3. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 3
Lêi nãi ®Çu
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh
tế thị trường với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế
có chế độ sở hữu khác nhau đã làm cho các quan hệ kinh tế
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Luật Doanh nghiệp
1999 ra đời nhằm mục đích xây dựng hành lang pháp lý cho
các loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Trước đòi hỏi của quá trình hội nhập WTO, Việt Nam
đã tiến hành xây dựng Luật Doanh nghiệp mới, thay thế Luật
Doanh nghiệp 1999, tạo ra khung khổ pháp lý bình đẳng và
thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp. Ngày 29 tháng
11 năm 2005 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI, Luật Doanh
nghiệp 2005 đã được thông qua thay thế cho Luật Doanh
nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003. Luật
Doanh nghiệp 2005 ra đời được đông đảo doanh nghiệp và
người dân nồng nhiệt chào đón đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống. Nhưng trong quá trình thực tiễn áp dụng Luật còn có
một số vấn đề vướng mắc cần giải quyết để Luật Doanh
nghiệp 2005 ngày càng được hoàn thiện.
Cuốn sách “100 câu hỏi về Luật Doanh nghiệp 2005”
nêu ra những vấn đề quản trị bốn loại hình doanh nghiệp,
nhất là tại các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn. Ngoài ra, cuốn sách nhỏ này cũng đề cập đến một số
vấn đề còn vướng mắc tại Luật Doanh nghiệp 2005 cần phải
làm rõ để việc áp dụng Luật được nhất quán. Từ hoạt động
tư vấn trong nhiều năm qua cho các doanh nghiệp, các tác
giả đã biên soạn các câu hỏi và trả lời dựa trên các tình
huống thực tế từ hoạt động tư vấn, tranh tụng; từ đó chỉ ra
4. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
4
một số bất cập của các quy định của Luật Doanh nghiệp
2005 với hy vọng góp phần sửa đổi, bổ sung Luật này.
Trong quá trình biên soạn, cuốn sách chắc chắn không
thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, do đó các tác giả
rất hoan nghênh những ý kiến góp ý, bổ sung của bạn đọc.
Xin cám ơn Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp Danida
của Chính phủ Đan Mạch đã tài trợ cho cuốn sách này.
Xin cám ơn các tác giả và trân trọng giới thiệu với bạn
đọc cuốn sách “100 câu hỏi về Luật Doanh nghiệp 2005”.
PHßNG TH¦¥NG M¹I Vµ C¤NG NGHIÖP VIÖT NAM
5. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 5
Ban biªn so¹n
1. LuËt gia: Cao B¸ Kho¸t
2. LuËt s-: TrÇn H÷u Huúnh
20. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
20
tranh của từng doanh nghiệp nhà nước nói riêng và của khu
vực kinh tế nhà nước nói chung.
Ba là: Kế thừa và phát triển thêm những đổi mới và
tiến bộ về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh
nghiệp đã đạt được trong các văn bản pháp luật có liên quan,
nhất là Luật Doanh nghiệp 1999.
Bốn là: Tiếp tục duy trì, mở rộng và phát triển quyền tự
do kinh doanh. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không
cấm; có quyền tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động kinh doanh; được lựa chọn, thay đổi hình thức tổ chức
quản lý nội bộ, hình thức đầu tư-kinh doanh phù hợp và được
nhà nước bảo hộ. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ kinh
doanh hợp pháp của doanh nghiệp, áp dụng phổ biến chế độ
đăng ký (thay cho cấp phép), xóa bỏ những quy định “xin-
cho”, “phê duyệt”, “chấp thuận” bất hợp lý, gây phiền hà cho
doanh nghiệp.
Năm là: Tiếp tục đổi mới chức năng của Nhà nước
trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi
việc khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp là một trong những
chức năng chính; coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối
tượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Những quy
định trước đây có lợi cho doanh nghiệp thì được tiếp tục thực
hiện trong thời hạn đã cam kết trước đó. Tôn trọng quyền của
doanh nghiệp trong tổ chức quản lý nội bộ, tự chủ thỏa thuận
và định đoạt các quan hệ nội bộ phù hợp pháp luật Việt Nam
và các cam kết quốc tế. Đồng thời đảm bảo cho các cơ quan
quản lý nhà nước thực hiện quyền kiểm tra việc chấp hành
luật pháp của các doanh nghiệp.
22. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
22
4. Tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, giảm chi phí gia nhập
thị trường. Kết hợp và thống nhất đăng ký kinh doanh và
đăng ký đầu tư; nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, khi đăng
ký kinh doanh gắn với dự án đầu tư cụ thể sẽ thực hiện đăng
ký đầu tư đồng thời với đăng ký kinh doanh. Đồng thời, tăng
thêm các quy định về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
để ngăn ngừa, hạn chế nguy cơ lạm dụng thành lập doanh
nghiệp không nhằm mục đích kinh doanh, doanh nghiệp
không hoạt động mà không làm thủ tục giải thể theo quy
định, v.v... qua đó, làm lành mạnh thêm môi trường kinh
doanh ở nước ta;
5. Bãi bỏ khống chế mức sở hữu đối với đầu tư nước
ngoài trong các doanh nghiệp ở nước ta, trừ các ngành nghề
hạn chế kinh doanh;
6. Các nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự chủ lựa
chọn loại hình doanh nghiệp để kinh doanh; không bị bắt
buộc phải sử dụng duy nhất hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn như hiện nay;
7. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền tự
chủ cao hơn trong thực hiện kinh doanh, trong tổ chức lại
doanh nghiệp, trong mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề
kinh doanh; doanh nghiệp đa dự án sẽ thay thế doanh nghiệp
đơn dự án như hiện nay;
8. Khung quản trị được quy định thống nhất đối với
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, đối với doanh nghiệp sở hữu tư nhân và doanh
nghiệp sở hữu vốn nhà nước;
23. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 23
9. Đổi mới cơ bản cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu
nhà nước tại các doanh nghiệp, trong đó, tách chức năng thực
hiện quyền chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính
nhà nước, thực hiện tập trung và thống nhất các quyền chủ sở
hữu, đồng thời, tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh
nghiệp;
10. Tăng cường, củng cố thêm các quyền của thành
viên, cổ đông; bảo vệ mạnh hơn quyền và lợi ích của thành
viên, cổ đông thiểu số;
11. Tăng cường thêm các quy định quản lý vốn, hạn
chế nguy cơ lạm dụng nguyên tắc trách nhiệm hữu hạn;
12. Tăng thêm quy định yêu cầu công khai và minh
bạch hoá, nhất là đối với những người quản lý;
13. Thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả
và hiệu quả kinh doanh của công ty;
14. Xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý,
nhất là đối với thành viên Hội đồng quản trị và giám đốc, đặc
biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng;
15. Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai
trò, vị trí và trách nhiệm của Ban kiểm soát;
16. Quy định cụ thể và rõ ràng hơn cơ chế và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền trong
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Nhìn tổng quát, nội dung của Luật Doanh nghiệp 2005
đã tuân thủ đúng các tư tưởng chỉ đạo nêu trên. Dư luận xã
hội, nhất là cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước
đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao nội dung của Luật.
27. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 27
- Theo Đoạn 502 và 503 Báo cáo của Ban công tác thì
có hai đối tượng hưởng quyền, gồm: (1) Các liên doanh theo
các cam kết trong Biểu Cam kết Dịch vụ của Việt Nam được
thành lập kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO; (2) Các
doanh nghiệp được các nhà đầu tư Việt Nam cùng với nhà
đầu tư của một thành viên WTO thành lập trước ngày Luật
Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực (đối tượng này chỉ được
hưởng quyền trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật Doanh
nghiệp 2005 có hiệu lực).
- Trong khi đó, Nghị quyết 71 lại quy định hai đối
tượng hưởng quyền hoàn toàn khác, gồm công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Điều này có nghĩa là đối
tượng hưởng quyền bao gồm tất cả các công ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần, không phân biệt vốn trong nước
hay vốn nước ngoài, liên doanh hay không liên doanh.
Hiện tại có hai luồng ý kiến trái ngược nhau về vấn đề
doanh nghiệp loại hình nào có quyền áp dụng cam kết WTO
và Nghị quyết 71:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng: Cam kết WTO là sự thỏa
hiệp giữa Việt Nam với các bên đàm phán, trong đó Luật
Doanh nghiệp 2005 đã nhượng bộ các nhà đầu tư nước ngoài
nên chỉ có hai loại liên doanh theo Báo cáo của Ban công tác
mới có quyền thỏa thuận trong Điều lệ ba vấn đề nêu ở trên,
còn các doanh nghiệp khác vẫn phải tuân thủ Luật Doanh
nghiệp 2005.
- Ý kiến thứ hai cho rằng: Tại Nghị quyết 71 đã nêu rõ
đối tượng hưởng quyền là công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần nên mọi doanh nghiệp thuộc hai loại hình này đều
có quyền áp dụng cam kết WTO và Nghị quyết 71.
28. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
28
Một số chuyên gia cho rằng ý kiến thứ hai là hợp lý vì:
- Không thể thành lập được liên doanh mới kể từ ngày
Việt Nam gia nhập WTO. Việc thành lập liên doanh chỉ có
thể được thực hiện trong thời gian Luật Đầu tư nước ngoài
còn hiệu lực. Kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO,
không thể thành lập được liên doanh tại Việt Nam do Luật
Đầu tư nước ngoài đã hết hiệu lực và được thay thế bằng
Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 (cùng có hiệu
lực kể từ ngày 01/7/2006). Do đó, từ thời điểm Việt Nam gia
nhập WTO chỉ có thể thành lập một trong bốn loại hình
doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Đối với các doanh nghiệp được các nhà đầu tư Việt
Nam cùng với nhà đầu tư của một thành viên WTO thành lập
trước ngày Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực thì chỉ được
áp dụng cam kết WTO và Nghị quyết 71 trong thời hạn hai
năm kể từ ngày Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực. Như
vậy, kể từ ngày 01/07/2008, doanh nghiệp được các nhà đầu
tư Việt Nam cùng với nhà đầu tư của một thành viên WTO
thành lập trước ngày Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực
không có quyền áp dụng cam kết WTO và Nghị quyết 71
nữa.
- Nếu chỉ có hai đối tượng theo Báo cáo của Ban công
tác có quyền áp dụng cam kết WTO và Nghị quyết 71 thì vi
phạm nguyên tắc bình đẳng giữa các doanh nghiệp Việt Nam
quy định tại Điều 5 Luật Doanh nghiệp 2005 và nguyên tắc
không phân biệt đối xử trong WTO.
29. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 29
Do đó, vẫn cần phải có sự hướng dẫn cụ thể để áp dụng
thống nhất. Chính phủ cần sớm ban hành nghị định hướng
dẫn áp dụng Nghị quyết 71. Từ đầu năm 2008, đã có một dự
thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Nghị quyết 71. Xin lấy ví
dụ trong tình huống sau để phân tích sự cần thiết phải có một
Nghị định hướng dẫn áp dụng:
Tình huống: Công ty cổ phần A được thành lập và
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 1999. Điều lệ công ty áp
dụng theo Luật Doanh nghiệp 1999 quy định tỷ lệ tối thiểu để
thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông là 51%. Đến
thời điểm Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, công ty
không tiến hành sửa Điều lệ cho phù hợp với Luật Doanh
nghiệp 2005 (tức là nâng tỷ lệ tối thiểu lên 65%). Khi Công
ty đang tiến hành sửa Điều lệ thì Nghị quyết 71 được ban
hành. Sau đó, công ty tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và
biểu quyết thông qua Điều lệ mới trong đó áp dụng tỷ lệ 51%
theo Nghị quyết 71. Câu hỏi được đặt ra là: Công ty cổ phần
A áp dụng tỷ lệ 51% trong Điều lệ thì có được không?
Trong tình huống trên cần phân chia thành hai giai đoạn
để xác định giá trị pháp lý của tỷ lệ 51% trong Điều lệ công
ty. Giai đoạn từ khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực đến
trước thời điểm Nghị quyết 71 có hiệu lực. Và giai đoạn kể
từ thời điểm Nghị quyết 71 có hiệu lực.
Trong giai đoạn từ khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu
lực đến trước thời điểm Nghị quyết 71 có hiệu lực thì tỷ lệ
51% quy định trong Điều lệ công ty trái với Luật Doanh
nghiệp 2005 vì Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tỷ lệ tối
thiểu phải là 65%. Trong giai đoạn này, công ty phải hoạt
động theo các nguyên tắc quản trị do Luật Doanh nghiệp
30. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
30
2005 quy định. Các thỏa thuận tại Điều lệ công ty mà trái với
Luật Doanh nghiệp 2005 đương nhiên không có giá trị áp
dụng.
Tuy nhiên, đến giai đoạn kể từ thời điểm Nghị quyết
71 có hiệu lực, công ty A đã thỏa thuận được trong Điều lệ
việc áp dụng tỷ lệ 51% thì thỏa thuận này được Nghị quyết
71 đảm bảo có hiệu lực và có giá trị thi hành. Nhưng Công ty
A vẫn băn khoăn liệu khi tiến hành các thủ tục hành chính
liên quan đến đăng ký kinh doanh thì cơ quan đăng ký kinh
doanh có chấp nhận tỷ lệ 51% không? Giả sử như có tranh
chấp nội bộ công ty tại tòa án, trọng tài thì tòa án, trọng tài
áp dụng tỷ lệ nào để giải quyết? Tối thiểu 51% theo Điều lệ
công ty hay tối thiểu 65% theo Luật Doanh nghiệp 2005? Tất
cả các câu hỏi trên hiện có rất nhiều cách hiểu. Có ý kiến cho
là cam kết WTO chỉ cho liên doanh áp dụng tỷ lệ tối thiểu
51%, còn các doanh nghiệp vốn trong nước như Công ty cổ
phần A vẫn phải áp dụng tỷ lệ tối thiểu 65% theo Luật Doanh
nghiệp 2005. Nhưng cũng lại có ý kiến cho rằng Công ty cổ
phần A có quyền áp dụng tỷ lệ tối thiểu 51% vì câu chữ
trong Nghị quyết 71 đã thể hiện như vậy; ngoài ra liên doanh
thì không thể thành lập mới được kể từ ngày Luật Doanh
nghiệp 2005 có hiệu lực còn các liên doanh cũ thì thời hạn áp
dụng chỉ là hai năm kể từ ngày Luật Doanh nghiệp 2005 có
hiệu lực (tức là ngày 01/07/2008 là hết thời hạn áp dụng).
Chính vì các vấn đề chưa rõ ràng trên nên cần có một
hướng dẫn áp dụng Nghị quyết 71 kịp thời để tránh gây ra
các cách hiểu khác nhau. Một quy định pháp lý mà được hiểu
33. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 33
e) Cá nhân được uỷ quyền đại diện cho những người
quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này;
g) Doanh nghiệp trong đó những người quy định tại
các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản này có sở hữu đến mức
chi phối việc ra quyết định của các cơ quan quản lý ở doanh
nghiệp đó;
h) Nhóm người thoả thuận cùng phối hợp để thâu tóm
phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi
phối việc ra quyết định của công ty.”
Như vậy, theo quy định trên của Luật Doanh nghiệp
2005 thì không có khái niệm người có liên quan của cá nhân
người quản lý doanh nghiệp mà chỉ có khái niệm người có
liên quan của pháp nhân doanh nghiệp. Nghĩa là nếu chúng
ta truy tìm người có liên quan của pháp nhân doanh nghiệp
thì rất dễ dàng, chỉ cần căn cứ vào khoản 17 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp 2005 là có thể tìm được; còn nếu truy tìm
người có liên quan của cá nhân người quản lý doanh nghiệp
thì không có căn cứ nào để xác định.
Việc không xác định trong Luật Doanh nghiệp 2005
khái niệm người có liên quan của cá nhân người quản lý
doanh nghiệp là một trong những thiếu sót của Luật Doanh
nghiệp 2005 và tạo ra một số hệ quả pháp lý rất khó giải
quyết. Một số quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 đã đưa
ra khái niệm người có liên quan của cá nhân, cụ thể như sau:
Khoản 1 Điều 118 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định:
“Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác của
34. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
34
công ty phải kê khai các lợi ích liên quan của họ với công ty,
bao gồm:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh, số
và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nơi đăng
ký kinh doanh của doanh nghiệp mà họ có sở hữu phần vốn
góp hoặc cổ phần; tỷ lệ và thời điểm sở hữu phần vốn góp
hoặc cổ phần đó;
b) Tên, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh, số
và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nơi đăng
ký kinh doanh của doanh nghiệp mà những người có liên
quan của họ cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng cổ phần hoặc
phần vốn góp trên 35% vốn điều lệ”.
Khoản 1 Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định:
“Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau
đây phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị
chấp thuận:
a) Cổ đông, người đại diện uỷ quyền của cổ đông sở
hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và
những người có liên quan của họ;
b) Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc;
c) Doanh nghiệp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1
Điều 118 của Luật này và người có liên quan của thành
viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”.
Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 có đề cập đến vấn
đề người có liên quan của cá nhân cổ đông, cá nhân thành
35. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 35
viên Hội đồng quản trị, cá nhân thành viên Ban Kiểm soát,
cá nhân Tổng Giám đốc nhưng lại không đưa ra được căn cứ
để xác định những người có liên quan đó là ai. Điều này gây
ảnh hưởng đến các giao dịch tư lợi. Tình huống sau đây sẽ
làm rõ sự ảnh hưởng đó:
Tình huống: Ông N là thành viên Hội đồng quản trị
công ty cổ phần A. Công ty A và bố đẻ ông N ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vậy hợp đồng này có
phải là hợp đồng giữa công ty với người có liên quan quy
định tại khoản 1 Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2005 không?
Theo quy định tại khoản 17 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
2005 thì chỉ có thể xác định được người có liên quan của
pháp nhân doanh nghiệp, chứ không có căn cứ để xác định
người có liên quan của cá nhân thành viên Hội đồng quản trị
cho nên bố đẻ của thành viên Hội đồng quản trị không phải
là người có liên quan của thành viên Hội đồng quản trị. Vì
thế mà hợp đồng giữa công ty cổ phần A và bố đẻ của thành
viên Hội đồng quản trị công ty này không phải là một giao
dịch tư lợi theo Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2005.
Rõ ràng có sự không hợp lý nếu cho rằng bố đẻ của
thành viên Hội đồng quản trị không phải là người có liên
quan của thành viên Hội đồng quản trị và hợp đồng giữa
công ty và bố đẻ thành viên Hội đồng quản trị công ty đó
không phải là một giao dịch tư lợi. Như vậy, thực tiễn đã đặt
ra cho các nhà lập pháp yêu cầu là cần phải quy định rõ
những đối tượng nào được coi là người có liên quan của cá
nhân người quản lý doanh nghiệp.
36. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
36
Cũng đã có luật quy định về người có liên quan của cá
nhân, đó là Luật Chứng khoán 2006. Khoản 34 Điều 6 Luật
Chứng khoán 2006 quy định về người có liên quan như sau:
“Người có liên quan là cá nhân hoặc tổ chức có quan hệ với
nhau trong các trường hợp sau đây:
a) Cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, vợ, chồng, con, con
nuôi, anh, chị em ruột của cá nhân;
b) Tổ chức mà trong đó có cá nhân là nhân viên, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, chủ sở hữu trên mười phần trăm số
cổ phiếu lưu hành có quyền biểu quyết;
c) Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng
giám đốc và các chức danh quản lý khác của tổ chức đó;
d) Người mà trong mối quan hệ với người khác trực
tiếp, gián tiếp kiểm soát hoặc bị kiểm soát bởi người đó hoặc
cùng với người đó chịu chung một sự kiểm soát;
đ) Công ty mẹ, công ty con;
e) Quan hệ hợp đồng trong đó một người là đại diện
cho người kia”.
Như vậy, quy định của Luật Chứng khoán 2006 đã xác
định được người có liên quan của cá nhân. Nhưng Luật
Chứng khoán 2006 và Luật Doanh nghiệp 2005 có đối tượng
và lĩnh vực điều chỉnh khác nhau nên không thể áp dụng quy
định của luật này vào luật kia được. Vấn đề là cần phải quy
định cụ thể khái niệm người có liên quan của cá nhân trong
40. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
40
quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trách nhiệm của người quản
lý công ty không chỉ trong quan hệ nội bộ mà còn trong mối
quan hệ đối với chủ nợ của công ty.
Công ty cổ phần là loại hình công ty có quy mô lớn, có
nhiều cổ đông. Đại đa số cổ đông đó không trực tiếp tham
gia quản lý công ty. Công việc quản lý do một số ít người
thực hiện. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định rất cụ
thể và chặt chẽ nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với đông
đảo cổ đông. Nói cách khác, người quản lý công ty coi việc
quản lý công ty như việc của chính mình, cụ thể là phải trung
thực, hết lòng vì lợi ích của cổ đông, của công ty.
Để bảo vệ lợi ích của chủ nợ, Luật Doanh nghiệp có
quy định chặt chẽ về trách nhiệm của những người quản lý
công ty. Trước hết, khi công ty không có khả năng thanh
toán thì người quản lý công ty phải thông báo tình hình tài
chính của công ty cho tất cả chủ nợ biết và trong tình trạng
này thì người quản lý không được tăng tiền lương, trả
thưởng.
Điều lệ công ty cần quy định rõ ai trong số những
người quản lý phải thực hiện các nghĩa vụ nói trên. Nếu
người được phân công không thực hiện nghĩa vụ thì phải
chịu trách nhiệm cá nhân đối với thiệt hại xảy ra cho chủ nợ.
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2005 còn quy định trách
nhiệm cá nhân của thành viên Hội đồng quản trị trong việc
đưa ra các quyết định.
44. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
44
dung hoạt động của văn phòng đại diện phải phù hợp với nội
dung hoạt động của doanh nghiệp. Văn phòng đại diện không
được trực tiếp kinh doanh, không được ký các hợp đồng kinh
doanh với dấu của văn phòng đại diện, nhưng vẫn được ký
kết các hợp đồng theo sự uỷ quyền của doanh nghiệp; hợp
đồng đó sẽ đóng dấu doanh nghiệp.
Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có
nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của
doanh nghiệp, kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền.
Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải phù hợp với
ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Chi nhánh có
quyền ký các hợp đồng được doanh nghiệp ủy quyền nhân
danh chi nhánh, đóng dấu chi nhánh. Doanh nghiệp phải thực
hiện các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch của văn
phòng đại diện và chi nhánh.
Việc Luật Doanh nghiệp 2005 quy định rõ về địa điểm
kinh doanh là hết sức cần thiết và phù hợp với đòi hỏi từ thực
tế. Các doanh nghiệp thường thuê một phòng nhỏ ở các trung
tâm thương mại để làm trụ sở chính phục vụ việc giao dịch vì
giá thuê tại các trung tâm này thường rất đắt. Nơi bán hàng,
xưởng sản xuất, kho bãi doanh nghiệp có thể thuê ở một nơi
khác – thậm chí trong khu công nghiệp ngoại thành – nhưng
vẫn chịu sự quản lý trực tiếp của doanh nghiệp. Việc quy
định rõ về địa điểm kinh doanh sẽ giúp tăng quyền chủ động
tổ chức kinh doanh cho doanh nghiệp, tránh việc các cơ quan
quản lý thị trường thu giữ hàng hoá khi vận tải trong nội bộ
doanh nghiệp từ địa điểm kinh doanh, kho bãi đến trụ sở
doanh nghiệp.
46. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
46
đã ký tên, đóng dấu theo đúng với quy định của pháp luật,
dấu tròn 36 ly mực đỏ do cơ quan công an cấp. Nhưng phía
Nhật Bản lại không đóng dấu tròn 36 ly giống như phía
Việt Nam mà con dấu của họ cũng tròn nhưng nhỏ hơn 36
ly rất nhiều, mực dấu lại là mầu tím than. Khi hợp đồng
được mang đến cơ quan nhà nước Việt Nam chứng thực,
rắc rối đã xảy ra. Cán bộ ta quá ngỡ ngàng khi thấy con
dấu của công ty Nhật không phải là mực đỏ, không phải
hình tròn 36 ly như Việt Nam mà chỉ nhỏ như đầu ngón
tay, hoa văn loằng ngoằng. Mặc dù phía Nhật giải thích rõ
cho cán bộ cơ quan nhà nước Việt Nam biết rằng dấu của
họ do họ tự nghĩ ra, hình thù, màu sắc, mực in ra sao là do
họ tự quyết định và dấu này chỉ có ý nghĩa phân biệt công
ty họ với công ty khác, chính quyền Nhật không can thiệp
vào chuyện này. Nhưng cán bộ của Việt Nam vẫn sợ
không dám đóng dấu chứng thực hợp đồng và yêu công ty
Nhật Bản phải đến cơ quan sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam
xin xác nhận con dấu. Đại sứ quán Nhật Bản trả lời là họ
không thể thực hiện được việc này. Thế là công ty Nhật
Bản lại được yêu cầu xin giấy xác nhận con dấu của chính
quyền Nhật Bản. Phía Nhật Bản thấy vậy liền chấm dứt
hợp đồng liên doanh với phía Việt Nam vì họ nghĩ có mỗi
chuyện con dấu mà còn rắc rối thế thì sau này làm ăn ở đây
chắc là gặp rất nhiều khó khăn. Thế là chỉ vì chuyện con
dấu mà doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thiệt hại.
Con dấu của doanh nghiệp chỉ là một dấu hiệu nhận
dạng doanh nghiệp để phân biệt doanh nghiệp này với
doanh nghiệp khác; nhưng lâu nay người ta vẫn lầm lẫn
cho nó là một biểu hiện pháp lý của doanh nghiệp. Thực tế
là con dấu chỉ có tính xác thực chứ không có ý nghĩa pháp
lý. Con dấu rất dễ bị làm giả và xét về tính xác thực thì nó
48. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
48
người dân. Để ngăn chặn tình trạng ban hành giấy phép tràn
lan bất hợp lý, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định tại
Khoản 4 Điều 7 Luật Doanh nghiệp như sau: “Chính phủ
định kỳ rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các điều
kiện kinh doanh; bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện
không còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các điều
kiện bất hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hành điều kiện
kinh doanh mới theo yêu cầu quản lý nhà nước”. Quy định
này nhằm tạo khung pháp lý, giao nhiệm vụ cho Chính phủ
phải thường xuyên giám sát và thay đổi kịp thời theo yêu cầu
quản lý nhà nước trong lộ trình hội nhập.
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân,
khoản 5 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định như
sau: “Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh”. Quy định này
nhằm ngăn cấm các Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân cấp không được ban hành các loại
giấy phép hoặc các điều kiện kinh doanh.
Theo Điều 2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật thì ngoài Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, còn có các chủ thể khác sau đây có thẩm
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Quốc hội
(Luật, Nghị quyết), Ủy ban thường vụ Quốc hội (Pháp lệnh,
Nghị quyết), Chủ tịch nước (Lệnh, Quyết định), Chính phủ
(Nghị định), Thủ tướng Chính phủ (Quyết định), Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết), Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao (Thông tư), Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao (Thông tư), Tổng Kiểm toán nhà nước
(Quyết định), Cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã
49. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 49
hội (Nghị quyết liên tịch). Đối chiếu với Khoản 5 Điều 7
Luật Doanh nghiệp 2005, các chủ thể kể trên không bị cấm
ban hành về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều
kiện kinh doanh.
Tuy nhiên, Nghị định 139/2007/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy
định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 139/2007/NĐ-CP như
sau: Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh
doanh áp dụng theo các quy định của các luật, pháp lệnh,
nghị định chuyên ngành hoặc quyết định có liên quan của
Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi chung là pháp luật
chuyên ngành).
Khoản 3 Điều 5 Nghị định 139/2007/NĐ-CP còn quy
định: “Các quy định về loại ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện và điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề đó tại các
văn bản quy phạm pháp luật khác ngoài các loại văn bản
quy phạm pháp luật nói tại khoản 1 Điều này đều hết hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2008”.
Khoản 5 Điều 7 Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định:
“Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại các
Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và Nghị định của Chính phủ. Nghiêm cấm việc ban hành
và quy định không đúng thẩm quyền về các ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện.
Như vậy, Nghị định 139/2007/NĐ-CP và Nghị định
43/2010/NĐ-CP đã “hạn chế” hình thức văn bản quy định về
ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh.
Theo Điều 2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
thì Quốc hội ban hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết; Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh, Nghị quyết. Còn
50. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
50
xét theo Nghị định 139/2007/NĐ-CP thì ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh chỉ được quy
định tại Luật do Quốc hội ban hành và Pháp lệnh do Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành. Như vậy, Nghị định
139/2007/NĐ-CP đã loại bỏ khả năng ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được quy định
tại Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Trên thực tế, nếu Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành văn bản này thì vẫn phải áp
dụng và thi hành.
Ngoài ra, Nghị định 139/2007/NĐ-CP và Nghị định
43/2010/NĐ-CP còn loại bỏ khả năng ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được ban hành
bởi các văn bản quy phạm pháp luật sau: Nghị quyết của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Quyết định của Tổng Kiểm
toán Nhà nước, Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ
Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị - xã hội, Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Và giả sử các văn bản này có quy định về ngành
nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh thì
vẫn phải thi hành. Không thể viện dẫn Nghị định
139/2007/NĐ-CP để từ chối áp dụng.
Như vậy, có thể đặt ra vấn đề sau đây: Các chủ thể có
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo Điều
2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (trừ Bộ, cơ
quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các
cấp) đều có quyền ban hành về ngành nghề kinh doanh có
53. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 53
người thư ký ghi lại những ngành, nghề đăng ký kinh doanh
được thiết kế theo nguyên tắc mở để có thể bổ sung những
ngành, nghề mới do người dân sáng tạo.
Đối với người dân không có phân cấp theo ngành,
nghề. Người dân đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo ý
tưởng đầu tư của mình. Việc phân ngành, nghề vào cấp nào
là do nhà nước thực hiện để phục vụ cho nhu cầu quản lý nhà
nước.
3) Về mục đích: Danh mục ngành, nghề kinh tế quốc
dân phục vụ cho việc phân tích để nhà nước quản lý, đề ra
chính sách.
Danh mục ngành, nghề đăng ký kinh doanh phục vụ
cho người dân tiện tra cứu và tìm tòi sáng tạo thêm những
ngành, nghề mới.
Lưu ý hiện nay theo quy định tại điểm 6 Mục I Thông
tư liên tịch 05/2008/TTLT-BKH-BTC-BCA ngày 29 tháng 7
năm 2008 giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ
Công an thì khi làm thủ tục đăng ký kinh doanh, người kê
khai hồ sơ phải lấy mã ngành nghề cấp hai trong Danh mục
ngành nghề kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Quyết định
10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ để làm ngành nghề kinh doanh.
Còn theo khoản 1 Điều 7 Nghị định 43/2010/NĐ-CP thì
việc ghi mã ngành nghề đăng ký kinh doanh thực hiện như
sau:
Ngành, nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp được ghi và mã hóa theo ngành cấp bốn
trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, trừ những ngành,
nghề cấm kinh doanh.
56. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
56
Thứ nhất: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là một
chứng chỉ pháp lý để công bố địa vị pháp lý của doanh
nghiệp, giúp cho mọi người trong việc thực hiện giao dịch
với doanh nghiệp. Thông qua việc xem xét giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh có thể đánh giá về tính pháp lý của
doanh nghiệp và sơ bộ đánh giá năng lực tài chính thông qua
vốn đăng ký.
Thứ hai: Một trong những yêu cầu rất cơ bản của việc
ký kết các hợp đồng dân sự, kinh tế là biết đối tác ký có đúng
thẩm quyền hay không? Nếu không đúng thẩm quyền thì hợp
đồng đó vô hiệu và gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Thực tế
kinh doanh trong những năm qua đã có không ít hợp đồng
được ký kết trái thẩm quyền bị vô hiệu. Việc kiểm tra người
ký kết có đủ thẩm quyền hay không trở nên khó khăn và bất
tiện trong giao dịch. Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định
phải đăng ký người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Trong mẫu giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh còn
ghi rõ: Số chứng minh nhân dân, nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú, nơi ở hiện tại chức danh của người đại diện theo
pháp luật (có thể là Giám đốc, Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội
đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản
trị) và cả chữ ký mẫu của họ để giúp các bên giao dịch có đủ
thông tin lý lịch tư pháp của người đại diện theo pháp luật để
ký kết và giám sát thực hiện, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền có thêm yếu tố để trưng cầu khi cần thiết.
Tình huống: Trước đây, thời điểm trước ngày Luật
58. 100 CÂU HỎI VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
58
Cơ quan đăng ký kinh doanh khi xem xét hồ sơ đăng ký
kinh doanh đối chiếu các giấy tờ xác nhận tư cách công dân
của người thành lập và quản lý doanh nghiệp như hộ chiếu,
chứng minh nhân dân mà không thấy có dấu hiệu là giả mạo
thì coi như hợp lệ về phần nhân thân; nếu các hồ sơ khác đều
hợp lệ thì cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ về nhân thân, cần xác
minh thì yêu cầu cơ quan công an xác minh, nhưng vẫn tiến
hành cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo đúng
thời hạn quy định, khi nào có xác minh cụ thể của cơ quan
công an thì khi đó sẽ xử lý: Yêu cầu đính chính bổ sung hồ
sơ hoặc khi thấy hồ sơ là giả mạo thì có thể thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2005 và Nghị định
53/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Trong trường hợp
đó, cơ quan đăng ký kinh doanh không bị coi là cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người không đủ điều
kiện.
Trên thực tế thực hiện Luật Doanh nghiệp 2005,
nguyên tắc này đã bị vi phạm, các cơ quan đăng ký kinh
doanh thường bị áp lực của các cơ quan thanh tra kết luận bị
vi phạm pháp luật. Nếu không có sự thống nhất nhận thức
giữa các cơ quan quản lý Nhà nước thì cơ quan đăng ký kinh
doanh có thể viện dẫn sợ vi phạm các hành vi bị cấm để hạn
chế hoặc gây khó dễ cho người thành lập doanh nghiệp. Giải
pháp tốt nhất là phải phân định rõ chức năng xác định nhân
thân là thuộc thẩm quyền của cơ quan công an.