kinh tế Ngoại thương được chia làm 4 phần, bố cục thành 11 chương
Phần I : Những vấn đề cơ bản về phát triển Ngoại thương
Phần II : Ngoại thương Việt Nam qua các thời kỳ
Phần III : Cơ chế quản lý và chính sách xuất khẩu, nhập khẩu
Phần IV : Hiệu quả kinh tế ngoại thương.
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Tại Công Ty Intimex đã chia sẻ đến cho các bạn sinh viên bài tiểu luận hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi. Nếu như các bạn muốn tải bài tiểu luận này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0932.091.562 hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn đồ án tốt nghiệp với đề tài: Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Cơ sở lý luận về ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế được hình thành, tồn tại và phát triển qua hàng trăm năm. Từ thời cổ đại, ở những nước có nền thương mại phát triển sớm đã xuất hiện những nhóm thương nhân chuyên nghề kinh doanh các dịch vụ tiền tệ nhưng chưa có một cơ cấu tổ chức nào được coi như một Ngân hàng theo đúng chức danh của nó. Trong nhiều thế kỷ của thời trung cổ, nghề kinh doanh này đã phải trải qua bao nỗi thăng trầm bởi chiến tranh tàn khốc, không thể phát triển được. Phải chờ cho đến đầu thế kỷ thứ 12, khi chiến tranh đã dịu bớt, kinh tế hàng hoá đã có bước phát triển, nhất là khu vực Tây âu. Khi đó, một tổ chức được mệnh danh là ngân hàng được thành lập ở Venise nước Ý vào năm 1171, tuy về thực chất chỉ là một tổ chức tài chính được thiết lập để thực hiện sự tài trợ cho chiến tranh, nhưng nội dung hoạt động của nó đã bao hàm cả nghiệp vụ Ngân hàng.
Thực Trạng Và Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đối Với Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Chi Nhánh Thành Công – Ngân Hàng Vietcombank Đã chia sẻ đến cho các bạn một bài mẫu báo cáo thực tập hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn đồ án tốt nghiệp với đề tài: Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Ba Đình, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Tiểu luận FDI và vai trò của FDI trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam_Nhận là...Nguyễn Thị Thanh Tươi
TDịch vụ làm luận văn cao học, luận văn tốt nghiệp, làm báo cáo thực tập tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp, tiểu luận, khóa luận, đề án môn học trung cấp, cao đẳng, tại chức, đại học và cao học (ngành kế toán, ngân hàng, quản trị kinh doanh…) Mọi thông tin về đề tài các bạn vui lòng liên hệ theo địa chỉ SĐT: 0988.377.480 ( Miss. Mai ) Email: dvluanvankt@gmail.com ( Bạn hãy gửi thông tin bài làm, yêu cầu giáo viên qua mail) Chúng tôi nhận làm các chuyên ngành thuộc khối kinh tế, giá cho mỗi bài khoảng từ 100.000 vnđ đến 500.000 vnđ
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
In international payment, the risk can happen when a company does not receive payment because a civil war in the partner's country makes the banking system not operate and the partner has no way to transfer money. This risk is called:
Counterparty risk
Country risk
Forex risk
Natural disaster risk
Câu 2. When transporting goods by air, if the seller does not want to buy cargo/goods insurance but only wants to pay the freight to the destination in the buyer's country and only takes risk until the goods are delivered to the carrier in the seller's country, the seller should choose the suitable term in the Incoterms 2020:
BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN KỸ NĂNG THỰC HÀNH NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP
Bgkdqt cô phan thu trang dhtm
1. 1
Chương 1: KINH DOANH QUỐC TẾ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
1.1. Khái quát về kinh doanh quốc tế
1.1.1. Khái niệm về kinh doanh quốc tế
Ngày nay, nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia trên thế giới thực hiện mở rộng hoạt động kinh
doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia của mình. Ví dụ:
- Honda (Nhật Bản) xây dựng các nhà máy lắp ráp ô tô, xe máy và hệ thống các cửa hàng bán lẻ
tại thị trường Việt Nam.
- Viettel (Việt Nam) đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở dịch vụ viễn thông và cung cấp dịch vụ viễn
thông tại Campuchia, Lào, Haiti, Mozambic,...
- Quá trình mở rộng hoạt động sang thị trường Việt Nam của HSBC: Với trụ sở chính tại Luân
Đôn, Tập đoàn HSBC có 7.200 văn phòng tại 85 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng giá trị tài sản của Tập
đoàn tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2011 là 2.556 tỉ đô la Mỹ. Năm 1870 HSBC mở văn phòng đầu tiên
tại Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh). Tháng 8 năm 1995, chi nhánh TP. Hồ Chí Minh được cấp phép
hoạt động và cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính ngân hàng. HSBC khai trương chi nhánh Hà Nội và
thành lập Văn phòng Đại diện tại Cần Thơ vào năm 2005.
Ngày 29 tháng 12 năm 2005, HSBC mua 10% cổ phần của Ngân hàng Cổ phần Kỹ thương Việt
Nam (Techcombank), một trong các ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất tại Việt Nam xét về vốn.
Tháng 07 năm 2007, HSBC mua thêm 5% cổ phần tại Techcombank. Tháng 09 năm 2008, HSBC hoàn
tất việc nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 15% lên 20%, trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên
tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước.
Tháng 09 năm 2007, HSBC ký hợp đồng mua 10% cổ phần của Tập Đoàn Bảo Việt, tập đoàn bảo
hiểm và tài chính hàng đầu của Việt Nam và trở thành đối tác chiến lược nước ngoài duy nhất của Bảo
Việt. Tháng 10 năm 2009, HSBC ký thoả thuận tăng tỷ lệ cổ phần nắm giữ tại Bảo Việt từ mức 10% lên
18% với trị giá 1,88 nghìn tỷ đồng (khoảng 105,3 triệu Đôla Mỹ).
Ngày 01 tháng 01 năm 2009, HSBC chính thức đưa ngân hàng con đi vào hoạt động, trở thành
ngân hàng nước ngoài đầu tiên đưa ngân hàng con vào hoạt động tại Việt Nam sau khi nhận được giấy
phép của Ngân hàng Nhà Nước để thành lập Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 09
năm 2008. Ngân hàng mới có tên Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) đặt trụ sở chính ở
tòa nhà Metropolitan, 235 Đồng Khởi, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Với số vốn đăng kí 3.000 tỷ
đồng, Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) thuộc 100% sở hữu của Ngân hàng Hồng
Kông và Thượng Hải, đơn vị sáng lập và thành viên chính thức của tập đoàn HSBC.
Tính đến tháng 7 năm 2011, mạng lưới hoạt động của HSBC Việt Nam mở rộng lên đến 16 điểm
trên toàn quốc bao gồm một hội sở, một chi nhánh và năm phòng giao dịch tại thành phố Hồ Chí Minh;
một chi nhánh, ba phòng giao dịch và một quỹ tiết kiệm tại Hà Nội và bốn chi nhánh tại Bình Dương, Cần
Thơ, Đà Nẵng và Đông Nai.
(http://www.hsbc.com.vn/1/2/about-hsbc/about_HSBC )
Qua đó cho thấy, các doanh nghiệp không chỉ tập trung cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách
hàng tại thị trường trong nước mà còn thực hiện xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng ở thị trường nước ngoài. Không chỉ thực hiện hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp còn đầu
2. 2
tư vốn, công nghệ sang thị trường nước ngoài để cung cấp hàng hóa và dịch vụ, tìm kiếm những cơ hội để
phát triển hoạt động kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận. Khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, mang tầm quốc tế, đó chính là lúc các doanh nghiệp đang thực hiện
các hoạt động kinh doanh quốc tế. Có một số cách hiểu về “Kinh doanh quốc tế” như sau:
Kinh doanh quốc tế là tất cả các giao dịch mang tính thương mại của tư nhân hoặc chính phủ giữa
hai hay nhiều quốc gia1
. Các công ty tư nhân thực hiện các giao dịch này vì mục đích lợi nhuận, các chính
phủ thực hiện các giao dịch này có thể vì mục đích lợi nhuận hoặc không. Những giao dịch này bao gồm
bán hàng, đầu tư, vận tải. Như vậy, theo cách hiểu này, Kinh doanh quốc tế là hoạt động mua bán hàng
hóa và dịch vụ, hoặc hoạt động đầu tư giữa các chủ thể ở hai hay nhiều quốc gia. Cũng trong cuốn sách
này, một cách hiểu khác về Kinh doanh quốc tế được đưa ra, đó là các hoạt động gắn liền với lợi nhuận
được thực hiện qua biên giới của quốc gia. Một lần nữa, cách hiểu này cho thấy kinh doanh quốc tế bao
gồm những hoạt động vượt qua biên giới của quốc gia, được thực hiện vì mục đích sinh lợi.
Một cách hiểu khác về Kinh doanh quốc tế, đó là: Kinh doanh quốc tế (international business),
hiểu đơn giản, là việc thực hiện hoạt động đầu tư vào sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ
nhằm mục đích sinh lợi có liên quan tới hai hay nhiều nước và khu vực khác nhau2
. Khái niệm này cho
thấy những hoạt động cụ thể của kinh doanh quốc tế, bao gồm đầu tư, mua bán hàng hóa và dịch vụ, đó là
những hoạt động được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi, có liên quan giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc
khu vực khác nhau.
Như vậy, từ những cách hiểu về Kinh doanh quốc tế được trình bày ở trên cho thấy Kinh doanh
quốc tế là những hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể từ hai hay nhiều quốc gia khác nhau nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm những hoạt động như đầu tư, trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ.
Từ những khái niệm và ví dụ về kinh doanh quốc tế trên đây cho thấy kinh doanh quốc tế có
những đặc điểm cơ bản như sau:
- Chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế có trụ sở ở các quốc gia khác nhau. Đây là đặc điểm
cơ bản đầu tiên có ý nghĩa quyết định tính quốc tế của hoạt động kinh doanh quốc tế. Chủ thể tham gia
hoạt động kinh doanh quốc tế chủ yếu là các doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực, mọi loại hình, các loại quy mô,
từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ tới những doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các công ty quốc tế,
công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Trong đó, các công ty đa quốc gia và các công ty xuyên quốc gia là
những chủ thể có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy dòng lưu chuyển hàng hóa dịch vụ giữa các quốc
gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước, thậm chí các công ty đó còn là những chủ thể có vai trò đáng
kể trong việc thúc đẩy quá trình hình thành thị trường chung và quá trình liên kết giữa các quốc gia, phát
triển các mối quan hệ quốc tế.
- Hoạt động kinh doanh quốc tế chịu sự tác động bởi các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh mang tính
quốc tế, bao gồm môi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hóa. Sự khác biệt về chính trị, luật pháp,
kinh tế, văn hóa ở các quốc gia khác nhau yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có chiến
lược và cách thức thực hiện sao cho phù hợp nhằm đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Ví
1
Marios I.Katsioloudes, Spyros Hadjidakis, International Business – A global perspective, 2007.
2 TS Nguyễn Thị Hồng Yến, Giáo trình KDQT, 2011.
3. 3
dụ “Tại Lào, thói quen không làm việc ngoài giờ và nghỉ toàn bộ các ngày cuối tuần của nhân viên bản xứ
khiến cho Viettel đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo việc phục vụ khách hàng 24/7 như các công
ty viễn thông cần phải làm. Trong giao tiếp và làm việc, nhân viên người Lào thích được nói chuyện nhẹ
nhàng, chứ không quen với tác phong quân đội, chấp hành mệnh lệnh. Chính vì vậy, bộ máy nhân viên
Viettel đã quyết định vừa phải thay đổi bản thân, vừa phải thay đổi chính cách nhìn và làm việc của nhân
viên bản xứ”3
.
- Đồng tiền được sử dụng trong kinh doanh quốc tế cũng mang tính quốc tế. Trong kinh doanh quốc tế,
chủ thể có thể sử dụng đồng tiền của quốc gia mình, cũng có khi sử dụng đồng tiền của quốc gia của đối tác,
hoặc sử dụng đồng tiền của một nước thứ ba. Khi đó cần có sự chuyển đổi giữa các đồng tiền theo một tỷ
giá nhất định. Doanh nghiệp có thể có lợi hoặc bất lợi trước một diễn biến của tỷ giá mà diễn biến này phát
sinh do cung cầu thị trường hoặc do tác động từ một văn bản pháp luật của Nhà nước.
- Quản trị tại các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh quốc tế khác với quản trị tại các doanh nghiệp
chỉ có hoạt động kinh doanh trong nước, đòi hỏi nhà quản trị phải có kỹ năng và nghệ thuật quản trị trong
môi trường có tính quốc tế với nhiều cơ hội nhưng không ít khó khăn thách thức, nhà quản trị cũng phải
có tầm nhìn mang tính chiến lược trên một phạm vi thị trường rộng lớn với rất nhiều yếu tố từ môi trường
kinh doanh tác động tới hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ chính sự
khác biệt về chính trị, pháp luật, văn hóa, kinh tế giữa các quốc gia.
1.1.2. Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế
Người tiêu dùng, các công ty, các tổ chức tài chính, các chính phủ, tất cả đều liên quan tới hoạt
động kinh doanh quốc tế và có vai trò quan trọng đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế. Bởi lẽ người
tiêu dùng có nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ từ các công ty quốc tế, các công ty này chính là người
sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, các tổ chức tài chính giúp
các công ty trong quá trình tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua việc tài trợ vốn, trao đổi
ngoại tệ, chuyển tiền, còn chính phủ là người xây dựng các văn bản pháp lý để điều chỉnh các dòng trao
đổi hàng hóa, dịch vụ, con người, vốn giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, chủ thể thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế chủ yếu là các công ty, bao gồm
các công ty ở tất cả các loại hình, các loại quy mô và ở tất cả các ngành nghề lĩnh vực. Tất cả các công ty
sản xuất, công ty dịch vụ, công ty bán lẻ đều tìm kiếm khách hàng ngoài biên giới quốc gia của mình.
Một công ty kinh doanh quốc tế là công ty tham gia trực tiếp vào bất kỳ hình thức kinh doanh quốc tế nào
như xuất khẩu, nhập khẩu hay sản xuất quốc tế, đầu tư quốc tế. Nếu xét theo khía cạnh quy mô về vốn và
lao động, bên cạnh những doanh nghiệp nhỏ và vừa là các công ty mang tầm cỡ lớn như công ty đa quốc
gia, công ty xuyên quốc gia4
. Những công ty này có nguồn vốn lớn hơn cả GDP của một quốc gia, thậm
3
Mạnh Chung, Viettel đầu tư ra nước ngoài, kỹ thuật đi trước. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2012 tại
http://vneconomy.vn/20110208100937782P0C5/viettel-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-ky-thuat-di-truoc.htm
4
công ty đa quốc gia (MNC – multinational company), công ty xuyên quốc gia (TNC – transnational company):
Công ty đa quốc gia hay doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) và công ty xuyên quốc gia đôi khi được sử dụng thay thế
cho nhau. HIện nay chưa có nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về MNC và TNC. Từ năm 1973, Liên
hợp quốc đưa ra 21 định nghĩa về MNC trong khi trong các báo cáo hàng năm về đầu tư của thế giới do UNCTAD
4. 4
chí có khả năng vận động các chính phủ đưa ra những văn bản pháp luật có lợi cho họ. Nếu căn cứ vào
chiến lược kinh doanh của công ty, chúng ta có thể gọi các công ty kinh doanh quốc tế với các tên gọi:
công ty đa quốc nội, công ty toàn cầu, công ty quốc tế5
.
Tóm lại chủ thế tham gia kinh doanh quốc tế chính là các doanh nghiệp, các công ty ở các loại
hình, các loại quy mô, ở các lĩnh vực ngành nghề, thực hiện các hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi biên
giới của quốc gia và mang tính quốc tế như hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư quốc tế,…
1.1.3. Mục đích của hoạt động kinh doanh quốc tế
Các chủ thể thực hiện kinh doanh quốc tế vì những mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất, các công ty thực hiện kinh doanh quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tăng doanh thu, lợi
nhuận, thị phần và củng cố năng lực cạnh tranh. Mục đích chính của các công ty khi thực hiện hoạt động
kinh doanh là lợi nhuận. Vì vậy, để tăng lợi nhuận, các công ty phải tìm kiếm các cơ hội giúp tăng doanh
thu và giảm chi phí. Mở rộng thị trường là một trong những cách giúp công ty có thể tăng doanh thu, tăng
thị phần, từ đó có thể nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của công ty.
Ví dụ, năm 2006, Viettel bắt đầu nghiên cứu tìm kiếm thị trường ngoài nước. Tháng 2/2009,
Viettel đã chính thức khai trương mạng di động Metfone tại Cam-pu-chia, khởi đầu quá trình kinh doanh
tại nước ngoài. Ngay sau đó, Viettel tiếp tục mở rộng thị trường sang Lào với mạng di động mang thương
hiệu Unitel vào tháng 10/2009. Tháng 9/2011, Viettel tiến sang thị trường châu Mỹ với việc khai trương
mạng di động Natcom tại Ha-i-ti. Ngày 15/5/2012, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã chính thức
khai trương mạng di động tại Mozambique, thị trường nước ngoài thứ 5 của Viettel và là thị trường đầu
tiên tạo đà để tập đoàn tiến quân mạnh hơn vào châu Phi. Thương hiệu của Viettel tại Mozambique có tên
là Movitel. Movitel là liên doanh giữa Viettel, SPI và Invespar (Mozambique), trong đó Viettel chiếm
70% vốn. Các mạng viễn thông mà Viettel đầu tư và kinh doanh ở nước ngoài chỉ sau hai năm đều bắt
đầu có lãi và trở thành công ty lớn ở nước sở tại. Năm 2011, Unitel trở thành công ty số một tại Lào (về
cả hạ tầng, thuê bao và doanh thu) với 42,23% thị phần. Doanh thu năm 2011 của Unitel đạt 110 triệu
USD, chiếm 1,4% tổng GDP của Lào. Còn tại Cam-pu-chia, mặc dù là DN thứ tám tham gia thị trường
viễn thông nước này nhưng chỉ sau hai năm hoạt động, Metfone cũng đã dẫn đầu thị trường với 49% thị
phần. Doanh thu năm 2011 của Metfone là 255 triệu USD, chiếm gần 2% tổng GDP của Cam-pu-chia.
Tại Ha-i-ti, là DN thứ ba tham gia thị trường nhưng ngay tại thời điểm khai trương, Natcom cũng đã là
công bố, tổ chức này chỉ đưa ra định nghĩa về công ty xuyên quốc gia và thường có những thông kê về hoạt động
của các công ty này. Nhìn chung, đây là những công ty có trụ sở chính/ công ty mẹ ở một quốc gia (nước chủ nhà,
nước chủ đầu tư – home country) và có hệ thống các chi nhánh, các công ty con ở nhiều quốc gia khác nhau (nước
tiếp nhận đầu tư – host country) thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
5
công ty đa quốc nội (MDC - multidomestic company): là một tổ chức luôn cố gắng cá biệt hóa sản phẩm, chiến
lược marketing và các hoạt động khác nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường ở từng quốc gia. Công ty toàn
cầu (GC – global company): là một tổ chức luôn cố gắng tiêu chuẩn hóa và nhất thể hóa các hoạt động trên phạm vi
toàn thế giới ở mọi bộ phận chức năng. Hay nói cách khác, công ty toàn cầu không có chiến lược cá biệt hóa sản
phẩm, chiến lược marketing hay các hoạt động khác theo những thị trường cụ thể. Công ty quốc tế (IC -
international company): là công ty vừa có hoạt động ở thị trường trong nước, vừa có hoạt động ở thị trường nước
ngoài.
5. 5
công ty số một tại Ha-i-ti về hạ tầng mạng viễn thông với 1.300 trạm thu phát sóng di động 2G và 3G
(tương đương 74% tổng số trạm của toàn Ha-i-ti).
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Viettel đã đóng góp đáng kể vào con số doanh thu của
Viettel. Năm 2011, Viettel đạt doanh thu gần sáu tỷ USD và có 60 triệu thuê bao đang hoạt động trên toàn
cầu. Sau ba năm kinh doanh ở nước ngoài, Viettel đã bắt đầu chuyển lợi nhuận về nước. Năm 2011, Tập
đoàn chuyển về nước hơn 40 triệu USD, lớn hơn số tiền mà Viettel đầu tư vào thị trường Cam-pu-chia.
Dự kiến lợi nhuận năm 2012 Viettel sẽ chuyển về nước đạt hơn 80 triệu USD6
.
Thứ hai, các công ty thực hiện kinh doanh quốc tế để sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả,
đó là nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ, lao động và các yếu tố sản xuất khác. Để đạt được mục đích
sinh lợi, các công ty không chỉ mở rộng thị trường cho sản phẩm, dịch vụ nhằm tăng doanh thu, lợi
nhuận, thị phần mà họ còn phải thực hiện tối thiểu hóa chi phí đầu vào thông qua các hoạt động như mua
bán quốc tế hàng hóa và dịch vụ, đầu tư quốc tế, tiếp nhận đầu tư quốc tế. Với những công ty có lợi thế về
vốn, khoa học công nghệ, họ sẽ thực hiện đầu tư ra nước ngoài, vào những thị trường có nhu cầu về vốn,
khoa học công nghệ, đủ điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư, thậm chí đó là những thị trường
có lợi thế về lao động giá rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú,… Đồng thời, chính công ty tiếp nhận
đầu tư được giải quyết nhu cầu về vốn, công nghệ. Như vậy, các bên có thể sử dụng hiệu quả hơn nguồn
lực thông qua hoạt động kinh doanh quốc tế. Ví dụ, khi HONDA đầu tư vào Việt Nam, xây dựng nhà máy
và đầu tư công nghệ lắp ráp ô tô, xe máy tại Việt Nam, HONDA có cơ hội sử dụng nguồn lao động với
chi phí thấp hơn ở thị trường Nhật Bản, nhờ đó góp phần giảm giá thành của sản phẩm khi được lắp ráp
tại Việt Nam. Một ví dụ khác là các doanh nghiệp sản xuất phần mềm ở Mỹ đặt gia công sản xuất phần
mềm ở các nước khác như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ với mục đích là tranh thủ nguồn nhân công có
trình độ, có tay nghề nhưng chi phí cho người lao động thấp hơn ở Mỹ.
Thứ ba, các công ty thực hiện kinh doanh quốc tế để có thể tranh thủ những điều kiện thuận lợi từ thị
trường bên ngoài, đặc biệt khi thị trường trong nước không có đủ những điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của công ty. Doanh nghiệp cần những điều kiện thuận lợi nhất định để phát triển hoạt động kinh
doanh của mình, đó là những điều kiện thuận lợi về khung pháp luật, cơ chế, chính sách, hay về điều kiện cạnh
tranh, nhu cầu của khách hàng,... Vì vậy, các doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh doanh sang thị trường
nước ngoài nhằm tranh thủ những điều kiện thuận lợi hơn mà tại thị trường trong nước doanh nghiệp không
có. Chẳng hạn, tại thị trường trong nước khi xuất hiện nhiều nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, thị trường trong
nước cũng trở nên bão hòa, Viettel đã mở rộng hoạt động kinh doanh của mình sang các thị trường nước
ngoài, vừa để tăng doanh thu, lợi nhuận, nâng cao vị thế của doanh nghiệp, vừa để tránh áp lực cạnh tranh tại
thị trường trong nước khi xuất hiện nhiều nhà cung cấp dịch vụ và nhu cầu trong nước đã được đáp ứng tương
đối đầy đủ.
Thứ tư, các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế để phân tán, giảm thiểu rủi ro
trong kinh doanh. Việc đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hóa thị trường giúp doanh nghiệp có thể
phân tán, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh thay vì chỉ tập trung vào một hay một số thị trường hay đối
6
Tổng hợp từ các nguồn: http://www.nhandan.org.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/kinh-te/kinh-t-tin-chung/v-n-ra-
th-tr-ng-n-c-ngoai-1.348965?mode=print và http://vneconomy.vn/201205160902510P0C16/viettel-khai-truong-
mang-di-dong-o-mozambique.htm ngày 15/7/2012
6. 6
tác. Ví dụ các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam không chỉ xuất khẩu sang các thị trường
khu vực châu Âu mà còn mở rộng sang thị trường các nước thuộc khu vực châu Á, châu Mỹ,… Qua đó,
các doanh nghiệp vừa có cơ hội tăng doanh thu, lợi nhuận, vừa có cơ hội giảm thiểu rủi ro trước những
biến động từ một thị trường cụ thể.
1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế và các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
Có nhiều cách hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, có quan điểm cho rằng “hội nhập kinh tế quốc
tế là quá trình ở đó các quốc gia hợp tác với nhau để giảm thiểu hoặc dỡ bỏ những trở ngại đối với dòng lưu
chuyển quốc tế về hàng hóa, con người và vốn”7
. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các
quốc gia hợp tác để đàm phán nhằm giảm và đi đến dỡ bỏ những yếu tố cản trở đối với sự di chuyển của hàng
hóa, vốn đầu tư và kể cả con người giữa các quốc gia. Hay nói cách khác, đó là quá trình hướng đến dỡ bỏ
những trở ngại đối với thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Cũng có quan điểm thì khẳng định “hội nhập
kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ thuế quan và những rào cản phi thuế đối với các dòng lưu chuyển hàng hóa,
dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất giữa các quốc gia với nhau”8
. Cách hiểu này, một lần nữa, cho
thấy hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tiến tới xóa bỏ những trở ngại đối với dòng lưu chuyển của
hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất. Cách hiểu thứ hai nêu rõ những yếu tố trở ngại cần
được các quốc gia dỡ bỏ là thuế quan và những rào cản phi thuế quan nhằm đảm bảo dòng lưu chuyển của
hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất thông thoáng, thuận lợi. Như vậy, theo cách hiểu
thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một quá trình ở đó các quốc gia tiến tới xóa bỏ những trở ngại
đối với dòng lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố của quá trình sản xuất, đó là thuế quan và
các biện pháp phi thuế quan. Cách hiểu thứ ba cho rằng “hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện
đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới
thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; mặt khác, gia nhập và
góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu” (Nguyễn Xuân Thắng 2007, tr.21). Cách hiểu
này cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình trong đó mỗi quốc gia, một mặt, thực hiện mở cửa
nền kinh tế, thực hiện tự do hóa các hoạt động thương mại, đầu tư, mặt khác gia nhập và góp phần xây
dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Thực chất, đây cũng là quá trình liên kết và hợp tác giữa
các quốc gia nhằm xây dựng khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh tế, thương mại giữa các
nước theo hướng ngày càng tự do, tạo thuận lợi cho dòng lưu chuyển hàng hóa, vốn, con người giữa các
quốc gia.
Như vậy, từ những cách hiểu trên đây, tác giả cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình ở đó
có sự liên kết, hợp tác giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau nhằm xây dựng và thực hiện một cơ chế
chung, thống nhất điều chỉnh dòng lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố liên quan quá trình sản
7
Tiếng Anh là “Economic integration: A process whereby countries cooperate with one another to reduce or
eliminate barriers to the international flow of products, people or capital”, tác giả truy cập ngày 19 tháng 10 năm
2010 tại http://basiccollegeaccounting.com/the-meaning-and-level-of-economic-integration/
8
“Economic integration: The elimination of tariff and nontariff barriers to the flow of goods, services, and factors of
production between a group of nations, or different parts of the same nation”. Tác giả truy cập tại
http://www.businessdictionary.com/definition/economic-integration.html ngày 19 tháng 10 năm 2010.
7. 7
xuất theo hướng ngày càng tự do, thông thoáng, thuận lợi, góp phần hình thành thể chế kinh tế khu vực
hoặc thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra và thể hiện thông qua sự liên kết, hợp tác trên bình diện
song phương (giữa hai quốc gia với nhau hoặc giữa một quốc gia với một khu vực), hoặc hợp tác trong
khu vực (giữa các quốc gia trong cùng khu vực), hoặc hợp tác liên khu vực (giữa các quốc gia ở các khu
vực), thậm chí trên bình diện toàn thế giới, khi đó có sự tham gia, liên kết, hợp tác của hầu hết các quốc
gia trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cả một quá trình, diễn ra từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao, hay nói
cách khác quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trải qua các mức độ khác nhau. Lịch sử chứng minh có 5 giai
đoạn (hay mức độ) của hội nhập kinh tế quốc tế, đó là:
Khu vực mậu dịch tự do (free trade area): đây là mức độ hội nhập thấp nhất hay là giai đoạn ban
đầu của quá trình hội nhập, thường được thể hiện thông qua việc các quốc gia ký kết với nhau Thỏa thuận
thương mại tự do (FTA), theo đó họ dành cho nhau những ưu đãi (đặc biệt ưu đãi về thuế quan) trong
thương mại hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, mỗi Thành viên của FTA vẫn có quyền đối xử với các quốc
gia khác không phải là Thành viên của FTA bằng những quy định, chính sách của riêng mình. AFTA -
Thỏa thuận thương mại tự do giữa các nước ASEAN hay NAFTA – Thỏa thuận thương mại tự do giữa
các nước khu vực Bắc Mỹ,… là những ví dụ về khu vực mậu dịch tự do giữa các nước trong khu vực.
Liên minh thuế quan (custom union): là mức độ hay giai đoại thứ hai của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, có tính liên kết, thống nhất cao hơn. Hơn cả việc dành cho nhau những ưu đãi, thuận lợi trong
hoạt động thương mại, các Thành viên trong liên minh thuế quan còn hợp tác để xây dựng một cơ chế hải
quan chung áp dụng thống nhất tại các Thành viên của liên minh và một biểu thuế quan thống nhất, kể cả
hạn ngạch nhập khẩu, để áp dụng trong hoạt động thương mại với các nước ngoài liên minh.
Thị trường chung (common market): đây là mức độ hội nhập sâu hơn giữa các quốc gia, thể hiện
ở việc các quốc gia trong khối thị trường chung thực hiện những quy định, cơ chế chung thống nhất nhằm
điểu chỉnh dòng lưu chuyển hàng hóa, vốn và con người giữa các quốc gia đó được tự do, thông thoáng,
thuận lợi. Tuy nhiên, các nước trong khối vẫn duy trì một hệ thống thuế quan thống nhất đối với các nước
ngoài khối. Thị trường chung châu Âu (cộng đồng kinh tế châu Âu) bao gồm 12 quốc gia đã được thành
lập từ năm 1957.
Liên minh kinh tế (economic union): đây là hình thức hội nhập ở mức độ cao hơn, sâu hơn so với
“thị trường chung”, bởi ngoài những đặc điểm của một thị trường chung, giữa các nước trong liên minh
kinh tế có một chính sách chung về tiền tệ và tài chính, sử dụng một đồng tiền chung. Tháng 1/1999, liên
minh châu Âu bao gồm 25 quốc gia đã được thành lập.
Liên minh chính trị (political union): đây là hình thức hội nhập ở mức độ cao nhất, đó là sự hội
nhập về thể chế, chính trị với sự ra đời của một Chính phủ chung. Liên minh châu Âu đã đạt được mức độ
hội nhập như vậy vào năm 2007, với luật pháp, các chính sách tiền tệ và tài chính chung, có nghị viện
châu Âu, hội đồng các Bộ trưởng,…
8. 8
Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn được thể hiện thông qua quá trình gia nhập của một quốc
gia vào một tổ chức kinh tế quốc tế, chẳng hạn WTO – một tổ chức hiện có 161 Thành viên9
hoạt động
trên cơ sở những nguyên tắc và quy định nhằm điều chỉnh dòng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa các
Thành viên theo hướng càng tự do, càng thông thoáng, càng khả đoán càng tốt.
Như vậy, về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết, hợp tác giữa hai hay nhiều
quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu: (i) cắt giảm và đi đến xóa bỏ thuế quan cũng như những
hàng rào phi thuế đối với thương mại quốc tế; (ii) giảm bớt các hạn chế đối với đầu tư quốc tế; (iii) điều
chỉnh các chính sách thương mại, tài chính và triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, ... có tính
chất toàn cầu. Đó là quá trình thể hiện sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới; là quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức
tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự công
bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập
kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các
quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế; một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong
sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh
trên thương trường. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở
các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn
thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô, tạo dựng các nhân tố mới
và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển
ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là sự khơi thông
các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ
và chia sẻ các kinh nghiệm quản lý.
1.2.2. Khái niệm về toàn cầu hóa và nội dung của toàn cầu hóa
Trong quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn đến sự ra đời
của tổ chức kinh tế, chính trị, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực như: Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN), khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương (APEC), thị trường tự do Nam Mỹ (Mercosur)...
Cũng trong quá trình toàn cầu hóa về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến chính trị dẫn đến sự ra đời
của các tổ chức chính trị quốc tế như Liên hợp quốc và các tổ chức của nó như UNDP, UNFPA,
UNESCO, UNICEP, INCTAD, FAO... đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các nước trên phạm
vi toàn cầu. Cùng với sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế, quá trình toàn cầu hóa đã hình thành
luật pháp quốc tế như công ước quốc tế về luật biển năm 1982, tuyên bố thế giới về nhân quyền, công ước
LHQ về quyền trẻ em mà Việt nam là nước tham gia ký kết sớm nhất châu Á. Như vậy, không có quá
trình toàn cầu hóa thuần nhất về kinh tế. Toàn cầu hóa diễn ra ở mọi lĩnh vực đời sống bao gồm kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Dưới đây là một số cách hiểu về toàn cầu hóa:
9
https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/org6_e.htm, cập nhật tháng 7 năm 2015
9. 9
- Thứ nhất, toàn cầu hóa là thuật ngữ được sử dụng để mô tả về quá trình quốc tế hóa thị trường hàng hóa
và dịch vụ, các phương tiện sản xuất, hệ thống tài chính,… Đây cũng là quá trình thúc đẩy dòng lưu
chuyển của vốn, quá trình đổi mới công nghệ trở nên nhanh hơn và làm tăng tính phụ thuộc, làm nhất thể
hóa thị trường các quốc gia10
.
- Thứ hai, toàn cầu hóa là quá trình liên kết, hội nhập giữa các cá nhân, công ty và chính phủ ở các quốc
gia khác nhau, quá trình đó phát triển nhờ có hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, và được hỗ
trợ bởi công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa có tác động đối với môi trường, văn hóa, hệ thống chính trị,
phát triển kinh tế và đời sống của con người11
.
- Thứ ba, toàn cầu hóa liên quan quá trình nhất thể hóa trật tự kinh tế thông qua việc giảm dần những rào
cản đối với thương mại quốc tế như thuế quan, phí XK, hạn ngạch NK. Theo đó, các nền kinh tế khu vực,
các xã hội và các nền văn hóa trở nên hội nhập thông qua liên lạc, vận tải và thương mại. Toàn cầu hóa
dường như được nhắc đến với ý nghĩa là quá trình toàn cầu hóa kinh tế, đó là quá trình hội nhập của nền
kinh tế các quốc gia với nền kinh tế thế giới thông qua thương mại, đầu tư, di chuyển thể nhân, và sự phát
triển của khoa học công nghệ. Quá trình toàn cầu hóa chịu sự tác động bởi các yếu tố kinh tế, khoa học
công nghệ, văn hóa xã hội, chính trị, công nghệ sinh học…12
- Thứ tư, toàn cầu hóa là quá trình hội nhập của các xã hội, các nền văn hóa và các nền kinh tế khác
nhau. Trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa là quá trình tạo ra một thị trường chung, nơi đó có trao đổi
hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia mà không bị giới hạn gì13
.
10
“The term globalisation is generally used to describe an increasing internationalisation of markets for goods and
services, the means of production, financial systems, competition, corporations, technology and industries.
Amongst other things this gives rise to increased mobility of capital, faster propagation of technological innovations
and an increasing interdependency and uniformity of national markets”. Nguồn: OECD glossary statistical terms,
2008.
11
Globalization is a process of interaction and integration among the people, companies, and governments of
different nations, a process driven by international trade and investment and aided by information technology. This
process has effects on the environment, on culture, on political systems, on economic development and prosperity,
and on human physical well-being in societies around the world.
(http://www.globalization101.org/What_is_Globalization.html)
12
Globalization refers to the increasing unification of the world's economic order through reduction of such barriers
to international trade as tariffs, export fees, and import quotas. The goal is to increase material wealth, goods, and
services through an international division of labor by efficiencies catalyzed by international relations, specialization
and competition. It describes the process by which regional economies, societies, and cultures have become
integrated through communication, transportation, and trade. The term is most closely associated with the term
economic globalization: the integration of national economies into the international economy through trade, foreign
direct investment, capital flows, migration, the spread of technology, and military presence.[1] However,
globalization is usually recognized as being driven by a combination of economic, technological, sociocultural,
political, and biological factors.[2] The term can also refer to the transnational circulation of ideas, languages, or
popular culture through acculturation. An aspect of the world which has gone through the process can be said to be
globalized. (http://en.wikipedia.org/wiki/Globalization)
13
Globalization is the integration of different societies, cultures and economies. In economic terms, globalization is
the creation of a common global market, where the exchange of goods and services between nations is not restricted.
10. 10
Như vậy, qua những cách hiểu trên đây cho thấy, theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá là một hiện
tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều
mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường, v.v…) giữa các quốc gia.
Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình hình thành thị trường toàn cầu làm
tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia.
Nội dung của toàn cầu hóa
Nếu tiếp cận toàn cầu hóa từ góc độ mang tính khái quát, toàn cầu hóa được thể hiện qua 3 dấu
hiệu sau đây:
Thứ nhất, toàn cầu hóa thể hiện qua sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của các luồng giao lưu quốc
tế về hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, nhân công... Có thể nói thương mại
quốc tế là thước đo đầu tiên của mức độ toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước. Khi các
nước trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho nhau đó cũng chính là quá trình các nước xóa nhòa dần sự biệt lập
giữa các nền kinh tế quốc gia. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Trong vòng 100 năm từ 1850
– 1948, thương mại thế giới tăng lên 10 lần, trong giai đoạn 50 năm tiếp theo từ 1948 -1997, tăng 17 lần. Từ
giữa thập niên 1970 đến giữa thập niên 1990, mức tăng bình quân của xuất khẩu thế giới là 4,5%. Trong giai
đoạn này, đánh dấu bắt đầu từ năm 1985, hàng năm tốc độ tăng bình quân của xuất khẩu hàng hóa thế giới
là 6,7%, trong khi đó sản lượng thế giới chỉ tăng lên 6 lần. Sự phát triển của thương mại thế giới và khoảng
cách ngày càng tăng giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ phát triển thương mại quốc tế thể hiện mức độ
toàn cầu hóa ngày càng cao.
Sự phát triển trao đổi dịch vụ giữa các nước ngày càng có vị trí quan trọng trong thương mại quốc
tế và đóng góp tích cực vào xu hướng toàn cầu hóa. Trong vòng 10 năm từ 1986 đến 1996, thương mại
dịch vụ thế giới tăng gấp gần 3 lần, từ 449 tỷ USD lên 1.260 tỷ USD. Các nước phát triển có mức tăng
thương mại dịch vụ cao gấp 3 lần so với mức tăng thương mại hàng hóa và trở thành khu vực đóng góp
chủ yếu vào GDP (Hoa Kỳ là 76%, Canada là 80%, Nhật Bản là 65%, EC là 64%).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự di chuyển tư bản (vốn và tiền tệ) giữa các nước là một
yếu tố ngày càng quan trọng đối với từng nền kinh tế quốc gia nói riêng và toàn bộ nền kinh tế thế giới
nói chung. Các luồng FDI có tốc độ tăng nhanh hơn cả mức tăng của thương mại hàng hóa và dịch vụ
quốc tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của toàn cầu hóa. Trong những năm 1970, các luồng FDI
hàng năm ở vào khoảng 27 – 30 tỷ USD; trong nửa đầu của thập niên 1980, con số này là 50 tỷ USD;
trong nửa cuối của thập niên của 1980 là 170 tỷ USD; năm 1995 gần 400 tỷ USD, 1998 là 845 tỷ USD,
năm 2000 vượt trên 1.000 tỷ USD, năm 2007 là 1.900 tỷ USD. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh,
hiện nay chiếm khoảng 50%. Cac luồng FDI vào các nước phát triển chiếm ¾ tổng số FDI trên thế giới.
Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, gắn với luồng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ
bên trong hệ thống của các công ty đa quốc, xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển từ năm 1990 có
xu hướng tăng lên.
Thứ hai, toàn cầu hóa thể hiện qua sự hình thành và phát triển các thị trường thống nhất trên
phạm vi khu vực và toàn cầu. Trong thời gian nửa đầu của thập kỷ 1990, theo thống kê của Tổ chức
(http://www.whatisglobalization.org/#read)
11. 11
Thương mại Thế giới (WTO) có tới 33 thỏa thuận liên kết kinh tế khu vực dưới dạng các thỏa thuận
thương mại ưu đãi, khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, liên minh kinh tế được ký kết đã thông
báo cho Ban thư ký của WTO. Số lượng này nhiều gấp 3 lần số lượng các thỏa thuận được ký trong thập
kỷ 1980 và bằng gần 1/3 tổng số các thỏa thuận liên kết khu vực được ký trong giai đoạn 1947 – 1995.
Riêng trong giai đoạn từ 2000 – 2008, có trên 140 thỏa thuận liên kết khu vực đã được thông báo cho
WTO. Cùng với các thỏa thuận trên, nhiều tổ chức hợp tác kinh tế đa phương thế giới và khu vực đã ra
đời, ngày càng được tăng cường về số lượng và cơ chế tổ chức. Theo số liệu thống kê của Liên minh các
Tổ chức Quốc tế, nếu như tính vào năm 1909, số lượng các tổ chức quốc tế trên toàn cầu chỉ là 213 thì
đến năm 1960, con số này là 1.422 tổ chức, năm 1981 là 14.273, năm 1991 là 28.200; năm 2001 là 55.282
và 2006 là 58.859 tổ chức. Trên phạm vi toàn cầu, ngoài các tổ chức kinh tế - tài chính được thành lập
trước đây như hệ thống các tổ chức thuộc Liên Hợp quốc, năm 1995, trên cơ sở Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan (GATT), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã được hình thành. Tính đến
tháng 3 năm 2013, WTO có 159 thành viên, chiếm tới trên 90% tổng giá trị thương mại thế giới. Ở phạm
vi khu vực, các tổ chức và cơ chế liên kết kinh tế cũng được tăng cường. Tại Châu Âu, Liên minh Châu
Âu EU với số lượng 27 nước thành viên hiện nay đã trở thành một liên kết quốc tế chặt chẽ toàn diện ở
hầu hết mọi lĩnh vực. Ở Châu Á-Thái Bình Dương, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp hội
hợp tác khu vực Nam Á (SAARC), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)... đã ra
đời và ngày càng tích cực đóng góp vào quá trình tăng cường liên kết quốc tế về thương mại trong khu
vực. Tại Châu Mỹ, ta có thể sự hình thành liên kết khu vực qua việc hình thành Khu vực mậu dịch tự do
Bắc Hoa Kỳ (NAFTA), Hiệp hội liên kết Hoa Kỳ La Tinh (LAIA), Thị trường chung Nam Hoa Kỳ
(MERCOSUR), nhóm các nước ANDEAN, Cộng đồng Caribe và Thị trường chung (CARICOM), Thị
trường chung Trung Hoa Kỳ (CACM)... Tại Châu Phi, Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi (ECOWAS),
Liên minh kinh tế và thuế quan Trung Phi (UDEAC), Cộng đồng phát triển miền Nam Châu Phi (SADC),
Liên minh Châu Phi (AU) là những nỗ lực để hình thành những khối thị trường chung và thống nhất
trong khu vực.
Thứ ba, toàn cầu hóa thể hiện qua sự gia tăng số lượng, quy mô và vai trò ảnh hưởng các công
ty xuyên quốc gia tới nền kinh tế thế giới. Theo số liệu của UNCTAD, năm 1998 có 53.000 công ty
xuyên quốc gia với 450.000 công ty con ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Năm 2000, trên thế giới
có khoảng 63.000 công ty xuyên quốc gia với 700.000 các công ty con ở khắp các nước. Năm 1995, các
công ty xuyên quốc gia bán ra một lượng hàng hóa và dịch vụ có giá trị bằng 7.000 tỷ USD. Năm 1999,
tổng doanh số ban ra của công ty xuyên quốc gia đã đạt đến giá trị 14.000 tỷ USD. Hiện nay, các công
ty xuyên quốc gia chi phối và kiểm soát trên 80% thương mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở
nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu chuyển giao công nghệ trên thế giới. Hệ thống dày đặc các công
ty xuyên quốc gia này không những đã tạo ra một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất thế giới
mà còn liên kết các quốc giá lại với nhau ngày càng chặt chẽ hơn, góp phần làm cho quá trình toàn cầu
hóa trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.
Nếu tiếp cận toàn cầu hóa dưới góc nhìn của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, toàn cầu hóa có
thể nhìn nhận ở góc độ toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa quá trình sản xuất.
Toàn cầu hóa các thị trường (The globalization of markets)
12. 12
Toàn cầu hóa các thị trường đề cập tới việc gắn kết (hợp nhất) các thị trường quốc gia vốn riêng
rẽ và tách biệt thành một thị trường rộng lớn mang tính toàn cầu. Việc hạ thấp các hàng rào đối với hoạt
động thương mại giữa các nước giúp cho việc bán hàng hóa trên phạm vi quốc tế trở nên dễ dàng hơn.
Đôi khi có những ý kiến cho rằng sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau đang
dần trở nên có sự đồng nhất, điều này giúp cho tạo nên thị trường toàn cầu. Các sản phẩm tiêu dùng như
thẻ tín dụng Citigroup, đồ uống Coca – Cola, các trò chơi video Sony PlayStation, bánh humberger
McDonald’s, và cà phê Starbucks thường được lấy làm ví dụ điển hình cho xu hướng này. Các doanh
nghiệp như Citygroup, Coca-Cola, McDonald’s, Starbucks và Sony không đơn thuần chỉ là những người
được hưởng lợi mà còn là những nhân tố tạo thuận lợi cho sự phát triển của xu hướng này. Bằng việc
cung cấp các sản phẩm cơ bản ra thị trường nước ngoài, họ đang góp phần giúp tạo nên một thị trường
toàn cầu. Một doanh nghiệp không cần phải có quy mô khổng lồ như một tập đoàn đa quốc gia mới có thể
gặp thuận lợi và thu được lợi ích từ việc toàn cầu hóa các thị trường. Ví dụ như ở Mỹ, gần 90% số lượng
các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu là những doanh nghiệp quy mô nhỏ với số lượng lao động ít
hơn 100 người, và tỷ trọng của họ trong tổng sản lượng xuất khẩu của Mỹ đang tăng dần trong suốt thập
niên vừa qua và hiện đang vượt quá 20%. Các doanh nghiệp với số lượng lao động ít hơn 500 người
chiếm khoảng 97% số lượng các nhà xuất khẩu của Mỹ và chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu. Điển
hình trong số đó là Hytech, nhà sản xuất tấm nền năng lượng mặt trời có trụ sở tại New York đạt doanh
thu hàng năm là 3 triệu USD và 40% trong số đó là từ việc xuất khẩu sang 5 quốc gia khác. Hay B&S
Aircraft Alloys một doanh nghiệp khác ở New York cũng là ví dụ phù hợp khi mà 40% trong con số 8
triêu USD doanh thu hàng năm cũng đến từ hoạt động xuất khẩu. Tình trạng này cũng tương tự như ở một
số quốc gia khác. Ví dụ như ở Đức, các doanh nghiệp với ít hơn 500 lao động chiếm khoảng 30% số
lượng các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu của quốc gia này. Bất chấp sự phổ biến của thẻ tín dụng
Citygroup, bánh humberger Mc Donald’s hay cà phê Starbucks, cần lưu ý rằng không nên đẩy quan điểm
tiếp cận đi quá xa khi cho rằng các thị trường quốc gia sẽ bị thay thế hoàn toàn bằng thị trường toàn cầu.
Có nhiều khác biệt đáng kể tồn tại giữa thị trường các nước theo các yếu tố liên quan, bao gồm sở thích
và thị hiếu của người tiêu dùng, các kênh phân phối, hệ thống các giá trị văn hóa, hệ thống kinh doanh và
các quy định pháp lý. Các khác biệt này thường đòi hỏi khi đưa ra chiến lược marketing, đặc trưng sản
phẩm, và tác nghiệp trong thực tế cần có những điều chỉnh cho phù hợp nhất với điều kiện thực tế ở mỗi
quốc gia. Ví dụ như các công ty ô tô sẽ xúc tiến bán các mẫu xe khác nhau căn cứ theo các yếu tố như chi
phí nhiên liệu ở địa phương đó, mức thu nhập, tình trạng tắc nghẽn giao thông, và các giá trị văn hóa.
Tương tự như vậy, nhiều doanh nghiệp cần điều chỉnh định hướng sản phẩm và tác nghiệp giữa các quốc
gia tùy theo sở thích và thị hiếu của từng nơi. Toàn cầu hóa thị trường hiện nay chủ yếu không phải dành
cho các sản phẩm tiêu dùng – khi mà giữa các quốc gia vẫn có những khác biệt về sở thích và thị hiếu và
đây vẫn là những nhân tố quan trọng góp phần kìm hãm xu hướng toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa các thị
trường hiện này chủ yếu dành cho các hàng hóa và vật liệu công nghiệp đáp ứng cho nhu cầu trên phạm vi
toàn cầu. Điều này bao gồm thị trường cho các hàng hóa như nhôm, dầu mỏ, và lúa mì; thị trường đối với
các sản phẩm công nghiệp như vi mạch, DRAMs (chip nhớ của máy tính), và máy bay thương mại; thị
trường cho phần mềm máy tính; và các thị trường đối với các loại tài sản tài chính từ như tài sản của Mỹ,
trái phiếu Châu Âu, đồng peso Mehico. Ở nhiều thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp cùng ngành
13. 13
thường đương đầu với nhau ở các thị trường quốc gia. Ví dụ như hai đối thủ kình địch trên phạm vi toàn
cầu là Coca Cola và PepsiCo, hay như giữa Ford và Toyota, Boeing và Airbus, Caterpillar và Komatsui
trong lĩnh vực thiết bị đào đất, hay Sony, Nintendo và Microsoft trong lĩnh vực trò chơi video. Nếu một
doanh nghiệp tiến vào một thị trường nơi các đối thủ cạnh tranh chưa tiếp cận thì chắc chắn các doanh
nghiệp kình địch sẽ theo chân vào thị trường này để ngăn chặn đối thủ của mình thu được lợi ích và
chiếm ưu thế. Do các công ty nối đuôi nhau trên phạm vi toàn cầu nên họ thương mang theo mình các tài
sản để phục vụ hoat động sản xuất và kinh doanh ở các thị trường các quốc gia, bao gồm các sản phẩm,
chiến lược hoạt động, chiến lược tiếp thị, các tên nhãn hiệu, tạo nên tính đồng nhất ở khắp các thị trường.
Vì thế, tính đồng nhất ngày một tăng lên và dần thay thế cho tính đa dạng. Ngày một nhiều các lĩnh vực
sản xuất, khái niệm thị trường Đức, thị trường Mỹ, thị trường Brazin hay thị trường Nhật Bản dường như
không còn tồn tại nữa mà thay vào đó đối với nhiều doanh nghiệp chỉ tồn tại duy nhất một thị trường toàn
cầu.
Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất (The globalization of production)
Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất đề cập đến việc sử dụng các nguồn lực về hàng hóa và dịch vụ
từ các địa điểm khác nhau ở khắp nơi trên thế giới nhằm khai thác những lợi ích do sự khác biệt giữa các
quốc gia về chi phí và chất lượng của các yếu tố phục vụ sản xuất như (lao động, năng lượng, đất đai và
vốn). Bằng cách này, các công ty hy vọng có thể hạ thấp cấu trúc chi phí chung/hoặc cải thiện chất lượng
hoặc tăng khả năng chuyên môn hóa các chức năng trong hoạt động sản xuất, điều này cho phép các
doanh nghiệp cạnh tranh hiệu quả hơn. Xem xét trường hợp đối với mẫu máy bay thương mại 777 của
hãng Boeing. Có tám nhà cung cấp Nhật Bản tham gia sản xuất các phần như thân, cửa và cánh máy bay;
một doanh nghiệp từ Singapore cung cấp cửa cho càng hạ cánh; ba nhà cung cấp từ Italia chế tạo vỏ cánh
máy bay… Tổng cộng có khoảng 30% giá trị của chiếc máy bay 777 được cung cấp bởi các công ty nước
ngoài. Đối với chiếc máy bay 787, Boeing còn định đẩy mạnh xu hướng này nhiều hơn, họ dự định tới
65% giá trị của chiếc máy bay sẽ được thuê ngoài từ các công ty nước ngoài và 35% trong số đó sẽ đến từ
3 công ty lớn của Nhật Bản. Một phần lý do căn bản của Boeing khi thuê ngoài khá nhiều trong hoạt động
sản xuất đó là vì các nhà cung ứng nước ngoài này thực sự là những doanh nghiệp giỏi nhất trong lĩnh
vực chuyên môn của họ. Một mạng lưới toàn cầu các nhà cung cấp sẽ tạo ra những sản phẩm cuối cùng
tốt hơn, điều này cho phép Boeing có thêm cơ hội dành thị phần nhiều hơn trong tổng đơn hàng máy bay
thương mại so với đối thủ chính của họ là Airbus. Bên cạnh đó, việc Boeing outsource một số hoạt động
sản xuất ở các nước khác là nhằm tăng cơ hội dành được các đơn hàng quan trọng
từ các hãng hàng không có trụ sở ở nước đó.
Một ví dụ khác về mạng lưới các hoạt động toàn cầu, hãy xem xét chiếc laptop X31 của IBM.
Sản phầm này được các kỹ sư của IBM thiết kế tại Mỹ vì IBM tin rằng đây là địa điểm tốt nhất cho việc
thiết kế các mẫu sản phẩm. Vỏ máy, bàn phím và ổ đĩa cứng được sản xuất tại Thái Lan; màn hình hiển
thị và bộ nhớ được sản xuất tại Hàn Quốc; card không dây gắn trong được sản xuất tại Malaysia, và vi
mạch xử lý được chế tạo tại Mỹ. Trong mỗi case, các linh kiện này được sản xuất tại các địa điểm tối ưu
với các khoản chi phí sản xuất và vận chuyển. Các linh kiện này sẽ được chuyển tới bộ phận của IBM tại
Mehico để lắp ráp trước khi được chuyển về Mỹ để tiêu thụ. IBM thực hiện việc lắp ráp máy tính
ThinkPad tại Mehico vì các nhà quản lý tính toán rằng do chi phí nhân công ở quốc gia này khá rẻ, nên họ
14. 14
có thể giảm thiểu chi phí lắp ráp khi thực hiện tại đây. Chiến lược marketing và bán hàng đối với thị
trường Bắc Mỹ do nhân sự của IBM tại Mỹ xây dựng và phát triển, chủ yếu là do công ty này tin rằng dựa
trên sự am hiểu về thị trường địa phương, nhân sự của IBM ở Mỹ sẽ tạo thêm giá trị cho sản phẩm thông
qua các nỗ lực marketing của họ hơn là nhân sự ở nơi khác. (Năm 2005, bộ phận kinh doanh các sản
phẩm máy tính cá nhân của IBM, bao gồm cả ThinkPad, đã được công ty Lenovo của Trung Quốc mua
lại và công ty này đã nhanh chóng chuyển trụ sở chính của mình về Mỹ vì tin rằng đây là nơi tốt nhất đề
điều hành công việc kinh doanh). Trong khi các hoạt động thuê ngoài (outsource) chủ yếu như Boeing và
IBM giới hạn đối với các doanh nghiệp chế tạo thì ngày càng nhiều công ty tận dụng sự tiến bộ của công
nghệ truyền thông, đặc biệt là Internet để outsource các hoạt động dịch vụ sang các nhà sản xuất với chi
phí thấp ở các nước khác. Ví dụ, Internet cho phép các bệnh viện ở Mỹ thuê ngoài (outsource) công việc
liên quan đến chẩn đoán bệnh thông qua phim chụp sang Ấn Độ, nơi mà hình ảnh của chụp cộng hưởng
từ và các phương pháp tương tự được phân tích vào ban đêm khi các bác sĩ điều trị ở Mỹ ngủ và kết quả
sẵn sàng cho họ vào sáng hôm sau. Tương tự như vậy vào tháng 12 năm 2003, IBM tuyên bố công ty này
sẽ chuyển công việc của khoảng 4,300 kỹ sư phần mềm từ Mỹ sang Ấn Độ và Trung Quốc (sản xuất phần
mềm được coi là một loại hoạt động dịch vụ). Nhiều công ty phần mềm hiện đang sử dụng kỹ sư người
Ấn Độ để thực hiện chức năng bảo trì đối với các phần mềm được thiết kế tại Mỹ. Do sự khác biệt về thời
gian, các kỹ sư Ấn Độ có thể thực hiện công việc kiểm tra debugging đối với các phần mềm được viết ở
Mỹ khi các kỹ sư bên Mỹ đi ngủ, và chuyển các mã đã được sửa lỗi về Mỹ thông qua kết nối Internet
được bảo mật và sẵn sàng cho các kỹ sư bên Mỹ tiếp tục công việc vào ngày hôm sau. Việc phân tách các
hoạt động tạo ra giá trị theo cách này có thể rút ngắn thời gian và giảm chi phí cần thiết để phát triển các
chương trình phần mềm mới. Các doanh nghiệp khác từ các công ty sản xuất máy tính đến các ngân hàng
cũng đang thực hiện việc outsource các chức năng dịch vụ khách hàng, chẳng hạn như trung tâm giải đáp
điện thoại, sang các quốc gia đang phát triển nơi mà chi phí lao động rẻ hơn. Robert Reich người đã từng
đảm nhiệm vị trí bộ trưởng lao động dưới thời chính quyền Clinton, cho rằng xu hướng mà các công ty
như Boeing, Microsoft hay IBM đang thực hiện dẫn tới kết quả là giờ đây nhiều trường hợp không còn
thích hợp khi nói đến hàng hóa của Mỹ, của Nhật Bản, của Đức hay của Hàn Quốc. Theo Reich, khi việc
outsourcing các hoạt động sản xuất sang các nhà cung ứng khác đang ngày một tăng như hiện nay thì kết
quả tất yếu của hoạt động toàn cầu hóa, người ta đã đề cập đến “sản phẩm toàn cầu”. Tuy nhiên, giống
như với việc toàn cầu hóa các thị trường, người ta cũng phải cẩn trọng tránh việc đẩy toàn cầu hóa hoạt
động sản xuất đi quá xa. Có rất nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi họ tìm cách phân
tán hoạt động sản xuất ra nhiều nơi trên phạm vi toàn cầu một cách tối ưu. Những trở ngại này bao gồm
các rào cản chính thức hoặc không chính thức cản trở hoạt động thương mại giữa các nước, các rào cản
đối với đầu tư nước ngoài, chi phí vận chuyển và các vấn đề liên quan đến rủi ro kinh tế và chính trị. Ví
dụ, như các quy định của Chính phủ hạn chế việc các bệnh viện thực hiện outsource công việc chẩn đoán
bệnh qua ảnh chụp cộng hưởng từ sang các nước đang phát triển nơi mà chi phí cho bác sĩ Xquang rẻ hơn.
Tuy nhiên, chúng ta đang tiến bước về một tương lai được đặc trưng bởi toàn cầu hóa các thị trường và
hoạt động sản xuất. Các doanh nghiệp hiện đại đóng vai trò nhân tố quan trọng trong xu thế này khi các
hoạt động của họ góp phần thúc đẩy toàn cầu hóa. Tuy vậy, các doanh nghiệp này cũng phản ứng lại một
cách hiệu quả với những thay đổi về điều kiện trong môi trường hoạt động.
15. 15
1.2.3. Các nhân tố thúc đẩy toàn cầu hóa
Có hai nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đó là việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt
động thương mại và đầu tư ở các lĩnh vực; và sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ.
Việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ, công nghệ, sở hữu trí
tuệ giữa các nước và lãnh thổ trên phạm vi khu vực và toàn cầu cùng với sự hình thành và tăng cường các
quy định, nguyên tắc, luật lệ chung với cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt động, giao dịch
kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đối với lĩnh
vực hàng hóa, trong khuôn khổ của Hiệp định GATT, thương mại hàng hóa là lĩnh vực thể hiện rõ nét
nhất việc dỡ bỏ các rào cản theo hướng tự do hóa. Từ năm 1947 đến nay đã diễn ra 8 vòng đàm phán để
cắt giảm thuế quan. Kết quả của các vòng đàm phán đã đưa thuế quan của các nước công nghiệp phát
triển giảm xuống từ 40% năm 1947 xuống còn gần 10% vào cuối thập niên 1960 và dưới 4% sau khi hoàn
thành thực hiện các cam kết của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định đạt được tại vòng đàm phán
Urugoay làm giảm tới 38% mức thuế quan của hàng nghìn mặt hàng trên thế giới. Về hàng rào phi thuế
quan, tổ chức WTO cũng như các khuôn khổ khu vực đều đưa vào trong chương trình đàm phán. Vòng
đàm phán Urugoay đã đề cập tới một các lĩnh vực liên quan tới các hàng rào phí thuế quan như biện pháp
vệ sinh an toàn và kiểm dịch động thực vật, các rào cản kỹ thuật, các quy định về định giá hải quan, quy
tắc xuất xứ... Trên phạm vi khu vực, hàng rào thuế quan nội khối đã được gỡ bỏ như trong EU, NAFTA,
AFTA. Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, Hiệp định GATS trong khuôn khổ của WTO là nỗ lực đầu
tiên nhằm xây dựng các quy định trên phạm vi toàn cầu để quản lý các luồng lưu chuyển dịch vụ giữa các
quốc gia. Hiệp định đã đưa ra các nguyên tắc mang tính chất khung, dựa vào đó các nước đưa ra những
cam kết cụ thể về mở cửa và tiếp cận thị trường.
Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới quá trình toàn
cầu hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình này. Những tiến bộ của khoa học – kỹ thuật và công
nghệ bao gồm những phát minh, sáng chế, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới, các phương
pháp công nghệ hiện đại, các lý thuyết và phương thức quản lý mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào
thực tiễn sản xuất, kinh doanh làm tăng năng suất lao động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư
cho xã hội với chi phí thấp hơn, giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển sự phân
công, chuyên môn hóa lao động, sản xuất và kinh doanh theo ngành nghề, vùng lãnh thổ và giữa các quốc
gia. Nhờ đó, thương mại và trao đổi quốc tế về hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một
tăng.
Sự phát triển của khoa học – công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và
lần thứ hai đã mở đường cho sự hình thành và phát triển nhanh chóng của thị trường thế giới. Nếu cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chủ yếu dựa vào máy hơi nước, sắt và than thì cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ hai chủ yếu dựa vào máy chạy bằng nhiên liệu lỏng, điện và năng lượng nguyên tử và
những vật liệu đặc biệt: kim loại không sắt, chất dẻo, sợi hóa chất, đặc biệt là dựa vào những thành tựu
của lĩnh vực thông tin và phương thức quản lý mới. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong
ngành giao thông và kỹ thuật thông tin làm cho thế giới bị thu nhỏ lại về không gian và thời gian. Các chi
phí về vận tải, về thông tin ngày càng giảm, sự cách trở về địa lý dần được khắc phục, các quốc gia và dân
16. 16
tộc trở nên gần gũi hơn với những hình ảnh và thông tin được truyền hình liên tục về các sự kiện đang xẩy
ra ở mọi nơi trên trái đất.
Trong thế kỷ XIX, sự ra đời của đường sắt đã làm giảm chi phí vận tải khoảng 85 – 95%. Trong
khoảng 10 – 15 năm, phí vận tải đường biển đã giảm khoảng 70%; phí vận tải hàng không giảm mỗi năm
khoảng 3 – 4%. Sự phát triển của máy tính cá nhân và thương mại điện tử đã diễn ra với tốc độ nhanh
chóng hơn. Năng suất trong ngành công nghệ thông tin suốt trên ba thập kỷ tăng khoảng 5% một năm,
cao gấp 5 lần so với tốc độ tăng năng suất chung của tất cả các ngành. Dưới tác động của cuộc cách mạng
công nghệ về công nghệ thông tin, kinh tế tri thức đang hình thành trong đó tri thức trở thành một lực
lượng sản xuất ngày càng quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế nói chung và từng
loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và tiêu thục trên thị trường quốc tế nói riêng.
Khoa học và công nghệ từ cuối thập niên 1970 đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất toàn cầu, làm thay đổi hầu hết mọi mặt hoạt động sản xuất cả về lượng và chất và
mang tính quốc tế hóa cao độ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ này đã làm cho nền kinh tế thế giới
phát triển với tốc độ trên 3%/năm trong vòng hơn 20 năm. Hai cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã
mang lại những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế và xã hội toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển nhanh
chóng của sản xuất, tạo ra nguồn của cải phong phú cho loài người. Tuy nhiên, với hai cuộc cách mạng
đầu tiên, hàm lượng vật chất (năng lượng, nguyên nhiên liệu, thiết bị máy móc, vốn và lao động) vẫn
chiếm phần lớn trong một sản phẩm. Với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay, hàm lượng vật
chất trong các sản phẩm ngày càng giảm, hiện nay chỉ còn chiếm tỷ lệ bình quân từ 25 – 30% trong một
sản phẩm, phần còn lại là hàm lượng tri thức. Đặc điểm này cũng thể hiện tính toàn cầu, tính quốc tế hóa
của hoạt động lao động sản xuất ngày càng cao.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba gắn với sự ra đời của những công nghệ cao
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực sinh học, thông tin, tự động hóa, vật liệu mới và năng lực.
Trong lĩnh vực sinh học, việc khám phá ra cấu trúc ADN, hiểu biết được mật mã của sự sống là
một bước ngoặt trong lịch sử sinh học. Với những kỹ thuật về di truyền học, về gien và nuôi cấy tế bào,
nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi và nguồn dinh dưỡng mới được tạo ra, góp phần nâng cao năng suốt
nông nghiệp, tạo ra lương thực và thực phẩm dồi dào cho con người sử dụng và trao đổi. Trong vòng ba
thập kỷ, sản xuất lương thực thế giới tăng trên 100% trong khi dân số tăng trên 60%.
Lĩnh vực thông tin chứng kiến những tiến bộ phi thường, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy xu thế toàn cầu hóa. Với hệ thống các phương tiện và kỹ thuật thông tin hiện đại, cách mạng thông tin
toàn cầu như điện thoại, fax, Internet... mối liên hệ qua lại và giao dịch giữa các cá nhân và doanh nghiệp
ở mọi nơi trên thế giới trở nên nhanh chóng, thường xuyên và thuận tiện với chi phí ngày càng giảm dần;
biên giới giữa các quốc gia trên nhiều phương diện đã và đang bị xóa mờ. Sự biến đổi trong lĩnh vực
thông tin, đặc biệt đã biến thông tin trở thành môt thứ hàng hóa, truyền thông trở thành một trong những
ngành công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Nhờ vào công nghệ thông tin, thương mại điện tử ra đời và
phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhờ vào công nghệ thông tin, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất –
kinh doanh đã thay đổi vô cùng nhanh chóng. Một số nhà phân tích dự đoán rằng “Nền kinh tế điện tử„ sẽ
tạo ra nhiều công ty với quy mô nhỏ, hoạt động thông qua mạng điện tử với cơ chế tạm thời hoặc không
cần phải có một trụ sở làm việc chung.
17. 17
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ cũng tạo ra nhiều loại vật liệu mới có chất lượng tốt hơn,
chi phí thấp hơn thay thế những vật liệu truyền thống. Từ những năm 1980 cho đến nay, thế giới đã tăng
cường sử dụng những nguồn năng lượng và vật liệu mới, khiến cho lượng dầu lửa do các nước công
nghiệp tiêu thụ giảm đi trung bình 1 tỷ tấn/năm. Tỷ lệ nguồn điện nguyên tử, thủy điện, năng lượng mặt
trời được sử dụng ngày càng cao trong sản xuất và đời sống. Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt, vật
liệu tổng hợp, sợi quang học, gốm sứ... thay thế ngày càng nhiều nguyên liệu truyền thống. Tự động hóa
cũng trở thành một nét đặc trưng của khoa học – công nghệ, nhiều khâu trong sản xuất được tự động hóa,
lập trình khoa học.
1.3. Cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với hoạt động kinh doanh quốc tế
1.3.1. Cơ hội
Toàn cầu hóa vừa tạo cơ hội, vừa tạo thách thức cho các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động
kinh doanh quốc tế. Về mặt tích cực, toàn cầu hóa mang lại cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế
những cơ hội như:
- Thứ nhất, các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, tăng doanh thu, lợi nhuận, thị
phần. Đặc biệt, khi các quốc gia là thành viên của các liên kết khu vực, ở đó quan hệ thương mại giữa các
thành viên là các thỏa thuận thương mại tự do (chẳng hạn các nước ASEAN ký kết thỏa thuận thương mại
tự do AFTA, các nước thuộc khu vực Bắc Mỹ ký kết thỏa thuận thương mại tự do NAFTA) hoặc khi các
quốc gia là thành viên của một tổ chức kinh tế quốc tế, chẳng hạn Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ở
đó quan hệ thương mại được điều chỉnh bởi những nguyên tắc và quy định nhằm đảm bảo thương mại
càng trở nên thông thoáng và khả đoán thì điều kiện tiếp cận thị trường trở e, thuận lợi hơn. Đây chính là
cơ hội tốt đối với các doanh nghiệp trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường kinh doanh của mình.
- Thứ hai, toàn cầu hóa giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực
một cách tối ưu. Khi điều kiện tiếp cận thị trường trở nên thông thoáng, thuận lợi thì việc di chuyển các
nguồn lực giữa các quốc cũng trở nên dễ dàng, đó là sự di chuyển của nguồn vốn, nguồn lao động,kỹ
thuật, công nghệ,… Nhờ đó, các doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn lực có chi phí thấp, góp phần
giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thứ ba, toàn cầu hóa giúp doanh nghiệp có cơ hội củng cố, nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Dưới tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, bởi vậy thị trường được mở rộng và thị trường trong nước cũng trở thành thị trường quốc
tế. Do đó, áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp tăng lên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải củng cố và
nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể giữ vững vị thế tại thị trường trong nước và ngoài nước. Điều đó
cũng có nghĩa là toàn cầu hóa đã mang lại cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cơ hội củng cố khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2. Thách thức
Bên cạnh những tác động tích cực theo hướng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc
tế, toàn cầu hóa còn có những tác động không tích cực, tạo ra những thách thức cho các doanh nghiệp.
Những thách thức của quá trình toàn cầu hóa đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế bao gồm: